Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014

HƯỚNG DẪN SỰ THỰC TẬP PHẬT GIÁO Ở PHƯƠNG TÂY


Nguyên tác: Advice on Practicing Buddhism in the West
Tác giả:
Alexander Berzin/Moscow, Russia, November 2005
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Tôi Đến Với Phật Giáo Như Thế Nào

Sasha đã yêu cầu tôi nói về Phật Giáo ở phương Tây tối nay, và để bắt đầu điều này với đôi điều về tôi như một sự giới thiệu vấn đề tôi đã đến với Phật Giáo như thế nào, như một cách để làm sáng tỏ Phật Giáo ở phương Tây.
Tôi sinh ra ở New Jersey, Hoa Kỳ năm 1944, và ngay từ khi rất trẻ tôi đã rất thích thú với những thứ của Á châu. Cho nên tôi đã bắt đầu tập yoga với một người bạn khi tôi 13 tuổi và đọc bất cứ thứ gì có thể trong những năm 1950 về Phật Giáo, là những thứ vốn không có nhiều. Và rồi khi ở đại học, mặc dù tôi bắt đầu với Hóa học, tôi đã lấy một chủ đề về văn hóa Á châu. Lúc tôi 17 tuổi và được biết về vấn đề Phật Giáo đến từ một nền văn hóa này đến một nền văn hóa khác ở Á châu, và vấn đề nó được tiếp nhận và chuyển dịch trong mỗi nền văn hóa như thế nào. Và tôi đã làm việc ấy từ lúc ấy, hoạt động trên toàn bộ chương trình của vấn đề làm để nào để chuyển hóa và đem Phật Giáo, trong trường hợp này, đến những xã hội không có truyền thống bên ngoài Á châu. Cho nên một cách căn bản rồi thì tôi đã thay đổi chủ đề chính và tôi đã bắt đầu học tiếng Hoa và điều đó đưa đến tiếng Nhật và rồi đến tiếng Phạn và rồi đến tiếng Tạng.
Thế nên điều này xảy ra trước khi có những trung tâm Phật Giáo ở phương Tây, cho nên thật là một hoàn cảnh rất khó khăn đối với cung cách bây giờ. Tôi nghĩ rằng mọi người vào lúc ấy được lèo lái đến Phật Giáo là bị hướng đạo một cách chính yếu về những lý do nghiệp quả; chỉ loại ấy biểu hiện, cách duy nhất để giải thích nó là nghiệp quả quá khứ. Và tôi đã gặp Geshe Wangyal, một đại lạt ma Kalmyk Mongol, người ở Hoa Kỳ vào lúc ấy mà tôi đã bắt đầu học hỏi tiếng Tây Tạng. Nhưng lúc ấy trường đại học của tôi không quá gần nơi ngài sống, và tôi chỉ có thể viếng thăm ngài đôi khi, nhưng tôi không thật sự có cơ hội để học hỏi với ngài.
Nhưng Robert Thurman đã ở trong tất cả mọi lớp học của tôi tại Harvard. Chúng tôi là những người bạn rất tốt. Và ông đã ở Ấn Độ với Đức Đạt Lai Lạt Ma, và ông đã nói với tôi về người Tây Tạng và rằng có thể đến đấy để học hỏi với người Tây Tạng. Vì thế, tôi đã nộp đơn cho Fulbright Fellowship, là học bổng để đi học nước ngoài, và tôi đã đến Ấn Độ để làm luận án tiến sĩ của tôi. Đấy là năm 1969, lúc ấy tôi 24 tuổi.
Sự tiếp cận Phật Giáo trong những ngày ấy ở các trường đại học và những nơi khác ở phương Tây là thế, một cách căn bản, Phật Giáo Tây Tạng đã chết. Nó giống như sự nghiên cứu Ai Cập cổ đại.  Và tôi luôn luôn tự hỏi có thể nghĩ về điều này như thế nào, hãy nghĩ trong dạng thức của giáo lý nhà Phật. Nhưng khi tôi đến Ấn Độ và gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma gần như ngay sau khi tôi đến, tôi nhanh chóng nó hoàn toàn thật. Phật Giáo Tây Tạng vẫn sống động, và rằng thật sự có thể thực hành Phật Giáo. Và ở đây người ta thật sự biết ý nghĩa của kinh luận là gì; họ không giống như những giáo sư trong các trường đại học những người căn bản là phỏng đoan, giống như trò chơi ghép chữ trong một tờ báo. Vì thế tôi đã bắt đầu thực tập hành thiền và tôi đã học tập với một vị thầy ở đấy, Geshe Ngawang Dhargyey. Và Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma đã xây dựng một thư viện Tây Tạng vài năm sau đó ở Dharamsala, và ngài đã yêu cầu Geshe Ngawang Dhargyey làm thầy giáo ở đấy cho những người Tây phương, và tôi đã hỏi, "Tôi cũng có thể hổ trợ chứ?" Và Đức Thánh Thiện nói, "Vâng, nhưng hãy trở lại, làm cho xong luận án, lấy bằng cấp và rồi trở lại. Thế là tôi đã trở lại Harvard, trình luận án, và nói "không cảm ơn" cho một công việc giảng dạy mà người ta tìm cho tôi tại một trường đại học khác và tôi đã trở lại Ấn Độ. Dĩ nhiên, các giáo sư của tôi tất cả đều nghĩ tôi đúng là điên khùng.
Và tôi đã sống ở Ấn Độ trong 29 năm, làm việc với người Tây Tạng, giúp dở để hình thành Văn Phòng Phiên Dịch tại Thư Viện. Và tôi đã học tập một cách chính yếu với Serkong Rinpoche,một trong những vị giáo thọ của Đức Thánh Thiện. Và tôi đã rất may mắn, tôi có thể được ngài rèn luyện trong một cung cách rất truyền thống, giống như một người học nghề thời trung cổ. Một cách căn bản, ngài nhận ra rằng ngài có nghiệp liên hệ với điều ấy và ngài đúng là đã bắt đầu rèn luyện cho tôi ngay từ đầu làm người thông dịch cho ngài, và cuối cùng có thể thông dịch cho Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma. Như vậy tôi là thư ký tiếng Anh của Rinpoche, và là đệ tử và người thông dịch, du lịch khắp thế giới với ngài, và một cách căn bản có cơ hội không thể ngờ trong 9 năm với ngài trước khi ngài viên tịch.
Và rồi thì sau khi ngài viên tịch, tôi cũng bắt đầu được mời đi dạy khắp thế giới, và tôi cũng làm thông dịch viên cho Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma trong thời điểm ấy. Và tôi cũng hổ trợ thực hiện nhiều chương trình cho Đức Thánh Thiện khắp thế giới, để chuẩn bị, và viết nhiều quyển sách. Và rồi thì tôi đã quyết định như vậy nhằm để có thể thực hiện một website có tầm vóc mà với nó bây giờ tôi đã có và nhiều quyển sách hơn và có thể đối thoại dễ dàng hơn, có thể dễ dàng di chuyển đến phương Tây, và vì thế tôi đã chuyển đến Berlin, Đức quốc.
Tôi đã sống ở đấy trong 7 năm qua và đã giảng dạy một ít. Nhưng hầu hết tôi đã làm việc trên website lớn này, www.berzinarchives.com, bởi vì tôi đã có khoảng ba mươi nghìn trang bản thảo, những thứ mà tôi đã viết và phiên dịch, và tôi không muốn chúng bị quăng vào sọt rác khi tôi chết. Và tôi cũng đã phiên dịch chúng bằng những ngôn ngữ khác: Nga, Mông Cổ, Đức, v.v…, và chúng cũng sẽ sớm được đưa lên mạng.
Thế nên, đấy là những gì tôi đã làm và những gì tôi đã hoàn tất; tôi cho rằng nó không có gì khủng khiếp đặc trưng về vấn đề người phương Tây liên hệ với Phật Giáo thế nào và vấn đề đời sống của họ biểu lộ thế nào. Nhưng tôi luôn luôn xem vị thế của tôi như một chiếc cầu. Nhằm để là một chiếc cầu, quý vị phải có hai nền tảng, trên mỗi bên của dòng sông hay bất cứ nó là gì mà chiếc cầu bắc ngang. Cho nên tôi có một nền tảng ở phương Tây và tôi có thể du lịch qua nhiều quốc gia khắp thế giới, vì thế tôi có thể biết nhiều nền văn hóa khác nhau, những khu vực mà những con người quan tâm trong Đạo Phật - những nơi họ muốn có Phật Giáo thêm nữa. Vì thế tôi có một nền tảng trong những quốc gia mà tôi đã đến, nhưng rồi thì tôi có nền tảng khác rất vững vàng được gieo trồng vững vàng với người Tây Tạng và văn hóa truyền thống Phật Giáo.

Thấu Hiểu Truyền Thống Văn Hóa Tây Tạng

Và tôi nghĩ rằng đối với người phương Tây chúng ta để có thể trở thành liên hệ với Phật Giáo - một cách đặc biệt Phật Giáo Tây Tạng - thật rất quan trọng để có một sự cảm kích nào đó đối với truyền thống văn hóa mà Phật Giáo Tây Tạng đã phát triển. Bởi vì không có sự thấu hiểu phạm trù mà trong ấy Phật Giáo sinh khởi và từ nơi mà chúng đến với chúng ta, và một cách đặc biệt không có sự thấu hiểu văn hóa của những lạt ma Tây Tạng đang đến với chúng ta, chúng ta chỉ tự mở mình ra với một sự thấu hiểu vô vàn sai lạc. Quý vị thấy những gì tôi đã làm một cách căn bản là để phù hợp với văn hóa Tây Tạng, văn hóa truyền thống.
Vai trò truyền thống nào cho một người ngoại quốc, người đến với văn hóa Tây Tạng và muốn học hỏi? À, vị thế ấy là của một người thông dịch. Cho nên tôi đã yêu cầu họ huấn luyện cho tôi thành một thông dịch viên. Và với vai trò ấy, người Tây Tạng biết liên hệ với tôi như thế nào, và tôi chấp nhận điều ấy và họ chấp nhận điều ấy, và vì thế như vậy đã thành công. Nhưng nếu chúng ta không tương hợp với cung cách truyền thống của suy nghĩ, một cách đặc biệt ngay từ lúc đầu, thế thì thật khó khăn để có thể thật sự đi vào Phật Giáo. Tôi nghĩ rằng, ngày nay, chắc chắn không cần trước tiên chấp nhận văn hóa Tây Tạng, hay văn hóa Đông phương, hay bất cứ truyền thống văn hóa châu Á nào; chúng ta không cần giống như những con khỉ bắt chước một nền văn hóa khác. Chúng ta không cần phải thay đổi sự kiêng cử của chúng ta và thay đổi áo quần của chúng ta: điều ấy chắc chắn không cần thiế. Nhưng tối thiểu nếu chúng ta thấu hiểu chúng ta đến từ nơi nào, chúng ta sẽ có ít vọng tưởng hơn và ít bối rối hơn.
Vậy thì, trong truyền thống văn hóa Tây Tạng, người ta sinh ra trong hệ thống và niềm tin văn hóa nào đó. Cho nên người ta hoàn toàn cho là đương nhiên với những thứ như nghiệp, tái sanh, rằng có một thứ như những bậc Giác Ngộ. Có một sự cảm kích đối với giá trị trở thành một vị sư thầy hay sư cô và một sự tôn trọng lớn với điều ấy. Và nếu quý vị muốn thật sự học tập và thực hành Phật Giáo, quý vị phải trở thành một vị tu sĩ. Và khi quý vị trở thành một vị tu sĩ, rồi thì quý vị dâng hiến toàn bộ thời gian tuyệt đối cho Phật Pháp - học tập, thực hành - và dĩ nhiên chúng ta không nên quên sự kiện rằng có những người nấu nướng thức ăn và tìm kiếm củi đốt và nước sử dụng, và v.v… Rõ ràng, dĩ nhiên người ta cũng phải duy trì tu viện. Nhưng là một tu sĩ, quý vị không phải đi ra ngoài và kiếm một việc làm, và quý vị không phải giúp đở một gia đình. Và nam cùng nữ cách biệt nhau.
Những cư sĩ thật sự không có cơ hội nhiều để học hỏi Phật Pháp. Cư sĩ có thể thực hiện thí dụ như tụng mật ngôn, và đi nhiễu.  Họ có thể giúp đở các tu viện, và có thể có những buổi lễ cầu trường thọ và những thứ như vậy, và thỉnh cầu tu sĩ đến nhà họ để thực hiện những nghi lễ. Nhưng mọi người thừa nhận sự kiện rằng nếu quý vị thật sự muốn học hỏi, quý vị phải cống hiến toàn bộ thời gian cho việc ấy và trở thành một vị tu sĩ. Hoàn toàn chấp nhận. Do thế, khi chúng ta mời một tu sĩ truyền thống từ một cộng đồng Tây Tạng, thí dụ thế, đây là nơi mà họ đến.

Nhận thức văn hóa phương Tây

Và ở đây, chúng ta ở phương Tây và chúng ta không có những thứ ấy. Chúng ta được sinh ra trong những nền văn hóa khác nhau, và chúng ta chắc chắn không tin tưởng vào tái sanh, hầu hết chúng ta, hay trong nghiệp quả; hay chúng ta có thể nói chúng ta tin tưởng trong nghiệp quả, nhưng thật sự chúng ta chỉ làm cho nghiệp quả thành như số phận, như vậy phải không phải là những gì nghiệp quả nói đến. Và chúng ta có tin tưởng rằng có những bậc Giác Ngộ không? À, một số người trong chúng ta, nếu chúng ta nghĩ rằng có một Đức Phật, chúng ta có thể làm với một vị Trời, hay Thượng Đế, chắc chắn Đức Phật không phải như vậy. Và khi chúng ta đến với những hình ảnh như Quán Thế Âm, và Tara, những Đức Phật như vậy, nhiều người ở phương Tây có thể làm các ngài thành như những vị thánh - vì thế đấy là Thánh Tara và Thánh Quán Âm, và dâng lời cầu nguyện và đốt đèn cầy cho các ngài giống như họ là một biểu tượng trong thánh đường.
Chắc chắn hầu hết mọi người trong chúng ta không muốn trở thành một tu sĩ. Và trong thực tế, dường như mọi người ở phương Tây không muốn tôn trọng quá nhiều cho những  người phương Tây thật trở thành một vị sư thầy hay sư cô, là điều họ cho thật sự là hổ thẹn. Trong thực tế, thật sự là rất lạ lùng rằng mọi thứ đảo ngược lại. Trong những trung tâm Phật Giáo ở phương Tây nơi có những tu sĩ, thay vì cư sĩ phục vụ và giúp đở cho họ, thì tu sĩ lài trở thành những người phục vụ và phụng sự cho cư sĩ, và một cách căn bản điều hành một khách sạn cho cư sĩ đến tham dự những ngày tu học cuối tuần. Và thay vì tu sĩ có thể giảng dạy, họ phải đứng bên ngoài và thu tiền và bảo đảm rằng cả hệ thống hoạt động đều đặn.
Và như những người cư sĩ chúng ta chắc chắn mong rằng chúng ta có thể chủ yếu là tập trung trong việc học tập, thực hành, và giảng dạy. Nhưng rắc rối lớn là chúng ta không có thời gian. Chúng ta quá bận rộn. Một số trong chúng ta làm việc, một số đến trường, và một số có gia đình. Nếu chúng ta đến sau khi đi làm chúng ta mệt mõi, và nếu chúng ta phải trải một chặng đường đầy xe cộ phải di chuyển chậm lụt thí dụ như ở Moscow này, để đến đây. Và nếu chúng ta muốn lắng nghe và muốn học hỏi, khi chúng ta đến vào buổi tối, chúng ta quá mệt mõi và chúng ta ngủ gật. Và có thể chúng ta dành một đêm, có thể hầu như 2 đêm một tuần, nhưng không thể hơn thế. Chúng ta có những dự tính khác. Cho nên, thật sự đây là một rắc rối.

Tiếp cận sự thực hành Phật Giáo với những mong đợi thực tiển

Và rất nhiều tùy thuộc vào những gì chúng ta thật sự mong đợi. Bây giờ, đây không phải là một viên thuốc sung sướng để nuốt vào, nhưng sự thực hành Phật Giáo liên hệ đến hoạt động căn cứ vào cá tính của chúng ta, và cố gắng để loại bỏ những thói quen tiêu cực của chúng ta như vị kỷ, giận dữ, tham lam - những thứ ô nhiễm này. Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma gọi chúng là "những kẻ gây rối". Đây là những thứ tạo ra hầu hết mọi rắc rối cho chính chúng ta và người khác. Và sự thực hành Phật Giáo liên hệ đến việc huấn luyện chúng ta phát triển những thói quen tốt hơn và xây dựng và tích cực hơn. Và viên thuốc khó nuốt là đấy là những việc rất khó làm. Sự vị kỷ và giận dữ của chúng ta không biến mất như thế, [như việc] tham dự một vài buổi thuyết giảng mỗi tuần hay ngồi thiền mỗi ngày ngay cả nửa giờ hay một giờ, là điều mà hầu hết mọi người chúng ta có nhiều thời gian để ngồi thiền và cố gắng để hành thiền và thực hành. Những thói quen tiêu cực của chúng ta không biến mất một cách quá dễ dàng. Cho nên, khi chúng ta đến với Phật Giáo ở phương Tây, tôi nghĩ rằng điều rất quan trọng là có một thái độ thực tế đối với điều này.
Nhiều người đến với Phật Giáo vì những lý do không có lợi nhất cho phát triển. Một số người đến như thời trang, sự hấp dẫn thời thượng. Nhưng giống như thời trang trong thế giới y phục, nó thay đổi mỗi năm hay hai năm một lần, vì thế đó không là một lý do hiện hữu lâu dài lắm cho việc đến với Phật Giáo. Những người khác đến với Phật Giáo vì bị hấp dẫn với sự lạ thường, thật sự lạ thường, những thứ xa lạ, như tìm kiếm những chiếc đĩa bay. Họ đọc những sách truyện lạ kỳ nói về người Tây Tạng khoan vào giữa trán người để mở con mắt thứ ba và v.v…, và người ta bị hấp dẫn với những thứ như vậy.
Một lần tôi thông dịch cho một lạt ma Tây Tạng ở New York, Nechung Rinpoche. Và trong thính chúng một người nào đó dường như bị say thuốc đứng dậy và hỏi: "Tôi biết rằng châu Atlantis ở dưới mặt đất và những đĩa bay ở đấy và chúng bay ra từ trung tâm của trái đất qua những núi lửa, và câu hỏi của tôi là "có phải trái đất trống rỗng không?" Và vị Lạt ma nhìn ông ta, rất nghiêm túc và nói, "Không, thật sự trái đất bằng thẳng và vuông, câu hỏi tiếp." Tôi nghĩ đấy là câu trả lời thật tuyệt xảo cho câu hỏi ấy bởi vì việc ấy thật là lạ lùng hơn câu hỏi. Nếu chúng ta tìm kiếm cho những gì lạ thường, sau một thời gian chúng ta sẽ hoàn toàn thất vọng; mặc dù văn hóa Tây Tạng có thể khác biệt với văn hóa chúng ta ở Âu Mỹ, nhưng không gì kỳ bí về nó.
Những người khác đến với Phật Giáo một cách căn bản bởi vì họ chán nản và họ tìm kiếm phép lạ để chửa trị cho hoặc là một số rắc rối về thân thể hay một số rắc rối về cảm xúc. Và rất nguy hiểm, nếu đến với sự mong đợi ấy, bởi vì sự mong đợi và hy vọng ấy, chúng ta tự đưa chúng ta đến lạm dụng. Thường thường người ta đến và nói, "Thưa Lạt ma, Lạt ma hãy nói với tôi những từ ngữ kỳ diệu, mantra phép lạ để tụng. Hãy nói với tôi, tôi sẽ làm bất cứ việc gì!" Và rất thường họ hoàn toàn bị lạm dụng. Nhưng ngay cả nếu chúng ta đến với những loại động cơ như vậy vào lúc đầu, động cơ có thể được thay đổi. Nhưng nhiều người trong chúng ta đến chỉ do bởi tò mò hay có lẽ, giống như trường hợp của tôi, một loại nghiệp quả nào đấy đã đưa lối một cách vô ý thức, một cách tự động.

Thái Độ Và Tiếp Cận Thích Đáng Với Phật Pháp

Nếu chúng ta nìn vào một số kinh luận truyền thống, chúng ta thấy sự diễn giải về thái độ thích đáng là như thế nào, thái độ tốt nhất, cho một số người, cho một số người nếu họ muốn tiếp cận và học hỏi Phật Pháp. Một đạo sư Ấn Độ, Thánh Thiên, nói rằng, trước nhất, người đệ tử năng lực phải là người nào đó vô tư. Điều ấy có nghĩa là không có định kiến. Họ cần cởi mở. Không có lợi nếu đến và nghĩ "À, tôi đã đọc một vài quyển sách và bây giờ tôi đã biết mọi thứ, cho nên chỉ cần cho tôi một tí bông kem trên chiếc bánh để hoàn tất nó." Hay có những ý tưởng thật sự kỳ lạ về  Phật Giáo và nghĩ rằng đúng Phật Giáo là thế, và rồi chúng ta thật sự không muốn nghe thêm bất cứ điều gì, hay một người rất bè phái, giống như tinh thần của một đội bóng đá, rằng "Đây sẽ là môn phái của tôi, truyền thống của tôi, và mọi thứ khác là sai." Cho nên một cách căn bản là vô tư, một đầu óc cởi mở, "Tôi đến, và tôi muốn học.
Rồi điều tiếp theo Thánh Thiên nói là chúng ta cần một cảm nhận thông thường. Nói cách khác, chúng ta cần có thể thấy những gì là hợp lý, những gì là phi lý trong giáo huấn. Một thí dụ truyền thống là nếu quý vị đọc một kinh luận này thì quý vị cần mặc áo ấm và trong một kinh luận nọ thì quý vị cần mặc áo quần rất nhẹ - một cảm nhận thông thường, quý vị thấu hiểu rằng trong mùa đông quý mặc áo ấm và trong mùa hè quý vị mặc áo quần nhẹ mõng.
Phật Giáo có xu hướng giúp chúng ta suy nghĩ cho chính chúng ta. Chúng ta không cần một tinh thần quân đội trong Phật Giáo vị thầy nói với chúng ta điều cần làm và chúng ta nói, "Vâng thưa ngài!" và không có hỏi han gì cả. Đấy không phải là cung cách của Phật Giáo. Chúng ta có thể đọc về những phẩm chất của một vị thầy tâm linh, vị thầy tâm linh cần hành động như thế nào, và v.v… Và khi chúng ta cần ai đó người đáng lẻ giảng dạy và không hành động như thế, cảm nhận thông thường nói với chúng ta rằng có điều gì đấy sai lạc. Và quý vị hỏi, khảo sát, những gì đang xảy ra.
Phẩm chất thứ ba được mang đến để quan tâm, sự thích thú chân thành trong Giáo Pháp. Điều ấy có nghĩa là gì? Đối với điều ấy, chún ta có thể nhìn vào một luận điển khác của một vị thầy Tây Tạng từ truyền thống Sakya, bởi một đại lạt ma tên là Sonam-tsemo. Ngài viết một tác phẩm gọi là Cửa Vào Giáo Pháp (The Gateway to the Dharma), và ngài nói rằng có 3 thứ mà chúng ta cần nhằm để thâm nhập Giáo Pháp, một cách căn bản diễn giải điều này từ Thánh Thiên. Chúng ta cần nhận ra và thấu hiểu nổi khổ trong đời sống của chúng ta. Nói cách khác tại sao chúng ta thích thú trong Giáo Pháp? Có phải chỉ là tò mò, để có thể nói những thứ hấp dẫn với bạn bè chúng ta qua một tách cà phê hay không? Hay là bởi vì chúng ta nghĩ về đời sống của chúng ta, và "tôi nhận ra và thấu hiểu rằng tôi có những rắc rối, mọi thứ khó khăn - khó khăn trong dạng thức của vấn đề đối diện với những người khác ra sao, tôi giận dữ, mọi thứ không diễn ra như tôi nghĩ và tôi không giải quyết nó tốt đẹp, và thật khó cho tôi để sống với cha mẹ tôi, xã hội tôi."
Cho nên, trước nhất chúng ta phải nhận ra và công nhận chúng. Và rồi thì có một nguyện ước chân thành để thoát khỏi nó, không chỉ thực hiện tốt nhất về nó. Có nhiều sự tiếp cận trong tâm lý học nói rằng, "À, cuộc sống thì gian khổ lắm, và hoàn cảnh của quý vị thì khó khăn, và đúng là hãy học để sống với nó và đừng than  phiền quá nhiều," đúng là loại "Hãy im lặng và đừng sân hận." Nhưng như vậy không phải là những gì Phật Giáo hướng đến. Chúng ta muốn thoát khỏi nó!
Và rồi thứ ba - nhằm để bổ sung cho việc nhận ra khổ đau và nguyện ước chân thành thoát khỏi nó - điều thứ ba là có một kiến thức nào đó về giáo lý nhà Phật và vì thế chúng ta có một niềm tin chắc nào đó rằng Phật Pháp chỉ cho ta con đường để thoát khổ. Cho nên chúng ta cần biết điều gì đó về Phật Pháp nhằm để dành sự quan tâm trong nó, và chúng ta đang dành sự quan tâm trong nó trong dạng thức của việc tuân theo giáo lý nhà Phật như một cách đề thoát khỏi những khó khăn của chúng ta. Rồi thì chúng ta có sự thích thú trong việc áp dụng thật sự Phật Pháp vào trong đời sống của chúng ta, và đấy là toàn bộ lý do để tham gia với Phật Giáo.
Và đấy thật sự là tất cả những gì gọi là viễn ly, xa rời hay từ bỏ. Chúng ta gọi đó là "viễn ly". Chúng ta viễn ly một cách căn bản, muốn thoát khỏi nó, sự khổ đau của chúng ta và các nguyên nhân của nó; và chúng ta quyết tâm từ bỏ nó. Và chúng ta rồi thì tìm kiếm trong Phật Giáo như một cách để giúp chúng ta lìa khỏi khổ đau, mà căn bản tất cả những gì gọi là quy y, có phải không? Và đấy là tất cả những gì quy y muốn nói. Quy y là đặt phương hướng này trong đời sống của chúng ta.
Cho nên, nếu chúng ta là những người phương Tây chúng ta không thể đặt toàn thời gian vào trong sự thực hành Phật Giáo, chúng ta không thể trở thành một sư thầy hay sư cô và từ bỏ mọi thứ và chúng ta không có những tu viện để hổ trợ chúng ta về mặt tài chánh. Và ngay cả nếu chúng ta phải đối diện với những thực tế tại sở làm, và trường học, và gia đình, và giao thông và v.v…, thế thì nếu chúng ta có tất cả những điểm này mà các đại sư Ấn Độ và Tây Tạng đã đề cập, rồi thì chúng ta có thể gặt hái được những lợi lạc lớn lao từ Phật Giáo. Chúng ta thấy rằng rất nhiều đạo sư khác nhau cũng đã nói như vậy, một cách căn bản.
Thời gian mà chúng ta có thể dâng hiến cho Phật Pháp căn bản là một chức năng, tôi  nghĩ, của việc chúng ta thấu hiểu nhiều ít thế nào. Quý vị biết, để thực tập Phật Pháp không thật sự có nghĩa là dành ra nửa giờ đồng hồ hay dài ngắn thế nào như chúng ta muốn, và chỉ ngồi im lặng, và trì tụng kinh chú gì đấy, và xảy ra một loại thế giới mơ mộng nào đó. Nhiều người làm như thế, nhưng một cách căn bản đấy không là lối thoát. Và mặc dù việc ấy có thể làm họ thư giản, dĩ nhiên là hữu ích, nhưng họ không thật sự thấu hiểu việc áp dụng Phật Pháp vào trong đời sống hàng ngày của họ. Vì thế họ trở thành hoàn toàn như tâm thần phân liệt - sự thực tập của họ là một thứ và cuộc sống hàng ngày của họ là một thứ khác. Thí dụ cố điển là người nào đấy hành thiền và ai đấy đến với họ và hỏi họ một câu hỏi, và người ấy giận dữ, quý vị biết không, la lên, "Đừng làm phiền tôi. Đi chỗ khác đi, tôi đang thiền quán về từ ái!"

Áp Dụng Phật Pháp Vào Đời Sống Hàng Ngày Của Chúng Ta

Nhưng càng thấu hiểu Phật Pháp, thì chúng ta càng có thể thấu hiểu vấn đề nó thật sự áp dụng vào đời sống hàng ngày của chúng ta như thế nào. Và để áp dụng Phật Pháp vào đời sống hàng ngày của chúng ta, đòi hỏi, trước nhất, lắng nghe Phật Pháp, học hỏi nó. Bây giờ chúng ta có sự thấu hiểu mà Phật Giáo đã dạy. Nó hơi giống việc cố gắng như xếp đặt những mãnh của bức tranh bị cắt rời, trong một trò chơi - chúng ta có một mãnh nhỏ ở đây, một mãnh nhỏ ở kia, và một mãnh nhỏ ở đấy, và trách nhiệm của chúng ta là đặt khớp vào với nhau. Và tất cả những mãnh này được xếp khớp vào nhau trong nhiều cách, chứ không phải chỉ một cách. Cũng thế, đời sống là rất phức tạp, và bởi vì đời sống là phức tạp, giáo huấn nhà Phật và sự thực tập cũng rất sâu sắc và rất rộng rãi và rất phức tạp. Cho nên chúng ta  phải nghe nhiều giáo lý hay đọc nhiều sách, và cố gắng sử dụng cảm nhận thông thường của ta để xếp tất cả lại với nhau. Và hãy cởi mở - như Thánh Thiên nói, nếu chúng ta không thấu hiểu điều gì đó, đừng ngay lập tức nói, "À, thứ ngu ngơ  này," và phủ nhận nó chỉ bởi vì ta không hiểu nó. Nhưng hãy có thái độ cởi mở, nói rằng, "tôi không hiều điều này, nó dường như rất khó" - như nói về thế giới địa ngục, là thứ mà người phương Tây thật sự không muốn đối diện gì cả - và nói "Okay, tôi không muốn hiểu thứ này. Và tôi sẽ rời nó trong một lúc và có thể sau này tôi sẽ thấu hiểu những gì chúng nói đến." Quý vị biết, những giáo huấn này về tái sanh và tất cả những hình thức sống khác - những thứ này là rất khó cho chúng ta như những người phương Tây liên hệ đến. Nhưng thật không công bằng với giáo lý nếu chỉ nói, "À, đây chỉ là một thứ tâm lý học," hay "Thật là ngu ngơ và quý vị có thể hành động mà không cần nó."
Rồi thì khi chúng ta có một số mãnh của vấn đề từ sự lắng nghe, sau đó chúng ta phải nghĩ về nó. Và toàn bộ tiến trình của suy nghĩ về căn bản là cố gắng để thấu hiểu nó. Và vì điều ấy chúng ta sử dụng cảm nhận thông thường. Và nếu điều gì đấy thật sự, thật sự là kỳ lạ, hãy hỏi - hỏi những câu hỏi. Và nếu chúng ta không một vị thầy sẳn sàng để hỏi những câu hỏi, hãy hỏi những học viên đồng lớp, hãy đọc thêm nữa. Một cách chắc chắn, rất nhiều thứ bây giờ sẳn sàng cho ta trong sách vở và trên internet; không có thứ nào tiện dụng cho tôi khi tôi còn trẻ. Bây giờ, trên thế giới hiện dại, nhiều thứ rất sẳn sàng. Những rắc rối trên internet, dĩ niên, là cũng có nhiều rác rưởi, cho nên chúng ta cần sử dụng cảm nhận thông thường. Và bất cứ điều gì làm Phật Giáo trở thành loại gì đó kỳ lạ bí ẩn thì thường là rác rưởi. Sau khi sống với người Tây Tạng trong 29 năm, tôi có thể nói với quý vị rằng không có sự thần bí này, những người huyền bí bay trên không trung và những thứ như vậy. Họ chỉ là những con người, giống như mọi người khác. Nhiều người trong họ là phát triển rất, rất cao độ - điều này tôi có thể nói một cách chắc chắn - nhưng họ không bay trên không trung và biểu diễn phép lạ.

Sự Tiếp Cận Cởi Mở

Cho nên chúng ta cần giữ đôi chân chúng ta trên mặt đất khi tiếp cận với Phật Giáo. Ngay cả khi những hình thức mà chúng ta sẽ gặp khi chúng ta học hỏi Phật Giáo Tây Tạng truyền thống có thể là rất xa lạ với chúng ta, điều đó không có nghĩa là họ bí mẫn và kỳ lạ; chỉ là khác biệt mà thôi. Vị thầy chính của tôi, Serkong Rinpoche, thường gắt gỏng với tôi mọi lúc - rất hữu ích cho tôi, thật sự. Và tôi nhớ một lần khi tôi đang thông dịch cho ngài và ngài đang giải thích về cách người Tây Tạng làm số học. Họ cộng và trừ và nó khác với cách chúng ta làm ở phương Tây. Và sự chú ý của tôi về nó, tôi đã nói với ngài, "Ô, cách này thật là kỳ lạ," và ngài la tôi. Ngài nói, "Đừng quá kiêu hảnh. Không kỳ lạ gì, chỉ khác biệt thôi." Gọi nó là kỳ lạ chỉ một dấu hiệu sự kiêu hảnh của quý vị. Và điều này rất đúng.
Thế nên, một khi chúng ta đã thấu hiểu điều gì đó của giáo huấn, rồi thì hành thiền về những gì chúng ta làm để xây dựng nó lên như một thói quen lợi ích. Bằng việc thực hành, thí dụ, kiên nhẫn. Và thiền tập không là điều gì đó mà chúng ta chỉ thực hiện khi ngồi trên một chiếc gối trong phòng của chúng ta, nhưng chúng ta có thể làm điều này cả ngày. Trong thực tế, chúng ta cũng có thể thực hiện việc tư duy về Giáo Pháp cả ngày. Nhưng nếu chúng ta không từng thật sự được nghe nhiều giáo lý và chúng ta không tư duy về chúng và cố gắng thấu hiểu chúng, rồi thì chúng ta chỉ sẽ bị lấp đầy với sự do dự dao động, nghi ngờ, và vấn đề chúng ta có thể thực hiện bất cứ tiến trình nào ra sao?

Vượt Thắng Sự Ngã Lòng

Bây giờ, điều quan trọng nhất để nhớ trong việc thực hành Phật Giáo là bản chất của luân hồi là nó lên và xuống. Và điều đúng ấy không chỉ trong tái sanh và loại luân hồi viễn tượng rộng lớn hơn này, mà nó cũng rất đúng trong dạng thức của sự thực hành hàng ngày. Vài ngày sự thực hành tiến triển tốt, vài ngày không tốt; vài ngày chúng ta thậm chí không cảm thấy thích thực hành, những ngày khác chúng ta rất nhiệt tình. Điều ấy là thông thường.
Và khi mọi việc không tiến triển tốt, quý vị mong đợi gì ở luân hồi? Rằng nó sẽ là cực lạc, thiên đàng? Nó là luân hồi. Cho nên không có cách gì sự thực hành của chúng ta sẽ như một đường vẽ và mỗi ngày sẽ tốt hơn và tốt hơn và tốt hơn, và cuối cùng chúng ta sẽ sống một cách hạnh phúc từ đó như một câu chuyện thần tiên. Sau nhiều năm, chúng ta vẫn khó chịu về những vấn đề nào đó. Nhưng vấn đề là đừng chán nản.
À, ngay cả nếu chúng ta không thể dành toàn thời gian thực hành như một tu sĩ - và lưu ý quý vị, thế nào đi nữa hầu hết tu sĩ không thể dành toàn bộ thời gian để thực hành; họ uống nhiều trà và cũng làm tất cả mọi thứ khác - nhưng bất kể chúng ta có thể dành bao nhiêu thời gian vào đấy, thì cũng đừng mong đợi những kết quả tức thời. Tính vị kỷ và những thói quen tiêu cực của chúng ta là rất mạnh mẽ, nhưng vấn đề là hành động trên chúng. Như Tịch Thiên, một đại sư Ấn Độ, nói, "Thời gian mà những cảm xúc phiền não có thể đánh bại tôi đã qua. Bây giờ tôi sẽ loại bỏ chúng, và tôi sẽ không bao giờ chịu thua."
Và như Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma nói, "Đừng nhìn trong những dạng thức thực tập ngắn hạn để thấy để thấy chúng ta có làm được một sự tiến triển nào không; hãy nhìn 5 năm qua, nếu quý vị đã thực tập thời gian dài ấy. Và mặc dù, ngày qua ngày, chúng sẽ lên và xuống; nếu sau 5 năm quý vị thấy rằng quý vị không bị khó chịu như quý vị thường khó chịu, và quý vị có thể đối diện với những khó khăn của cuộc sống hơi tĩnh lặng hơn, thế thì quý vị đã có một sự tiến triển nào đó.
Và đừng thỏa mãn chỉ với một tí tiến triển, quý vị biết, và nói, "Ô, tốt nha, bây giờ như vậy là đủ rồi." Nhưng nếu chúng ta thật sự nghĩ về bản chất của tâm thức, là thứ không phải dễ để thấu hiểu, thế thì chúng ta sẽ có sự tự tin rằng có thể thật sự loại bỏ tất cả những thứ rác rưởi đã tạo ra rắc rối cho chúng ta.Và khi chúng ta có những biểu tượng sống như Đức Đạt Lai Lạt Ma và những vị khác có truyền cảm hứng cho chúng ta bởi tấm gương của các  ngài về những gì có thể đạt đến - cho dù các vị ấy giác ngộ hay không, nhưng tôi là ai? Tôi không đủ năng lực để có thể nói - nhưng hãy nhìn cách các ngài xử sự với những khó khăn. Quý vị có thể tưởng tượng những vị như Đức Đạt Lai Lạt Ma, và hàng trăm và hàng triệu người ở Trung Hoa  và ở những nơi khác xem ngài như một nhân vật tệ hại nhất, và tuy thế nó không phiền hà ngài, ngài có thể đối diện với việc đó. Tôi muốn nói là nếu một người nào đó nghĩ chúng ta là kinh khủng, thì chúng ta hoàn toàn bối rối và không thể dối diện với nó.
Và ngay cả nếu chúng ta chưa bao giờ gặp ngài, ngay cả nếu chúng ta chưa bao giờ thấy ngài tận mắt, nhưng, chúng ta đã đọc về ngài, xem video và những thứ với ngài - những thứ này đang truyền cảm hứng. Và sự truyền cảm hứng ấy giúp chúng ta tiếp tục ngay cả những lúc khó khăn và chúng ta đang trải nghiệm giai đoạn xuống của luân hồi đi lên và những lúc xuống.

Sự Chuyển Hóa Bên Trong Chứ Không Phải Là Thời Trang

Điểm cuối cùng về sự thực hành Phật Giáo - không chỉ ở phương Tây, nhưng phổ quát - là một trong những lời khuyến tấn rằng trong lojong, giáo huấn rèn luyện tâm thức, là thứ để chuyển hóa chính chúng ta bên trong nhưng bên ngoài vẫn bình thường. Có nghĩa là việc làm chính mà chúng ta làm là trên cá nhân của chúng ta. Chúng ta không phải đi quanh quẩn mang 20 giải đỏ quanh cổ và với xâu chuỗi và những thứ áo quần kỳ dị và những thứ như thế, bởi vì khi người ta thấy quý vị họ nghĩ rằng quý vị thật là lạ lùng, điều gì đó thật sự sai lạc với người này. Và nếu họ nghĩ như thế, thì làm sao chúng ta giúp đở họ? Người ta hoàn toàn không thể tiếp thu chúng ta. Không có gì sai với những giải đỏ và xâu chuỗi và nếu như quý vị thấy hữu ích, thì quý vị có thể giữ những giải đỏ trong túi quý vị, trong bóp quý vị; quý vị có thể giữ xâu chuỗi cũng trong túi quý vị hay nơi nào khác, nhưng quý vị không nên để mọi người chung quanh thấy. Trong thực tế, giáo lý mật tông, nhấn mạnh rất nhiều về việc giữ gìn mọi thứ một cách tư riêng. Nếu quý vị biểu lộ mọi thứ với mọi người chung quanh, người ta sẽ cười to vào quý vị; họ trêu đùa quý vị; quý vị phải chống chế và v.v… những việc sẽ lấy đi mất bất cứ loại cảm giác thiêng liêng hay thánh thiện về chúng. Khi nó là riêng tư, khi nó là cá nhân, đặc biệt với chúng ta, việc ấy tất cả các thứ ấy là cần thiết. Nhưng bên ngoài, chúng ta là bình thường và trong cách này mọi người sẽ cởi mở với chúng ta. Chúng ta có thể liên hệ với mọi người, họ có thể liên hệ với chúng ta, và điều này rất quan trọng.

Kết Luận

Cho nên nếu chúng ta thấu hiểu nền văn hóa mà Phật Giáo xuất phát, rồi thì chúng ta sẽ không thực hiện những đòi hỏi và mong đợi phi lý về chính chúng ta. Và chúng ta cũng sẽ không đưa ra những đòi hỏi phi lý về phía những vị thầy. Nó làm cho chúng ta có khả năng khiêm hạ hơn. Tôi hiểu, "Tôi không có được niềm tin tự động trong tái sanh và tự động có sự tôn trọng về nhiều thứ. Nhưng tôi có sự giáo dụ phương Tây, vì thế điều ấy cho tôi một số khí cụ để suy nghĩ về những thứ này. Và tôi có thể không thể dành toàn thời gian cho việc học hỏi và thực tập Phật Giáo; tôi phải hướng đến một đời sống thực tiển ở phương Tây." Và vì thế chúng ta sẽ không đòi hỏi quá đáng: "Ô, hãy chỉ cho tôi mọi thứ nhưng tôi không phải lắng nghe nó, vì thế hãy cho tôi thứ ấy ngay lập tức trong một viên thuốc." Nhưng "Tôi chỉ có thời gian như thế này, điều này là thực tế, và vì thế tôi sẽ thực hành và thực hiện trong cách tốt nhất của tôi với những gì tôi có thể."
Quý vị thấy thật rất quân bình vào lúc cuối giữa việc không kiêu hảnh về một mặt và không bị chán nản và nói, "Ô, tôi không có bất cứ khả năng nào bởi vì tôi không có thời gian và v.v…, vì thế tại sao thậm chí phải làm phiền." Thật rất quan trọng để không phải đi vào một trong hai thứ cực đoan này. Nhưng nếu chúng ta thoát khỏi hai cực ấy, về sự kiêu hảnh và chán nản, thế thì đúng là chúng ta đã thực hiện trong khả năng tốt nhất. Đấy là tất cả những gì mà chúng ta có thể làm mà không có một sự mong đợi quá cao - hãy thực tế.
Và hãy nhớ, trong những xã hội truyền thống, không có những thứ như các trung tâm Phật Giáo. Đây hoàn toàn là sự sáng tạo của phương Tây. Mọi người tập hợp lại với nhau, sư thầy và sư cô tập hợp lại với nhau để thực hiện nghi lễ, nhưng không ai tập hợp lại để cùng hành thiền. Đấy là điều mà chúng ta thực hiện riêng tư. Cho nên chúng ta có những trung tâm Phật Giáo cho cư sĩ - rất tốt. Nhưng xét cho cùng, chúng ta phải cố gắng đẻ tránh hai cực đoan: một là làm nó thành một câu lạc bộ xã hội. Qua cực đoan ấy tôi muốn nói chỉ một câu lạc bộ xã hội và không có gì hơn. Hay cực đoan khác là thứ mà chúng ta tìm thấy trong một số trung tâm, nơi mà thậm chí không ai biết tên của nhau, và quý vị chỉ đến và ngồi đấy rất nghi thức, và rồi quý vị không nói, và quý vị đi ra và không ai biết ai.
Điều rất hữu ích với những trung tâm Phật Giáo là chúng ta có một nhóm người đồng ý kiến với nhau trong sự thích thú tương tự. Cho nên, điều này rất quan trọng để có thể rồi thì tiếp xúc thân hữu với nhau. Tối thiểu hãy tìm hiểu tên tuổi của nhau. Và khi người mới đến, hãy làm cho họ cảm thấy được hoan nghênh, làm hơi cá nhân một tí. Không cần phải là một nhóm tâm lý trị liệu nơi mọi người nói với nhau tất cả mọi rắc rối. Nhưng chúng ta có thể đón nhận nhiều sự hổ trợ trong sự thực hành của nhau. Và điều ấy tôi nghĩ là một chức năng quan trọng trong Phật Giáo phương Tây, điều ấy rất hữu ích. Và dĩ nhiên với sự tôn trọng - tôn trọng mỗi người, tôn trọng những gì chúng ta đang làm. Và trong cách này, chúng ta có thể hợp lý và đi theo con đường Phật Pháp với đôi chân chúng ta trên mặt đất.

Câu hỏi

Quý vị có những câu hỏi chứ?
HỎI: Ông không nghĩ rằng một số khía cạnh của văn hóa Tin Lành một cách căn bản mâu thuẩn với những hình thức cơ bản nào đó của những tôn giáo chính của thế giới và trong chính Phật Giáo chứ?
ĐÁP: Tôi nghĩ rằng khi chúng ta tiếp cận Phật Giáo chúng ta phải rất chính niệm về những gì hành trang văn hóa mang theo với chúng ta mà có thể làm rối rắm chúng ta trong thực hành của chúng ta. Hãy nhớ rằng, nguyên tắc thứ nhất mà Thánh Thiên đề cập cho một nguyên tắc thích đáng là ông ấy cần phải vô tư, nói cách khác là đến với Phật Pháp mà không có định kiến. Thế nên cho dù chúng ta có nói về việc đến với Phật Giáo từ những tôn giáo khác hay từ một người không tín ngưỡng, nền văn hóa lý lịch của người ấy, hay không, thì rất thường chúng ta đem đến những thái độ không thích đáng đối với Phật Pháp và đã tạo ra nhiều chướng ngại trong việc thực tập của chúng ta. Và thường thì điều này phản chiếu ngay cả trong những thuật ngữ chuyển dịch với những điều chúng ta học hỏi Phật Pháp. Cho nên nếu chúng ta suy nghĩ trong dạng thức của đạo đức, phi đạo đức, phước và tội, tốt và xấu, và tất cả những thứ này, rồi thì chúng ta mang vào từ nhiều tôn giáo phương Tây toàn bộ khái niệm về tội lỗi, bởi vì một cách căn bản chúng là xấu nếu chúng ta không thực hành, và điều ấy thật sự tạo ra những rắc rối trong thực tập. Khi chúng ta đem loại vấn đề ấy vào, điều này đến một cách căn bản từ những tôn giáo căn cứ trên những luật lệ ban bố từ một thẩm quyền cao cấp. Và đạo đức căn cứ trên sự vâng lời, và nếu bạn không vâng lời thế thì bạn là xấu và bạn bị trừng phạt, và khi bạn thật vâng lời rồi thì bạn sẽ được ban thưởng - mặc dù thẩm quyền cao cấp ấy vốn ban bố luật lệ mà chúng ta phải vâng lời có thể hoặc là một thẩm quyền thiên đàng hay có thể là một thẩm quyền lập pháp, những luật lệ hợp pháp. Chúng ta có những thứ giống như vậy trong văn hóa chúng ta. Hay bạn là một đảng viên cộng sản tốt hay xấu; giống nhau, cùng tinh thần.
Trái lại trong Phật Giáo, một cách căn bản khi chúng ta hành động tàn phá chúng ta đang làm như vậy không phải bởi vì chúng ta là những người xấu và chúng ta tội lỗi, mà chúng ta làm như vậy một cách căn bản bởi vì chúng ta rối rắm si mê. Cho nên chúng ta si mê; chúng ta không biết rằng hành động như vậy chỉ tạo thêm nhiều rắc rối. Thế nên sự đáp ứng để người nào đấy như vậy không phải, "Bạn tội lỗi và bạn sẽ vào địa ngục," nhưng là bi mẫn. Và giống như vậy nếu chúng ta đem vào từ những tôn giáo ngoại quốc nào đó hay những cách suy nghĩ không nhất thiết là tôn giáo, về Một Chân Lý - rằng đây là con đường duy nhất và mọi thứ khác là sai - như vậy cũng sẽ tạo ra những rắc rối trong sự thực tập của chúng ta. Trái lại, Đức Phật đã dạy rất nhiều phương pháp khác nhau cho nhiều người khác nhau, và điều này là rất hữu ích và cần thiết.
Do vậy tôi không nghĩ rằng rất hữu ích để chỉ và nói, "Đến từ quá khứ này là tệ hại và khó khăn hơn là đến từ lý lịch ấy, tôn giáo này hay xã hội nọ hay nền văn hóa kia." Tôi nghĩ vấn đề chính là cố gắng tỉnh thức về những cách suy nghĩ nào đó mà văn hóa vốn giới hạn - nó chỉ đến từ một nền văn  hóa, một tôn giáo - và đừng phóng chiếu nó vào trong Phật Giáo.
Vâng.
HỎI: Một cách cá nhân tôi quán sát rằng tâm thức phương Tây hay châu Âu là tò mò hơn và hỏi nhiều câu hỏi hơn khi học hỏi Phật Giáo hơn là tâm thức Tây Tạng hay phương Đông hay châu Á. Như vậy có phải thế nào đấy tối thiểu có một ít lợi lạc để hỏi nhiều câu hỏi hơn hay nó là một chướng ngại?
ĐÁP: Thật sự, hỏi câu hỏi có thể rất lợi lạc nếu người ta hỏi vào những thời gian thích đáng. Nói cách khác, trước tiên chúng ta cần có thông tin và hãy nhẫn nại. Thí dụ, trong một bài diễn thuyết, hãy chờ đến lúc kết thúc và rồi hãy hỏi. Trái lại, nếu quý vị chỉ nghe một câu và rồi, lập tức đứng dậy và hỏi một câu hỏi về những gì sẽ lập tức xảy ra sau đó, như vậy có làm gián đoạn một chút.
Nhưng nếu chúng ta nhìn vào truyền thống Phật Giáo Tây Tạng, đúng là tu sĩ không hỏi quá nhiều câu hỏi trực tiếp với vị thầy. Nhưng những gì họ làm là họ tranh luận với nhau, và họ cũng sẽ tranh luận với vị thầy nếu đấy chỉ là một nhóm ít người. Và cuộc tranh luận đầy những câu hỏi, giống như chúng ta có xu hướng để hỏi mọi thứ trong tâm thức chúng ta, trong sự thấu hiểu của chúng ta, và rồi hỏi sự thấu hiểu của mỗi người khác, và cố gắng để làm việc với giải pháp của chính chúng ta. Và cuộc tranh luận có xu hướng giúp mọi người thông hiểu.
Tầm quan trọng của tranh luận là chúng ta sẽ không bao giờ đặt vấn đề với chính sự thấu hiểu của chúng ta nhiều như các người khác. Chúng ta sẽ từ bỏ một cách nhanh chóng hơn nhiều. Nếu người tranh luận chống lại chúng ta không lìa chúng ta, [thì chúng ta nói] "Huynh không nhận ra ngay vấn đề ấy, huynh không thật sự thông hiểu," và rồi quý vị hỏi một câu hỏi khác.
Và vào cuối buổi tranh luận, những gì chúng ta còn lại với nó là chúng ta thật sự thông hiểu điều gì đó và không có bất cứ câu hỏi nào hay bất cứ sự nghi ngờ nào. Và chỉ như vậy chúng ta mới có thể thật sự thiền quán về chủ đề và thật sự tiêu hóa nó. Khi chúng ta không còn có bất cứ câu hỏi nào nữa, chúng ta chắc chắn về sự thông hiểu của chúng ta.
Cho nên cách chúng ta đặt vấn đề ở phương Tây thật sự không quá lợi ích cho sự phát triển cá nhân, bởi vì những gì chúng ta mong đợi ở quý vị chỉ là đặt câu hỏi và quý vị có được câu trả lời và vậy thôi, và có thể, có thể quý vị viết nó xuống. Và dĩ nhiên quý vị sẽ không bao giờ nhìn lại những gì quý vị đã viết một lần nữa.
Và tôi phải nói rằng hầu hết những vị giáo viên phương Tây, kể cả tôi, từ sự huấn luyện Tây phương, chúng ta có xu hướng cho câu trả lời. Nhưng đấy không thật sự là phương pháp của Phật Giáo. Phương pháp của Phật Giáo là để cho học nhân tự cố gắng để hình dung ra nó vì thế họ sẽ phát triển tâm thức của họ.
Và xét cho cùng rắc rối là chúng ta không có quá nhiều thời gian dành cho cả ngày hay cả tuần để tranh luận về điều gì đó. Chúng ta muốn có câu trả lời ngay lập tức - chúng ta đánh máy nó trong computer và vài giây sau là có câu trả lời. Thế nên cách mà chúng ta đặt câu hỏi và cách mà những Phật tử truyền thống Tây Tạng đặt câu hỏi là hoàn toàn khác biệt.
Đây là tại sao tôi đã nói ngay từ lúc đầu rằng tôi thấy rất hữu ích trong việc có thể giúp để bắc cây cầu cho mọi người thấy, "À, người Tây Tạng làm nó như thế nào?" Và rồi thấy là có một cách so sánh nào đó mà chúng ta có thể làm từ nền văn hóa của chúng ta, và đừng cho cách của chúng ta làm mọi việc là đúng.
Vì thế cho dù chúng ta thực hiện một cuộc tranh luận nghi thức, cho dù chúng ta chỉ có những buổi thảo luận với mỗi người trong một cách một cách thông thường hơn, thì tôi nghĩ rằng điều này có thể rất lợi lạc để thảo luận những vấn đề Phật Pháp với nhau. Và rồi thì, nếu có điều gì đó mà chúng ta không thật sự thấu hiểu và thật sự không thể hình dung ra, sau đó hãy hỏi vị thầy. Nhưng nếu chúng ta làm điều này, chúng ta cũng cần sẳn sàng để vị thầy đặt câu hỏi chúng ta và đặt câu hỏi về sự thấu hiểu của chúng ta, và nhiều người phương Tây không thích như vậy bởi vì nó giống như họ đang có một bài khảo sát và sẽ được cho điểm như trong trường học.
Quý vị thấy, những sự tranh luận là được hoàn tất trong một cách rất sinh động, đúng đấy, nhưng nó cũng có rất nhiều sự vui thú. Và thế nên khi ai đó không biết câu trả lời và nói điều gì đó sai, mọi người cười vào họ. Và đấy là một sự thực tập rất tốt để vượt thắng một cái ngã to tướng. Và có rất nhiều tranh luận xảy ra mà mọi người nói điều gì đó ngu ngơ ở một điểm nào đó, và nó làm cho mọi người ngơ ra. Nhưng đối với chúng ta ở phương Tây, nếu mọi người trong lớp bắt đầu cười khi chúng ta nói điều gì đó không đúng hay ngu ngốc, nhiều người trong chúng ta sẽ có sự tự ái mạnh thêm, như vậy không lợi ích lắm.
Quý vị thấy, hầu hết người Tây phương chúng ta đau khổ vì lòng tự trọng thấp và hầu hết người Tây Tạng tối thiểu không khổ đau vì lòng tự trọng thấp. Nếu bất cứ điều gì, họ đau khổ từ sự ngược lại, là thứ hơi quá cao lòng tự trọng. Và vì thế, chúng ta tiếp cận những thứ từ một lý lịch rất khác biệt, và điều này xét cho cùng là hành trang văn hóa mà chúng ta mang theo chúng ta.
Và đối với người Tây Tạng, một người tự hào cao như núi nghĩ, "tôi đúng" và v.v…, sự tranh luận với mọi người cười to và v.v… giúp đem họ xuống. Trái lại đối với chúng ta đến với lòng tự trọng thấp, nó làm chúng ta chỉ cảm thấy tệ hại hơn về chính chúng ta. Cho nên những gì tôi làm trong lớp của tôi là, tôi đợi một thời gian thật lâu, nhiều năm, cho đến khi đầy đủ một lòng tin và sự thân hữu và ấm ấp trong nhóm cho mọi người cảm thấy thoải mãi đủ để sau đó có loại thảo luận như thế này. Nhưng với những người mới và cảm thấy không an toàn trong một nhóm, nó có thể là rất tàn phá.
Vậy thì có lẻ chúng ta nên chấm dứt ở đây cho buổi tối này. Chúng ta kết thúc với một sự hồi hướng. Và thật rất quan trọng để hiểu rằng tại sao chúng ta cần có một sự hồi hướng. Nếu chúng ta làm điều gì đó tích cực như lắng nghe thuyết giảng Phật Pháp như chúng ta làm tối nay, nó xây dựng một năng lực tích cực và sự thấu hiểu nào đó. Nhưng nếu chúng ta không hồi hướng, sau đó nó chỉ là năng lực tích cực cho luân hồi. Và vì nói chín muồi thành có lẻ có thể có một buổi đàm thoại với những người khác về những gì quý vị đã nghe và không có gì đặc biệt. Nhưng những gì chúng ta cần làm giống như một máy điện toán: quý vị phải bảo lưu năng lực tích cực vào trong ngăn cho Giác Ngộ. Nếu quý vị không bảo lưu nó trong ngăn Giác Ngộ, nó chỉ tự động đi vào ngăn luân hồi. Do thế sự hồi hướng là để bảo lưu nó trong ngăn Giác Ngộ. Và sao lưu nó lên, vâng.
Vậy thì những gì chúng ta nói là, "Bất cứ năng lực tích cực nào đã có từ việc này, bất cứ sự thông hiểu nào, nguyện cho nó hoạt động như một nguyên nhân cho việc đạt đến Giác Ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sanh." Chúng tôi thật sự muốn như thế. Sau đó nó hoạt động như một nguyên nhân cho Giác Ngộ mà chúng tôi muốn có thể làm lợi ích cho mọi người. Quý vị chỉ làm việc này trong tâm thức quý vị; quý vị không phải lập lại những từ ngữ đặc biệt ấy. Việc chính là tư tưởng. Và điều tốt nhất để làm nó là trong một từ ngữ nào đấy đầy đủ ý nghĩa với quý vị. Nếu quý vị muốn thực hiện việc này trong một nghi thức, thì không có gì sai với nghi thức. Nhưng hãy làm nghi thức của chính quý vị, không chỉ nói qua loa "blablabla", là thứ không có ý nghĩa gì với quý vị.
Cảm ơn rất nhiều.
---

Ẩn Tâm Lộ Tuesday, December 30, 2014

Từ Ái và Bi Mẫn Trong Hành Động

Chương 10:  Từ Ái và Bi Mẫn Trong Hành Động


Phước Đức Và Tuệ Trí
SAU KHI PHÁT SINH tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác. Như chúng ta đã thảo luận, đây là điều gì đấy sinh khởi từ những nguyên nhân và điều kiện[1]. Nhưng chúng ta cần một tập hợp hoàn hảo và đúng đắn của những nguyên nhân và điều kiện, một tập hợp bao gồm nhiều sự thực tập. Long Thọ tóm tắt chúng trong một kệ hồi hướng trong 60 Kệ Tụng Lý Trí: "Nguyện, qua đức hạnh này, tất cả chúng sanh tập hợp hai tích tập và trên căn bản ấy đạt được hai hiện thân của Quả Phật"[2]. Ngài diễn tả những tích tập của phước đức và tuệ trí như những nguyên nhân của Quả Phật; khi chúng ta chi tiết những gì điều này liên hệ, thì chúng ta có giáo huấn về 6 ba la mật. Cũng thế, nếu chúng ta chi tiết ba la mật thứ sáu, tuệ trí ba la mật, thế thì chúng ta có thêm 4 ba la mật, làm thành tất cả 10 ba la mật.
Giải thích sự thực tập 6 ba la mật, Tông Khách Ba (2:85) dạy rằng chúng ta phải rèn luyện trong 6 ba la mật sau khi phát triển tinh thần Giác Ngộ. Chúng ta không trở thành những vị Phật qua hoặc là phương pháp(5 ba la mật đầu) hay tuệ trí mà thôi. Chúng ta cần cả hai khía cạnh của con đường tu tập; chỉ qua việc kết hợp hai khía cạnh này mà có thể tích tập những nguyên nhân và điều kiện cần thiết cho việc đạt đến Quả Phật toàn giác.
Trong 6 ba la mật, đối với những ai chính yếu gắn  liền với phía phương pháp của con đường tu tập - bố thí, trì giới, v.v… - cốt lõi là sự phát triển và đào sâu một cách thực tiển mong ước, nguyện vọng, của chúng ta để giúp đở người khác. Trong trường hợp của bố thí, ví dụ thế, hành động thực tế của việc ban cho là quan trọng, nhưng những gì thiết yếu là việc làm cho kiên cố động cơ, mục tiêu, và xu hướng của hành giả để ban cho. Năng lực chính mà quý vị đang sử dụng và vì thế việc củng cố là một loại nguyện vọng. Đồng thời, để những khía cạnh phương pháp  này của con đường tu tập hiệu quả, thì quý vị cũng cần năng lực của tuệ trí bởi vì nó đem vào sự thực tập của quý vị một cảm nhận tự tin hay một cách chắc chắn nó làm nổi bật rất tuyệt sự thực tập của quý vị về bố thí, v.v…
Giống như thế, khía cạnh tuệ trí của con đường tu tập phải được bổ sung bởi khía cạnh tuệ trí của con đường. Thí dụ, nhằm đề biết tánh không, chúng ta phải làm tâm thức và trái tim chúng ta dễ lãnh hội sự thực chứng như vậy. Để làm điều này, quý vị phải dấn thân trong những thực tập làm tịnh hóa tâm thức quý vị và làm mạnh đức hạnh của quý vị. Trong những cách này, hai khía cạnh của con đường - phương pháp và tuệ trí - thật sự bổ sung cho nhau. Mỗi thứ củng cố và làm nổi bật sự phát triển cho thứ kia. Phía phương pháp giúp hành giả chuẩn bị tư tưởng để thực chứng tánh không và rồi thì làm nổi bật sự thực chứng ấy sau khi nó sinh khởi. Trong chi tiết, khía cạnh phương pháp của con đường bảo đảm rằng tuệ trí của hành giả hiểu biết tánh không có thể trở thành một phương pháp hóa giải đầy năng lực đến những chướng ngại vi tế ngăn trở sự toàn tri và vì thế có thể phục vụ như một nguyên nhân cho sự Giác Ngộ hoàn hảo của một Đức Phật. Khi quý vị quán sát vấn đề chư Bồ tát tiến triển từ trình độ này đến trình độ khác, thì ấy là tiến trình thật sự xảy ra trong định - tuệ thiền cân bằng về tánh không. Thế nên, phẩm chất của tuệ trí này quyết định vấn đề hành giả có thể tiến xa đến mức độ nào; trong ý nghĩa này, thì tuệ trí là nguyên nhân chính và phương pháp bổ sung cho nó (phương pháp là 5 ba la mật trước).

Sáu Ba La Mật
Trong việc giải thích sáu ba la mật, Tông Khách Ba (2:104-111) thảo luận chi tiết tại sao chúng là rõ ràng và chính xác trong số 6. Khi một luận điển diễn tả một chiều kích nào đó như cố định và rõ ràng, thì chúng ta phải coi như điều này có thể được nói trong hơn một ý nghĩa. Thí dụ, hai chân lý (nhị đế) - quy ước và cứu kính - là một chiều kích hoàn toàn thấu đáo của tri thức của tất cả mọi đối tượng; con số thật sự cố định và nó là hoàn toàn. Nhưng trong trường hợp của Bốn Chân Lý Cao Quý, vậy thì vị thế đã quyết định của con số 4 liên hệ đến chính mục tiêu đặc thù của giáo lý. Nó là con số cố định trong phạm vi ấy, cho một mục tiêu đặc thù. Cảm nhận của tôi là việc liệt kê rõ ràng của sự hoàn hảo như số 6 là tương tự. Nó không là một danh sách toàn diện như hai chân lý. Nó là một con số cố định nhưng cố định trong mối quan hệ đến những mục tiêu đặc biệt của một giáo lý đặc thù. Đôi khi một vị thầy thấy rằng một danh sách cố định với một con số đã định rõ về những thành phần là hiệu quả nhất trong việc xua tan những hiểu biết sai lầm nào đó.

Bố Thí
Bố thí đứng đầu trong danh sách sáu ba la mật. Tông Khách Ba (2:113-126) đưa ra một giải thích thẳng thắn về chủ đề rất quan trọng này. Chúng ta cần quán chiếu trên điều này và đem giáo lý vào việc thực tập.
Điểm quan yếu này là để chắc chắn rằng sự ban cho của quý vị sẽ làm lợi ích cho người khác. Để đạt được mục đích ấy, chúng ta phải xem những gì thích đáng để ban cho, khi ban cho, và v.v… Tông Khách Ba (2:122) liệt kê ba hình thức chính của ban cho; ban cho những thứ vật chất (tài thí), ban cho sự bảo vệ khỏi sợ hãi (vô úy thí), và ban cho giáo Pháp qua giáo huấn tâm linh (pháp thí). Thí dụ, nếu quý vị biết lưu ý rằng động cơ của quý vị là đúng, thế thì việc bảo vệ môi trường có thể là một thí dụ của loại bố thí thứ hai, ban cho sự bảo vệ. Việc làm của những nghề nghiệp chăm sóc, kể cả bác sĩ và y tá, cũng có thể trở thành một hình thức của việc ban cho sự bảo vệ khỏi sự sợ hãi.
Khi những giáo sư và giáo viên diển giảng, điều này có thể là một hình thức của bố thí, ban cho giáo huấn tâm linh. Nhưng nếu động cơ của họ chỉ là để được lãnh lương, thế thì nó không là bố thí thật sự. Nó là một giao dịch thương mại giống như bất cứ loại thương mại nào khác. Ngay cả nếu Đạt Lai Lạt Ma diễn giảng vì mục tiêu nhận được một món tiền nào đó, thế thì đó cũng chỉ là một thỏa thuận thương mại, không phải là một hình thức của bố thí. Có một lần, một vị đạo sư Nyingma thực hiện ba lời nguyện: không bao giờ cởi thú vật, không bao giờ ăn thịt, và không bao giờ nhận bất cứ sự cúng dường vật chất nào như kết quả của việc giảng dạy giáo pháp. Ngài giải thích rằng lấy tiền vì giảng dạy giáo pháp giống như làm thương mại - một loại thương  mại xấu. Một cách truyền thống, buôn bán giáo pháp đã được xem là một loại thương mại rất tệ hại.

Trì Giới (Nguyên Tắc Đạo Đức)
Tông Khách Ba (2:148) giải thích rằng ba la mật thứ hai - trì giới ba la mật - là ba loại chính: tự mình tránh những hành vi tổn  hại, tập hợp đức hạnh, và hành động vì lợi ích của người khác. Có một trình tự tự nhiên trong ba thứ này: tiến hành tự kềm chế, xuyên qua tập hợp đức hạnh, và rồi thì hành động vì người khác.
Nếu một vị Bồ tát có những thệ nguyện giải thoát cá nhân, chẳng hạn như những thệ nguyện [giới điều] của cư sĩ hay tu sĩ, thế thì việc quán chiếu những điều này cấu thành loại thứ nhất của trì giới, đạo đức của việc kềm chế. Khi một vị Bồ tát không có những thệ nguyện chính thức, thế thì nguyên tắc đạo đức của việc kềm chế có nghĩa là kiêng tránh khỏi mười điều bất thiện[3]. Nó cũng bao gồm việc đề phòng chống lại những tư tưởng vị kỷ. Việc tự kềm chế mình khỏi những hành vi tổn hại sẽ chuẩn bị cho quý vị phát triển một trái tim đức hạnh.
Tập hợp đức hạnh, loại trì giới thứ hai, có thể bao gồm tất cả những sự thực hành đưa đến việc phát triển nhiều khía cạnh của con đường tu tập, kể cả những sự thực hành liên hệ tánh không thậm thâm và những sự thực hành rộng rãi của bi mẫn và phương tiện thiện xảo. Khi tâm thức quý vị trở thành mạnh mẽ trong đức hạnh, thì quý vị sẽ có thể mang lợi ích đến cho người khác tốt đẹp hơn.
Trong việc giải thích trì giới của việc hành động vì lợi ích của người khác, Tông Khách Ba (2:148) đề cập 11 hình thức của việc phụng sự. Ngài không chi tiết hóa chúng ở đây trong Đại Luận, nhưng chỉ chúng ta tham khảo đến tác phẩm Lộ Trình Tỉnh Thức Căn Bản của ngài, trong ấy luận giải chương trì giới của quyển Những Trình Độ Của Bồ Tát (Bồ tát địa) của Vô Trước. Ở đấy ngài dạy rằng chúng ta nên đáp ứng đến người nào đó cần giúp đở. Thí dụ, nếu người nào đó đi đứng khó khăn, thế thì chỉ giúp đở người đó. Hãy giúp đở người khác khi họ rối rắm hay mờ mịt về một nhiệm vụ đặc thù nào đó mà họ đang cố gắng làm. Hãy biểu lộ bằng cách của quý vị để đến với những người  khác, hoan nghênh họ và v.v… Dừng lại với những ai đang gặp khó khăn và sợ hãi, cho họ tình thân hữu. Giúp đở và làm thoải mái những ai đang đau khổ trong nổi thương tiếc và buồn rầu. Đáp ứng để giúp đở những ai cần nhu cầu vật chất tức thời. Hãy là nơi nương tựa, nơi trú ẩn cho những ai đang cần sự hổ trợ cảm xúc. Hãy chăm nom điều ấy, trong việc cố gắng giúp đở người khác, bất cứ điều gì quý vị hoàn tất trong một phương thức làm hòa hiệp những thể trạng tâm thức của họ và vì thế có thể thật sự đem đến lợi ích. Nếu ai đấy dường như đang chúi đầu vào con đường sai lầm, hãy khuyên bảo người ấy để họ hướng bước về đường đạo đức. Khi cần thiết, hãy có một lập trường vững vàng - một cách đặc biệt khi nó liên hệ việc làm tổn hại sự thực hiện chí nguyện bởi một người khác. Và nếu, một ngày nào xa xôi trong tương lai, quý vị phát triển được những năng lực diệu kỳ qua thiền tập, thế thì hãy sử dụng những năng lực này để giúp đở người khác.

Nhẫn nhục
Với ba la mật thứ ba, nhẫn nhục, Tông Khách Ba (2:159) giải thích rằng có ba loại chính: nhẫn nhục là không quan tâm những tổn hại đối với quý vị, nhẫn nhục trong việc chịu đựng khó khăn và đau đớn, và nhẫn nhục là một loại biết chắc chắn về những khía cạnh đa dạng của giáo pháp. Đoạn này của Đại Luận (2:151-179) trích dẫn và xuất phát một cách chính yếu từ những giải thích tuyệt vời trong chương thứ 6 của Hướng Dẫn Lối Sống Bồ Tát của Tịch Thiên.

Tinh Tấn (Nghị Lực Hoan Hỉ)
Tông Khách Ba, Đại Luận (2:181-207), giải thích ba la mật thứ tư, nhẫn nhục ba la mật, được căn cứ một cách chính yếu từ chương thứ 7 của Hướng Dẫn Lối Sống Bồ Tát. Ngài (2:184) diễn tả ba hình thức của tinh tấn : tinh tấn giống áo giáp, tinh tấn tập hợp đức hạnh, và tinh tấn hành động vì lợi ích của người khác.
Tinh tấn giống áo giáp đòi hỏi việc trau dồi một thái độ tính đến một khung thời gian cực kỳ lâu dài. Nó có nghĩa là việc phát triển cảm giác, ''Ngay cả vì lợi ích của một chúng sanh đơn lẻ, tôi sẽ tự hồi hướng chính mình trong hàng vô lượng kiếp, cho đến khi không gian còn tồn tại". Thí dụ, Đức Ban Thiền Lạt Ma trong Cúng Dường Đạo Sư nói rằng, "Tôi sẽ cố gắng vì lợi ích của người khác, ngay cả vì lợi ích của một chúng sanh đơn lẻ; ngay cả nếu tôi phải hiện hữu trong những cõi thấp trong hàng vô lượng kiếp, tôi sẽ không ngã lòng". Quyết tâm cương quyết lâu dài này thật sự được cho là phẩm tính của tinh tấn ba la mật, nghị lực hoan hỉ "giống áo giáp".

Thiền Định
Tông Khách Ba giải thích ba la mật thứ 5, thiền định ba la mật, và ba la mật thứ 6, tuệ trí ba la mật, trong những phần sau của Đại Luận dưới tựa đề "tĩnh lặng" và "tuệ giác nội quán", một cách tương ứng. Trong một ý nghĩa phổ thông nhất, tĩnh lặng (shamatha - chỉ) và tuệ giác nội quán (vipashyana - quán) là những thực tập thông thường đối với những truyền thống Phật giáo và không Phật giáo cổ điển ở Ấn Độ.
Trong kinh Nhập Lăng Già, Đức Phật đã dạy một sự đa nguyên tâm linh diễn tả nhiều cổ xe (thừa) hay phương pháp cho việc tiến hành trên con đường tâm linh, kể cả những cổ xe của con người (nhân thừa), cổ xe cho chư thiên (thiên thừa), cổ xe cho hàng môn đệ (thanh văn thừa), và cổ xe cho hàng Bồ tát (Bồ tát thừa). Cho đến khi mà vẫn còn những khác biệt vô vàn về tính khí và thiên hướng tinh thần giữa các chúng sanh, thì cũng có nhu cầu cho vô vàn hình thức thực hành. Cổ xe cho loài người liên hệ đến bất cứ hệ thống nào mà mục đích chính của nó là tiến trình trên con đường hướng đến giải thoát khỏi những khổ đau tức thời và rõ rệt (khổ khổ). Nhưng cổ xe cho chư thiên chính yếu tập trung trong việc xua tan những khổ đau của thay đổi (hoại khổ); ở tại điểm này tĩnh lặng và tuệ giác nội quán là rất liên hệ. Ý tưởng chính là tiến bộ qua nhiều trình độ của tập trung (tứ thiền) và thiền định vô sắc (tứ vô sắc định). Mặc dù căn cứ trên việc trau dồi của tĩnh lặng thiền (chỉ), con đường thật sự liên hệ đến tuệ giác nội quán (quán) là so sánh những đặc trưng của những cảnh giới thấp (địa ngục, ngã quỷ, súc sanh) với đặc trưng tiến bộ vi tế hơn của những cảnh giới cao thượng.
Làm sao chúng ta có thể chắc chắn về ba cõi - dục giới, sắc giới, và vô sắc giới? Chúng ta có thể có được một số thông hiểu bằng việc thẩm tra chính những thể trạng tinh thần của chúng ta. Những thể trạng tinh thần gắn liền với dục giới là hoàn toàn thô  phù, vì thế chúng là những hình sắc thô của phiền não và những tiến trình tinh thần khác. Trái lại, nếu quý vị đạt đến sự ổn định tinh thần, thế thì quý vị có thể an trú trong một thể trạng ổn định tương đối của tâm thức. Và trong những thể trạng thiền định, quý vị có thể thấy những thể trạng sâu hơn, vi tế  hơn tăng dần lên từng nấc. Do thế, quý vị có thể kết luận cũng có thể có những cảnh giới, những tình trạng của chúng sanh, là những thứ tương ứng  và là kết quả của nghiệp của những thể trạng tinh thần khác nhau này. Đây là một cách để có một cảm nhận về sự tồn tại của ba cảnh giới.
Trong Kinh Nghiệm Tâm Linh Ca, Tông Khách Ba nói rằng sự tĩnh lặng cấu thành sự tinh thông và quyền chi phối đối với tâm thức của hành giả. Tĩnh lặng có phẩm chất như ông vua trong ý nghĩa là khi quý vị hướng tâm trực tiếp đến một đối tượng chọn lựa, nó có thể an trú tại đấy với sự vững vàng như một ngọn núi. Về mặt khác, quý vị cũng có thể sử dụng năng lực này để phân tích bất cứ đối tượng đức hạnh nào mà quý vị có thể lựa chọn. Trong trường hợp ấy, quý vị đang phát triển năng lực của tuệ giác nội quán trên căn bản của tĩnh lặng. Tĩnh lặng cung ứng sự ổn định tinh thần và tuệ giác nội quán cung cấp một năng lực phân tích. Hai thứ này có thể phối hợp với nhau.
Hơn thế nữa, Tông Khách Ba nói rằng thiền định phát sinh an lạc khi thân thể và tâm thức quý vị trở thành nhu nhuyến. Điều này liên hệ đến việc đạt tới sự khinh an của thân thể và tinh thần, một sự bào mõng dần dần những trì trệ tự nhiên của chúng ta. Hành giả, người đang trau dồi tĩnh  lặng sử dụng tính khinh an này để đánh đổ bất cứ chướng ngại hay sao lãng nào và duy trì sự ổn định của thiền tập. Tôi biết một tu sĩ, người học  hỏi trong những tu viện bác học và thông bác nhiều kinh luận cổ điển của Phật Giáo, nhưng cũng đã hành thiền trong nhiều năm. Ông sống ở Bhutan trong một thời gian, trau dồi tĩnh lặng, và ông đã đạt đến một điểm, nơi mà kinh nghiệm của ông tràn ngập bởi một cảm giác an lạc. Tôi nghĩ rằng ông đã đạt đến sự an lạc này xuất phát từ sự khinh an nhu nhuyến của thân thể và tinh thần.

Tuệ Trí Ba La Mật
Trong Phật Giáo phổ quát, thuật ngữ "tuệ trí" liên quan đến những sự kiện về thực tại quy ước và những sự kiện về thực tại cứu kính. Trong phạm vi của sự tu tập, "tuệ trí" liên hệ đến một năng lực thông minh phải được phát triển. Hay nó có thể được liên hệ với việc học hỏi. Truyền thống cổ điển của Tây Tạng tự nhiên tuân theo kiễu mẫu truyền thống cổ điển của Phật Giáo Ấn Độ, nơi có 5 lãnh vực chính về tri thức và 5 lãnh vực phụ về tri thức. 5 lãnh vực chính về tri thức (ngũ minh) là học về ngôn ngữ - chủ yếu là Sanskrist (thanh minh), lý luận và nhận thức luận (nhân minh), y dược (y phương minh), nghệ thuật và thủ công (công xảo minh), và hệ thống tri thức Phật Giáo (nội minh). 5 lãnh vực tri thức phụ bao gồm nhiều chủ đề tương tự khác. Trong kiễu mẫu Phật Giáo Ấn Độ cổ điển đây là những thứ được xem là lãnh vực then chốt mà trong ấy một người có học thức phải trau dồi tuệ trí.
Tuy nhiên, khi chúng ta nói về tuệ trí ba la mật, "tuệ trí" được liên hệ đến tri thức của thực tại cứu kính, bản chất tối hậu của mọi thứ. Trong Kinh Nghiệm Tâm Linh Ca, Tông Khách Ba nói rằng tuệ trí là con mắt mà với nó hành giả thấy thực tại thậm thâm. Tuệ trí là con đường mà nhờ nó hành giả trừ tiệt, phá hủy từ chính gốc rể, căn bản của vòng luân hồi. Gốc rể của vòng luân hồi là vọng tưởng, một các đặc biệt trong hình thức chấp trước vào sự tồn tại chân thật, và tuệ trí hiểu biết tánh không hoạt động như một phương pháp hóa giải trực tiếp đối kháng nhận thức về nền tảng này của vọng tưởng, do thế tiêu diệt nó. Tông Khách Ba nói rằng, vì lý do này, tuệ trí là trân bảo quý giá nhất của tất cả mọi đức hạnh kỳ diệu được diễn tả trong tất cả mọi kinh điển.
Tất cả giáo huấn của Đức Phật, hoặc trực  tiếp hay gián tiếp, đều đồng quy về giáo huấn tánh không. Chúng có thể chỉ về tánh không, chúng có thể thật sự hướng đến tánh không, hay chúng có thể thật sự bố trí trên tánh không. Vì thế, Tông Khách Ba trong tác phẩm Ca Ngợi Đức Phật Vì Đã Dạy Lý Duyên Sanh, tuyên bố Đức Phật, "Mọi thứ mà Ngài đã dạy tiến lên từ lý duyên sanh vì lợi ích niết bàn, vì thế Ngài không có gì mà không hướng đến hòa bình". Tông Khách Ba sau đó tiếp tục nói rằng tuệ trí thông hiểu điều này giống như một ánh sáng kỳ diệu xua tan bóng tối của vọng tưởng[4].

Hấp Dẫn Người Khác
Tông Khách Ba giải thích về những sự thực tập của Bồ tát đạo, bên cạnh 6 ba la mật, cũng bao gồm (2:225-231) 4 cung cách chính để tập hợp tín đồ: (1) ban cho mọi người những thứ họ cần, (2) nói trong một cung cách tuyệt vời, (3) hướng dẫn người khác thực tập đức hạnh và hành động hướng đến giải thoát, và (4) sống cuộc sống của chính mình phù hợp với giáo pháp. Điểm cuối cùng là quan trọng: Bất cứ điều gì quý vị dạy người khác, thì quý vị phải tự biến thành một gương mẫu bằng chính sự thực hành của quý vị.
Trích từ quyển "From Here To Enlightenment"
Ẩn Tâm Lộ,Thursday, June 26, 2014
Bài liên hệ



[1] Kệ 60 Trong 60 Kệ Tụng Lý Trí.
[2] Đại luận khám phá trong sâu rộng hơn chủ đề của phần ngắn này tại 2:85-99.
[3] 10 điều này (giới thập thiện) được liệt kê trong chú thích 51.
[4] Chuyển dịch của Berzin.

Thứ Ba, 23 tháng 12, 2014

QUÁN CHIẾU VỀ SỰ TIẾP CẬN PHẬT GIÁO THỰC TIỂN 4


Reflections on the Realistic Approach of Buddhism: Talks to Former Dharamsala Residents from the West
His Holiness the Fourteenth Dalai Lama
Dharamsala, India, November 2 – 3, 2010
Ghi lại:  Sean Jones và Michael Richards
Hiệu đính: Luke Roberts và Alexander Berzin
 Chuyển ngữ: Tuệ Uyển


PHẦN 4: XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY TỪ QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
Tôn Giáo
Như tôn giáo được quan tâm, tôi luôn luôn nói rõ ràng với quý vị những người Tây phương rằng tốt nhất là hãy giữ truyền thống của quý vị. Dĩ nhiên trong hàng triệu người thì cũng có một số cá nhân, như quý vị, những người … À, tôi nghĩ một số quý vị trong những năm sáu mươi như phong trào hippy - hơi rối rắm trong tâm thức của quý vị và có một thái độ hơi nổi loạn đối hoàn cảnh hiện hữu, kể cả đối với những niềm tin tôn giáo Tây phương của quý vị, có phải không? Cho nên khi đi đây đi đó, nơi nọ nơi kia, giống như quý vị quý vị không có bất cứ một phương hướng nào, và cuối cùng quý vị thấy một ý tưởng mới mẻ  nào đó của Phật Giáo. Cho nên tốt thôi, nếu quý vị thật sự cảm thấy đấy là điều gì đó có ích, điều gì đấy hữu dụng, thế thì tốt thôi.
Giống như người Tây Tạng - hơn 99% là Phật tử, nhưng cùng lúc có những người Hồi giáo Tây Tạng, và tôi nghĩ từ thế kỷ 20 cũng có thêm những người Ki Tô giáo ở đấy. Cho nên điều ấy là khả dĩ. Trong những người phương Tây với truyền thống Do Thái - Ki Tô - và cũng mở rộng đến một số người Hồi giáo - một số họ thấy truyền thống của họ không thực tế lắm, và họ chọn vị thế không tín ngưỡng. Hơi bị xáo động trong cấp độ tinh thần, họ thấy một lợi ích nào đó trong giáo huấn nhà Phật về rèn luyện tâm thức của họ, và vì thế họ quyết định đi theo truyền thống này. Điều ấy tốt thôi, Đấy là một quyền cá nhân.
Giáo Dục
Như một Phật tử, hay ngay cả bất cứ là loại người gì, chúng ta cần có đầu óc thực tế. Một sự tiếp cận không thực tiển đem đến thảm họa, vì thế chúng ta phải thực tế. tôi nghĩ mục tiêu chính của giáo dục là để giúp chúng ta giảm thiểu khoảng cách giữa hiện tướng và thực tại. Quá nhiều cảm giác không thực tế phát triển do bởi khoảng cách giữa hiện tướng và thực tại. Chúng ta có sự thông  minh của con người, và vì thế, vâng, chúng ta cần giáo dục. Mục tiêu chính của giáo dục là tâm thức chúng ta phải thông tuệ, phải có lý trí, phải là thực tế. Mục tiêu thật sự của giáo dục là chúng ta phải thực tế về toàn bộ đời sống của chúng ta, và toàn bộ mục tiêu của chúng ta. Ngay cả với những mục tiêu tàn phá, như khủng bố - nhằm đề đạt được mục tiêu của họ, nhưng phương pháp của họ phải thực tế; bằng khác đi thì họ có thể chết trước khi đạt đến mục đích. Bất cứ hành động con người nào cũng phải thực tế.
Bây giờ có sự khủng hoảng về kinh tế. Có quá nhiều suy đoán mà không biết chính xác những gì sẽ xảy ra và sau đó làm ra vẻ mọi thứ là okay. Đôi khi những người này biết những gì sẽ xảy ra, nhưng họ đưa ra công chúng một cảnh tượng đã trù tính trước. Như vậy là không đạo đức . Cho nên nó là do si mê và do tham lam. Theo một số người bạn của tôi, đấy là một bộ phận của nguyên nhân làm ra sự khủng hoảng kinh tế. Nếu người ta đã nói sự thật một cách công khai và đúng đắn một cách hiển nhiên ngay từ đầu, thế thì khi lời tuyên bố cuối cùng đưa ra, công chúng sẽ không quá sốc. Họ phải làm cho nó thật rõ ràng ngay từ đầu. Nhưng bây giờ mọi thứ là rất khó khăn, có phải không? Cho nên chúng ta phải thực tế về toàn bộ đời sống của chúng ta. Và rồi thì cũng dĩ nhiên trong những mối quan hệ quốc tế, và cũng như trong những vấn đề môi trường, hay bất cứ lãnh vực nào - trong bất cứ và mỗi cung cách nào, chúng ta cần phải thực tế.
Nền giáo dục hiện đại có thiếu sót một thứ, và đấy là sự dạy dỗ về lòng nhiệt tình, hay sự tốt bụng. Nhưng bây giờ trong một số học viện, một số trường đại học, thật sự đang tiến hành một nghiên cứu nào đó về điều này. Họ đang tiến hành những thí nghiệm với các sinh viên: Nếu họ có một sự thiền tập ngắn hạn nào đó để rèn luyên tâm thức của họ về bi mẫn như một bộ phận trong sự học vấn hàng ngày của họ, nó có thể làm nên một sự khác biệt sau 8 tuần rèn luyện. Cho nên thế nào đi nữa đấy là một khía cạnh.
Sức Khỏe
So sánh với thú vật và những hình thức sống khác, chúng ta rất may mắn để có thân thể con người, bởi vì chúng ta có bộ não kỳ diệu này - chúng ta có khả năng để phát triển lòng vị tha vô hạn và chúng ta có khả năng để khảo sát về thực tại cứu kính. Bất cứ hình thức nào của sự sống với một bộ não ít phức tạp hơn sẽ không có khả năng để làm việc ấy. Tất cả những chúng sanh bình thường là những kẻ nô lệ của si mê. Chỉ não bộ con người mới có khả năng để biết những sai lầm của si mê này. Vì thế cho nên thân thể con người là điều gì đấy quý giá, và vì thế chúng ta cần bảo về sự sống này. Trong một nghìn năm, tất cả chúng ta có thể làm là cầu nguyện đến một số bổn tôn này theo giả thiết là gia hộ cho chúng ta trường thọ, nhưng bây giờ chúng ta có thuốc men và việc tập thể thao, kể cả yoga, và điều này là rất hữu dụng để bảo vệ thân thể của chúng ta, có phải không? Giống như thế.
Kinh Tế
Dĩ nhiên tri thức của chúng ta là rất giới hạn trong lãnh vực này. Trước nhất, lý thuyết kinh tế của Karl Marx - tôi nghĩ là rất hấp dẫn đối với quan điểm trong lý thuyết kinh tế của ông về sự chia sẻ tài sản bình đẳng. Đó là một nguyên tắc đạo đức; trái lại chủ nghĩa tư bản không nói về điều  này, chỉ nói về vấn đề làm sao tạo nên lợi nhuận. Cho nên, như sự quan tâm đến lý thuyết kinh tế xã hội, tôi vẫn là một người Marxist.
Điều gọi là ''chủ nghĩa xã hội'' được thi hành trong cựu Liên Bang Sô Viết và trong thời gian đầu ở Trung Hoa hiện đại - và trong một số quốc gia xã hội chủ nghĩa khác - nền kinh tế của họ cuối cùng đối diện với sự mụ mẫm. Đấy là một thực tế. Cho nên chủ nghĩa tư bản phương Tây là một sức mạnh năng động hơn theo như sự phát triền kinh tế được quan tâm. Dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình, Hoa Lục đã hy sinh sự thực thi chủ thuyết kinh tế Marxist và tự động đi theo chủ nghĩa tư bản. Bây giờ, tôi không nghĩ người ta có thể quy trách hệ thống tư bản đối với tất cả những khó khăn mà Hoa Lục đang đối diện ngày nay. Tôi nghĩ một quốc gia tự do có thể đi theo chủ nghĩa tư bản [mà không có những rắc rối này], nhưng [đối với điều ấy] cùng lúc quý vị cần một nền tư pháp độc lập và truyền thông tự do. Nếu truyền thông tuân theo một nguyên tắc trong sáng, chính quyền dân cử có thể chịu trách nhiệm. Cho nên với chủ nghĩa tư bản, chúng ta cần những phương pháp khác để làm cho xã hội công bằng hơn.
Bây giờ Trung Hoa chỉ là chủ nghĩa tư bản - không có tư pháp độc lập, không có tư do báo chí, không có trách nhiệm giải trình. Tư pháp bị đảng điều khiển, kinh tế bị kiểm soát bởi đảng, và truyền thông bị khống chế bởi đảng viên. Cho nên đấy là lý do chính tại sao Hoa Lục đang đối diện với những vấn nạn hiện nay. Vô vàn tham nhũng, và không có phương pháp hữu hiệu để kềm chế những điều này. Những người nghèo liên hệ với tham nhũng bị án tử hình, nhưng những kẻ ở vị trí cao thì  ở trên luật pháp. Cho nên đó là lý do.
Khi Bức tường Bá Linh sụp đổ, những quốc gia Đông Âu được tự do - thí dụ Cộng hòa Czech và Slovakia. Tôi là người thăm viếng đầu tiên, tôi nghĩ, đến Cộng hòa Czech, qua lời mời của Tổng thống Havel, và rồi thì tôi cũng đã viếng thăm những quốc gia vùng Baltic, cũng như Hungary và Bulgaria. Tôi đã từng ở Romania, tôi đã đi thăm cựu liên bang Nam Tư - Kosovo, Croatia, và Slovenia. Lần đầu tiên thăm Cộng hòa Czech, tôi đã nói, "Bây giờ là đúng lúc để tiến hành thêm nhiều nghiên cứu. Lấy những phần tốt đẹp của hệ thống xã hội chủ nghĩa, lấy những phần ưu thắng của tư bản chủ nghĩa, và có thể tổng hợp thành một hệ thống kinh tế mới." Tôi đã nói điều này, nhưng chúng chỉ trở thành những từ ngữ trống rỗng. Nhưng dĩ nhiên tôi không có kiến thức về kinh tế.
Lối Sống Chủ Nghĩa Vật Chất
Tôi đã đề cập vắn tắt lối sống phương Tây hôm qua. Và không chỉ phương Tây - có một xã hội vật chất bây giờ ở Ấn Độ bây giờ, có phải không, một cộng đồng vật chất chủ nghĩa hơn? Họ đã tìm thấy niềm vui của họ qua những cửa sổ giác quan - kịch nghệ, phim ảnh, âm nhạc, thức ăn ngon, mùi hương thơm, và những cảm giác vật chất tốt, kể cả tình dục. Cho nên người ta chỉ tìm kiếm những sự thỏa mãn qua những phương tiện bên ngoài, qua trình độ của cảm giác.
Tuy nhiên, nguồn gốc cứu kính là sự thỏa mãn bên trong, là qua sự rèn luyện tâm thức, không chỉ qua việc dựa vào những kinh nghiệm cảm giác này. Những hành vi nhiễm ô cần phải chấm dứt. Sự nhiễm ô của người ta không qua môi trường; những hành vi của chúng ta trở thành nhiễm ô do bởi cái nhìn sai lầm [tà kiến] hay si mê. Do thế nhằm để chấm dứt nghiệp nhiễm ô đã làm nên các rắc rối, trước tiên chúng ta phải tẩy trừ si mê ở đây trong đầu của chúng ta. Đấy là cung cách Phật Giáo. VÀ như tôi đã đề cập trước đây, những trung tâm chuyên môn [hàn lâm] bây giờ ngày càng nhận thấy tầm quan trọng của việc chăm sóc các cảm xúc của chúng ta, tâm thức của chúng ta. Đây là dấu hiệu rất lành mạnh.
Tuy thế, vẫn tốt hơn nếu có thể nói, "Đời sống của tôi thật là tốt đẹp." Phật Giáo cũng đề cập điều ấy và cho điều này, có 4 nhân tố tuyệt diệu cho một cuộc đời sống tốt đẹp [(1) tái sanh vào cõi hạnh phúc, (2) tìm kiếm tài nguyên, (3) giáo huấn, và (4) giải thoát]. Hai nhân tố tuyệt vời đầu là sự tái sanh vào cõi hạnh phúc hơn hay chỉ là sự tái sanh vào cõi người, và rồi thì những nhu cầu - sự thịnh vượng, tài sản, người cộng sự, v.v…, cho việc đạt đến một đời sống hạnh phúc, một cuộc sống tốt đẹp. Quý vị cần tiện nghi, và vì thế quý vị cần tiền bạc. Và vì thế tiền bạc được đề cập ở đấy. Nhưng rồi thì về lâu về dài, mục tiêu của chúng ta phải nên là niết bàn - một sự chấm dứt thường trực của nổi si mê này và những cảm xúc phiền não này. Cho nên đấy là giải pháp thường hằng, và cho điều ấy chúng ta cần thực hành Phật Pháp.
Khoảng Cách giữa Giàu và Nghèo
Và rồi thì một rắc rối khác nữa là khoảng cách giữa giàu và nghèo. Đây là một vấn nạn rất nghiêm trọng. Khi tôi ở thủ đô Hoa Sinh Tân, Hoa Kỳ, tại một cuộc tập họp công cộng lớn, tôi đã nói, "Đây là thủ đô của một quốc gia giàu có nhất, nhưng ngoại ô của thành phố Hoa Sinh Tân có rất nhiều người nghèo và gia đình nghèo. Đây không chỉ là một sự sai sót về đạo đức, mà cũng là nguồn cội của nhiều rắc rối." Giống như sự kiện 11 tháng Chín (9/11) - điều này cũng được liên hệ với khoảng cách lớn lao ấy. Thế giới Ả Rập vẫn nghèo và những tài nguyên tự nhiên của họ bị khai thác tối đa bởi phương Tây, và vì thế công chúng ở đấy đôi khi cảm thấy điều đó là bất công.
Có rất, rất nhiều hoàn cảnh phức tạp. Tôi nghĩ cộng đồng Phật Giáo cũng phải thực hiện một hành động nào đó. Tối thiểu cố gắng chăm sóc những người láng giếng của chúng ta; một cách tinh thần cho họ một niềm hy vọng nào đó, một một sự tự tin nào đó.
Tôi thường nói với những người bạn Ấn Độ của tôi, những người được gọi là "đẳng cấp thấp", những người theo tiến sĩ Ambedkar - nhiều người trong họ là Phật tử - tôi luôn luôn nói với họ rằng khoảng cách giữa nghèo và giàu này phải thay đổi. Thay vì là những khẩu hiệu hay biểu lộ sự chán nản thất vọng, bộ phận những người nghèo phải xây dựng sự tự tin rằng họ là giống nhau. Tôi nói với họ, "Phạm Thiên tạo ra bốn đẳng cấp từ bốn cái đầu của ngài. Nhưng đấy là cùng một Phạm Thiên, có phải không? Cho nên tất cả chúng ta phải bình đẳng.
Tôi luôn luôn nhấn mạnh về giáo dục cho những bộ phận người nghèo. Bộ phận giàu hơn, thịnh vượng hơn, cần cung cấp phương tiện cho họ - giáo dục, huấn luyện, và công cụ - để làm cho họ có khả năng cải thiện tiêu chuẩn sinh sống của họ. Tôi cũng đã phát biểu điều này ở Phi châu trong một vài trường hợp. Thật là khó khăn ở những thế giới phương Nam. Thế giới phương Bắc thường có dư thừa. Những người ở phía Nam thậm chí không có cả những nhu cầu căn bản. Nhưng tất cả những người này cùng là những anh chị em loài người.
Nhân Quyền
Một vấn đề khác tôi muốn chia sẻ với quý vị là chúng ta đã đặt nhấn mạnh quá nhiều trên tầm quan trọng của những việc ở trình độ thứ yếu - dân tộc, tín ngưỡng, đẳng cấp - những loại thế này. Nhằm để đem đến một lợi ích nào đó ở trình độ thứ yếu, thì chúng ta đang quên đi trình độ căn bản của con người. Đấy là một vấn nạn. Tôi nghĩ, bất  hạnh thay, giống như Hội nghị Thượng Đỉnh Copenhagen [Hội nghị Liên Hiệp Quốc 2009 về Thay Đổi Khí Hậu], những quốc gia quan trọng đã chú ý nhiều hơn đến những lợi ích của quốc gia họ hơn là những quan tâm toàn cầu; vì thế đó là tại sao chúng ta đang đối diện nhiều rắc rối không cần thiết.
Chúng ta phải thực hiện mọi nỗ lực để giáo dục con người rằng chúng ta cùng là những con người. Rồi thì ưu tiên số một của chúng ta phải là những quyền căn bản của con người. Những quan tâm của các quốc gia và những cộng đồng tôn giáo khác nhau là trình độ thứ yếu. Giống như Trung Hoa - tôi luôn luôn nói với mọi người, "Trung Hoa, cho dù mạnh thế nào đi nữa, vẫn là một phần của thế giới. Cho nên trong tương lai, Trung Hoa vẫn phải đi theo những xu hướng của thế giới." Như thế đấy.
Chúng ta phải quan tâm gần bảy tỉ con người này bây giờ trên hành tinh này giống như là một hiện hữu thật sự, một gia đình nhân loại to lớn. Tôi nghĩ đấy là điều gì đó mà chúng ta thật sự cần. Nhưng chúng ta không thể thực hiện nó qua thuyết giảng, mà chỉ qua giáo dục và bằng việc sử dụng tâm trạng cảm nhận chung thông thường. Điều ấy là rất quan trọng.
Chiến Tranh
Khi chúng ta nói về nhân loại hạnh phúc, loài người hòa bình, con người bi mẫn hơn, thì chúng ta phải thực hiện một nỗ lực để tìm kiếm một câu trả lời thật sự vào những sự khủng bố này và đến việc sử dụng sức mạnh quân sự. mọi thứ là liên hệ hổ tương. Kinh tế châu Âu và tương lai châu Âu tùy thuộc vào châu Á và Trung Đông. Châu Mỹ cũng như thế. Và tương lai của Trung Hoa cũng lệ thuộc vào toàn thể châu Á và toàn bộ thế giới còn lại. Đấy là thực tế. Cho nên tương ứng với thực tế ấy, chúng ta  không thể làm việc phân chia ranh giới và nói, "Đây là kẻ thù. Đây là bạn bè". Không có căn bản cứng nhắc cho việc phân chia ranh giới của kẻ thù và đồng minh. Cho nên tương ứng với thực tại ngày nay, chúng ta phải tạo ra một cảm nhận về một "chúng ta" lớn thay vì là "chúng tôi'' và ''họ''.
Thời xưa, một nghìn năm trước, căn bản cứng nhắc này về "chúng ta" và "họ" là ở đấy. Và trên căn bản ấy, theo thực tế ấy, sự tàn phá kẻ thù của quý vị - "họ" - là sự chiến thắng của quý vị. Cho nên khái niệm về chiến tranh là một bộ phận của lịch sử loài người. Nhưng, bây giờ, ngày nay, thực tế thế giới là hoàn toàn mới, cho nên chúng ta phải quan tâm đến mỗi phần của thế giới như một phần của "Chúng ta". Chúng ta phải quan tâm nghiêm túc đến sự cát tường của họ. Không có chỗ cho bạo động trong một thế giới mà trong ấy tất cả chúng ta phải sống với nhau, liên hệ hổ tương đến mỗi người.
Ẩn Tâm Lộ Sunday, December 21, 2014