Nguyên bản: A Commentary on Attitude-Training
Like the Rays of the Sun 5
Nguyên tác: Attitude-Training Like the Rays of the Sun của Namkapel
Luận giải: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Dharamsala, India, May 9 – 15, 1985
Anh dịch: Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - Tuesday, February 17, 2015
Nguyên tác: Attitude-Training Like the Rays of the Sun của Namkapel
Luận giải: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Dharamsala, India, May 9 – 15, 1985
Anh dịch: Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - Tuesday, February 17, 2015
Phần 5: TÂM GIÁC NGỘ QUY ƯỚC VÀ TÂM GIÁC NGỘ
CỨU KÍNH
I- Tâm Giác Ngộ Quy Ước, Tiếp
Theo
a-
Phát triển từ ái và bi mẫn
Ngay cả trong thế giới
vật chất, thì chúng ta cũng không thể đặt toàn thể nổ lực của chúng ta vào
trong một sự chuyển động mạnh mẽ và mong đợi để có những kết quả ngay lập tức.
Thay vì thế, chúng ta cần hành động tiến dần trong những giai tầng. Điều này là
đúng trong dạng thức của hoạt động trong tâm thức chúng ta và hoạt động trong
những thái độ tỉnh giác của chúng ta. Để cải thiện những thái độ của chúng ta,
thì chúng ta phải hành động dần dần qua những giai tầng. Thí dụ, nếu chúng ta
có một sự sân hận lớn dễ bùng nổ, thì trước hết chúng ta phải học hỏi nghiên
cứu để nhận ra sự sân hận của chúng ta và sau đó cố gắng để thấy tất cả những
bất lợi của việc sân hận, việc nhận ra đó, dù từ bất cứ quan điểm nào chúng ta
có, thì sân hận cũng là bất lợi.
Nếu chúng ta có một sự
sân hận lớn dễ bùng nổ và chưa rèn luyện chính mình một cách thích đáng, thế
thì khi chúng ta cố gắng để áp dụng 4 năng lực đối kháng quá mạnh mẽ, thì chúng
ta không thể kiểm soát nó. Như những nhà tâm lý học và tâm lý trị liệu phương
Tây nói, nếu chúng ta cố gắng đè nén sự sân hận của chúng ta, nó sẽ tạo ra một
năng lượng ức chế lớn và làm tổn hại. Thay vì thế, họ đề nghị chúng ta cố gắng
để thoát khỏi sự sân hận đó trong một mô thức thư thái hơn để tránh những rắc
rối của việc đè nén sân hận bên trong chúng ta.
Với một phạm vi nào
đó, tôi nghĩ họ đã có một phương hướng, bởi vì trong những hoàn cảnh nào đó thì
chúng ta cần làm thông thoáng sự sân hận của chúng ta trong một mô thức hòa
bình nếu chúng ta chưa sẳn sàng để áp dụng những đối kháng để loại bỏ nó. Tuy thế,
chúng ta cần phân biệt 2 trường hợp khác nhau của cảm giác sân hận hay kiêu
căng. Một hoàn cảnh đơn giản là nếu chúng ta không làm thông thoáng sự sân hận
và để bộc lộ năng lượng ra ngoài, thì chúng ta sẽ kết thúc với nhiều rắc rối.
Rồi thì có những hoàn cảnh khác khi mà việc trút cơn giận chỉ xây đắp thêm thói
quen xấu của việc nuông chiều chính chúng ta và luôn luôn cho phép chúng ta nổi
giận. Tôi nghĩ chúng ta phải phân biệt những hoàn cảnh của mỗi trường hợp này,
và dĩ nhiên kiểm soát kềm chế sự sân hận hay sự kiêu hảnh của chúng ta thì luôn
luôn là tốt nhất. Chúng ta cần học hỏi tu tập hoàn toàn không để sự sân hận bộc
thoát, mà là để chăm sóc nó một cách nội tại không để tạo ra những rắc rối xa
hơn cho chính chúng ta.
Một trong những phương
pháp chính để sử dụng là nghĩ về cảm
giác đối lập đến thứ đang gây ra rắc rối. Thí dụ, nếu chúng ta có sân hận, thì
sự đối kháng là lòng từ ái đến người khác. Cho nên nếu chúng ta thấy chính mình
đang sân hận với người nào đó, thì chúng ta có thể cố gắng để cảm nhận từ ái,
chân thành quan tâm đến người ấy. Và hơn hơn thế nữa, chúng ta nhận ra những
thuận lợi của việc có thái độ từ ái và những bất lợi của việc sân hận, và trong
cách này chúng ta có thể áp dụng sự đối kháng này.
Ngay cả nếu chúng ta
không thể áp dụng cảm giác đối kháng này trong hoàn cảnh - trong trường hợp này
là từ ái - chúng ta càng quen thuộc với chính chúng ta với những bất lợi và trở
ngại của sân hận thì chúng ta sẽ thấy rằng khi một hoàn cảnh sinh khởi mà trong
ấy chúng ta bắt đầu nổi giận, năng lực của nó dần dần trở nên giảm thiểu và
giảm thiểu. Trong cách này, chúng ta đi qua những giai tầng khác nhau của việc
có thể kiểm soát và loại bỏ sân hận.
Điều này cũng giống
với việc phát triển lòng bi mẫn cho người khác. Trước khi chúng ta có thể có
lòng bi mẫn cho người khác và nguyện ước họ được thoát khỏi những rắc rối của
họ, thì chúng ta cần nghĩ về những rắc rối của chúng ta trước, vấn đề chúng ta
không muốn chúng như thế nào, và vấn đề chúng ta muốn loại bỏ chúng như thế
nào. Rối thì chúng ta mới có thể phát triển sự thấu cảm và bi mẫn cho người
khác căn cứ trên chính cảm giác của chúng ta, đến từ chính kinh nghiệm của
chúng ta. Tất cả những thể trạng tích cực này của tâm thức là những thứ mà
chúng ta hành động lũy tiến dần dần, từng giai tầng.
Nếu chúng ta nói rằng
chúng ta nguyện ước người nào đấy được thoát khỏi những rắc rối và khổ đau, và
chính chúng ta không thật sự nhận ra những khó khăn của các rắc rối và khổ đau
của chính chúng ta thì làm sao chúng ta có thể phát triển một nguyện ước chân
thành cho người khác được tự do khỏi mọi rắc rối? Nếu chúng ta quán chiếu người
nào đó hạnh phúc và toại nguyện, thật đúng là khó để phát triển một cảm giác từ
bi cho họ, nguyện ước cho họ được thoát khỏi những rắc rối. Tuy thế, nếu chúng
ta thấy người nào đó rõ ràng đang trải nghiệm khó khăn, thì thật dễ dàng hơn
nhiều để phát triển lòng thấu cảm và sự hiểu biết về một sự rắc rối là gì, căn
cứ trên kinh nghiệm của chính ta về họ.
Lòng bi mẫn cho người
nào đó thật sự là một thái độ có thể được thấy trong hai cách. Nếu nó hướng đến
một người nào khác, nó là sự thấu cảm và bi mẫn; nếu nó hướng trực tiếp đến
chính chúng ta, thì nó là điều chúng ta gọi là "quyết tâm tự do khỏi những
rắc rối của chính chúng ta" hay
"sự viễn ly". Đó là nguyện ước được lìa khỏi khổ đau và rắc rối,
hướng trực tiếp đến chính chúng ta, đó gọi là viễn ly, hay hướng đến người khác
thì đó gọi là bi mẫn.
Khi chúng ta nghĩ về
khổ đau, chẳng hạn như bị sanh ra trong những tình trạng tệ hại của tái sanh -
những thế giới khổ đau của địa ngục, v.v… - thì chúng ta không thể cho rằng đây
là điều gì đó rất xa cách, điều gì đó gượng gạo không liên hệ gì với chúng ta,
hay không cần phải đối phó với nó. Chúng ta cần nhận ra rằng những nguyên nhân
cho việc bị tái sanh vào những tình trạng tệ hại - tất cả những loại tiềm lực
tiêu cực khác nhau - được xây đắp và chất chứa trong sự tương tục tinh thần -
dòng suối tâm - hay tàng thức của chính chúng ta. Lệ thuộc vào những tiềm lực
tiêu cực trong tâm thức chính chúng ta, thì rất có thể trong bất cứ thời điểm
nào chúng ta cũng có thể rơi vào một trong những tình trạng tái sanh tệ hại. Cho nên thật rất quan trọng để nghĩ trong
những dạng thức của hành trạng nhân quả.
Chúng ta cần phản
chiếu trên vấn đề chúng ta may mắn như thế nào để có một sự tái sanh thân người
quý giá, một đời sống loài người quý báu với vô số tự do và thư thái để phát
triển tâm linh của chính chúng ta. Đã có cơ hội trân bảo này, thì thật rất quan
trọng để không lãng phí nó. Cho nên chúng ta trước nhất phải nghĩ về đời sống
con người quý giá, vấn đề khó khăn để có được và dễ dàng như thế nào để mất đi.
Điều này đưa chúng ta đến những tư tưởng của sự chết và vô thường, vì chúng ta
có thể chết vào bất cứ lúc nào và không biết khi nào. Vì thế chúng ta phải duy
trì tỉnh thức mạnh mẽ về Bốn Chân Lý Cao Quý: bản chất của khổ đau (khổ đế),
nguồn gốc chân thật của khổ đau (tập đế), việc có thể đạt đến sự chấm dứt những
khổ đau này (diệt đế), và những con đường chân thật của tâm thức mà chúng ta có
thể phát triển để đạt đến (đạo đế). Đây là vấn đề chúng ta có thể tận dụng kiếp
sống quý giá này như thế nào, bằng việc rèn luyện và xây đắp tất cả những thể
trạng này của tâm thức.
b-
Tóm tắt
Lý do tại sao luận
điển này gọi là Thái độ rèn luyện tâm 7
điểm là vì chúng ta tự rèn luyện chúng ta để xây dựng những thái độ tỉnh
giác. 7 điểm ấy là:
* thứ nhất, những
chuẩn bị sơ bộ,
* thứ hai, phương pháp
của việc rèn luyện trong 2 tâm giác ngộ - quy ước và cứu kính,
* thứ ba, chuyển hóa
những nghịch cảnh thành con đường tu tập đến Giác Ngộ,
* thứ tư, cô đọng sự
tu tập trong một kiếp sống,
* thứ năm, lượng định
sự rèn luyện những thái độ của chúng ta,
* thứ sáu, những thệ
nguyện cho việc rèn luyện,
* thứ bảy, những vấn
đề trong thái độ rèn luyện.
Chúng ta đã qua những
sự chuẩn bị và bây giờ chúng ta đang nói về sự phát triển thật sự tâm giác ngộ.
Để tóm lược những điểm hôm qua, co đến bây giờ chúng ta đang ở dưới tác động
mạnh mẽ của lòng vị kỷ, yêu mến chỉ chính chúng ta. Sự quan tâm vị kỉ này, là
thứ cũng liên hệ đến việc chấp trước một tự ngã tồn tại chân thật, cũng tạo ra
tất cả những rắc rối cho chúng ta mà chúng ta đã trải nghiệm từ vô thỉ kiếp.
Tất cả chúng đã được đem đến bởi lòng vị kỷ của chúng ta. Xem xét đến những
người khác, nếu một người cực kỳ vị kỷ, không cần biết họ đã dành bao nhiêu
thời gian và năng lượng trong những hoạt động tôn giáo, nhưng họ vẫn bị xem là
một người vị kỷ và họ sẽ không thể thực
hiện bất cứ tiến trình tâm linh nào. Khi một người vô cùng vị kỷ chết, mọi
người khác sẽ cảm thấy thư thái rằng con người ấy đã xa chúng ta, bởi vì kẻ ấy
là một người vị kỷ kinh khủng. Cho nên nếu chúng ta nghĩ trong dạng thức của
kiếp sống này, nếu chúng ta là một người vị kỷ, thế thì mọi người sẽ xem chúng
ta là thô bỉ và không ai quan tâm đến chúng ta, trái lại nếu chúng ta không vị
kỷ, luôn luôn quan tâm đến người khác, thì chúng ta sẽ được nghĩ như là một
người tôn quý.
Nếu chúng ta đã rơi
vào một tình trạng tái sanh tệ hại, thì chúng ta chỉ có thể chỉ ngón tay vào sự
quan tâm vị kỷ đã làm cho chúng ta rơi xuống như vậy - bị tái sanh như một con
thú và v.v… Bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào hiện hữu có thể luôn luôn được truy
nguyên cuối cùng đến sự quan tâm vị kỷ và sự tự yêu mến như nguyên nhân, tận
cùng lên đến những chúng sanh thực chứng cao độ (tiểu thừa), những người không
thể thể chứng thật sự Giác Ngộ cũng bởi vì sự quan tâm vị kỷ của họ. Tất cả
những lợi ích và tiềm lực xây dựng đến từ việc đạt được một sự tái sanh như con
người hay chư thiên - tận cùng lên đến việc đạt được giải thoát và Giác Ngộ, và
tất cả điều đó đến từ việc có lòng quan tâm đến người khác.
Ngay cả nếu chúng ta
nhìn vào kiếp sống này, tất cả mọi thứ tốt đẹp có thể truy nguyên từ việc có
một trái tim ân cần và nồng ấm. Nếu chúng ta là một con người chu đáo, người
chân thành lo lắng đến những người khác, thì mọi thứ cũng thành tựu trong kiếp
sống này. Vì thế, thật quan trọng, trong bất cứ hoàn cảnh nào thì chúng ta cầu
mong thấy mình, không bị bận tâm với sự lo lắng vị kỉ, mà luôn luôn nghĩ về mọi
người. Điều này được đề cập trong luận điển: quan tâm cho người khác là căn bản
và nền tảng của tất cả mọi phẩm chất tốt đẹp.
Để ôn lại những điểm
chính: bằng việc phản chiếu những trở ngại của việc tự yêu mến và lòng vị kỷ và
những thuận lợi của việc quan tâm đến người khác, chúng ta hướng đến việc phát
triển một lòng từ ái nhiệt thành mà với nó chúng ta yêu mến tất cả mọi người khác
và cảm thông sâu sắc cho sự cát tường của họ. Căn cứ trên điều ấy, chúng ta rèn
luyện trong việc ban hạnh phúc của chúng ta
cho người khác với lòng quan tâm từ ái rằng họ được hạnh phúc, và đón
nhận những rắc rối và khổ đau của người khác với một trái tim từ bi và thấu
cảm. Trong khi điều đó rất khó khăn để thật sự đón nhận và tiêu trừ rắc rối cho
họ, nhưng nếu chúng ta phát triển những thái độ này với những quán tưởng phối
hợp với hơi thở, cuối cùng chúng ta sẽ xây đắp nên tiềm lực vì thế chúng ta
thật sự có thể gánh vác và chửa trị những rắc rối của người khác. Đây là sự
thực tập gọi là "cho và nhận", "tonglen" - đón nhận những
rắc rối của người khác và ban cho họ hạnh phúc.
II- Chuyển Hóa Những Nghịch Cảnh Thành Con
Đường Tu Tập Đến Giác Ngộ
Tất cả chúng ta có
những hoàn cảnh khó khăn sinh khởi, cả nội tại lẫn ngoại tại. Thí dụ, người Tây
Tạng chúng ta chắc chắn có nhiều hoàn cảnh khó khăn. Điều này không phải đúng
một cách đặc biệt đối với những người ở bên trong Tây Tạng, như luôn luôn có
hiểm họa và sợ hãi rình rập như họ có thể bị bắt và bị xử tử bất cứ lúc nào.
Điều thứ nhất nói với
chúng ta rằng trong những hoàn cảnh như ở đây, khi chúng ta có những thái độ
thù hận hay dính mắc, hay ngay cả khi chúng ta đơn giản là đóng kín lại và trở
thành hẹp hòi, thì chúng ta cần phát triển những thái độ sẽ có thể cho chúng ta
chuyển hóa những hoàn cảnh thành những cơ hội cho tiến trình tâm linh. Một cách
là đón nhận sự thù hận, dính mắc, và hẹp hòi
ngu ngơ của kẻ khác vào chính chúng ta, đối phó với nó, và loại bỏ nó
cho mọi người. Trong cách này, chúng ta biến nghịch cảnh thành những thứ tích
cực.
[Sự giải thích của Namkapel ở đây trong luận giải chỉ đến dòng từ dòng
trong phiên bản của Togmey-zangpo, "Khi môi trường và người ở đấy
đầy những năng lực tiêu cực, hãy chuyển hóa những điều kiện trái ngang thành
con đường tu tập đến Giác Ngộ." Namkapel chuyển phần thứ hai của dòng
trong phiên bản của Togmey-zangpo, "Bằng việc xua đuổi một thứ như
(sự chịu đựng) tất cả phiền trách và hành thiền với lòng ân cần rộng lớn đến
mọi người," đến phần trước liên hệ đến những bất lợi của việc tự yêu mến
và những thuận lợi của việc yêu mến người khác. Phiên bản của Pabongka theo
trật tự của Namkapel]
Bất chấp loại rắc rối
gì mà chúng ta có thể có, cho dù vật chất hay tinh thần, thật lợi ích để cố
gắng gánh vác rắc rối của mọi người vào trong sự phổ quát đặc thù ấy và nghĩ,
"Nguyện cho điều này đầy đủ cho mọi người; qua sự khổ đau của tôi, nguyện
cho không ai khác phải đau khổ như thế này một lần nữa." Chúng ta có thể nhìn
vào những khó khăn đã xảy ra cho chúng ta như là kết quả của những tiềm lực
tiêu cực mà chính chúng ta đã xây đắp trong quá khứ, chứ không phải đến từ một
nguyên nhân bên ngoài nào đó. Bây giờ chúng đang chín muồi, thì chúng ta có thể
vui mừng vì chúng ta đang thoát khỏi nó, và cầu mong những tiềm năng tiêu cực
của mọi người cũng chín muồi trong chúng ta. Vì vậy, mọi người sẽ thoát khỏi
hiểm họa có thể trải nghiệm khổ đau ấy như một kết quả của tiềm lực tiêu cực.
Khi chúng ta trải
nghiệm những điều kiện và hoàn cảnh hạnh phúc, thì chúng ta có thể thấy rằng
đây là kết quả của những tiềm lực tích cực mà chúng ta đã xây đắp trong quá khứ
và tùy hỉ trong đấy, nghĩ, "Tôi phải xây đắp thậm chí nhiều tiềm lực tích
cực hơn vì thế trong tương lai sẽ có những hoàn cảnh có lợi cho chính tôi và
người khác." Thật quan trọng để không rơi vào tự hào hay kiêu hảnh, hay
khoe khoang khi mọi thứ diễn tiến tốt đẹp cho chúng ta. Thay vì thế, nó có thể
động viên chúng ta xây dựng thậm chí nhiều tiềm lực tích cực hơn vì thế chúng ta
sẽ không làm rỗng không kho tàng của chúng ta. Đây là vấn đề chúng ta thay đổi
những điều kiện tiêu cực bằng những thứ tích cực như thế nào với những tư tưởng
của chúng ta.
[Namkape giản lược dòng kế tiếp từ phiên bản của Togmey-zangp liên
hệ đến vấn đề làm thế nào để chuyển hóa những nghịch cảnh với tư tưởng của
chúng ta liên hệ đến quan điểm của chúng ta, "Tánh không, từ việc hành
thiền trên những hiện tướng lừa dối như 4 thân Phật, là sự bảo hộ vô
song." Pabongka cũng lược giản dòng này. Thay vì thế, Namkapel cũng như
Pabongka thêm vào dòng, "và lập tức áp dụng thiền tập bất cứ điều gì tôi
có thể ngẫu nhiên gặp," đến cuối của sự thảo luận về "Khi môi trường
và cư dân của nó đầy những năng lực tiêu cực, hãy chuyển hóa nghịch cảnh thành
con đường tu tập đến Giác Ngộ." Trong phiên bản của Togmey-zangpo,
dòng ấy, "và lập tức áp dụng thiền tập bất cứ điều gì tôi có thể ngẫu nhiên gặp," theo dòng kế trong
phiên bản của Namkapel, "phương pháp siêu việt đưa đến việc sử dụng 4 hành
động."]
Điểm thứ hai chỉ cho chúng
ta vấn đề chuyển hóa nghịch cảnh thành những thứ tích cực với 4 loại hành động
được sử dụng:
*Hành động thứ nhất là
để xây đắp thêm năng lực tích cực. Bất chấp những hoàn cảnh tiêu cực khó khăn như
thế nào sinh khởi, điều này truyền năng lực cho chúng ta để xây đắp thêm những
tiềm lực tích cực vì thế không phải chúng ta hay bất cứ người nào khác sẽ phải
trải nghiệm những hoàn cảnh khó khăn như vậy nữa. Chúng ta thực hiện cúng dường
hướng lên chư Phật và những bậc Giác Ngộ, và bố thí hướng xuống tất cả những
chúng sanh - cúng dường bố thí bất cứ thứ gì trong phạm vi chúng ta có thể.
Trong cách này, chúng ta xây đắp thêm năng lực tích cực. Cho nên đây là hành
động thứ nhất cho việc chuyển hóa những hoàn cảnh tiêu cực thành những thứ tích
cực là muốn tất cả truyền cảm hứng cho chúng ta làm điều gì đấy tích cực.
* Hành động thứ 2 là tự tịnh hóa tiềm lực tiêu cực của chúng ta. Chúng ta
làm điều này bằng việc thừa nhận một cách công khai những sai lầm chúng ta đã
phạm phải và bằng việc áp dụng nhiều năng lực đối trị khác nhau, một cách chính
yếu những cảm giác về ăn năn và sám hối. Ngay cả nếu chúng ta đã xây đắp một
tiềm lực tiêu cực lớn lao, như Milarepa đã làm, nếu chúng ta cảm thấy sự hối
lỗi và ăn năn mạnh mẽ về việc ấy, nếu chúng ta thừa nhận một cách công khai về
những gì chúng ta đã làm là lỗi lầm và áp dụng những phương pháp đối trị thích
đáng, thì chúng ta có thể tự tịnh hóa chúng ta từ những tiềm lực tiêu cực ấy.
* Hành động thứ 3 là thực hiện những sự cúng
dường đến những linh thức tai hại. Nếu sự tổn hại đang đến với chúng ta và
chúng ta nghĩ nó đang đến từ những linh thức tai hại, thì chúng ta nên dâng
cúng cho họ từ ái và bi mẫn. Đôi khi có thể là những rắc rối của chúng ta đang
đến từ những linh thức tai hại này. Chúng ta gánh vác tất cả các rắc rối của
những linh thức tai hại này vào chính chúng ta, bởi vì họ chắc chắn đang ở
trong một hoàn cảnh rất khốn khó. Trong cách này chúng ta biến một hoàn cảnh
tiêu cực thành một hoàn cảnh tích cực.
* Hành động thứ 4 là thỉnh cầu sự tác động
Giác Ngộ của các vị Hộ Pháp. Chúng ta nhận ra rằng nhiều rắc rối khác nhau sinh
khởi chỉ là bản chất của vòng luân hồi. Cho nên chúng ta thỉnh cầu những vị hộ
pháp khác nhau vì những tác động Giác Ngộ của họ, để có thể điều khiển những
hoàn cảnh ấy và biến chúng thành những thứ tích cực cho sự tăng trưởng tâm linh
của chúng ta. Chúng ta thực hiện những thỉnh cầu chân thành đến các ngài từ
trái tim của chúng ta, để các ngài truyền cảm hứng để chúng ta có thể tăng
trưởng những nổ lực của chúng ta trong việc rèn luyện những thái độ của chúng
ta.
Tóm lại, bất chấp
những hoàn cảnh tiêu cực loại nào đi nữa mà chúng ta chạm trán, cho dù bên
ngoài hay bên trong, nếu chúng ta áp dụng những phương pháp đa dạng này, thì
chúng ta có thể biến chúng thành những hoàn cảnh tích cực cho sự tăng trưởng
của chúng ta.
Những điểm này cũng có
thể thấy trong Hướng Dẫn Lối Sống của Bồ
tát. Chúng ẩn chứa trong lời cầu nguyện vào cuối của luận điển, nơi chúng
ta nguyện, "Cho đến khi không gian
còn tồn tại và cho đến khi chúng sanh còn hiện hữu, tôi nguyện cũng hiện diện
đến lúc ấy, để xua tan khổ đau của chúng sanh."
III- Cô Đọng Sự Thực Hành Trong Một Kiếp Sống:
5 Năng Lực
[Dòng kế tiếp, "Tóm lại, thực chất tinh hoa của giáo huấn là áp
dụng 5 năng lực." Nó cũng xuất hiện kế tiếp trong cả phiên bản của
Togmey-zangpo và Pabongka.]
Có 5 năng lực cho việc
cô đọng sự thực hành trong một kiếp sống, được gọi là kiếp sống này. Năng lực
thứ nhất là mục tiêu mà chúng ta đặt phía trước chúng ta. Chúng ta nguyện ước,
"Tôi nguyện luôn luôn có thể phát tâm Giác Ngộ; tôi nguyện luôn luôn có
thể thực hành việc rèn luyện thái độ; tôi nguyện luôn luôn có thể phát triển
những phẩm chất tốt đẹp sẽ thật sự có thể cho tôi làm lợi ích cho tất cả những
người khác." Đặt phía trước sức mạnh của mục tiêu của chúng ta là giống
như thực hiện một sự chuẩn bị để làm đầy
đủ những nguyện ước này. Vậy thì chúng ta đặt phía trước mục tiêu: "Tôi sẽ
phát triển trong hướng tốt đẹp này. Bây giờ tôi có cơ hội để thực hành những sự
thực hành của cổ xe Đại Thừa rộng lớn này, tôi sẽ áp dụng tất cả mọi năng lực
của tôi và tất cả mọi năng lượng tích cực trong phương hướng này."
Để làm điều này mỗi
ngày, vào buổi sáng khi thức dậy, chúng ta nói, "Hôm nay thật là may mắn, tôi
đã thức dậy. Tôi vẫn sống! Tôi có một kiếp sống con người quý giá. Tôi sẽ không
lãng phí nó, mà sẽ sử dụng tất cả mọi năng lượng của kiếp sống quý giá này hôm
nay để phát triển tâm giác ngộ để đạt đến Giác Ngộ nhằm để làm lợi ích người
khác tối đa như có thể. Cho nên tôi sẽ có những tư tưởng ân cần đối với tất cả
mọi người. Tôi sẽ không sân hận hay có những tư tưởng xấu xí. Tối đa như tôi có
thể, tôi sẽ sử dụng tất cả mọi năng lượng của tôi để giúp đở người khác, để làm
lợi ích đến người khác."
Thật rất quan trọng để
có một sự thiết lập mục tiêu rất thực tiển này của chúng ta vào buổi sáng.
Giống như vậy vào buổi tối, chúng ta có thể thẩm tra những hành động của chúng
ta: "Tôi đã làm những gì hôm nay? Tôi đã là loại người nào hôm nay: tôi có
giúp đở người khác chứ hay tôi chỉ lợi dụng người khác vì những mục tiêu vị kỷ
của tôi? Tôi có sân hận chứ; tôi đã phát triển sự dính mắc chứ?" Chúng ta
cần thẩm tra một ngày của chúng ta một cách trung thực như vấn đề chúng ta thật
sự cư xử như thế nào và những loại thái độ nào chúng ta đã phát triển trong
ngày. Nếu chúng ta thấy rằng trong ngày ấy thực tế chúng ta là một người ân cần
và ấm ấp, thì chúng ta có thể tùy hỉ trong ấy, cảm thấy hạnh phúc và được cổ vũ.
Nhưng nếu chúng ta đã hành động trong một cung cách rất quấy rầy, chúng ta cần
cảm thấy hối hận về việc ấy, thừa nhận chúng ta đã hành động một cách sai lầm,
và thiết lập một mục tiêu rất mạnh mẽ: "Ngày mai, tôi sẽ không hành động
trong một thái độ tiêu cực như vậy nữa."
Nếu chúng ta làm điều
này mỗi ngày, thì chúng ta sẽ dần dần cải thiện và nghiên cứu để kéo dài nó
bằng việc quyết tâm để "hành động tốt" trong ngày, tháng và năm kế
tiếp. Chúng ta cũng có thể tự xây đắp mình, thí dụ, bằng việc đến với những
giáo huấn như thế này. Một mục tiêu mạnh mẽ có thể được thiết lập bằng việc
nghĩ, "Bây giờ tôi sẽ lắng nghe những giáo huấn về thái độ rèn luyện và tôi sẽ đem chúng vào trong thực hành tối
đa như tôi có thể."
Thứ 2 là năng lực của hạt giống trắng, là thứ chúng ta tạo nên
với lời cầu nguyện này: "Tôi nguyện đạt đến Giác Ngộ vì lợi ích của tất cả
chúng sanh." Điều này tái khẳng định sự hồi hướng của chúng ta đến sự Giác
Ngộ của chính chúng ta và đến tất cả mọi người khác.
Thứ 3 là năng lực của
việc loại bỏ ngay lập tức, có nghĩa là từ bỏ một cách hoàn toàn ngay lập tức,
những gì chúng ta đã thiết lập trong tâm thức chúng ta để từ bỏ: sự vị kỷ của
chúng ta, những thái độ phiền não của chúng ta, sự bận tâm vị kỷ của chúng ta,
sự chấp trước của chúng ta về một tự ngã được thiết lập thật sự (chấp ngã), và
v.v… Quyết định rằng chúng ta sẽ không để chính chúng ta ở dưới sự
tác động của những thái độ này, chúng ta nói, "Tôi sẽ không để chính tôi
trở thành tự hào, kiêu hảnh, hay vị kỷ; và nếu hoàn cảnh phát khởi mà trong ấy
tôi thấy tôi đang hành động thế ấy, tôi sẽ lập tức áp dụng những năng lực đối
trị."
Thứ tư là năng lực của
phát nguyện. Chúng ta phát nguyện, "Nguyện cho tôi luôn luôn có thể phát
triển một xu hướng tâm giác ngộ, nếu tôi đã phát triển nó, tôi nguyện mở rộng
nó thậm chí xa hơn." Chúng ta biết có một sự khác biệt giữa những lời cầu
nguyện: 1) Phát nguyện (cầu nguyện
ngưỡng vọng), 2) Hồi hướng (cầu nguyện hiến dâng). Lời phát nguyện là khi chúng
ta đơn giản mong ước điều gì đấy, là thứ liên hệ ở đây; và lời hồi hướng là khi
chúng ta sử dụng một đối tượng vật chất nào đó như căn bản và dâng hiến năng
lực tích cực từ việc cúng dường ấy cho việc đạt đến mục tiêu.
Thứ năm là năng lực
của thói quen. Chúng ta cần xây đắp, tối đa như có thể, thói quen luôn luôn
nghĩ trong những cung cách tích cực này. Thật là cực kỳ quan trọng khi chúng ta
tiếp cận bất cứ loại rèn luyện tâm linh nào mà chúng ta cố gắng xây đắp như một
thói quen lợi ích. Mọi thứ không xảy ra lập tức; nó là vấn đề của việc xây đắp gia
tăng một cách thuần thục, vì thế dần dần chúng ta thấy tâm thức và trái tim
chúng ta đi trong một phương hướng tích cực. Điều quan trọng là sự cố gắng bền
bĩ của chúng ta qua những thời gian cực kỳ lâu dài, không chỉ nghĩ việc thực
hành quyết tâm mạnh mẽ trong hàng tuần hay tháng mà thôi; như thế sẽ không
thành công. Thay vì thế chúng ta phải nghĩ từ kiếp này qua kiếp khác; để xây
đắp những tập quán tích cực này qua một thời gian lâu dài đáng kể, và trong
cách này, những tập quán ấy dần dần cải thiện. Bởi vì, từ thời vô thỉ, chúng ta
đã từng hành động dưới ảnh hưởng của các thái độ phiền não, và chúng ta đã từng
hành động trong một thái độ vô nguyên tắc mà không có bất cứ sự tự kiểm soát
nào, cho nên thật không dễ dàng để xóa bỏ những thói quen tiêu cực này. Nó đòi
hỏi nổ lực bền bĩ lâu dài để dần dần để đảo ngược xu hướng của vấn đề tâm thức
và trái tim của chúng ta hoạt động như thế nào và để đưa chúng vào một phương
hướng tích cực. Và cũng cần phải kiên nhẫn, để
nghĩ về lâu dài nhằm để tập tâm thức và trái tim của chúng ta quen với
những tập quán tích cực.
Nếu chúng ta tập trung
những năng lực thực hành mạnh mẽ của chúng ta chỉ qua một tuần hay một tháng,
khi chúng ta không tiến bộ thì chúng ta thì chúng ta sẽ chán nản. Điều này sẽ
rất tai hại về lâu dài đối với sự phát triển của chúng ta từ kiếp này đến kiếp
khác. Trái lại, nếu chúng ta nghĩ trong một thái độ thực tiển hơn của việc cải
thiện từ kiếp này sang kiếp khác, thì chúng ta sẽ không thất vọng hay có những
mong đợi vô lý, và vì thế chúng ta sẽ phát triển trong một thái độ có thể chứng
minh được.
Như Geshe Chaykawa nói,
"Tâm thức này đầy những lỗi lầm lại có một phẩm chất tuyệt vời lắm: tuy
vậy nó được rèn luyện, nên nó trở thành như thế." Nói cách khác, thật có
thể rèn luyện tâm thức chúng ta vì thế chúng ta có thể thay đổi những thói quen
của chúng ta và trở thành một người tốt đẹp hơn. Đây là phẩm chất to lớn của
tâm thức.
*Áp
dụng 5 năng lực vào thời điểm lâm chung
Điểm tiếp theo là giải
thích vấn đề chúng ta áp dụng 5 năng lực vào thời điểm lâm chung như thế nào.
[Đây là luận giải với những dòng, "Tinh hoa của giáo huấn chỏ sự
chuyển hóa tâm của Đại Thừa là 5 năng lực của chính chúng, trong khi đưa ra tầm
quan trọng của con đường ứng xử của tôi."]
1/ Năng lực của hạt giống trắng: Ở đây thứ
tự có hơi khác. Với sự lưu ý rằng chúng ta phải từ bỏ sự dính mắc với thân thể
chúng ta, thứ nhất là năng lực của hạt giống trắng. Điều này liên hệ đến sự suy
nghĩ lúc lâm chung, "Bây giờ vào lúc lâm chung của tôi, tôi tự tịnh hóa
tất cả những thứ tiêu cực mà tôi đã làm trong kiếp sống của tôi; tôi thừa nhận
tất cả những lỗi lầm và những việc làm sai trái mà tôi đã làm; và tôi bố thí
tất cả những tài sản của tôi."
Luận điển đã trích dẫn
từ Hướng Dẫn Lối Sống của Bồ tát về những kinh khủng của việc đối diện với cái
chết nếu chúng ta phải chết với sự ăn năn và hối hận vô vàn vì chúng ta đã
không chăm sóc những mối giao thiệp của chúng ta. Vì có thể chúng ta sẽ trải
nghiệm một sự sợ hãi kinh khiếp vào lúc lâm chung và áp dụng tất cả những năng
lực đối trị để tịnh hóa những tiềm lực tiêu cực mà chúng ta đã xây đắp. Nếu
chúng ta liên hệ trong sự thực tập mật tông, chúng ta thực hiện sự tự khai tâm
và làm mới những thệ nguyện của chúng ta. Chúng ta quan tâm đến tất cả những
tài sản của chúng ta bằng việc ban cho, với sự bố thí ba la mật, và chúng ta
làm việc này mà không dính mắc, trong một thái độ rất trong sạch. Đấy là năng
lực của hạt giống trắng.
2/ Năng lực của mục tiêu: kế tiếp là năng
lực của mục tiêu. Khi chúng ta sắp chết, chúng ta nghĩ, "Bất chấp còn bao
nhiêu giây phút mà tôi còn sống, tôi sẽ làm cho chúng lợi lạc trọn vẹn và tự
chuẩn bị hoàn toàn cho sự chết, vì thế nó sẽ tiến triển tốt đẹp hơn trong tương
lai."
3/ Năng lực từ bỏ ngay lập tức: tức là từ
bỏ việc xây đắp bất cứ năng lực nghiệp báo tiêu cực nào trong những kiếp sống
tương lai và quyết tâm rằng trong tất cả những kiếp sống tương lai chúng ta sẽ
chỉ đi theo những cung cách tích cực.
4/ Năng lực của phát nguyện: là phát nguyện
rằng trong tương lai chúng ta có thể tiếp tục với sự thực tập thái độ rèn luyện
này.
5/ Năng lực của thói quen: là củng cố, khi
chúng ta sắp chết, tập quán của chúng ta là suy nghĩ với một xu hướng của tâm
giác ngộ hay tâm bồ đề hay bodhicitta. Thêm nữa, việc quan tâm đến vấn đề chúng
ta có dáng dấp thế nào vào thời điểm sắp chết, thì chúng ta cần chết trong tư
thế của Đức Phật. Khi Đức Phật nhập niết bàn ở Câu Thi Na (Kushinagar), Ngài
thật sự làm như thế trong khi nằm nghiêng bên phải, trong tư thế của sư tử.
Chúng ta phát khởi tín tâm, niềm tin vững vàng và sự ngưỡng mộ to lớn với tâm
giác ngộ khi chúng ta chết, và chúng ta nghĩ, "Trong tất cả những kiếp sống của tôi, tôi nguyện luôn luôn phát
tâm bồ đề để đạt đến Giác Ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sanh" và luôn
luôn đặt mục tiêu này phía trước cho tất cả những kiếp sống tương lai khi chúng
ta chết.
Việc quán tưởng đón
nhận những khổ đau của kẻ khác và ban cho tất cả những niềm hạnh phúc của chúng
ta trong sự phối hợp với hơi thở là cách tốt nhất để qua đời. Liên hệ đến
phương pháp powa hay chuyển hóa thần
thức Geshe Chaykawa nói, "Có nhiều giáo huấn tinh hoa thánh thiện rộng lớn
cho việc chuyển hóa thần thức, nhưng trong tất cả chúng, không có việc gì kỳ
diệu hơn sự thực tập (cho và nhận) này."
Thật cực kỳ quan trọng
để chết với một thể trạng xây dựng và tích cực của tâm thức. Một số người trong
chúng ta có thể phải đối diện với nổi đau kinh khiếp vào lúc ấy và uống thuốc
giảm đau, như vậy làm cho tâm không sáng suốt. Nếu chúng ta có thể tránh việc
ấy, thật tốt hơn để chết với một thể trạng trong sáng của tâm thức. Nếu chúng
ta không thể tránh nó, đó là vấn đề khác, nhưng tốt nhất là không chết với một
tâm thức đầy thuốc men.
IV- Lượng Định Thái Độ Rèn Luyện Của Chúng
Ta
[Trong phiên bản
của Namkapel và Pabongka, phần này xuất hiện như sau, "Tôi tập hợp tất của
giáo Pháp vào trong một mục tiêu; từ 2 chứng nhân, tôi lấy (chính tôi như)
chính yếu; và tôi nương tựa liên tục vào hạnh phúc tinh thần mà thôi. Nhưng sự
lượng định (thật sự) của việc rèn luyện là (thái độ của tôi) được thay đổi hoàn
toàn. Có 5 dấu hiệu lớn của việc trở thành được rèn luyện; cho nên nếu tôi có
thể, ngay cả khi đang bị xao lãng, rồi thì tôi sẽ trở thành được rèn luyện."
3 dòng đầu được xem như là những dấu hiệu mà chúng ta đã rèn luyện thái độ của
chúng ta. Trong phiên bản sớm hơn của Togmey-zangpo, những dòng, "Nhưng sự
lượng định (thật sự) của việc được rèn luyện là (thái độ của tôi) được thay đổi
hoàn toàn. Có 5 dấu hiệu lớn của việc được rèn luyện," không xuất hiện, và
3 dòng đầu và dòng cuối tất cả được bao gồm như sự lượng định của việc được rèn
luyện thái độ của chúng ta.]
Bình luận đối với luận điển nói rằng nếu chúng ta đã
rèn luyện thái độ của chúng ta đối với kiếp sống này với những tư tưởng về vô
thường, rồi thì bất chấp những gì chúng ta thấy xuyên qua cuộc sống, chúng ta sẽ
thấy rằng nó là vô thường, rằng nó sẽ qua đi. Giống như thế, nếu chúng ta đã
rèn luyện tâm thức chúng ta để nghĩ về những bất lợi của sự vị kỷ, dấu hiệu của
việc đã hoàn tất điều này là trong bất cứ luận điển nào đã đọc, trong bất cứ
hành vi nào chúng ta gặp phải ngẫu nhiên mà trong ấy chúng ta thấy nhiều lỗi lầm
khác nhau được diễn tả, thì chúng ta sẽ nhận ra những lỗi lầm này và cảm thấy rằng
tất cả chúng đã được phát sinh qua sự vị kỷ của chúng ta. Nếu chúng ta luôn
luôn có thể nhận ra những sự tiêu cực mà chúng ta thấy như sinh ra từ sự vị kỷ của chính chúng ta, thì đó là một dấu hiệu
mà chúng ta đã thành công trong việc rèn luyện tâm thức chúng ta với những
phương pháp này.
Như Bảy Điểm
Rèn Luyện Thái Độ nói với chúng ta, chúng ta cần lấy chính chúng ta như chứng
nhân chính yếu. Chúng ta là những chứng nhân tuyệt vời nhất đối với vấn đề tâm
thức chúng ta đang làm việc như thế nào, không phải những người khác chứng kiến
và phán xét những gì chúng ta đang làm. Nếu người khác phải phục vụ như những
chứng nhân để chứng thực đối với những việc tâm linh và tôn giáo mà chúng ta
làm, thì có một hiểm họa lớn rằng chúng ta chỉ đang đưa lên một sự phô trương lớn
nhằm để cho người khác nghĩ rằng chúng ta là một hành giả tâm linh tuyệt vời
như vậy. Đúng hơn, toàn bộ vấn đề là chúng ta làm tất cả những việc rèn luyện
này một cách nội tại; chúng ta là chứng nhân chính đối với vấn đề chúng ta có
trở thành một người ân cần hơn và tốt đẹp hơn hay không.
Chúng ta có thể thêm vào ở đây những trích dẫn xa
hơn, một cách chính yếu từ những Kadam gheshe: "Khi chúng ta thấy bất cứ lỗi
lầm nào, hãy thấy nó như là của chính chúng ta." "Nếu chúng ta thấy bất
cứ hoàn cảnh tiêu cực nào mà chúng ta gặp phải như nó đang sinh khởi từ sự vị kỷ
của chính chúng ta, đây là một dấu hiệu mà chúng ta đã thành công trong việc
rèn luyện thái độ của chúng ta." Vấn đề chính ở đây là luôn luôn chính niệm,
để nghĩ về những thuận lợi của việc yêu mến người khác và những bất lợi của việc
quan tâm vị kỷ."
Lượng định thật sự của việc rèn luyện thái độ của
chúng ta là, trước đó, chúng ta luôn luôn tảng lờ người khác và chỉ nghĩ về
chính chúng ta mà thôi; nhưng nếu bây giờ chúng ta thấy rằng điều này đã hoàn
toàn thay đổi, rằng chúng ta luôn luôn quên những mục tiêu vị kỷ của chính mình
trong khi lại nghĩ về những người khác, đây là dấu hiệu lớn rằng chúng ta đã
thành công.
Có 5 loại "đại nhân" mà chúng ta cần chứng
thực rằng chúng ta đã trở thành:
* Đại tâm nhân - người với trái tim rộng lớn - người
nào đó luôn luôn đặt mọi nổ lực để nghĩ về người khác và phát tâm giác ngộ hay
tâm bồ đề hay bodhicitta.
* Đại tu tập nhân - người rèn luyện trong thái độ
xây dựng - người nào đó luôn luôn đặt nổ lực trong 10 ba la mật và trong thái độ
xây dựng.
* Đại nhẫn nhục nhân - người có thể chịu đựng những
khó khăn - người nào đó có thể chịu đựng tất cả những khó khăn để chiến thắng
trận chiến chống lại những thái độ và cảm xúc phiền não của chính người ấy.
* Đại trì giới nhân - người giữ gìn nguyên tắc - người
nào đó luôn luôn giữ gìn tất cả những sự tự chủ của thệ nguyện.
* Đại du già nhân - người nào đó được ràng buộc với
điều thật sự hiện thời: được gọi là tâm giác ngộ hay tâm bồ đề hay bodhicitta.
[10 ba la mật là: 1/Bố thí, 2/ Trì giới, 3/Nhẫn nhục, 4/Tinh tấn, 5/ Thiền định, 6/Tuệ
giác, 7/Thiện xảo,8/ Phát nguyện, 9/Năng lực, 10/Trí giác.]
Nếu chúng ta mong muốn thẩm tra chúng ta có thật sự
rèn luyện thái độ của chúng ta hay không, thì chúng ta không thể hạn chế có
lòng đại từ cho người khác với những lúc chúng ta thật sự ngồi xuống và hành
thiền về những điểm này. Đúng hơn, trong
đời sống hàng ngày khi người nào đấy đến bên ta và phê phán ta, hay việc gì đó
có thể làm tổn thương ta và v.v…, thế thì nếu chúng ta quán sát vấn đề chúng ta
phản ứng thế nào, thì chúng ta có thể thật sự thẩm tra tiến trình nào chúng ta
thật sự thực hiện.
VI-
Những Thệ Nguyện Cho Sự Rèn Luyện
Có những truyền thống khác nhau về vấn đề điều thứ
sáu này trong 7 điểm rèn luyện được trình bày. Phiên bản này tôi đang sử dụng
luận điển của Namkapel có 16 thệ nguyện, mặc dù một số bản khác có đến 18 thệ
nguyện.
[Trong truyền
thống luận giải bản của Namkapel mà Đức Thánh Thiện đang giảng, nếu thệ nguyện
thứ nhất, "hãy rèn luyện luôn luôn trong 3 điểm phổ thông," được xem
như 3 thực tập, thế thì bản liệt kê này cũng có 18 thệ nguyện. Bản liệt kê này,
như được Đức Thánh Thiện giảng giải, theo bản 18 thệ nguyện được thấy trong cả
bản của Togmey-zangpo và Pabongka editions trong tài liệu gốc của Geshe
Chaykawa.]
(1) Luôn
luôn rèn luyện trong 3 điểm phổ quát. Điểm phổ quát đầu tiên là "Đừng
mâu thuẩn với những gì tôi đã hứa nguyện liên quan đến việc rèn luyện những
thái độ của tôi." Chúng ta làm điều này bằng việc tuân theo đạo đức kỷ luật
tự giác, tránh làm mười hành vi bất thiện và v.v… Thái độ như vậy mâu thuẩn với
việc rèn luyện những thái độ của tôi. Từ lúc khởi đầu của việc thực tập lên đến
tận cùng của đại mật điển Bí Mật Tập Hội, chúng ta sẽ không bỏ đi bất cứ sự thực
tập nào trong ấy, vì như thế là mâu thuẩn với chí nguyện mà chúng ta đã hứa.
(2) Hãy
chuyển hóa những mục tiêu của tôi, nhưng hãy duy trì bình thường. Nói
cách khác, chúng ta vẫn duy trì bình thường trong hiện hướng của chúng ta và vấn
đề chúng ta hành động như thế nào trong dạng thức phù hợp với xã hội bên ngoài,
nhưng thay đổi các thái độ của chúng ta. Nói cách khác, chúng ta không cần có
những ý tưởng kỳ lạ về chính chúng ta. Thí dụ, nếu chúng ta đang rèn luyện các
thái độ của chúng ta, làm loại thực tập này, chúng ta không đi ra bên ngoài và
làm bất cứ điều gì ta muốn. Như luôn được nói, bên trong chúng ta phải tuân
theo tất cả những sự thực tập tâm linh, nhưng bên ngoài hãy hành động trong một
thái độ phù thích ứng và hòa hiệp với môi trường và xã hội mà chúng ta đang sống.
Chúng ta không thể hành động trong một thái độ quá đáng. Nhiều người từng nói
điều này, kể cả những đại lạt ma, Tông Khách Ba và Gungtangzang.
(3) Đừng
nói thiếu hay giảm giá trị của người khác. Nói cách khác, chúng ta
không đi quanh chỉ trích người khác và quan tâm đến những trình độ thành tựu của
người khác. Thông thường chúng ta không thể thấy bất cứ những phẩm chất tốt đẹp
nào trong những người khác, tuy thế nếu họ có một chút lỗi lầm nho nhỏ nào,
chúng ta lại thấy nó to như một con diều hâu. Đó là điểm về việc không nói làm
giảm giá trị của người khác.
(4) Đừng
nghĩ bất cứ điều gì về những lỗi lầm của người khác. Chúng ta cần để
qua một bên việc trú ngụ trong tâm thức chúng ta hay suy nghĩ và phản chiếu về
những lỗi lầm của người khác.
Liên hệ đến những điểm đầu tiên này, thật hữu ích để
rèn luyện chúng một cách đặc biệt với sự tôn trọng đến 5 loại người để qua một
bên và chỉ ra một cách cẩn thận đặc biệt với:
* Những người
ân cần nhất với chúng ta. Thật thiết yếu để không phát triển sân hận đối với
những người ân cần tử tế nhất đối với chúng ta và những ai đáng giá nhất để tôn
kính: Tam bảo, các vị hướng dẫn tâm linh của ta, cha mẹ ta, và v.v…, như điều
này là rất quan trọng.
* Những thành
viên trong ngôi nhà ta và những ai ta tương tác hàng ngày. Điều này liên hệ
đến việc đặc biệt cẩn thận về gia đình ta và những ai ta chung sống. Rất thông
thường, chúng ta nói, "Nguyện cho tất cả chúng sanh được hạnh phúc; nguyện
cho tôi làm việc vì lợi ích của tất cả chúng sanh." Tuy thế, chúng ta có
khuynh hướng nghĩ về những chúng sanh này như rất xa xôi đối với chúng ta, và
khi đi đến những người ta thật sự sống chung - gia đình, những cộng sự gần gũi
- thì chúng ta không thể ứng dụng nguyện vọng vị tha này một cách thực tiển. Điều
này là hoàn toàn sai. Chúng ta cần áp dụng hoàn toàn năng lượng của chúng ta
không chỉ một cách lý thuyết về "những chúng sanh" mơ hồ, mà cũng là
những người chúng ta tương tác hàng ngày, kể cả những người hàng xóm và những người chúng ta thấy
khá khó chịu. Những lời cầu nguyện của chúng ta cần cực kỳ thực tiển, như đi
trên mặt đất trong việc đối phó với những tình huống chung quanh chúng ta.
"Tất cả chúng sanh" không là nhưng khái niệm xa vời; chúng ta cần
liên hệ một cách trực tiếp.
* Những người
tranh đua với chúng ta, cho dù là cư sĩ
hay tu sĩ. Chúng ta cần đặt nổ lực đặc biệt trong việc đối phó với
những người tranh đua với chúng ta và
ganh tỵ với chúng ta, vì có một hiểm họa lớn rằng chúng ta sẽ phát triền sự thù
địch đối với họ và tự yêu mến đối với chính mình. Cho nên thật quan trọng để thực
hiện những nổ lực để rèn luyện những thái độ của chúng ta liên hệ với họ.
* Những người
mạ lị chúng ta, mặc dù chúng ta không làm gì tổn hại họ. Điều này liên hệ đến
những người thay vì biểu lộ bất cứ sự cảm kích nào đó khi chúng ta đã làm điều
gì đó dễ thương cho họ, lại mạ lị và nói những lời lẽ thô tục về chúng ta. Một
cách thông thường, chúng ta cảm thấy rất phiền não và mong đợi họ hành động một
cách thích đáng đối với chúng ta. Đó là khi chúng ta cần thực hiện những nổ lực
đặc biệt không sân hận và tiếp tục với sự
rèn luyện các thái độ của chúng ta.
* Những người,
chúng ta chỉ mới thấy họ lần đầu hay chỉ mới nghe tên của họ, chúng ta đã không
thích và cảm thấy ghét bỏ. Chúng ta cần phải đặc biệt cẩn thận về những người
mà đối với họ chúng ta cảm thấy ghét bỏ và, chúng ta cũng có thể bao gồm ở đây,
những người rất hấp dẫn. Thí dụ, chúng ta
ngẫu nhiên đi ngang qua những người mà đối với họ chúng ta lập tức cảm
thấy rất thù ghét hay vô cùng hấp dẫn. Trong những trường hợp như vậy thật quan
trọng để thật chính niệm để không bị ở dưới sự tác động của sự tham muốn, thù địch
hay gớm ghét lâu dài.
Một số người trong chúng ta, khi mọi thứ diễn tiến tốt
đẹp, thì hành động như những người tôn giáo. Nhưng khi mọi thứ không tốt đẹp,
chúng ta trở lại những cung cách trần tục. Như quý vị biết, phong tục của chúng
ta là đi nhiễu, mang một xâu chuỗi hay một bánh xe cầu nguyện. Một lần, người
nào đó đang đi nhiễu, mang một bánh xe cầu nguyện, khi người khác đến gần và hỏi,
"Bạn đang là gì thế?" Người ấy nói, "Tôi đang thực hành Phật Pháp." Khi hỏi,
"Bạn đang làm điều gì đặc biệt thế?" người ấy trả lời, "Tôi đang
xây đắp thói quen của nhẫn nại." Người kia kêu lên, "Ăn cứt!" và
người ấy thay vì thiền quán trong nhẫn nhục lại biến thành giận dữ! Người ấy chỉ
biểu diễn là người tôn giáo, đi nhiễu. Trong tim người ấy, người ấy đã không
thay đổi bất cứ gì.
(5) Tịnh
hóa chính tôi trước tiên về bất cứ việc gì làm quấy nhiễu cảm xúc là điều vĩ đại
nhất của tôi. Chúng ta cần đối phó với những thái độ phiền não nhất của
chúng ta, nhưng không phải từng phần đối với một số và không với một số khác.
Khi đối phó với những thái độ phiền não, chúng ta cần từ bỏ chính chúng ta với
tất cả những chướng ngại cảm xúc ngăn trở sự giải thoát. Nhằm để làm việc
đó, có nghĩa là tự lìa bỏ tất cả những
thái độ phiền não, không phải là một số mà thôi.
Như được nói trong luận điển, chúng ta phải thúc đẩy
chính chúng ta từ bỏ những thái độ phiền não và những thói quen xấu, và luôn
luôn quan tâm dến người khác. Chúng ta làm điều này qua lắng nghe, suy nghĩ, và
thiền quán về ba biện pháp này, và xây đắp những thói quen tích cực của tâm thức.
Và chúng ta phải thúc đẩy chính chúng ta từ bỏ việc chấp trước và yêu mến
"tự ngã" của chúng ta, và không chán nản. Cho nên chúng ta thật sự cần
thiết lập tâm thức chúng ta thật mạnh mẽ:
không tự cho phép mình bị ở dưới ảnh hưởng của những thái độ phiền não mà chúng
ta đã từng bị trong quá khứ và không để bất cứ hoàn cảnh nào lôi kéo chúng ta
khỏi mục tiêu này.
(6) Giải thoát
chính mình khỏi những hy vọng vì lợi lạc. Chúng ta không rèn luyện tâm
thức và thay đổi những thái độ của chúng ta để mọi người sẽ yêu mến chúng ta.
Chúng ta cũng không đang tìm kiếm để đạt được một loại tiếng tăm hay phần thưởng
nào đó như một đại hành giả tâm linh tôn giáo. Đúng hơn, chúng ta đang thay đổi
thái độ của chúng ta chỉ đơn thuần vì mục tiêu để có thể hổ trợ người khác.
Chúng ta nguyện ước đạt đến Giác Ngộ vì lợi ích của người khác, không phải vì lợi
lạc của chính chúng ta.
(7) Từ bỏ
những thực phẩm độc hại. Điều này có nghĩa là chúng ta dễ dàng đầu độc
sự thực tập của chúng ta với những tư tưởng vị kỷ và tự yêu mến. Chúng ta thực
hiện nhiều sự thực tập khác nhau, đọc lời cầu nguyện, hành thiền, đọc và học hỏi
kinh luận, nhưng mặc dù chúng ta nói là đang làm việc này vì lợi ích của tất cả
các chúng sanh, thì có thể đầu độc toàn bộ sự thực tập này bằng việc thực hiện
nó, như nói, để trở thành nổi tiếng như một đại học giả. Việc sử dụng nó cho việc
thành tựu trong kiếp sống này, tự do khỏi bệnh tật, sống trường thọ, và v.v… -
những thứ hoàn tất chỉ đơn thuần làm lợi lạc cho chính chúng ta, không phải cho
người khác - việc này không thể. Như vậy giống như đang ăn thực phẩm độc hại:
nó chỉ làm cho chúng ta gia tăng sự tự yêu mến.
(8) Đừng
nương (vào những tư tưởng phiền não của tôi) như trụ cột chính yếu của tôi. Điều
này có 2 sự diễn giải khác nhau. Trong một số luận giải nó có nghĩa là không
cho phép con đường chính trong tâm thức chúng ta đưa lối vào hướng của những
thái độ phiền não. Theo một số luận giải khác, điều này có nghĩa là khi chúng
ta thấy người nào đó, tâm thức chúng ta nói chung đi thẳng đến người đó, giống
như trên một đường lớn. Sự diễn giải thứ hai này, như được giải thích trong những
luận giải này, đó là, thí dụ, khi người nào đó khó chịu với chúng ta, thì chúng
ta không nên để tâm thức chúng ta đi thẳng đến người đó chắc chắn là hơi dễ
dàng hơn để hiểu, rằng chúng ta cần tránh để phương hướng chính của tâm thức
chúng ta dẫn đến những thái độ phiền não.
(9) Đừng
lao vào chơi xấu. Điều này là sự trả thù, gọi người khác bằng tên xấu
khi họ gọi tên chúng ta, hay trả đủa người khác.
(10) Đừng nằm
phục kích. Như những kẻ cướp nằm đợi chờ bên cạnh con đường để mai phục
một đoàn người buôn, giống như thế chúng ta không cần phải nằm chờ đợi người
nào đó làm một lỗi lầm hay hành động một cách không thích đáng, nhằm để nhảy bổ
vào họ hay buộc tội họ. Nếu chúng ta là
người tốt, thì dễ dàng tốt với những ai lịch sự dễ thương với chúng ta,
nhưng là thứ khó khăn thì đó là sự thẩm
tra thật sự.
(11) Đừng hạ
người nào đó xuống về một điểm nhạy cảm. Điều ày nhắc nhở chúng ta đừng
chỉ những lỗi lầm của người trước những người khác.
(12) Đừng đặt
hàng hóa nặng của một con dzo trên một con bò. Dzo là một con thú rất lớn
- giữa một con yak và một con bò - nói cách khác, chúng ta không bao giờ đổ thừa
những người khác cho những thứ mà chúng ta có thể đã tự làm. Thay vì đặt gánh nặng
lên người nào đó có ít khả năng để gánh vác nó, thì chính chúng ta có thể lãnh
toàn bộ trách nhiệm.
(13) Đừng
làm một cuộc chạy đua. Điều này
có nghĩa là chúng ta không cần luôn luôn phải đẩy chính mình ra phía trước hay
cố gắng để lấy điểm cho tất cả những việc làm tốt đẹp đã từng xảy ra.
(14) Đừng đảo
ngược lá bùa. Khi chúng ta giữ một lá bùa hay một linh phù, để xua đuổi
những linh thức, thì chúng ta sẽ cầm nó quay ra phía ngoài. Giống như thế, khi
chúng ta rèn luyện tâm thức, là để yêu mến người khác. Nhưng nếu chúng ta làm
nó chỉ vì sự tự phụ, nó giống như cầm ngược một lá bùa.
(15) Đừng biến
một vị thiên thần xuống thành quỷ dữ. Điều này có nghĩa là làm mọi việc chỉ làm thích sự tự yêu
mến của chúng ta. Thí dụ, đôi khi người ta sẽ chỉ trích một người khác chỉ để
có được sự ca ngợi hay để ở trên những người khác.
(16) Đừng
tìm kiếm khổ đau (cho người khác) như điều thêm vào cho niềm hạnh phúc (của ta). Tóm lại, thật
quan trọng để có một mục tiêu thích đáng trước khi làm bất cứ việc gì - để bảo
đảm là nó vì lợi ích của tất cả mọi người.
Đây là tại sao, vào lúc khởi đầu của việc trì tụng và cầu nguyện, chúng ta luôn
luôn thiết lập mục tiêu và lúc cuối chúng ta hồi hướng năng lực tích cực.
VI-
Những Điểm Để Rèn Luyện Cho Việc Tịnh Hóa Những Thái Độ Của Chúng Ta
(1) Thực
hành tất cả các yoga với một [mục
tiêu]. Điểm này nhắc nhở chúng ta rằng
chúng ta cần thực hiện tất cả các hành vi của chúng ta với mục đích làm lợi ích
cho tất cả mọi người.
(2) Thực
hành sự dập tắt với tất cả những gì bị bóp méo với một[sự thực hành].
Nói cách khác, chúng ta cần cố gắng loại trừ tất cả những thái độ và cảm xúc
phiền não của chúng ta với một sự thực hành - cho và nhận.
(3) Vào lúc
khởi đầu và kết thúc, hãy có 2 hành động. Điều này liên hệ đến những gì
chúng ta đã thảo luận trước đây. Nó có nghĩa là (a) tạo ra một mục tiêu mạnh mẽ
vào khởi đầu mỗi ngày và (b) hồi hướng năng lực tích cực vào lúc kết thúc.
Đây là loại việc làm mà tự tôi thực hành hàng ngày,
thiết lập một mục tiêu mạnh mẽ mà mọi việc tôi làm thực sự có thể làm lợi ích
cho tất cả chúng sanh. Một cách đặc biệt hơn, đối với người Tây Tạng ở quê
hương Tuyết Sơn, xứ sở của tôi, những người đau khổ rất nhiều khó khăn, tôi hồi
hướng chính tôi hoàn toàn đến họ. Sau đó, vào cuối ngày, tôi hồi hướng bất cứ
năng lực tích cực nào đã được xây đắp bằng những hành vi của tôi đối với việc
hoàn thành lời cầu nguyện ấy.
(4) Bất cứ
điều gì của hai việc ấy xảy ra, hãy hành động một cách kiên nhẫn áp dụng (a) cho sự hạnh phúc của chúng ta đến người
khác khi mọi việc xảy ra tốt đẹp với chúng ta và (b) gánh vác sự khổ đau của họ
khi sự việc xảy ra một cách khốn khó, mà không chán nản. Thật quan trọng để có
lòng can đảm lớn trong những việc thực hành này ban cho hạnh phúc của chúng ta
và đón nhận rắc rối của người khác. Nếu chúng ta hoan hỉ, chúng ta có thể nghĩ,
"Đây là kết quả của những tiềm lực tích cực mà tôi đã xây đắp trong quá khứ."
Chúng ta không thể chỉ nghĩ, "Tôi thật là tuyệt với thế nào ấy!" khi
trải nghiệm niềm hạnh phúc này; mà thay vì thế, hướng lời cẩu nguyện của chúng
ta đến mọi người nguyện cầu tất cả có thể
đạt đến hạnh phúc mà chúng ta có; rằng mọi người có thể hưởng thụ hoàn cảnh tốt
đẹp này mà chúng ta đang có.
Thật cực kỳ quan trọng để đặt nổ lực đặc biệt vào
trong việc có thể chịu đựng những hoàn cảnh khó khăn. Như Tịch Thiên nói trong Hướng Dẫn Lối Sống của Bồ tát, một cách
đặc biệt khi chúng ta bệnh hoạn hay trong những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn hay
đau đớn, chúng ta cần đặt nổ lực đặc biệt vào trong việc có thể chịu đựng và
chuyển hóa nó vào trong con đường [tu tập]. Cũng thế, trong những tình cảnh khi
chúng ta rất thành công và mọi việc diễn ra hầu như quá tốt đẹp, thì thật đặc
biệt quan trọng là phải rất cẩn thận là không phát triển sự tự hào.
(5) Bảo vệ
hai thứ ở cái giá của đời sống của tôi. Hai thứ này là (a) những hướng
dẫn thực hành Phật Pháp trong phổ quát và, một cách đặc biệt (b) những thệ nguyện
cho việc rèn luyện những thái độ của chúng ta.
(6) Hãy rèn
luyện trong 3 điều khó khăn liên hệ đến (a) hãy chính niệm về những
năng lực đối trị là gì để chạm trán với những thái độ phiền não, (b) hãy chính
niệm để áp dụng những năng lực đối trị này và (c) vẫn chính niệm để duy trì
chúng. Cho nên, ngay khi những thái độ hay cảm xúc phiền não sinh khởi, chúng
ta cần nhớ những năng lực đối trị là gì cho việc xoay chiều chúng. Nhưng chúng
ta phải không chỉ nhớ những sự đối trị này là gì, mà chúng ta cần phái áp dụng
chúng ngay lập tức và rối vẫn chính niệm về áp dụng chúng để cắt đứt sự tương tục
của thái độ phiền não.
Như Dromtonpa giải thích, một cách khác để rèn luyện
khi điều gì đó khó khăn xảy ra là cảm thấy
rằng chúng ta đã thoát khỏi một cách nhẹ nhàng và rất may mắn - [hơn là] điều
gì đó tệ hại hơn có thể xảy ra. Nếu ai đó gọi ta bằng một tên xấu, chúng ta cảm
thấy rằng chúng ta đã thoát khỏi một cách nhẹ nhàng - chúng ta đã cạn hết nghiệp
chướng mà một đám đông có thể chỉ trích ta. Nếu chúng ta đau khổ vì một căn bệnh,
chúng ta đã may mắn, khi chúng ta có thể có một tai nạn hay thảm họa nghiêm trọng
hơn nhiều. Điều tương tự xảy ra nếu chúng ta bị bỏ tù hay bị trừng phạt trong một
cách nào đó - chúng ta đã thoát khỏi một cách dễ dàng đối với việc phải chịu đựng
điều gì đó tệ hại hơn chẳng hạn như rơi vào một sự tái sanh tệ hại.
Chúng ta không cần phải nghĩ về những thứ này như điều
gì đó chúng ta chỉ làm trong những buổi ngồi thiền khi mọi thứ đang diễn ra một
cách tốt đẹp và chúng ta không bị kích động. Chúng ta cần áp dụng tất cả những
sự rèn luyện thái độ này tới những hoàn cảnh khó khăn hơn. Nếu chúng ta đặt nổ
lực vào trong việc hồi hướng trái tim của chúng ta cho người khác, tất cả chúng
sanh, qua việc phát tâm giác ngộ hay tâm bồ đề hay bodhicitta, tiếp nhận những
thệ nguyện hay giới Bồ tát, và v.v…, thế thì bất chấp điều gì chúng ta làm, cho
dù ăn, ngủ, hay uống, năng lực tích cực luôn luôn bảo vệ xu hướng tâm giác ngộ
của chúng ta sẽ gia tăng. Rèn luyện trong cách này, chúng ta đang hướng mọi thứ
vào những nguyên nhân cho việc thực hiện xa hơn tiến trình hổ trợ người khác.
Một trong những Kadam Geshes, Geshe Chaykawa,
đã rất buồn lòng khi ngài sắp chết và yêu cầu những đệ tử của ngài thiết lập những
sự cúng dường đặc biệt. Những đệ tử tò mò và hỏi ngài, "Bạch sư phụ, sư phụ
đã thực hành vô cùng tốt đẹp trong cả cuộc đời, bây giờ tại sao sư phụ lại buồn
rằng sư phụ sắp viên tịch?" Ngài trả lời, "Ta buồn bởi vì cả đời, ta
đã thực hiện những lời cầu nguyện mạnh mẽ để tái sanh trong những thế giới khổ
đau nhằm để có thể gánh vác mọi khổ đau của chúng sanh, và bây giờ vào lúc sắp
chết thì ta có thể thấy những dấu hiệu thay vì tái sanh vào trong một địa ngục
như lời nguyện cầu và mong ước của ta, thì ta sẽ bị tái sanh vào trong một thế
giới thanh tịnh của chư thiên. Đó là tại sao ta buồn vào lúc lâm chung."
(7) Thực hiện
3 nguyên nhân chính. Đây là (a) gặp một vị thầy tâm linh, (b) thực hành
lời dạy của vị ấy, và (c) đạt được những hoàn cảnh thuận lợi của việc hài lòng
với nhà cửa, thực phẩm và phương tiện sinh sống vừa phải vì thế chúng ta có thể
hiến dâng tất cả mọi năng lượng vào việc thực hành. Chúng ta thiết lập những
mong ước và cầu nguyện rằng chúng ta có thể đạt được ba nguyên nhân chính này
cho việc thành công trong việc thực hành tâm linh của chúng ta.
(8) Hành
thiền về 3 thứ không suy giảm. Đó là để có (a) niềm tin vững vàng không
suy giảm trong vị hướng dẫn tâm linh và cảm kích sự ân cần tử tế của vị ấy, (b)
ý chí không suy giảm để thực hành những gì vị ấy đã khuyên bảo, và (3) chí nguyện
không suy giảm đối với tất cả những sự rèn luyện khác nhau. Niềm tin vững vàng
và sự cảm kích phải không chỉ là trên đôi môi của chúng ta; chúng cần mạnh mẽ
và chân thành, và đến từ trái tim của chúng ta. Chúng ta cần có sự ngưỡng mộ lớn
và tin tưởng trong vị hướng dẫn tâm linh người dạy dỗ chúng ta, trong sự rèn
luyện thật sự những thái độ của chúng ta, và trong những điểm thật sự mà qua đó
chúng ta có thể hoàn thành trọn vẹn.
(9) Sở hữu
3 thứ không thể tách rời. Ba thứ này là có (a) thân thể, (b) lời nói,
(c) tâm ý của chúng ta không tách rời khỏi sự thực hành. Chúng ta cần chân
thành trên mọi trình độ liên quan đến cung cách chúng ta hành động, nói năng và
suy nghĩ. Chúng ta cần làm mọi thứ phù hợp với sự rèn luyện tâm thức.
(10) Hành động
một cách thuần khiết, không thiên vị đối với các đối tượng. Thật quan
trọng để rèn luyện với tất cả chúng sanh, không chỉ với bạn bè của chúng ta, và
tránh những độc hại của sự tham đắm, thù ghét, và dửng dưng.
(11) Rèn luyện yêu mến rộng và sâu đối với mọi thứ.
Chúng ta cần rèn luyện chính mình một cách rộng rãi và sâu sắc với việc quan
tâm đến cả những chúng sanh năng động và những đối tượng vô tri vô giác. Nói
cách khác, sự thực tập rèn luyện các thái độ của chúng ta cần rốt ráo, ba la mật,
bao gồm tất cả, và hoàn toàn chân thành. Thí dụ, khi chúng ta chạm trán với các
rắc rối, chúng ta có thể nghĩ, "Nếu tôi không có những rắc rối này, tôi sẽ
không phát triển sự viễn ly; và nếu tôi không có quyết tâm thoát khỏi mọi rắc rối
của chính tôi, thì tôi sẽ không phát triển lòng bi mẫn để giải thoát người khác
khỏi các rắc rối của họ. Tôi sẽ không thể phát triển hoàn toàn xu hướng tâm
giác ngộ." Chúng ta có thể quay lại bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào bằng việc
đánh giá đúng giá trị của việc có nó.
(12) Luôn
luôn quán chiếu tới những đối tượng bị bỏ qua một bên. Thí dụ, với một
con côn trùng nhỏ, thay vì nghĩ chúng ta cao quý như thế nào so với con bọ
bé nhỏ này trên mặt đất, thì chúng ta có
thể nghĩ, "Chúng sanh này bất hạnh thế nào ấy, bị sanh ra trong hình dáng
thế này không có khả năng để làm lợi ích và tự cải thiện nó." Trong cùng
cách, bất cứ khi nào chúng ta cảm thấy ganh tỵ đối với người khác, chúng ta có
thể nghĩ vấn đề, làm sao để áp dụng mọi nổ lực của chúng ta, thì chúng ta cũng
có thể đạt đến những gì mà người khác đã hoàn thành được. Vì vậy, chúng ta
không cần để chính chúng ta ở dưới sự tác động của những thái độ phiền não. Nếu
chúng ta có một cơn bệnh và không muốn trải nghiệm sự khó chịu của nó, thì
chúng ta sẽ lập tức uống vài viên thuốc. Giống như thế, khi những thái độ phiền
não sinh khởi trong tâm thức chúng ta
thì chúng ta cần áp dụng những đối trị - giống như uống thuốc khi chúng ta bệnh.
(13) Đừng lệ thuộc vào những điều kiện khác. Nó có
thể xảy ra trong khi chúng ta đang làm việc để rèn luyện các thái độ của chúng
ta, chúng ta có thể mắc bệnh hay những thứ khác có thể không diễn ra tốt đẹp.
Chúng ta không được trở thành chán nản và nói, "Tôi đã và đang cố gắng để
trở thành một người tốt và rèn luyện các thái độ của tôi, nhưng tất cả những gì
tôi có được là những thứ khó khăn. Nếu những điều kiện để thực tập là khác biệt!"
Đúng hơn, chúng ta cần tiếp tục việc áp dụng tất cả những điểm và phương pháp
được giải thích trong giáo huấn, bất chấp các điều kiện sinh khởi là thế nào. Chúng
ta cần thấy những hoàn cảnh tiêu cực sinh khởi như những tình trạng chín muồi từ
quá khứ, vì thế chúng ta sẽ không chán nản. Khi những hoàn cảnh và tình trạng
khác nhau sinh khởi, chúng ta cần cảm thấy vui mừng rằng chúng đang trồi lên
trên mặt và bây giờ chúng ta có thể thoát khỏi chúng.
(14) Hãy thực
hành một cách chính yếu bây giờ. Chúng ta có một thân người và kiếp sống
con người quý giá, với tất cả những cơ hội quý báu của nó, tự do và thư thái để
rèn luyện thật sự những thái độ của chúng ta để trở thành một người tốt hơn. Nếu
chúng ta không thực hành bây giờ, thì khi nào chúng ta sẽ làm? Khi nào chúng ta
sẽ có một cơ hội tốt hơn?
(15) Đừng
có những sự thấu hiểu đảo lộn. Có 6 loại hiểu biết đảo lộn:
* Bi mẫn đảo lộn - cụ thể là
cho những hành giả nghèo nàn, nhưng không phải cho những người thế tục giàu có.
Đây là con đường vòng sai lầm. Nó giống như một thí dụ từ tiểu sử của Milarepa,
người sống như một kẻ ăn mày bên đường khi 3 người chị em giàu có đến và cảm thấy
hối tiếc cho ngài. Milarepa nói, "Đừng cảm thấy hối tiếc cho tôi, tôi là
người có lòng bi mẫn thật sự cho các chị em - các chị em đang ở trong một tình
trạng tệ hại hơn tôi nhiều."
* Mục tiêu đảo lộn - thay vì có
mục tiêu để đem những phương pháp dự phòng của Phật Pháp vào trong sự thực tập
nhằm để đạt đến Giác Ngộ và làm lợi ích tất cả chúng sanh, thì chúng ta có một
mục tiêu mạnh mẽ để tiến tới những mối quan hệ thế tục.
* Quan tâm đảo lộn - thay vì
làm cho người khác thích thú trong những vấn đề tâm linh, thì chúng ta lại làm
cho họ hấp dẫn trong những quan hệ thế tục.
* Sự vui mừng đảo lộn - thay vì
vui mừng trong tất cả những phẩm chất tốt đẹp của Phật, Pháp, Tăng, thì chúng
ta lại vui mừng khi những người chúng ta không thích gặp những hoàn cảnh khó
khăn. Hay kẻ thù của chúng ta ngã gục và chúng ta nói, "Tốt quá, người ấy
đáng phải như vậy!"
* Nhẫn nhục đảo lộn - thay vì
cho những vấn đề tâm linh, thì chúng ta lại nhẫn nại vì những hành vi tiêu cực.
Chúng ta sẳn sàng đương đầu với những khó khăn để tiến tới trong một cung cách
tiêu cực nào đó, nhưng chúng ta không nhẫn nại đối phó với những khó khăn nổi
lên trong sự rèn luyện tâm linh.
* Hương vị đảo lộn - thay vì
mong ước vì một sự thưởng thức giáo huấn Phật đà, thì chúng ta muốn nếm tất cả
các loại hương vị trần tục có một căn bản tàn họai và hoàn toàn không tồn tại
lâu dài.
(16) Đừng gián
đoạn. Thực hành một ngày, bỏ ngày kế, và sau đó trở lại lần nữa, không
chỉ là điều gì đó mà chúng ta cần tránh khi rèn luyện những thái độ của chúng
ta. Ngay cả trong trình độ thế tục, nếu chúng ta gián đoạn và không nổ lực bền
bĩ, thì chúng ta sẽ không hoàn thành bất cứ điều gì.
(17) Rèn
luyện một cách kiên quyết. Chúng ta cần đi thẳng vào trọng tâm của
vấn đề rèn luyện các thái độ của chúng ta và không đi chệch hướng hay với tâm nửa
vời trong sự thực tập. Chúng ta phải đi thẳng tới việc hoạt động trong các thái
độ của chúng ta và cải thiện chúng. Trong thái độ rèn luyện, chúng ta không được
do dự để thâm nhập một cách hoàn toàn.
(18) Giải
thoát chính mình qua cả sự khảo sát và điều nghiên cẩn thận. Chúng ta tự
giải thoát chính mình bằng việc áp dụng những đối trị chính đến những thái độ
phiền não của chúng ta khi chúng sinh khởi. Đối trị thật sự, thí dụ, nếu chúng
ta quá dính mắc đến người nào đó hay việc gì đó, là thấy đối tượng của sự dính
mắc như xấu xí và không có những phẩm chất tốt đẹp. Nếu chúng ta sân hận, chúng
ta áp dụng yêu thương từ ái; nếu chúng ta ngu ngơ, chúng ta nghĩ đến duyên khởi
tương sanh. Và nếu chúng ta tự hào - hãy nói là chúng ta rất thông thạo và những
người bên cạnh không thể thấu hiểu sự việc - đúng hơn là nghĩ vấn đề chúng ta
tuyệt vời như thế nào, thì chúng ta có thể nghĩ, "Những người này không thể
áp dụng tất cả mọi năng lực của họ và không có những hoàn cảnh để có thể sử dụng
toàn bộ tiềm lực của họ!" Trong cách này, thay vì là lệ thuộc vào những
thái độ phiền não của chúng ta thì chúng ta tự giải thoát mình qua lòng bi mẫn
cho người khác.
(19) Đừng
thiền quán với một cảm giác mất mát. Điều này nói với chúng ta rằng khi
những khó khăn hiện hữu hay những người khác muốn điều gì đó từ chúng ta, chúng
ta không cần phải cảm thấy một cảm giác mất mát.
(20) Đừng
giới hạn mình với việc quá nhạy cảm. Chúng ta không được quá nhạy cảm
khi mọi việc diễn ra không như ý hay nổi giận với sự kích động nhỏ nhất.
(21) Đừng
hành động chỉ đơn thuần trong một thời gian ngắn nói với chúng ta rằng
chúng sai lầm trong việc lập sự giới hạn vấn đề chúng ta có thể tiến đến mức
nào trong việc hành động với những thái độ của chúng ta hay trong việc giúp đở
người khác. Thay vì là đưa một nổ lực khổng lồ vào lúc khởi đầu và không duy
trì nó, thì chúng ta cần ổn định trong nổ lực của chúng ta.
(22) Đừng
mong ước bất cứ sự cảm ơn nào nói rằng chúng ta không thể mong đợi bất
cứ điều gì đáp lại sự giúp đở mà chúng ta đã làm. Nếu chúng ta giúp đở hay làm
từ thiện và mong đợi đón nhận "phước đức" từ nó, thì cũng giống như một
cuộc giao dịch thương mại. Chúng ta không làm những hành vi tích cực để được điều
gì đó đáp lại, cho dù là vật chất hay "phước đức".
VII-
Phát Tâm Giác Ngộ Thậm Thâm Nhất: Những Hành Giả Thích Đáng Được Dạy Về Tánh
Không
Chúng ta đã hoàn tất việc thảo luận về sự phát tâm
giác ngộ quy ước, mở rộng từ trái tim của chúng ta đến việc Giác Ngộ và người
khác trong dạng thức của lẽ thật quy ước (thế đế). Điểm tiếp theo quan tâm đến
việc mở rộng trái tim của chúng ta đến lẽ thật sâu xa nhất (chân đế) - nói cách
khác, việc phát tâm giác ngộ cứu kính hay thậm thâm nhất. Tâm giác ngộ cứu kính ở đây chỉ được đưa ra trong một câu kệ vắn tắt,
được bổ sung bằng những chương thiền quán, hay liễu biệt thiền, một thể trạng
nhận thức ngoại hạng của tâm thức hay tuệ giác đặc biệt, theo Đại luận và Tiểu luận về Con Đường Tiệm tiến
lamrim. Nó được hiểu từ đấy.
Sự thảo luận ở đây trong 2 phần: ai là người thích
đáng để được dạy về tánh không; và giáo lý thật sự về điều ấy là gì. Nếu chúng
ta không giảng dạy đến những hành giả thích hợp, thì nhiều người sẽ hiểu sai lạc.
Có những người, thí dụ, nghĩ rằng việc thảo luận về tánh không trong Phật Giáo
chỉ là một sự thảo luận về hư vô, không có gì cả. Họ nghĩ rằng nó là chủ nghĩa
hư vô và Phật Giáo không thừa nhận bất cứ điều gì. Đây là một hiểm họa bởi vì,
căn cứ trên đấy, họ nghĩ rằng chẳng có điều gì đáng ngại - bất cứ điều gì quý vị
làm cũng chẳng sao, bởi vì mọi thứ là không có gì cả. Loại người thế ấy là hành
giả không thích đáng. Họ chưa sẳn sàng để thấu hiểu về tánh không.
Một sự thấu hiểu thích đáng về tánh không bắt buộc
chúng ta phải hành động trong một thái độ tích cực. Người nào có thể thấu hiểu
trong cách này là một hành giả thích đáng. Thay vì có giáo huấn về tánh không
cung cấp cho họ một sự bào chửa để hành động trong bất cứ thái độ nào, bởi vì họ
hiểu sai và nghĩ rằng không có gì đáng ngại, thì họ sẽ hiểu tánh không có nghĩa
là sự vắng mặt của những cung cách không thể có về sự tồn tại. Họ thấy cung
cách thật sự mà trong ấy mọi thứ tồn tại, trong dạng thức của nhân và quả, và họ
hàm chứa điều này trong thái độ của họ. Họ thậm chí tự tin hơn, hành động trong
một cung cách thích đáng phù hợp với những quy luật của những gì sẽ mang đến những
kết quả tích cực.
Nếu chúng ta thấu hiểu giáo lý tánh không có nghĩa rằng
những cung cách không thể có về sự tồn tại không liên hệ đến bất cứ điều gì thật
sự, và vì thế mọi thứ biểu hiện chức năng trong dạng thức của duyên sanh, thì
đây là một sự thấu hiểu đúng đắn. Một người có năng lực này là một hành giả
thích hợp.
* Câu Kệ Giải
Thích Về Sự Rèn Luyện Thật Sự Trong Tâm Giác Ngộ Cứu Kính hay thậm thâm nhất
Đối với một số người dễ tiếp thu nhất, thật hữu ích
để rèn luyện trong tâm giác ngộ cứu kính trước nhất. Một khi họ hiểu về thực tại,
nó làm gia tăng năng lực của họ để thật sự hành động để đạt đến Giác Ngộ và
giúp đở người khác. Tuy nhiên, đối với hầu hết mọi người thì ngược lại. Họ rèn luyện trong tâm giác ngộ quy ước trước
và khi điều ấy vững vàng, sau đó họ mới rèn luyện trong tâm giác ngộ cứu kính
liên hệ đến điều chướng ngại hơn hay ẩn tàng, ấy là tánh không.
Chúng ta hãy luận giải tóm tắt về bài kệ 4 câu trong
bản gốc của 7 Điểm Rèn Luyện Thái Độ.
1) Hãy nghĩ
rằng mọi hiện tượng giống như một giấc mơ. Mọi thứ giống như một giấc
mơ trong ý nghĩa rằng chúng vắng sự tồn tại được thiết lập chân thật hay không
có sự tồn tại cố hữu hay vô tự tánh - nói cách khác, sự tồn tại được thiết lập
như chân chính hay "sự tồn tại trung thực" hay sự tồn tại cố hữu - mà
chỉ như một giấc mơ nó hoàn toàn rõ ràng rằng mọ thứ không tồn tại trong một tư
thế chân thật.
2) Thấy rõ
tính bản nhiên của tỉnh giác vốn không sanh. Điều này nói về sự phân
tích cả thức và đối tượng của thức ấy, và thấy rõ rằng không thứ này cũng không
thứ kia có sự tồn tại được thiết lập chân thật. Điều này làm nhớ lại sự tiếp cận
của Trung Quán Tự Quản Tông, nói về sự phủ nhận những hiện tượng ngoại tại. Nó
quả quyết rằng những hiện tượng ngoại tại không tồn tại một cách độc lập với
tâm thức. Đây dường như là cách nó được phát biểu ở đây, liên hệ đến sự tồn tại
không được thiết lập một cách chân thật của thức cũng như những đối tượng của
thức.
3) Đối thủ
tự nó giải thoát nói khỏi chỗ của nó. Điều này liên hệ đến sự kiện rằng
tánh không tự nó là trống rỗng sự tồn tại được thiết lập chân thật hay không có
sự tồn tại cố hữu. Điều ấy có thể được thấy trong bản liệt kê về những loại
tánh không khác nhau - 16 loại không và v.v…, bao gồm cả "tánh không của
chính tánh không" (hay không không). Thêm nữa, sự tỉnh giác phản chiếu hay
tự tri, liên hệ ở đây về sự tỉnh giác về tánh không, cũng là trống rỗng sự tồn
tại được thiết lập chân thật, không có sự tồn tại cố hữu hay vô tự tánh.
4) Thực chất
bản nhiên của các tâm đạo là thiết lập trong một thể trạng của căn bản bao gồm
tất cả. Đã loại bỏ 2 cực đoan về chủ nghĩa hư vô đoạn kiến và chủ nghĩa
bất diệt thường kiến (khẳng định sự tồn tại cố hữu), thì tất cả mọi thứ chúng
ta gặp gở phải được đặt trong phạm vi của tâm thức đã thấu hiểu về tánh không. Nói
cách khác, chúng ta áp dụng tâm thức đã hiểu về tánh không với mỗi sự gặp gở, với tất cả mọi đối
tượng, và trong mọi trường hợp.
Có 2 cách giải thích thuật ngữ căn bản bao gồm tất cả (hay alaya: tàng thức, nền tảng của tất cả)
trong dòng này. Cho cả hai, "những tâm đạo" liên hệ đến những tâm đạo
của một tôn giả, bậc chứng đạo, và "căn
bản bao gồm tất cả" liên hệ đến một hiện tượng không đặc thù, trung
tính hay vô ký - là thứ mà Đức Phật không chỉ rõ hoặc là xây dựng hay tàn phá.
*Một cách giải thích câu này là tâm của một tôn giả thiết lập trong một
thể trạng theo đó nó hoàn toàn không giả tạo, liên hệ đến thể trạng mà trong ấy
tâm thức không bị nhiễm ô bởi bất cứ phiền não ngoại lai nào. Cũng thế một lựa
chọn của việc giải thích về "căn bản bao gồm tất cả - alaya" là một hiện tượng trung tính là nó liên hệ đến một
tình trạng không giả tạo của tâm không nhiễm ô.
*Một cách khác giải thích nó là "nền tảng của tất cả - alaya"
liên hệ đến tánh không. Cho nên chúng ta cần thiết lập không chỉ trong tâm thức
chúng ta, mà tất cả những sự thực chứng của chúng ta vào trong phạm vị của sự
thấu hiểu về tánh không.
Trong truyền thống luận giải của Tây Tạng, có nhiều
cách khác nhau thảo luận về lẽ thật thậm thâm nhất hay lẽ thật cứu kính về mọi
thứ. Một là lấy nó như một đối tượng - đối tượng là tánh không, tính bản nhiên
trống rỗng của tất cả mọi hiện tượng. Một cách thay đổi, theo quan điểm của mật
tông tantra, lẽ thật cứu kính đối với tâm thức lấy tánh không như một đối tượng.
Điều này liên hệ đến trình độ hoàn hảo nhất của thức đã thấu hiểu về tánh
không, như được giải thích trong những thuật ngữ của tantra. Vì vậy, có một lẽ
thật thậm thâm nhất theo quan điểm của đối tượng, tánh không, hay theo quan điểm
của tâm thức đã lấy tánh không như đối tượng của nó.
Trong truyền thống Sakya, thí dụ thế, chúng ta thấy
giáo lý về "sự không tách rời của luân hồi và niết bàn". Điều này
liên hệ đến tâm thức nguyên sơ, sinh khởi đông thời và vấn đề tâm thức nguyên
sơ này là nền tảng hay căn bản thế nào cho cả luân hồi và niết bàn, vì những hiện
tướng của tất cả mọi hiện tượng là phạm vi hoạt động của tâm thức. Tương tự thế,
truyền thống Nyingma giải thích vấn đề tất cả mọi thứ là tinh khiết từ căn bản
và vấn đề chức năng bản nhiên của chúng là chúng thành lập một cách tự nhiên tất
cả mọi hiện tướng như thế nào. "Sự thành lập một cách tự nhiên" liên
hệ đến tất cả mọi hiện tướng được thành lập bởi tâm thức nguyên sơ của linh
quang. Tương tự thế, truyền thống Kagyu của Đại thủ ấn nói về mọi thứ là một vị:
"Trong phạm vi của linh quang sinh khởi đồng thời, mọi thứ là một vị."
Điều này là một trong những điểm chính mà chúng ta thấy trong giáo lý Đại thủ ấn
của Kagyu.
Cho dù là trong hệ thống Nyingma của cựu dịch, nói về
tâm thức nguyên sơ, tinh khiết từ căn bản, đã thành lập tự nhiên tất cả mọi hiện
tướng, hay, trong tân dịch, truyền thống Sakya về "sự không thể tách rời của
tánh không và diệu lạc" hay Đại thủ ấn của truyền thống Kagyu - tất cả đều
nói về lẽ thật sâu xa nhất, tính bản nhiên thật sự của mọi thứ từ quan điểm của
thức đã lấy tánh không như đối tượng của nó. Trong truyền thống Gelugpa của
Tông Khách Ba và những người khác, có một sự trình bày tương tự, chẳng hạn như
trong những luận giải của Tông Khách Ba về mật điển Bí Mật Tập Hội, trong ấy
ngài nói về thể trạng sinh khởi đồng thời của đại lạc mà đã lấy tánh không như
đối tượng của nó. Điều đó tương ứng một cách trực tiếp đến sự thảo luận ở đây
trong ba truyền thống Tây Tạng khác. Khi chúng ta nói về tính bản nhiên thật sự
của mọi thứ hay tánh không từ quan điểm của câu kệ này, thì nó liên hệ đến đối
tượng, tánh không và vấn đề tẩy trừ nhiễm ô khỏi thức như thế nào mà sẽ hiểu
tánh không.
Luận giải mà tôi đang liên hệ với chúng ta là những
bản dịch đại và tiểu của phần liễu biệt thiền hay thiền quán, một thể trạng nhận
thức ngoại lệ của tâm thức, trong con đường tiệm tiến lamrim của Tông Khách Ba,
đi theo truyền thống của Long Thọ và Thánh Thiên. Điều này hàm ý không lấy các
điểm nguyên thủy những kinh nghiệm thiền tập thật sự của những lạt ma Tây Tạng
thực hành mật tông; mà đúng hơn là lấy từ nguồn gốc chính của những kinh điển
và những thảo luận hợp lý đến từ những đại học giả Ấn Độ. Nét đặc trưng chính của
truyền thống Tông Khách Ba là ngài đi ngược đến những nguồn gốc Ấn Độ và tìm thấy
những sự diễn giải của ngài trong ấy. Nhưng cho dù chúng ta tìm thấy sự thấu hiểu
của chúng ta từ những nguồn gốc Ấn Độ và những sự thảo luận hợp lý của họ hay từ
những kinh nghiệm thật sự của những thiền giả, nếu chúng ta thẩm tra cả hai, thì tất cả họ một cách căn bản đến từ
cùng một điểm đã được nhắm đến.
VIII-
Nhận Ra Bất Giác Là Nguồn Gốc Của Luân Hồi
Sự trình bày tâm giác ngộ sâu xa nhất hay tâm giác
ngộ cứu kính trong luận điển này được phân làm ba phần:
*nhận ra bất giác là gốc rể của luân hồi,
*điều tất yếu cho việc xác định sự thiếu vắng của một đặc tính được thiết lập chân thật hay "linh hồn" hay tự ngã như cách để đảo ngược sự bất giác này,
*những phương pháp thật sự cho việc xác định này.
*điều tất yếu cho việc xác định sự thiếu vắng của một đặc tính được thiết lập chân thật hay "linh hồn" hay tự ngã như cách để đảo ngược sự bất giác này,
*những phương pháp thật sự cho việc xác định này.
Bất giác hay si mê hay vô minh là đối thủ chính xác
của tỉnh giác hay sự hiểu biết đúng đắn về điều gì đấy. Ở đây, chúng ta đang
nói trong dạng thức của việc tỉnh giác về tính bản nhiên thật sự của thực tại
hay sự bất giác về nó, trong ý nghĩa của việc tỉnh giác về nó trong một thái độ
bị bóp méo, hay vọng tưởng. Đó là bởi vì chúng ta không tỉnh giác về tính bản
nhiên thật sự của thực tại mà chúng ta nắm bắt mọi thứ hay chấp trước vào mọi
thứ tồn tại trong những cách không phù hợp với thực tại. Chúng ta bị chướng ngại
về cung cách mà trong ấy mọi thứ thật sự tồn tại. Đó la những gì chúng ta muốn
nói về bất giác hay si mê.
Kết quả của việc bị chướng ngại về thực tại và tiếp
nhận nó trong một cung cách sai lạc là vì chúng ta chấp trước vào mọi thứ như
có một đặc tính được thiết lập chân thật hay "linh hồn" hay tự ngã,
điều này có nghĩa là việc chấp trước vào mọi thứ như có sự tồn tại được thiết lập
từ phía của chính chúng. Khi chúng ta nói về sự thiếu vắng một đặc tính được
thiết lập chân thật, thì chúng ta đang nói trong phạm vi của vấn đề mọi người
muốn hạnh phúc và không ai muốn khổ đau. Chúng ta đang thẩm tra ai thật sự trải
nghiệm hạnh phúc và khổ đau, và những gì họ thật sự muốn có và những gì họ muốn
loại trừ. Nói cách khác, chúng ta đang phân tích con người trải nghiệm mọi thứ
và những thứ thật sự mà người ấy trải nghiệm. Chúng ta khám phá rằng mỗi một
trong hai thứ này có một đặc tính hay sự
tồn tại, nhưng không phải là một sự thiết lập chân thật. Đây là bởi vì không có
một thứ như vậy như một đặc tính được thiết lập chân thật của bất cứ người nào
hay bất cứ thứ gì.
Khi chúng ta muốn loại trừ tâm thức lãnh hội sai lầm
về thực tại và chấp trước vào mọi thứ tồn tại trong một cung cách bóp méo,
không thể có, thì chúng ta cần phân biệt và nhận ra đối tượng thật sự hàm ý mà
tâm thức nhận biết trong một cung cách bóp méo hay vọng tưởng. Đó là những gì cần
để phủ nhận nhằm để loại trừ tâm thức chấp thủ vào mọi thứ như tồn tại trong một
cung cách được thiết lập thật sự. Đối tượng hàm ý của tâm thức chấp trước này sẽ
là những thứ thật sự tồn tại trong một kiểu mẫu được thiết lập chân thật. Nói
cách khác, sự tồn tại tự thiết lập là đối tượng bị bác bỏ.
Trong dạng thức của sự thảo luận này, chúng ta cần
thấu hiểu những sự vi tế liên hệ trong việc tránh những cực đoan của việc bác bỏ
quá mức hay bác bỏ không đúng mức đối tượng bị bác bỏ.
* Nếu chúng ta bác bỏ quá mức, chúng ta nói rằng đối
tượng bị bác bỏ là bao trùm quá mức. Điều này có nghĩa là sự bác bỏ của chúng
ta là phủ nhận không chỉ sự tồn tại được thiết lập chân thật, mà là sự phủ nhận
tất cả kiểu thức của sự tồn tại. Trong trường hợp này, đối tượng bị bác bỏ là
quá bao trùm - nó lan tỏa hay bao gồm quá nhiều.
* Nếu chúng ta bác bỏ không đúng mức, làm đối tượng
bị bác bỏ bao phủ không đủ, chúng ta bác bỏ quá ít. Sự bác bỏ của chúng ta
không bác bỏ sự tồn tại được thiết lập chân thật bởi năng lực của điều gì đó có
thể tìm thấy về phía của đối tượng. Nó chỉ phủ nhận một số, nhưng không bác bỏ
tất cả những trình độ của những cung cách không thể có của sự tồn tại.
Đây là những hiểm họa trong sự bác bỏ quá mức hay
không đúng mức đối tượng bị bác bỏ. Sự nhấn mạnh của Tông Khách Ba trong việc
nhận ra những hiểm họa này tô đậm tầm quan trọng của việc thấu hiểu và xác định
đối tượng bị bác bỏ.
Xa hơn nữa, thật cần thiết để có một sự hợp nhất giữa
phương pháp và tuệ - nói cách khác, phương tiện và tỉnh giác phân biệt - khi
chúng ta tiến hành trong việc cố gắng để thấu hiểu thực tại như vậy, ở mọi
trình độ, thì chúng ta đang đối diện với cả các khía cạnh với nhau. Thí dụ, nếu
chúng ta cho rằng, như một kết quả trong sự thấu hiểu của chúng ta về tánh
không, mọi thứ hoàn toàn không tồn tại và vô lý, thế thì mọi thứ giống như
"sừng thỏ" và chúng ta sẽ không có bất cứ sự thấu hiểu thật sự nào về
phía phương tiện, việc quan tâm đến nhân và quả. Chúng ta sẽ không thể nhận ra vấn đề hạnh phúc đến từ những
hành vi xây dựng và khổ đau đến từ những hành vi tàn phá. Qua sự lãnh hội sai lầm
này về thực tại, thì chúng ta sẽ không dấn thân trong những sự thực tập mà
chúng sẽ làm lợi ích cho người khác.
Vì vậy thật cần thiết để có một sự hiểu biết tròn vẹn
về mối quan hệ hòa hiệp giữa lẽ thật cứu kính và quy ước về mọi thứ. Điều này
có nghĩa là sự thấu hiểu của chúng ta về tính bản nhiên của thực tại cần củng cố
sự thấu hiểu của chúng ta về tương duyên sinh khởi. Một thí dụ về lẽ thật quy ước hay thế đế thí
dụ sẽ là, sự thấu hiểu của chúng ta căn cứ vào nguyên nhân này và từ lý trí
này, mà chúng ta đạt được kết quả này. Sự thấu hiểu đúng đắn về thực tại rồi
thì sẽ củng cố những hành vi xây dựng của chúng ta, là điều hóa ra sẽ xây đắp một
năng lực tích cực sẽ mang đến hạnh phúc cho chúng ta cũng như cho tất cả những
người khác và, cuối cùng, việc đạt đến Giác Ngộ như một kết quả.
Nếu chúng ta có thể đạt được một sự thấu hiểu chắc
chắn về hai lẽ thật (hai chân lý hay nhị đế - chân đế cứu kính và thế đế quy ước)
về mọi thứ và vấn đề chúng tương hợp với nhau như thế nào, thì chúng ta có thể
xây đắp 2 kho tàng phong phú hay 2 hệ thống của năng lực tích cực và tỉnh giác
thâm sâu tức là sự tích tập phước và trí cùng lúc, và trong cách này chúng ta
có thể đạt được một sự thành tựu đồng thời của một Pháp thân và Sắc thân - nói
cách khác, tâm và thân của một Đức Phật với nhau. Cho nên trong tất cả mọi
trình độ, từ lúc bắt đầu đến kết thúc, thật cần thiết để có hai lẽ thật với
nhau. Nếu chúng ta không có một sự thấu hiểu thích đáng, thì sẽ không thể hoàn
tất - và đó là một lỗi lầm lớn. Phương pháp trong việc nối kết với lẽ thật quy
ước của mọi thứ và tuệ hay tỉnh giác phân biệt trong sự nối kết với lẽ thật cứu
kính của mọi thứ: chúng ta cần cả hai. Chúng ta không thể chỉ thành tựu tâm của
một Đức Phật mà không có việc đạt đến thân của một Đức Phật.
Luận điển cũng nói với chúng ta không được hạn chế sự
thấu hiểu này về sự thiếu vắng một đặc tính không thể có tức là linh hồn hay tự
ngã để chỉ người, tức là sự thấu hiểu về nhân vô ngã. Chúng ta cũng cần áp dụng
nó vào những hiện tượng mà con người trải nghiệm, hay pháp vô ngã. Thí dụ, truyền
thống Tỳ Bà Sa luận sư về thanh văn thừa chỉ bác bỏ sự thiếu vắng đặc tính của
một con người, hay nhân vô ngã và, ngay cả rồi thì, họ không nói đến trình độ
thâm sâu nhất của nó về những gì không thể có được. Họ chỉ đơn thuần bác bỏ sự
tồn tại của con người với đặc tính tĩnh học, nguyên khối tồn tại một cách độc lập
hay linh hồn hay tự ngã. Chúng ta không thể để sự bác bỏ về những kiểu thức
không thể có đơn thuần thế ấy. Chúng ta cũng không thể để nó ở trình độ của
Kinh Lượng Bộ, tức là ở trong mối quan hệ phủ nhận con người cũng như con người
tự hiện hữu có thể biết được [trên danh tự].
Chúng ta cũng không thể để sự bác bỏ những kiểu thức
không thể có của sự tồn tại ở trình độ của Duy Thức Tông, là thứ trong mối liên
hệ với con người cũng chỉ bác bỏ con người tồn tại như những thực thể tự đầy đủ
có thể biết được, nhân vô ngã. Tuy thế, không giống những trường phái Tiểu Thừa
của Tỳ Bà Sa Luận Sư và Kinh Lượng Bộ, thì Duy Thức Tông cũng tiến đến việc thừa
nhận sự vắng bóng của đặc tính không thể có hay linh hồn hay tự ngã của tất cả
các hiện tượng, hay pháp vô ngã. Nhưng cung cách của Duy Thức Tông xác nhận sự
thiếu vắng này là chỉ nói rằng thức và các đối tượng của thức ấy thiếu một sự tồn
tại được thiết lập từ những nguồn gốc sinh khởi khác nhau. Họ lấy kiểu thức tồn
tại này như một kiểu thức của sự tồn tại của các hiện tượng và bác bỏ điều ấy.
Tất cả những thứ này là những sự bác bỏ không đúng mức (thị chư thức chuyển biến, phân biệt sở phân biệt, do bỉ thử giai vô, cố
nhất thiết duy thức).
Trường phái Duy Thức Tông có 2 cách trình bày các hiện
tượng căn bản. Nó xác nhận rằng điều gì đó được thiết lập như một hiện tượng cơ
bản nó hoặc là được thấy bằng một sự phân tích nhận thức có giá trị là thứ cơ bản
hay nếu nó có thể chịu đựng được năng lực phân tích bởi một sự nghiên cứu nhận
thức giá trị về điều gì là căn bản. Do thế, Duy Thức Tông xác nhận rằng nếu điều
gì đó không thể tìm thấy khi bị khuất phục với sự phân tích tối hậu, thì nó
hoàn toàn không tồn tại. Điều này là đối kháng chính xác với quan điểm của Trung
Quán Hệ Quả [rằng không gì có thể tìm thấy
về phía cả đối tượng khi được phân tích bằng một sự nghiên cứu nhận thức giá trị
hoặc là ở lẽ thật cứu kính hay quy ước.] Quan điểm này của Duy Thức Tông,
sau đó, xác nhận rằng mọi vật có một sự tự tồn tại được thiết lập, đứng trên
chính nơi của chúng như những gì có thể được tìm thấy trên sự phân tích tối hậu.
Đây là quan điểm của Duy Thức Tông hay Duy Tâm Luận.
Trong sự bác bỏ những gì không thể tìm thấy được
trong sự nghiên cứu kỷ lưỡng về điều gì là cơ bản, trường phái Duy Thức này
đang bác bỏ một đối tượng không đúng của sự bác bỏ. Họ đang nói rằng mọi thứ
không thể tìm thấy được trong sự phân tích tối hậu thì hoàn toàn không tồn tại.
Đó là một đối tượng không đúng của sự bác bỏ. Và điều này dường như là một sự
xác nhận phổ biến từ những trường phái Trung Quán Tự Quản Tông trở về sau
- ấy là trên sự nghiên cứu tỉ mỉ ấy về những gì là cơ bản, điều gì đấy có thể
tìm thấy được về phía của những đối tượng thiết lập sự tồn tại của chúng. Nếu
chúng ta thừa nhận và tin tưởng những hệ thống trái ngược này, thế thì trong thực
tế chúng ta đang thừa nhận những thứ tồn tại trong một mô thức hoàn toàn không
thể tưởng tượng được. Chúng ta đang chấp trước vào điều gì đấy hoàn toàn không
tồn tại - điều gì đấy có thể tìm thấy được về phía của những đối tượng trên sự
phân tích tối hậu - và điều ấy sẽ là một tình trạng bất giác si mê kinh khủng.
Trường phái của chính chúng ta, Hệ Quả Trung Đạo,
nói rằng nguyên nhân thật sự của luân hồi là sự bất giác tự sinh hay si mê bẩm
sinh. Nếu chúng ta tin tưởng chỉ theo phạm vi của định nghĩa về bất giác được xác nhận bởi những trường phái Phật Giáo
khác, thế thì trong sự phủ nhận đơn thuần phạm vi ấy của bất giác, chúng ta sẽ
chỉ phủ nhận sự bất giác căn bản một cách lý thuyết mà thôi - sự bất giác chấp
trước vào mọi thứ tồn tại trong một kiểu thức căn cứ trên một nền tảng lý thuyết
không đúng đắn. Gốc rể thật sự của luân hồi, tuy thế, không phải là sự bất giác
căn bản lý thuyết này, mà là một loại bất giác sinh khởi tự động một cách tự
nhiên. Đây là trình độ của bất giác mà với mỗi chúng sanh, từ động vật trở lên,
chấp trước vào sự tồn tại của mọi thứ được thiết lập băng điều gì đấy có thể
tìm thấy về phía của những thứ ấy. Chúng ta cần phủ nhận như gốc rể của luân hồi,
một sự phát khởi xảy ra một cách tự nhiên
mà thông thường đồng hành với thức của mỗi chúng sanh và không chỉ điều
gì đấy căn cứ trên một giáo thuyết nào đó mà chúng ta đã từng được dạy và đi đến
tin tưởng, và là thứ mà không phải mỗi người ngay cả từng nghe đến.
Đây là phần thảo luận về quan điểm của Hệ Quả Trung
Đạo rằng sự tồn tại của mọi thứ bó thể được biết một cách có giá trị chỉ có thể
được thiết lập trong dạng thức của quy cho hay mệnh danh hay tên gọi - trong dạng
thức của điều mà tên gọi liên hệ đến. Nếu sự tồn tại của một đối tượng thật sự
là được thiết lập từ phía đối tượng liên hệ của tên gọi hay từ phía của một căn
bản tên gọi đối tượng ấy, thế thì đối tượng ấy có thể tìm thấy được. Nếu nó là
tìm thấy được, điều ấy chứng tỏ rằng sự tồn tại tự thiết lập (sự tồn tại cố hữu),
và đấy là những gì đang bị phủ nhận ở đây bởi trường phái Hệ Quả Trung Đạo. Đấy
là mục tiêu của Long Thọ và Thánh Thiên.
Một trích dẫn từ Long Thọ nói về vấn đề tánh không cần
được hiểu như thế nào trong dạng thức tương duyên sanh khởi, và tương duyên
sanh khởi cần được hiểu như thế nào trong dạng thức của tánh không. Nếu mọi thứ
không trống rỗng về những cung cách tồn tại không thể có được, thì nhân và quả không
thể hiện hữu. Nhân và quả hoạt động duy
nhất bởi vì tất cả mọi thứ trống rỗng những cung cách tồn tại không thể có. Điều này có nghĩa là sự
tồn tại tự thiết lập hay sự tồn tại được thiết lập từ phía của điều gì đó, có
thể tìm thấy trên sự phân tích của lẽ thật cứu kính về mọi thứ - như được thảo
luận trong mối liên hệ với Duy Thức Tông ở trên - là vô giá trị. Trích dẫn nói
rằng để thấu hiểu tánh không trong dạng thức của duyên sanh - không gì kỳ diệu
hơn hay lạ thường việc ấy.
Sự bất giác sinh khởi một cách tự động chấp trước
vào mọi thứ tồn tại như thế nào? Nó tưởng
tượng rằng sự tồn tại của mọi thứ không được thiết lập chỉ đơn thuần bằng sự hiện
hữu của chúng , sự liên hệ của những đối tượng của những tên gọi tinh thần. Nó
giả sử rằng sự tồn tại của chúng là được thiết lập một cách chân thật từ phía của
chính chúng, một cách độc lập của sự mệnh danh tinh thần. Sự bất giác này bao gồm
sự thấu hiểu sai lầm việc thiếu vắng một đặc tính được thiết lập một cách chân
thật hay tự tánh hay linh hồn hay tự ngã của con người và hiện tượng. Không có
bất cứ gì có sự tồn tại của nó được thiết lập bởi năng lực của điều gì đó có thể
tìm thấy được từ chính phía của nó, một cách độc lập của những khái niệm sinh
khởi, danh xưng, nhãn hiệu, và v.v… cho chúng. Sự thiếu vắng hoàn toàn của kiểu
mẫu không thể có của sự thiết lập sự tồn tại của điều gì đó có thể nhận thức được
có giá trị là điều được liên hệ như tánh không của đối tượng ấy.
Cung cách mà nó được trình bày ở đây dường như hoàn
toàn tương tự với cung cách nó xuất hiện trong tiểu luận lamrim của Tông Khách
Ba và luận giải của ngài về Căn Bản Trung
Quán Luận Tụng của Long Thọ, gọi là "Phân Biệt Tỉnh Giác" (Skt. Prajna-nama-Mulamadhyamakakarika)
Nguyệt Xứng cũng nói với chúng ta rằng nếu có một đối tượng mà với nó không có
khái niệm có thể liên hệ được, thế thì đối tượng đó không thể tồn tại một cách
khả dĩ; trái lại, nếu có một khái niệm liên hệ tới một đối tượng, sự tồn tại của
đối tượng ấy có thể được thiết lập trong dạng thức của khái niệm phát sinh ấy.
Cho nên những thứ chỉ có thể được thiết lập trong dạng thức của những khái niệm
phát sinh liên hệ với chúng; thì chúng không thể được thiết lập bởi bất cứ gì từ
phía chính chúng [bởi vì chúng trống rỗng bất cứ điều gì có thể tìm thấy được từ
phía chính chúng mà có thể được thiết lập sự tồn tại của chúng].
Chúng ta có thể hỏi, có phải mọi thứ chỉ tồn tại như
chúng là trong dạng thức của những khái niệm phát sinh từ chính tôi cho chúng
không? Không, không phải cách ấy. Đó là một cách duy ngã trong việc nhìn vào mọi
thứ. Nếu một thứ được chấp nhận một cách phổ thông bởi xã hội như là màu trắng,
sự khẳng định của chúng ta rằng nó tồn tại như là màu vàng sẽ không làm nó biến
thành màu vàng. Cho nên mọi thứ không tồn tại trong một cách duy ngã chỉ đơn
thuần theo vấn đề chúng ta đặt tên cho chúng như thế nào. Đây là bởi vì nếu là
như vậy, nó cũng sẽ được áp dụng với những hành vi xây dựng và tàn phá. Nếu, bằng
năng lực của cung cách suy nghĩa định kiến của chúng ta, kết quả của một hành vi đặc thù nào đó sẽ
chính xác là cách mà chúng ta muốn nó là, như vậy sẽ làm mọi thứ đảo lộn. Chắc
chắn sẽ không phải là như vậy. Đúng hơn, mọi thứ được thiết lập bằng một quy ước
phổ thông, bằng vấn đề mọi người nhận thức
mọi thứ một cách giá trị như thế nào.
Bây giờ chúng ta hãy nhìn vào một trích dẫn từ tác
phẩm Làm Rõ Ràng Hoàn Toàn Những Mục Tiêu,
Tông Khách Ba luận giải về Nhập Trung Luận
của Nguyệt Xứng. Trích dẫn này liên hệ với thí dụ về con rắn - thật sự một cuộn
dây được mệnh danh như một "con rắn". Không có căn bản nào cho cuộn
dây được mệnh danh như là một "con rắn" có giá trị được. Sự mệnh danh
sai lầm này tương tự với việc xem những tập họp uẩn như một sự tồn tại chân thật
của cái "tôi". Chúng ta đừng lầm
lẫn si mê điều này với ý nghĩa mà nó liên hệ với một cái bình bông và một cây cột
như một cái "bình bông" và một "cây cột" sẽ không đúng.
Một cách thật sự có 3 cách để tri nhận mọi thứ một
cách nhận thức. [Chúng ta có thể xem một
cuộn dây là một con rắn, thì một cuộn dây là một cuộn dây tồn tại chân thật, và
một cuộn dây là một cuộn dây một cách quy ước.] Chấp trước vào những uẩn
như là cái "tôi" tồn tại chân thật sẽ giống như việc chấp trước vào
cuộn dây là một con rắn. Như vậy sẽ là một cách nhận thức sai lầm về điều gì
đó. Loại bất giác hay si mê này, thế thì không giống như việc đặt tên sợi dây
là "sợi dây" hay bình bông là "bình bông".
Hơn thế nữa, việc chấp trước vào sự tồn tại của mọi
thứ được thiết lập trong một kiểu thức sai làm không thể có có thể hoặc là một
cách lý thuyết căn cứ trên một quan điểm sai lầm nào đó hay sự phát sinh một
cách tự động. Điều được liên hệ ở đây như nguyên nhân chính của luân hồi sanh tử
là sự chấp trước phát sinh một cách tự động vào sự tồn tại của mọi thứ là được
thiết lập một cách chân thật từ phía của chính chúng. Một sự chấp trước sinh khởi
một cách tự động vào các uẩn để tồn tại như một cái "tôi" tồn tại một
cách chân thật, thế thì, sẽ giống như việc chấp trước vào cuộn dây tồn tại như
một con rắn. Một sự chấp trước như vậy không là một thứ được căn cứ trên sự tin
tưởng vào một lý thuyết triết học nào đấy mà chúng ta đã từng học hỏi, mà chỉ
là một sự chấp trước phát sinh tự động xảy ra một cách tự nhiên với mọi người.
Một sự chấp trước phát sinh tự động như vậy tạo ra mọi loại cảm xúc và thái độ
phiền não, là những thứ sẽ làm chúng ta xây đắp nên đủ loại tiềm lực tiêu cực,
là những thứ hóa ra lại tạo ra đủ loại thúc đẩy nghiệp lực sinh khởi, là thứ rồi
thì làm sự đắm chìm trong sanh tử luân hồi của
chúng ta mãi mãi.
Có cái "tôi", kẻ nguyện ước hạnh phúc và cái
"tôi" không muốn bất cứ khổ đau nào cả, và dĩ nhiên có cái
"tôi" bị đói khát và muốn uống một tách trà hay ăn một miếng bánh mì.
Loại cái "tôi" đó là có thể biết được một cách có căn cứ đơn giản như
chữ "tôi" liên hệ đến, được đặt tên có căn cứ trên căn bản cho nhãn
hiệu. Loại cái "tôi" đó thật sự tồn tại một cách quy ước. Nhưng mọi
thứ không xuất hiện đến chúng ta trong cách ấy. Cái "tôi" trải nghiệm
mọi thứ và làm mọi thứ hữu dụng không xuất hiện đến chúng ta trong kiểu thức giống
như chữ "tôi" liên hệ đến. Thay vì thế, nó xuất hiện trong chúng ta
như điều gì đó với sự tồn tại của nó được thiết lập từ chính phía của nó, về
phía của căn bản cho sự đặt tên cái ''tôi''. Sự
chấp trước rằng kiểu thức vọng tưởng, lừa dối, sai lầm của hiện tướng
liên hệ đến điều gì đấy tồn tại một cách thật sự tạo ra trong chúng ta một ý thức
rất mạnh mẽ về một cái "tôi" như tồn tại một cách độc lập. Căn cứ vào
sự chấp trước cho một cái "tôi" như vậy, chúng ta cũng chấp trước đối
với mọi thứ tồn tại từ chính phía của chúng như "của tôi''. Từ những nhận
thức đó về "của tôi", rồi thì chúng ta nghĩ trong dạng thức "kẻ
thù của tôi", "bạn bè của tôi", và v.v… Sau đó trên căn bản ấy,
chúng ta sinh ra tham luyến, sân hận; và trên căn bản của những thứ đó, chúng
ta làm ra mọi loại hành vi tàn phá mà nó xây đắp nên năng lực nghiệp quả tiêu cực.
Vì vậy, cách chấp trước này vào mọi thứ như có sự tồn tại của chúng được thiết
lập từ chính phía của chúng - không đơn giản như những gì mà từ ngữ mệnh danh
cho chúng liên hệ đến - là thứ làm ra tất cả mọi rắc rối mà chúng ta có.
Chúng ta có thể bắt đầu để thấy vấn đề tâm thức đang
thật sự tự ý thêm vào, hay phóng đại ở đây, thêm vào thực tại của mọi thứ là điều
gì đó không thật sự tồn tại. Điều này liên hệ đến vấn đề chúng ta thấy người
nào đó rất hấp dẫn. Tâm thức tự ý thêm vào (hay phóng đại) người đó một hiện tướng
vô cùng xinh đẹp - thật hấp dẫn và quyến rũ dục tình, hay bất cứ điều gì. Sự tự
ý thêm vào như vậy phóng chiếu một hư ảo hoàn toàn trên người ấy. Trên căn bản ấy,
chúng ta cảm thấy tham luyến và hấp dẫn. Hay trái lại, tâm thức chúng ta phóng
chiếu vọng tưởng vào người nào đó mà chúng ta xem như là kẻ thù điều gì đấy cực
kỳ xấu xí hay căm ghét; và chúng ta đáp ứng với vọng tưởng mà chúng ta đã đặt
trên người này. Trên căn bản ấy, chúng ta trở nên thù địch, làm đủ loại hành vi
tàn phá đối với người đó, và tạo ra năng lực nghiệp quả tiêu cực. Như một kết
quả của tiềm lực tiêu cực ấy và những thúc đẩy tàn phá sinh khởi căn cứ trên ấy,
chúng ta lang thang không thể kiểm soát trong vòng sanh tử luân hồi. Nếu chúng
ta có thể lãnh hội sự thiếu vắng của cung cách không thể có này về sự tồn tại
mà chúng ta tự ý thêm vào và vọng tưởng vào các đối tượng, thì chúng ta sẽ
thoát khỏi tất cả những vấn nạn cứ tái diễn không thể kiểm soát của vòng sanh tử
luân hồi.
Căn cứ vào sự chấp trước mạnh mẽ này vào cái
"tôi" tồn tại chân thật, chúng ta chia thế giới thành "tôi"
và "mọi người khác", và trên căn bản ấy chúng ta xây đắp tất cả những
thái độ tiêu cực. Tuy thế, nếu chúng ta trở nên rất giận dữ với người nào đó
như tên là Tashi, thì chúng ta có thể thật sự dừng lại để phân tích, "Ai
là Tashi này mà tôi đang giận dữ? Có phải là thân thể của người ấy? Có phải là
tâm thức của người ấy? Nếu nó là thân thể của người ấy, nó là cái đầu của người
ấy, hay bàn chân của người ấy, hay đôi tay của người ấy, hay lỗ mũi của người ấy?
Khi chúng ta bắt đầu khảo sát như thế này, thì chúng ta đột nhiên rất ngạc
nhiên. Chúng ta lùi trở lại, bởi vì chúng ta khám phá ra rằng chúng ta thật sự
không thể tìm ra Tashi này mà chúng ta rất là giận dữ! Rồi thì chúng ta có thể
tự hỏi chính chúng ta rằng điều gì thật
sự là nó mà chúng ta vô cùng giận dữ? Đây là một phương pháp vô cùng hiệu quả,
để thẩm tra đúng là tại sao mà chúng ta rất giận dữ. Cho nên, nếu chúng ta có
tâm thức hiện diện để phân tích như thế này trong trường hợp như vậy, thì nó có
thể rất là hữu dụng.
IX-
Việc Cần Thiết Cho Việc Thừa Nhận Sự Thiếu Vắng Một Đặc Tính Được Thiết Lập Một
Cách Chân Thật Hay Tự Tánh Hay Tự Ngã Hay Linh Hồn Như Cách Để Đảo Ngược Sự Bất
Giác Này
Luận điển diễn tả vấn đề, qua việc dính mắc vào
chính chúng ta như một cái "tôi", như thế nào mà chúng ta hoàn toàn đắm
chìm trong việc theo đuổi vị kỷ cho hạnh phúc và tiếp tục xoay chuyển trong
vòng sanh tử luân hồi. Những đối tượng của tất cả những sự tham luyến và thù địch
của chúng ta dường như đối với chúng ta không tồn tại một cách đơn thuần trong
dạng thức của những gì mà tên gọi hay nhãn hiệu của chúng liên hệ đến. Do bởi
điều ấy, chúng ta phản ứng với tham luyến và ác cảm với mọi thứ, mà chúng ta bị
thuyết phục, là thật sự được thiết lập như tồn tại từ phía chính chúng trong một
kiểu thức lừa dối, sai lầm hay vọng tưởng mà trong đó chúng xuất hiện để tồn tại.
Chúng ta phải nhận ra sự chấp trước này vào sự tồn tại
được thiết lập một cách chân thật hay tự tánh, tự ngã một cách thật rõ ràng,
như nó là nguồn gốc của tất cả mọi vấn nạn của chúng ta. Thật khẩn thiết để
thoát khỏi nó, để nhổ gốc rể của nó từ sự tương tục tinh thần, hay dòng suối
tâm của chúng ta, và để nhận ra rằng đối tượng ngầm mà chúng ta chấp trước thật
sự hoàn toàn không tồn tại. Gốc rể của sanh tử luân hồi là sự bất giác phát
sinh tự động với điều mà chúng ta chấp trước vào mọi thứ tồn tại trong một cách
hoàn toàn sai lầm. Thật thiết yếu để chúng ta thoát khỏi nó và bắt đầu nghĩ
trong một kiểu thức đối lập hoàn toàn chính xác.
Chúng ta chấp trước vào mọi thứ để có sự tồn tại của
chúng được thiết lập từ chính phía của chúng, nhưng khi chúng ta phân tích đối
tượng hàm ý đến của sự chấp trước, thì có bất cứ điều gì thật sự mà đối với nó
sự chấp trước này vào sự tồn tại được thiết lập chân thật liên hệ đến không? Có
một đối tượng tồn tại chân thật một cách thật sự ở đấy không, với sự tồn tại được
thiết lập từ chính phía của nó không? Chúng ta nhận ra rằng sự chấp trước này
vào sự tồn tại được thiết lập chân thật liên hệ đến điều gì đó hoàn toàn không
tồn tại; và vì thế cuối cùng chúng ta chấm dứt việc suy nghĩ trong cách ấy, nhận
ra rằng nó không liên hệ đến bất cứ điều gì thật sự. Nói cách khác, cung cách
thật sự mà trong đó mọi thứ tồn tại là chúng không thể được tìm thấy trong sự
phân tích tối hậu.
Không có sự ủng hộ căn bản về phía đối tượng khi tâm
thức chúng ta vọng tưởng và hướng vào mọi thứ giống như có điều gì đó về phía của
sự thiết lập sự tồn tại của chúng. Lấy thí dụ về việc ngồi đây với nhận thức
sai lầm kinh khủng rằng có một con cọp dữ tợn trong rừng phái sau chúng ta. Nếu
chúng ta ngồi lại và cố gắng để không nghĩ về nó, nó sẽ không tiêu trừ nhận thức
sai lầm thôi thúc mà chung sta có về một con cọp ở đấy. Những gì chúng ta thật
sự phải làm là khảo sát xem có một con cọp ở đó hay không? Chỉ bằng việc thẩm
tra có con cọp ở đó hay không mà chúng ta mới có thể tự thoát khỏi tư tưởng ám ảnh
này. Chúng ta sẽ khám phá trên sự phân tích rằng con cọp không thật sự tồn tại
trong khu rừng phía sau này và, trên căn bản ấy, chúng ta sẽ thoát khỏi nhận thức
hoang tưởng. Nếu chúng ta hoàn toàn không thẩm tra, nếu chúng ta ngồi lại và cố
gắng để quên nó đi, tư tưởng sợ hãi sẽ âm thầm trở lại tâm thức chúng ta một
lúc nào đó. Vì thế thật quan trọng để thẩm tra để xem điều gì đó có hay không về
phía của những đối tượng như sự hổ trợ căn bản khi tâm thức chúng ta hướng vào
những đối tượng đó giống như chúng có sự tồn tại tự thiết lập.
Về mặt khác, nếu chúng a có ý tưởng rằng tất cả những
tư tưởng nhận thức là hoàn toàn sai lạc, rằng tất cả chúng phóng chiếu điều gì
đó không thể có và vì thế chúng ta phải tự thoát khỏi tất cả chúng vì tất cả chúng là sai lầm, thế
thì chúng ta lại rơi vào vị thế sai lầm của vị tu sĩ Trung Hoa, Hoshang (Hòa
Thượng Ma Ha Diễn). Vấn đề quan trọng là để nhận ra những gì mà đối tượng của
việc bác bỏ là, và rồi thì bác bỏ và thoát khỏi nó - không phải thoát khỏi tất
cả mọi tư tưởng bất cứ là gì. Mặc dù đúng là chúng ta cần có một sự thông hiểu
vô niệm và nhận thức về thực tại; tuy thế, sự thấu hiểu vô niệm ấy phải căn cứ
trên những gì chúng ta thừa nhận qua tiến trình nhận thức của phân tích. Chúng
ta không đang đi vào một thể trạng vô niệm phổ thông, là điều sẽ rất mơ hồ. Trước
nhất chúng ta phải nhìn vào đối tượng mà chúng ta đang phân tích, và nhận ra
qua tiến trình phân tích mà cung cách chúng ta đã đang chấp trước nó liên hệ đến
điều gì đó hoàn toàn không tồn tại. Trong cách này, chúng ta bác bỏ đối tượng
thật sự cần được phủ nhận ở đây. Trên căn bản ấy, chúng ta đạt được sự thấu hiểu
vô niệm, đã trước tiên được xác định chắc qua một tiến trình nhận thức.
X-
Cung Cách Hành Thiền Về Sự Thiếu Vắng Một Đặc Tính Được Thiết Lập Chân Thật Hay
Tự Tánh, Tự Ngã Hay Linh Hồn
Theo quan điểm của Hệ Quả Trung Đạo, không có sự
khác biệt trong trình độ vi tế của sự thiếu vắng một đặc tính được thiết lập
chân thật hay linh hồn, tự ngã, hay tự tánh của con người và các hiện tượng.
Không phân biệt được thực hiện về điều mà một trong hai là thậm thâm hay nông cạn
hơn. Nhưng khi chúng ta thật sự xác định chắc chắn quan điểm đúng đắn về thực tại,
là có một trình tự với một thứ nào được xác định trước? Vâng, có. Mặc dù không
có sự phân biệt trong sự thiếu vắng thật sự một đặc tính được thiết lập chân thật,
thì có một sự khác biệt trong dạng thức của thứ nào là dễ dàng hơn và thứ nào
là khó khăn hơn để thấu hiểu. Trước nhất, chúng ta đạt được một sự thấu hiểu về
sự thiếu vắng một đặc tính được thiết lập chân thaantj của con người, nhân vô
ngã, nó là một căn bản dễ dàng hơn của tánh không để thẩm tra; sau đó chúng ta
đi tiếp đến sự thiếu vắng về một đặc tính được thiết lập chân thật của tất cả mọi
hiện tượng, pháp vô ngã.
Tất cả điều này giải thích vấn đề hành thiền trên
tâm giác ngộ cứu kinh như thế nào, tâm thức mở rộng ra đến lẽ thật thậm thâm nhất
của mọi thứ. "Sự thậm thâm nhất" liên hệ đến thể trạng cuối cùng hay
thật sự của mọi vấn đề - sự thấu hiểu về bản chất thật sự của thực tại trong dạng
thức của hành động, căn bản của hành động, con người làm hành động, và v.v… Thí
dụ, nếu chúng ta nhìn vào một bông hoa và phân tích nó, dĩ nhiên bông hoa đến từ
hạt giống và đòi hỏi nước và ánh sáng và v.v… để lớn lên. Nhưng nếu chúng ta chỉ
đột nhiên bước vào căn phòng và nhìn vào bông hoa, dường như là nó đúng là đang
ngồi đấy tự chính nó, không từng trải qua những tiến trình này. Nhưng khi bông
hoa phai tàn và bắt đầu rơi rụng từng phần, điều này sẽ là một minh chứng rõ
ràng rằng sự tồn tại của bông hoa không phải hoàn toàn được thiết lập từ chính
phía của nó, vì nó dường như thế, nhưng trong thực tế là kết quả của một tiến
trình của những nguyên nhân và v.v… mà trên ấy nó lệ thuộc để thiết lập sự tồn
tại của nó. Qua bản chất ấy của sự duyên thuộc tương sanh của nó, nó đã lớn
lên, tàn phai và khô héo.
Bản chất tự nhiên thậm thâm nhất của bông hoa là nó
không thể được tìm thấy từ chính phía của nó như có một sự tồn tại được thiết lập
trong một cung cách chắc chắn nào đó. Nói cách khác, lẽ thật thậm thâm nhất không
phải hiện tướng của bông hoa là nông cạn, nhưng là sự thật sâu sắc nhất của thực
tại về nó. Khi chúng ta nói về lẽ thật quy ước hay nông cạn (thế đế) của điều
gì đó, thuật ngữ đang liên hệ đến lẽ thật về điều gì đó mà nó che đậy điều gì đấy
sâu sắc hơn. Lẽ thật quy ước của mọi thứ
(thế đế) - hiện tướng của tất cả mọi chúng sanh và sự vật liên hệ với những
vấn nạn và v.v…- và là điều che dấu một lẽ thật thậm thâm nhất về chúng. Khi
trái tim của chúng ta mở rộng ra đến lẽ thật quy ước của tất cả những thứ này
được gọi là "những thứ tồn tại một cách quy ước" hay những đối tượng
hàm chứa điều gì đó sâu sắc hơn, đây được gọi là "tâm giác ngộ quy ước".
Khi trái tim của chúng ta mở rộng đến sự tối hậu, là điều liên hệ đến lẽ thật cứu
kính của mọi thứ, điều này gọi là "tâm giác ngộ cứu kính" hay tâm
giác ngộ thậm thâm nhất.
Giống như thế, nếu chúng ta mở rộng tâm thức chúng
ta đến một thể bao hàm mọi thứ, Dharmakaya (pháp thân), thứ là thực tại thật sự
của tất cả mọi hiện tượng - và nếu chúng ta nghĩ về Dharmakaya trong kiểu thức ấy
- chúng ta có thể tẩy trừ tất cả mọi nhiễm ô đã chướng ngại tính bản nhiên của
thực tại. Bằng việc tẩy trừ chúng, thì chúng ta được Dharmakaya thật sự. Vì vậy,
chúng ta có một sự thực tập phối hợp của việc mở rộng tâm thức đến tâm giác ngộ
quy ước và cứu kính - một sự thực tập kết hợp của tâm giác ngộ quy ước và cứu
kính. Chúng ta có tâm thức hướng đến tất cả chúng sanh, và qua năng lực được
xây đắp qua việc ấy, chúng ta tẩy trừ những nhiễm ô đủ loại và có thể thấy tính
bản nhiên thật sự của thực tại.
Ẩn Tâm Lộ, Friday, March 27, 2015
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/e-books/unpublished_manuscripts/commentary_attitude_training_rays_sun/day_5.ht