Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2015

(3) TRÍCH DẪN TỪ LUẬN GIẢI VỀ SỰ RÈN LUYỆN NHƯ TIA SÁNG



Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Tất cả chúng ta nguyện ước được hạnh phúc, không ai trong chúng ta mong ước có bất cứ khổ đau hay rắc rối nào. Hạnh phúc mà chúng ta nguyện ước không đến một cách bâng quơ, vô cớ - nó đến từ những nguyên nhân. Cho nên chúng ta cần nghĩ thật sâu xa về những nguyên nhân đã đem hạnh phúc đến cho chúng ta và tiêu trừ những rắc rối của chúng ta
We all wish to be happy; none of us wishes to have any suffering or problems. The happiness that we wish for doesn’t come from out of nowhere – it comes from causes. So we need to think very deeply about the causes that bring about our happiness and eliminate our problems.
Nhằm để có thể theo đuổi con đường tâm linh, chúng ta phải tận dụng cuộc sống con người quý giá mà chúng ta có.
In order to be able to pursue the spiritual path, we must take advantage of the precious human life that we have.
Hạnh phúc lệ thuộc một cách chính yếu vào thể trạng của tâm thức. Nếu tâm thức một người hạnh phúc, thế thì bất cứ hoàn cảnh ngoại tại nào của người đó ra sao, người này cũng sẽ tiếp tục hạnh phúc.
Happiness depends primarily on the state of mind. If a person’s mind is happy, then whatever his or her external circumstances may be, this person continues to be happy.
Nếu người nào đó một cách căn bản là một người hạnh phúc, tử tế, quan tâm đến người khác - một loại người tu dưỡng, lương thiện - thế thì cho dù họ thật sự có tin tưởng trong tôn giáo hay giáo Pháp nào hay không sẽ không làm bất cứ điều gì khác biệt.
If someone is basically a happy person, polite, considerate to others – a cultivated, good type of person – then whether or not they actually believe in religion or Dharma doesn’t make any difference.
Nếu chúng ta tế nhị và quan tâm đến người khác, thì chúng ta xây dựng nên năng lực tích cực tức là phước đức trong bất cứ trường hợp nào.
If we are refined and considerate of others, we build up positive force (merit) in any case.
Chúng ta học hỏi và thực hành, rèn luyện trong những phương pháp khác nhau của Phật Pháp, sẽ có một lợi lạc ngay cả mạnh mẽ hơn và xây dựng nên một năng lực tích cực từ việc là một người ân cần và hữu ích. Điều ấy sẽ làm lợi ích không chỉ trong kiếp sống này, mà cũng là những kiếp sống tương lai.
We were to study and practice, training in the various methods of Dharma, there would be an even stronger benefit and building up of positive force from being a kind and helpful person. That will benefit not only this life, but also future lives as well.
Chúng ta cần nhận ra rằng thân người quý giá sẽ không tồn tại mãi mãi, những hoàn cảnh tuyệt vời nhất như thế nào đi nữa, thì kiếp sống này sẽ cũng qua đi. Đây là bởi vì mọi người là đối tượng của vô thường và chết. Vấn đề chính là đừng bỏ phí thời gian của chúng ta. Do vậy, thật cực kỳ quan trọng để nghĩ về vô thường và vấn đề mọi hoàn cảnh sẽ trôi qua.
We need to realize that this precious human body will not last forever, that however perfect our circumstances may be, this life is something that will pass. This is because everybody is subject to impermanence and death. The main point is not to waste our time. Therefore, it is extremely important to think about impermanence and how all situations pass.
Cho dù chúng ta tin tưởng hay không, thì vẫn có những sự tái sanh tương lai: chúng ta có thể rơi vào những tình trạng tệ hại nhất hay một trong những thế giới tốt hơn. Cho nên, quan trọng nhất là tỉnh thức về những khả năng tiêu cực của chúng ta có thể dẫn đến một sự tái sanh tệ hại, và thay vì thế chăm sóc trong những hành vi của chúng ta và những thứ chúng ta làm hiện tại, vì chúng sẽ ảnh hưởng đến tương lai của chúng ta.
Whether we believe in it or not, there are future rebirths: we may fall to one of the worse states or one of the better ones. So, it is most important to be aware of our negative potentials that may lead to a worse rebirth, and in turn take care in our actions and the things we do now, since they will affect our future.

Nếu chúng ta không thật sự chính niệm về sự chết trong mọi lúc - ngay cả nếu chúng ta thực tập Phật Pháp - thì chúng ta sẽ không tự liên hệ một cách trọn vẹn trong Phật Pháp hay hoàn toàn quan tâm đến  nó một cách thật nghiêm túc.
If we aren’t really mindful of death all the time – even if we practice the Dharma – we won’t involve ourselves fully in the Dharma or fully take it seriously.
Nếu chúng ta tỉnh thức chân thật về sự chết và vô thường, và của vấn đề những gì xảy ra trong tương lai tùy thuộc vào những gì chúng ta làm  hiện nay, không cần thiết phải có cảnh sát để kiểm tra chúng ta. Sự tỉnh thức về nhân và quả sẽ hoạt động như những người canh gác và giữ chúng ta khỏi hành động một cách không thích đáng.
If we are truly aware of death and impermanence, and of how what occurs in the future depends on what we do now, it is unnecessary to have police keeping check on us. Our own awareness of cause and effect will act as guards and keep us from acting inappropriately.

Bất cứ chúng ta là ai, việc nhìn vào mọi thứ từ ánh sáng của sự kiện rằng tất cả chúng ta rồi sẽ chết sẽ làm chúng ta nhận ra không có điểm nào trong việc tùy tiện với người khác hay hành động trong một cung cách cẩu thả.
Whoever we are, looking at things in light of the fact that we all are going to die will make us realize there is no point in fooling others or acting in an uncaring manner.
Nếu chúng ta chính niệm và tỉnh thức về sự kiện rằng chúng ta sẽ chết, thì chúng ta sẽ hành động trong một cung cách tốt hơn trong khi chúng ta sống, và sẽ không phải chết với hối hận và ăn năn.
If we were mindful and aware of the fact that we will die, we would act in a much better way while we are alive, and wouldn’t have to die with regret and remorse.

Những điểm này được trình bày trong luận điển như sau:
* chết là chắc chắn,
* thời điểm cho sự chết của chúng ta là không chắc chắn,
* tùy vào nghiệp quả, không gì có thể giúp lúc chết.
These points are presented in the text as follows:
  • death is definite,
  • the time of our death is uncertain,
  • except for the Dharma, there is nothing of help at the time of death.
Vấn đề chính là, đã được sinh ra trong một thân thể với những thái độ phiền não và nghiệp chướng trong sự tương tục tinh thần của chúng ta, thì chắc chắn chúng ta sẽ chết. Đây là bởi vì thời điểm thân thể biến thành hiện thực, thì cùng lúc những nguyên nhân cho sự chết cũng được đạt đến.
The main point is, having been born in a body with disturbing attitudes and karma on our mental continuum, it is certain we are going to die. This is because the moment the body isactualized, at the same time are actualized the causes for death.
Tuổi thọ của chúng ta trôi qua với mỗi hơi thở, với mỗi thời khắc. Thời gian liên tục trôi qua. Nó sẽ không chờ đợi. Chúng ta không thể ngồi lại và làm dừng lại tuổi thọ của chúng ta, ngay cả trong một giây phút.
Our lifespan passes away with each breath, with each moment. The time is constantly passing. It is not going to wait. We cannot sit back and stop our lifespan, even for a moment.
Nếu chúng ta sắp hướng đến một đời sống tâm linh, một đời sống tôn giáo, đây là điều gì đó chúng ta phải làm với ý chí và quyết tâm từ ngay giây phút này, ngay bây giờ.
If we’re going to lead a spiritual life, a religious life, this is something we have to do with great resolve and determination from this moment on, right now.
Chúng ta cần thấy rằng trách nhiệm là ở mỗi chúng ta. Đức Phật đã chỉ chúng ta những gì để làm, con đường nào chúng ta phải đi theo. Chúng ta không thể đổ trách nhiệm cho bất cứ ai khác.
We need to see that the responsibility lies in each of us. The Buddha has shown us what to do, what path to follow. We can’t put the responsibility on anybody else.
Nếu chúng ta dậy sớm vào buổi sáng trước khi bình minh, không khí rất tươi mát. Rồi thì mặt trời lên và đi qua bầu trời mà không dừng lại một giây phút. Đời sống của chúng ta giống như thế: ngày và đêm tiếp tục trôi qua mà không bao giờ dừng lại.
If we wake up very early in the morning just before dawn, it is very fresh. Then the sun rises and travels through the sky without stopping for a moment. Our life is just like that: day and night continue to pass without ever stopping.
Nếu chúng ta xây đắp nên những khả năng xây dựng, nhiều loại năng lực tích cực, thứ này sẽ làm lợi ích cho những kiếp sống tương lai. Những năng lực là điều gì đấy mà chúng ta có thể xây đắp qua sự thực hành Phật Pháp.
If we build up constructive potentialities, various types of positive force, this is going to benefit future lifetimes. Potentials are something that we can build up through Dharma practice.

Nếu chúng ta nghĩ về những hoàn cảnh về sự chết của chúng ta đang lơ lửng trên đầu và nó sẽ xảy ra như thế nào, thì chúng ta cần có sự tự tin vững chắc rằng chỉ có một loại thực tập tâm linh mới có thể có bất cứ sự hổ trợ nào đó khi sự chết đến cho nên chúng ta cần quyết tâm một cách thật mạnh mẽ là chúng ta sẽ phát tâm giác ngộ.
If we think of the circumstances of our impending death and how it is going to happen, we need to have the firm convictionthat only some type of spiritual practice can be of any help when death comes, we need to resolve very strongly that we are going to develop bodhichitta.

Nếu chúng ta đã xây đắp năng lực tích cực, đã làm những hành vi tích cực, thì chỉ có kết quả hạnh phúc. Nếu chúng ta đã làm những hành vi tiêu cực và xây đắp năng lực tiêu cực, thì chỉ có thể mang đến bất hạnh và rắc rối. Đây là điều gì đấy rõ ràng và chắc chắn.
If we have built up positive force having done constructive acts, the only result that can come from that is happiness. If we have done destructive acts and built up negative force, the only possibility that can come from that is unhappiness and problems. This is something that is definite and for sure.
"Nếu điều gì đó là hữu ích về lâu về dài nhưng tai hại trong những hoàn cảnh tức thời, thì đáng để thực hiện. Đây là bởi vì chúng ta cần suy nghĩ trong dạng thức của những tác động lâu dài. Nhưng nếu điều gì đó chỉ lợi ích trong hiện tại ngắn ngủi nhưng tai hại về lâu về dài, thế thì đấy là điều mà chúng ta không nên làm."
“If something is helpful in the long run but harmful in the immediate circumstances, it is worth doing. This is because we need to think in terms of long-term effects. But if something is only helpful in the short run but harmful in the long run, then it is something we may not do.”
Từ một hạt giống nhỏ, một cây to sinh trưởng, và giống như thế, từ một hành động nhỏ thì những kết quả lớn có thể sinh ra. Thế nên rất đúng rằng hạnh phúc hay khổ đau lớn có thể đến từ những nguyên nhân nhỏ.
From a small seed a large tree grows, and likewise, from a small action great results can come. So it is very true that great happiness or suffering can come from small causes.
Chúng ta bắt đầu nho nhỏ và xây đắp dần lên với nó bằng việc loại bỏ những thói quen xấu của chúng ta, chậm chạp từ từ. Điều này giải quyết vấn đề của chúng ta về việc những kết quả gia tăng liên quan đến những hành vi của chúng ta như thế nào.
We start out small and work up to it by ridding ourselves of bad habits, slowly. This concludes our point on how results increase relative to our actions.
Nếu chúng ta đã từng thực hiện một hành động, nó sẽ không bị vô hiệu. Cho dù nó là một năng lực tích cực hay tiêu cực mà chúng ta đã từng xây đắp, nó sẽ không chín muồi cho đến khi chúng ta gặp gở những hoàn cảnh sẽ làm cho nó chín muồi, và trong thời gian chuyển tiếp nó sẽ thật đúng là không biến mất. Chỉ là vấn đề thời gian cho đến khi nó chín muồi.
If we have taken an action, it will not have been in vain. Whether it is a positive or a negative potential that we have built up, it will not ripen until we meet with circumstances that will cause it to ripen, and in the interim it will not just disappear. It is just a matter of time until it ripens.
"Giống như bây giờ tôi muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau cùng rắc rối, cũng thế trong tương lai tôi sẽ tiếp tục có cùng bản chất như vậy - tôi sẽ không muốn rắc rối. Tôi cũng sẽ muốn hạnh phúc trong tương lai; do thế, tốt hơn là tôi nên làm điều gì đấy về việc này bây giờ."
“Just as now in the present I want happiness and don’t want suffering and problems, also in the future I’m going to continue to have that same nature – I’m not going to want problems. I’m going to want happiness in the future as well; therefore I had better do something about it now.”
Con người thiếu kỷ luật nội tại không thể ngăn ngừa khỏi việc phạm tội. Cho nên rõ ràng rằng những sự ngăn cấm và sức mạnh bên ngoài không ngăn ngừa người ta phạm những tội ác, nhưng chính là những sức mạnh bên trong đã làm ra những hành vi chống lại xã hội.
.People lacking inner discipline aren’t prevented from committing crimes. So it is clear that external restrictions and force don’t prevent one from committing crimes, but that it is internal forces that cause antisocial actions.
Nếu không có nhiệt tình và sự hợp tác nội tại, thì thật rất khó để đem luật lệ và trật tự vào xã hội. Hình như việc cố gắng để đem sự kiểm soát qua lực lượng cảnh sát lại trở thành nguyên nhân cho những sự lạm dụng của hệ thống. Đây là bởi vì chính cảnh sát và cai tù lại vi phạm nhiều tội trạng hơn.
Without enthusiasm and inner cooperation, it is very difficult to bring law and order into a society. It appears that trying to bring about control through police forces and the like becomes a cause for more abuses of the system. This is because the police and the jailers themselves commit more crimes.
Có những kết quả chắc chắn bị trải nghiệm trong kiếp sống này, hay trong kiếp sống tới của chúng ta, hay trong kiếp sau nữa, hay trong kiếp xa hơn nữa. Đây là một số trong nhiều sự phân chia trong sự trình bày của nghiệp.
There are results that are certain to be experienced in this lifetime, or in our next lifetime, or the one after that, or in lifetime beyond that. These are some of the many divisions in the presentation of karma.
Thật cực kỳ quan trọng để có niềm tin vững vàng trong những quy luật của hành trạng nhân quả và tiến trình theo đấy, trong dạng thức của những hành vi xây dựng hay tàn phá. Đây là một trong những điểm quan trọng của giáo lý Đạo Phật.
 It is extremely important to have confident belief in the laws of behavioral cause and effect and the process that follows, in terms of constructive and destructive actions. This is one of the major points in the Buddhist teachings.
Nhìn vào thí dụ của những con kiến và con ong, trong Anh ngữ người ta liên hệ như "những côn trùng xã hội" bởi vì chúng sống trong những cộng đồng đông đảo. Chúng ta phải nói rằng loài người cũng là những động vật xã hội. Chúng ta sống trong xã hội, và vì thế thật cần thiết để quan tâm đến những người khác.
Look at the example of ants and bees, in English they are referred to as “social insects” because they live in large communities. We have to say that humans are social animals as well. We live in society, and therefore it is necessary to be considerate toward other people.
Chúng ta cần cố gắng để thực tập bao dung từ bên trong, và rồi thì mở rộng điều này đến những cộng đồng khác. Khi tất cả chúng ta phải làm việc và sống với nhau, lừa đảo và gạt gẫm người khác thì không lợi ích gì, có phải không?
We need to try to practice tolerance from within, and then expand this to other communities. When we all have to work and live together, to cheat and fool each other is of no help, is it?
Khi mà chúng ta còn phải lệ thuộc vào người khác để hổ trợ và thân ái, thì chúng ta phải học hỏi vấn đề sinh sống với họ như thế nào. Chúng ta cần học hỏi ý nghĩa của sự chung sống hòa bình.
As long as we must depend on other human beings for help and kindness, we will have to learn how to live with them. We need to learn the means of peaceful coexistence.

Khi chúng ta sống trong xã hội và mọi người đều muốn hạnh phúc, cách duy nhất mà chúng ta có hạnh phúc là mọi người phải hợp tác, vì thế có những mối quan hệ ràng buộc và hòa hiệp giữa mọi người. Nơi nào mà nó không tồn tại, ngay cả trong gia đình, khi không có mối quan hệ ràng buộc và hòa hiệp, thì chuyện ấy không xảy ra. Nó tạo ra một sự bất hạnh và xích mích lớn. Nếu mọi người hòa hiệp, thế thì có khả năng tốt cho hạnh phúc hiện diện trong toàn thể cả nhóm.
As we live in society and everybody wants happiness, the only way that we are going to get happiness is for everybody to cooperate, so that there are close bonds and harmony between everyone. Where that doesn’t exist, even within a family, when there isn’t a close bond and harmony, it just doesn’t work. It causes a great deal of unhappiness and discord. If everybody is harmonious, then there is a good possibility of happiness coming to the entire group.
Một sai lầm lớn mà người Trung Cộng đã làm trong việc lan rộng sự hoài nghi và ngờ vực giữa những người thân, giữa cha mẹ và con cái, giữa người với người. Đây là chỗ mà họ đã thất bại trong việc quảng bá mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa xã hội và cộng sản.
This is the worst mistake that the Chinese communists have made in spreading doubt and suspicion between relatives, between children and parents, between people. This is where they have failed to spread the ideal goals of socialism and communism.
Không có ai trên thế giới này mà không quan tâm và yêu mến chính họ. Nhưng khi chính quyền cộng sản cố gắng để đem chủ nghĩa xã hội dưới họng súng hay dùi cui, nó cho thấy họ không có bất cứ sự tôn trọng hay quan tâm nào đến con người hay lưu tâm chân thành một tí xíu nào đối với người khác. Vậy thì họ đạt đến mục tiêu của họ như thế nào?
There is nobody in this world that doesn’t care for and cherish oneself. But when communist governments try to bring socialism at the point of a gun or a club, it shows they don’t have any respect or regard for the individual and little sincere concern for others. So how can they achieve their goals?

Chúng ta cần nhận ra rằng không có ai là bạn tuyệt đối hay một kẻ thù tuyệt đối, là kẻ luôn luôn trú trong đặc trưng ấy.
We need to realize that nobody is an absolute friend or an absolute enemy who will always stay in that category.
Người nào đó có thể có tiền bạc và tài sản vật chất khổng lồ, nhưng nếu trong tâm ý họ không toại nguyện với việc ấy, thì họ trải nghiệm cùng loại với khổ đau giống như họ nghèo. Bất chấp họ có nhiều bao nhiêu đi nữa, nhưng trong tâm ý họ thì họ nghèo và họ đau khổ.
Someone could have enormous sums of money or material wealth, but if in their mind they are not content with that, they experience the same type of suffering as if they were poor. It doesn’t matter how much they have, in their mind they are poor and they suffer.
Nếu chúng ta không thể lợi dụng sự hiện hữu này, thế thì giống như sự lãng phí năng lượng và những cái răng của chúng ta, và chúng ta đã làm ra vô số sự đau đớn không cần thiết với hàm răng của chúng ta, để nhai thức ăn. Cho nên quý vị thấy, thật rất quan trọng để cố gắng thấy thực tại thật sự về hoàn cảnh mà chúng ta sống, bởi vì nếu chúng ta không tỉnh thức về thực tại thì nó sẽ tạo ra nhiều rắc rối.
If we haven’t been able to take advantage of this existence, then it is like wasting our energy and our teeth, and we have unnecessarily caused a lot of pain to our jaws, chewing things. So you see, it is quite important to try to see the actual reality of the situation in which we live, because when we are not aware of the reality it causes a lot of problems.
Nếu chúng ta không làm gì lợi ích cho kiếp sống này, và chỉ dành thời gian chúng ta để ăn những thứ rác rưởi kinh hồn như thế giống như một con heo, thức ăn hay bất cứ điều gì, vấn đề là tất cả chúng ta đã làm gì? Và chúng ta đã từng làm điều này từ thời vô thỉ kiếp.
If we’ve made no use of our life, and have just spent our lifetime eating a tremendous amount of garbage like a pig, food or whatever, what was the point of all we’ve done? And we’ve been doing this for beginningless lifetimes.

Như trong một trò chơi với hột xí ngầu, những lần gieo khác nhau và chúng ta liên tục phải sanh ra bằng năng lực của vọng tưởng và nghiệp lực của chúng ta.
As in gambling with dice, different throws come up and we’re constantly taking births by the force of our delusions and our karma.

Nếu hoàn cảnh là thế này, chúng ta chỉ giống như một bụi cỏ hay một cây trong cánh đồng - chúng ta cắt nó và nó mọc lên, chúng ta cắt nó và nó mọc lên - không có gì lý thú. Không có gì mà cái cây kia có thể làm được, ngoại trừ liên tục mọc lên và bị cắt xuống, mọc lên và bị cắt xuống.
If this situation were just like a plant or a tree in a field – we cut it and it grows, we cut it and it grows – there’s no point. There’s nothing that the tree can possibly do, except constantly to grow and be cut down, grow and be cut down.
Chúng ta đã từng mang nhiều loại tái sanh khác nhau, nhưng có bao nhiêu lần mà chúng ta thật sự có thể thực hiện thực chất của một sự tái sanh đầy đủ ý nghĩa và làm nó đáng giá; và có bao nhiêu kiếp sống mà chúng ta đã lãng phí?
We’ve taken many different types of rebirth, but how many times have we actually been able to take the essence of a meaningful rebirth and made it worth having; and how many lives have we just wasted?
Sanh ra hết lần này đến lần khác, không có sự ngừng nghĩ, có vô số thân thể, tốt và xấu, lần nữa và lần nữa - cố gắng để tìm hiểu vòng sanh tử bất tận này, quán chiếu nó, có thể là căn bản cho việc phát triển sự viễn ly, một quyết định tự do khỏi vòng sanh tử tái diễn không thể kiểm soát này.
Being born over and over, with no respite, taking countless bodies, good and bad, again and again – trying to fathom this endless round of births, contemplating it, can be a basis for developing renunciation, a determination to be free from the uncontrollably recurring cycle of birth and death.

Chúng ta cần nhìn vào chính mình và xem xét hoàn cảnh của chúng ta: chúng ta có một căn bản hoạt động của một thân thể với một vị thế tái sanh cao, và từ những vị thế tái sanh cao của một chúng sanh hoặc là người hay trời, chúng ta có một sự tái sanh làm người, là tốt nhất.
We need to look at ourselves and consider our situation: we have a working basis of a body with a higher status rebirth, and out of the higher status rebirths of being either a human or a god, we have a human rebirth, which is best.

Ẩn Tâm Lộ, Friday, November 06, 2015

(2) TRÍCH DẪN TỪ LUẬN GIẢI VỀ SỰ RÈN LUYỆN NHƯ TIA SÁNG



Chúng ta cần có một động cơ thích đáng cho việc lắng nghe giáo huấn; bằng khác đi chúng ta sẽ mất một cơ hội để xây dựng một năng lực tích cực lớn là phước đức và hòa nhập giáo huấn này vào trong sự tương tục tinh thần của chúng ta. Chúng ta không cố gắng để được động viên bởi việc muốn mọi việc cải thiện trong kiếp sống này, hay để cải thiện những kiếp sống tương lai của chúng ta hay ngay cả bằng việc muốn đạt đến giải thoát chỉ riêng cho chúng ta. Đúng hơn, chúng ta cố gắng đề có một động cơ toàn triệt  của xu hướng tâm giác ngộ - tâm bồ đề - bodhichitta, nguyện ước đạt đến Giác Ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
We need to have a proper motivation for listening to the teachings; otherwise we will miss an opportunity to build up a great deal of positive force and to incorporate this teaching in our mental continuum. We try not to be motivated by wanting things to improve in this lifetime, or to improve our future lifetimes, or even by wanting to gain liberation just for ourselves. Rather, we try to have the full motivation of the bodhichitta aim, wishing to attain enlightenment for the benefit of all beings.
Hãy nghĩ, "Tôi không lắng nghe điều này chỉ cho lợi ích riêng tôi hay cho sự giải thoát riêng tôi. Tôi đang mở rộng trái tim tôi đến tất cả chúng sanh của một nguyện ước làm lợi ích họ và để đạt đến Giác Ngộ vì lợi ích của họ." Và, "Tôi chắc chắn sẽ cố gắng để hòa nhập tất cả những giáo huấn này với sự tương tục tinh thần của tôi và để nhận ra tất cả những tình trạng chưa được thuần hóa của tâm thức mà tôi có. Dần dần, tôi sẽ điều chỉnh tất cả những điều này tối đa như có thể."
Think, “I’m not listening to this just for my own sake or for my own liberation. I’m opening my heart to all beings out of a wish to benefit them and to achieve enlightenment for their sakes.” And, “I’m definitely going to try to integrate all these teachings with my mental continuum and to recognize all the untamed states of mind that I have. Gradually, I’m going to correct all of these as much as is possible.”
Nếu chúng ta nghĩ về những giáo huấn này chỉ đơn thuần như lý thuyết suông, chúng sẽ không có nhiều lợi ích. Thay vì thế, chúng ta so sánh chúng với những thể trạng của tâm thức và thái độ của chúng ta, và nghĩ, "Tôi chắc chắn sẽ cải thiện chính tôi; tôi thật sự sẽ cố gắng để nhận ra những khuyết điểm của tôi nằm đâu và tự chuyên tâm để tu sửa chúng," điều này chắc chắn sẽ lợi ích rất lớn và là một kinh nghiệm sâu sắc hơn.

If we think of these teachings as merely theoretical, they’re not going to be of much benefit. Instead, if we compare them to our states of mind and attitudes, and think, “I’m definitely going to improve myself; I’m really going to try to recognize where my deficiencies lie and apply myself to correcting them,” this will definitely be of much greater benefit and a much deeper experience.

Có tâm giác ngộ quy ước (tâm giác ngộ tương đối) và tâm giác ngộ cứu kính (tâm giác ngộ sâu sắc nhất). Tâm giác ngộ quy ước là một tâm thức hay trái tim hướng vào sự thật quy ước (thế đế) của tất cả chúng sanh và Giác Ngộ; trong khi tâm giác ngộ cứu kính là một tâm thức ở sự thật sâu nhất, lẽ thật cứu kính, là tánh không của chúng hay sự vắng mặt hoàn toàn của những cung cách tồn tại không thể có (hoàn toàn không có cách thể hiện có). Đây là hai thể trạng tinh thần và thái độ đối với đời sống mà chúng ta chắc chắn sẽ phát triển trong sự tương tục tinh thần của chúng ta.
There are conventional bodhichitta  (relative bodhichitta) anddeepest bodhichitta (ultimate bodhichitta).  Conventionalbodhichitta is a mind or heart aimed at the conventional (relative, superficial, surface, apparent) truth of all beings and enlightenment; while deepest bodhichitta is a mind aimed at their deepest truth, their voidness or total absence of impossible ways of existing. These are the two mental states and attitudes toward life that we are definitely going to develop on our mental continuums.

Nếu tâm thức chúng ta ổn định như thế, thì chúng ta có thể đối phó với bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào hiện hữu. Chúng ta không bao giờ mất bình tĩnh. Nếu chúng ta lấy tất cả những hoàn cảnh tiêu cực và không lợi lạc này và hướng chúng vào con đường tu tập, chúng có thể trở thành một bộ phận của con đường tâm linh của chúng ta.
If our minds are stable like that, we can handle any difficult circumstances that may come up. We never get daunted. If we can take all these negative and nonconducive circumstances and turn them into a pathway, they become part of our spiritual path.
Chúng ta nghĩ về sự tái sanh loài người quý giá và điều ấy đưa thẳng chúng ta đến tâm giác ngộ. Rồi thì chúng ta nói về sự chết và vô thường và những thứ này cũng đưa chúng ta thẳng đến việc phát triển tâm giác ngộ.
We think of the precious human rebirth and that leads us straight to bodhichitta. Then we think of death and impermanence and that too takes us straight to the development of bodhichitta.
Bố cục liên hệ để thực hành trong buổi thiền tập và giữa các buổi thiền tập. Điều này có nghĩa là chúng ta không phải chỉ dấn thân trong việc thực hành Phật Pháp khi ngồi tréo chân và trì tụng đủ thứ lời cầu nguyện và rồi lúc ngơi nghĩ quên lãng và quẳng nó đi. Chúng ta thật kéo dài sự thực hành cả trong những buổi thiền tập nghi thức và trong thời gian bình thường.
The outline refers to practice during the meditation session and between sessions. This means that we don’t engage in Dharma practice only when we are sitting cross-legged and reciting various prayers and then the rest of the time forget about it and throw it away. We do sustained practice both during our formal sitting and in-between.

Chúng ta thực hiện những buổi thiền tập nghi thức, tích lũy việc nạp năng lượng điện, và rồi thì chúng ta sử dụng nó trong ngày thường. Không phải chúng ta tu tập trong những buổi hành thiền và rồi hành độngnhư hoàn toàn không tu tập gì cả lúc bình thường; chúng ta cần trước sau như một. Chúng ta cần cố gắng để đem tâm thức chúng ta, trong tất cả mọi trình độ khác nhau, để xử sự phù hợp với giáo huấn.
We do our actual meditation sessions, building up our charge of energy, and then the time when we use it during our daily lives. It’s not that we are religious during our meditation sessions and then act totally irreligiously in between; we need to be consistent. We need to try to bring our minds, on all different levels, to behave in accord with the teachings.

Dĩ nhiên, mọi người muốn hạnh phúc và mọi người cố gắng để theo những phương pháp khác nhau để đem hạnh phúc đến. Và dĩ nhiên, mọi người cần những nhu cầu khác nhau trong đời sống. Nhưng, khi chúng ta cố gắng để đem hạnh phúc đến qua những phương pháp phóng túng và như vậy sẽ làm tổn hại người khác, hay chúng ta cố gắng để lợi dụng người khác, đây chính là những thứ chúng ta đang cố gắng để chấm dứt và xa lìa.
Everybody, of course, wants to be happy and everybody tries to follow different methods to bring about that happiness. And of course, everybody needs the various necessities of life. But, when we try to bring about this happiness through methods that are unruly and that will hurt others, or we try to take advantage of others, these are the very things we are trying to stop and get rid of.
Nếu chúng ta hành động thật cẩn thận và hòa nhập việc hành thiền và giữa những thời khóa tốt với mọi người, rồi thì chúng ta sẽ thấy rằng việc hành thiền sẽ phục vụ cho việc cải thiện thái độ của chúng ta giữa những thời khóa, và những hành vi của chúng ta giữa các buổi tu tập sẽ cống hiến cho việc cải thiện việc hành thiền của chúng ta. Ngày qua ngày, chúng ta sẽ thấy một sự cải thiện nào đó.
If we act very carefully and integrate the meditation and in-between sessions well with each other, then we will find that the meditation will serve to improve our behavior between sessions, and our in-between sessions’activities will contribute to improving our meditations. Day by day, we’ll find some improvement.

Vào lúc bắt đầu một thời khóa thiền tập thật sự, thật rất quan trọng là thẩm tra động cơ của chúng ta về vấn đề tại sao chúng ta hành thiền. Chúng ta cần tái khẳng định sự quy y, chọn phương hướng an toàn mà chúng ta đang thực hiện trong đời sống, như được hướng dẫn bởi chư Phật, giáo Pháp và Tăng già, chúng ta cần tái khẳng định xu hướng tâm giác ngộ (bodhichitta) của chúng ta.
At the beginning of the actual meditation session it is very important to examine our motivation of why we are meditating. We need to reaffirm the safe direction we are taking in our lives, as indicated by the Buddhas, the Dharma, and the Sangha, and we need to reaffirm our bodhichitta aim.
Thật rất quant trọng để giữ nhà cửa và phòng ốc chúng ta sạch sẽ, và xếp đặt sự cúng dường. Khi chúng ta quét và làm sạch, nhiều tư tưởng có thể hổ trợ, chẳng hạn như, "Trong khi tôi đang làm sạch sàn nhà này, tôi làm sạch tâm thức tôi." Chúng ta không cần phải nghĩ rằng chúng ta chỉ đang làm nó dễ thương cho chính chúng ta, mà chúng ta đang làm việc ấy để biểu lộ sự tôn kính đến những đối tượng quy y và thực hành.
It is very important to keep our homes and our rooms clean, and to set up some sort of offeringarrangement. As we sweep and clean, various thoughts can help, such as, “While I’m cleaning this floor, I’m cleaning my mind.” We need not think that we are just making it nice for ourselves, but we are doing it to show respect for the objects of refuge and the practice.

Đây chính xác là vấn đề chúng ta cần thực hành Phật Pháp như thế nào. Khi chúng ta nhận thấy mình phát khởi một xu hướng tiêu cực, chúng ta cần tự bắt lấy mình và dừng hành vi lại trong cách ấy. Vấn đề chính của Phật Pháp là việc xử sự ngăn ngừa chính mình  và ngay khi chúng ta thấy chính mình bắt đầu làm việc gì đấy mà chúng ta biết là không thích đáng, chúng ta tự dừng lại đừng làm việc ấy.
This is exactly how we need to practice the Dharma. When we catch ourselves yielding to a negative tendency, we need to catch ourselves and stop acting in that way. The main point of Dharma is taking preventive measures and as soon as we see ourselves starting to do something we know is improper, we stop ourselves from doing it.
Vấn đề chính trong Phật Pháp là luôn luôn hành động để cải thiện những phẩm chất nội tại, chứ không phải sự cải thiện bên ngoài.
The main point in the Dharma is always to work on improving internal qualities, not on external improvement.
Milarepa đã làm những sự cúng dường tuyệt vời nhất: ngài không có bất cứ thứ gì bên ngoài để dâng cúng, mà ngài hoàn toàn dâng hiến trái tim của ngài cho sự thực hành Phật Pháp.
Milarepa made the best offerings: he didn’t have anything external to give, but he gave his heart totally to Dharma practice.

Phật Pháp là để cải thiện tâm thức chúng ta, không phải để phô trương bên ngoài.
Dharma is to improve our minds, not to put on a big external show.
"Tôi nguyện theo một phương hướng mạnh mẽ an toàn trong đời sống của tôi, với sự quy y. Tôi dâng hiến trái tim tôi cho mục tiêu của tâm giác ngộ, để được Giác Ngộ, để hổ trợ tất cả chúng sanh, và tôi sẽ thực tập điều này để xây dựng nên một năng lực tích cực mạnh mẽ để đạt đến mục tiêu ấy."
 “I’m giving a strong, safe direction to my life, with refuge. I’m dedicating my heart to the bodhichitta aim, to enlightenment, to helping all beings, and I’m going to do this practice to build up strong positive force to reach that goal.”

 "Một vị hướng dẫn tâm linh là vị nào đó nguyên tắc, với một tâm thức tĩnh lặng, an trú và tuệ giác sâu lắng, có những phẩm chất siêu việt, nhiệt tình, biết nhiều giáo huấn, thấu hiểu đầy đủ về tánh không, thiện xảo trong việc giải thích, từ ái, và kiên nhẫn."
“A spiritual mentor is someone who is disciplined, with a calm, settled mind and deep insight, has superior qualities, is enthusiastic, knows many teachings, fully understands voidness, is skilled in explaining it, is loving, and persevering.”
Những đệ tử cần có một sự thích thú chân thành trong việc học hỏi và một sự quan tâm chân thành trong việc tự cải thiện chính họ. Luận điển nói đừng dạy giáo Pháp cho những ai không quan tâm chân thành hay những ai chỉ có tính tò mò của óc thông minh.
The disciples need to have a sincereinterest in learning and a sincere interest in improving themselves. The texts say not to teach Dharma to those who aren’t sincerely interested or who have just intellectual curiosity.

Milarepa nói, "Tôi không có đồ dâng cúng vật chất để cúng dường vị hướng dẫn tâm linh của tôi, nhưng tôi có thể biểu lộ sự cảm kích vào sự ân cần của ngài bằng chí nguyện của chính tôi để thực hành một cách chính xác những gì ngài nói."
Milarepa said, “I have no material objects to offer to my spiritual mentor, but I can show my appreciation for his kindness by committing myself to practicing exactly what he says.”
Chúng ta cần kiểm tra những giảng dạy của vị ấy và thử nghiệm đạo phong và phẩm chất của vị ấy. Không tốt để chấp nhận một vị thầy tâm linh như vị hướng dẫn của chúng ta, và rồi thì thấy vị ấy có những khuyết điểm và phạm phải những lỗi lầm, vì thế sau này chúng ta trở mặt với vị ấy do bởi những khiếm khuyết này. Điều ấy thật là một hoàn cảnh đau lòng và bất hạnh. Chúng ta cần thẩm tra một cách thật cẩn thận ngay từ lúc đầu, như được nói trong giáo huấn trươc khi nương tựa vào vị nào đấy.
We need to check the mentor’s teachings and test his or her qualities and qualifications. It’s not good to accept a spiritual teacher as our mentor, and then to find that he or she has faults and make mistakes, so that we later turn away from the person because of these faults. That’s a very painful and unfortunate situation. We need to examine very carefully from the start, as it says in the teachings before committing ourselves to someone.

Chúng ta cần phản chiếu, từ thời vô thỉ, chúng ta đã từng ở dưới năng lực và tác động của tâm thức chúng ta và tâm thức chúng ta đã từng ở dưới năng lực và tác động của những cảm xúc và thái độ phiền não.
We need to reflect that, from beginningless time, we have been under the power and influence of our minds and our minds have been under the power and influence of disturbing emotions and attitudes.
Khi những giáo huấn khác nhau nói "từ thời vô thỉ", chúng có nghĩa gì? Những hệ thống khác nói về đấng tạo hóa thế giới trình bày một sự bắt đầu, sự sáng thế. Ở đây, mọi thứ không được trình bày như có một sự bắt đầu tuyệt đối. Cho nên "từ thời vô thỉ" có nghĩa là từ những sự tái sanh tiền kiếp vô hạn.
When various teachings say “from beginningless time,” what do they mean by that? Other systems that speak of the creation of the world present a beginning, the creation. Here, things are not presented as having an absolute beginning. So “from beginningless time” means from infinite previous rebirths.
Tâm thức cũng là điều gì đấy không có bắt đầu. Thật quan trọng để thiết lập sự hiện hữu của nó và mối quan hệ của nó với thân thể vật lý. Không phải là điều gì đấy vật lý, nhưng nó liên hệ đến thân thể vật lý; nó không phải vật chất, cũng không phải sản phẩm vật lý. Cũng thế, có nhiều trình độ khác nhau của tâm thức, từ thô đến vi tế. Nó là sự tương tục của trình độ vi tế nhất của nó, thấu về quá khứ vô lượng kiếp sống, không có một sự bắt đầu.
Mind is also something that has no beginning. It’s important to establish its existence and its relation with the physical body. It’s not something physical, but it is related to the physical body; it’s not a substance, nor a physical product. Also, there are different levels of mind, from gross to very subtle. It is the continuum of its subtlest level that reaches back over countless lifetimes, without a beginning.

Đức Phật nói rằng nếu tâm là điều gì đấy có thể được tạo ra mới đây, hay là một hiện tượng thoáng qua chỉ đến và đi, hay được tạo ra bởi Thượng đế , thì thật rất khó để thuần hóa và điều khiển nó. Trái lại, nếu chúng ta nghĩ về tâm thức đến từ vô thỉ, và những trải nghiệm đến từ những sự thúc đẩy nghiệp, căn cứ trên những hành vi trước đây, thế thì chúng ta có thể áp dụng nhiều phương pháp để thuần hóa tâm thức.
Buddha said that if mind were something that could be newly created, or was a fleeting phenomenon that just came and went, or was created by a god, it would be very difficult to tame and control it. On the other hand, if we think of mind coming from beginningless time, and experiences coming from karmic impulses, based on previous actions, then we can apply various methods to tame the mind.
Có thể phát triển thần thông và cho những điều tiên đoán nào đó về tương lai; nhưng nếu không có mối quan hệ về một sự kiện tương lai với sự tương tục của tâm thức, thế thì người ta không thể tiên đoán ngay cả một chút dấu vết gì về tương lai. Thần thông không sinh khởi bổng nhiên không nền tảng; nó căn cứ vào những nguyên nhân và hoàn cảnh đa dạng trong sự tương tục tinh thần thật sự của người có khả năng ấy.
It is possible to develop clairvoyance and give certain predictions of the future; but if there is no relationship of a future event with the continuity of consciousness, then one is not able to guess even a hint of the future. Clairvoyance doesn’t arise from nowhere; it is based on the various causes and circumstances in the actual mental continuum of the individual who has it.
Chúng ta trải nghiệm bất hạnh và khổ đau như những gì chín muồi từ năng lực nghiệp tiêu cực đã đến như kết quả của những hành vi tiêu cực của chúng ta. Chúng ta hành động trong những cung cách ấy do bởi những thúc đẩy nghiệp tiêu cực sinh khởi từ tâm thức chúng ta. Và chúng đã đến từ đâu? Chúng đến từ tâm thức chúng ta không ở dưới sự kiểm soát của chúng ta.
We experience unhappiness and suffering as what ripens from the negative karmic force that has come as the aftermath of our destructive actions. We acted in those ways because of the destructive karmic impulses that arose in our minds. And where did they come from? They came from our minds not being under our control.
Thật cần thiết để đem tâm thức chúng ta dưới sự điểu khiển, và không để chúng diễn ra dưới ảnh hưởng của những cảm xúc và thái độ phiền não. Chúng ta cần bắt buộc chúng ở dưới sự điều khiển của những cảm xúc và thái độ xây dựng, tích cực.
It is necessary to bring our minds under control, and not let them go under the influence of disturbing emotions and attitudes. We need to have them under the control of constructive, positive emotions and attitudes.

Qua việc thường xuyên tập luyện và làm cho quen thuộc, thiền tập sẽ xây dựng thành như một thói quen nào đó của những thể trạng tích cực của tâm thức. Những thể trạng này làm cho tâm thức chúng ta uyển chuyển hơn vì thế chúng ta có thể áp dụng chúng đến những thể trạng tích cực xa  hơn. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn làm điều này, tâm thức chúng ta cần ổn định.
Through repetition and familiarization, meditation builds up as a habit certain positive states of mind. These states make our minds flexible so that we can apply them to further constructive states. If we want to do this, however, our minds need to be stable.
Khi chúng ta cố gắng qua thiền tập, để thực hiện lòng bi mẫn thành một thói quen rất mạnh mẽ, nếu tư tưởng về vô thường hay khổ đau và những rắc rối sinh khởi, mặc dù những tư tưởng như vậy một cách lý thuyết có thể là một sự hổ trợ, tại một thời điểm nhất định của việc cố gắng để xây dựng sự tập trung về bi mẫn, nhưng chúng là những chướng ngại. Chúng ta cần hoàn toàn hòa nhập sự tập trung của chúng ta, một cách nhất tâm, trong đối tượng của thiền tập.
When we are trying, through meditation, to make compassion a very strong habit, if thoughts of impermanence or of suffering and problems arise, although such thoughts theoretically can be a help, at the particular time of trying to build up concentration on compassion, they are hindrances. We need to immerse our minds and absorb our concentration totally, single-pointedly, in the object of the meditation.

Những hành vi mà chúng ta thực hiện trong quá khứ mang đến, như một tác động của những hành vi này, đến những sự sanh ra mà chúng ta có. Và những gì chúng ta làm trong kiếp sống này sẽ quyết định cho những sự tái sanh trong tương lai của chúng ta.
Actions that we took in the past brought about, as an effect of those actions, the births we have had. And what we do in this lifetime will determine our future rebirths.

Một tu sĩ có thể nghĩ, "Mặc dù như một tu sĩ tôi tuân theo những giới luật nào đó, nhưng nếu tâm thức tôi bị nhiễm ô bởi những thái độ phiền não, thì tôi sẽ lãng phí cơ hội mà tôi có." Thế nên chúng ta cần sử dụng một cách thích đáng thời gian và cơ hội mà chúng ta có. Ngay khi thức dậy trong buổi sáng, chúng ta thực hiện nhiều cầu nguyện và trì tụng đủ thứ. Nếu tâm thức chúng ta lang thang, chúng ta cố gắng kiểm soát đem nó lại. Chúng ta không thể đánh mất cơ hội - ngay cả nếu chúng ta cần phải tát vào mặt chúng ta để trở lại điểm hành thiền!
A monk may think, “Although as a monk I follow certain disciplines, if my mind becomes deluded by disturbing attitudes, I will waste this opportunity I have.” So we need to make proper use of the time and opportunities that we have. As soon as we awake in the morning, we do our various prayers and recitations. If our mind starts to wander, we try to bring it back. We cannot lose the opportunity – even if we need to slap our face to come back to the point of the meditation!

Điều gì đó đặc thù chúng ta muốn bảo về chống lại là việc nổi giận. Nếu chúng ta nổi giận với người khác, như Tịch Thiên nói trong Hướng Dẫn Lối Sống Bồ tát, là nó sẽ phá hủy tất cả mọi năng lực tích cực mà chúng ta đã xây dựng trong sự tương tục tinh thần của chúng ta. Tịch Thiên, cũng nói với chúng ta rằng nguyên nhân cho sự nổi giận là rất nhiều, bởi vì không chỉ chúng ta nổi giận với những  người chọc tức ta, mà chúng ta thậm chí trở nên không kiên nhẫn với những con chim hót quá lớn! Chúng ta khó chịu không cần thiết  một cách quá dễ dàng vì thế chúng ta phải chăm sóc để cảnh giác với xu hướng này đối với sân hận.
Something we particularly want to safeguard against is getting angry. If we become angry with others, as Shantideva says inEngaging in Bodhisattva Behavior, it devastates all the positive force we have built up on our mental continuum. Shantideva also tells us that the causes for anger are many, because not only do we get angry at people who irritate us, we even become impatient with birds singing loudly! We get unnecessarily upset so easily that we have to take care to be aware of this tendency toward anger.
Những người nào không tuân theo con đường tâm linh một cách đúng đắn thì giống như một con lừa kiệt sức dừng lại bên đường và không thể di chuyển hay làm thêm bất cứ tiến trình nào.
People who don’t follow the spiritual path correctly are like an exhausted donkey that stops along the path and cannot move or make any more progress.
Chúng ta cần tự hỏi mình, chúng ta thật sự có những điều kiện nguyên nhân hoàn toàn trong chúng ta để đạt được một sự tái sanh thân người quý giá không? Khi chúng ta nghĩ trong cách này, thì chúng ta có thể đánh giá đúng thử thách về vấn đề có ít người như thế nào được tái sanh thân người quý giá, và vấn đề khó khăn thế nào để tích tập những  nguyên nhân cho việc đạt đến sự tái sanh thân người quý giá.
We need to ask ourselves whether we actually have the complete conditions and causes within us to attain a precious human birth. When we think in this way, we can appreciate the challenge of how few precious human births there are, and how hard it is to accumulate the causes for achieving one.

Như sự thiết lập Giáo Pháp, nó được tạo thành không phải vì lợi ích của chính các Đức Phật, nhưng vì lợi ích của những ai muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau - những chúng sanh như chúng ta. Và nó được dạy để làm cho chúng ta có thể kiểm soát và thuần hóa tâm thức chúng ta.
As for the establishment of the Dharma, it was created not for the benefit of the Buddhas themselves, but for the benefit of those who want happiness and don’t want suffering – beings such as us. And it was taught to enable us to control and tame our minds.
Nếu chúng ta có hoàn cảnh ngoại tại của việc có một vị hướng dẫn tâm linh đầy đủ phẩm chất và hoàn cảnh nội tại của một sự tái sanh thân người quý giá, thì chúng ta có khả năng để thực hiện một tiến trình và đạt đến những mục tiêu này. Nếu chúng ta thậm chí nghĩ xa hơn, từ một trình độ sâu xa hơn, trong dạng thức của Phật tánh, quả vậy chúng ta thật có tất cả những nhân tố thiết yếu sẽ cho phép chúng ta tiến hóa hoàn toàn thành những Đức Phật.
If we have the external circumstance of having a spiritual mentor who is fully qualified and the internal circumstance of a precious human rebirth, we have the ability to make progress and achieve these goals. If we think even further, from a deeper level, in terms of Buddha-nature, we indeed do have all the essential factors that will allow us to fully evolve into Buddhas.
Lời nhắc nhở không lãng phí lần này là điều gì đó mà chúng ta phải để ý ngay bây giờ, không phải "năm tới", hay trong một tương lai mơ hồ nào đó. Chúng ta không thể bỏ lở thời điểm này! Đây là bởi vì cuộc sống có thể thật là ngắn ngủi, và cung cách tốt nhất để tận dụng sự tái sanh thân người quý giá của chúng ta là để phát triển khuynh hướng tâm giác ngộ - tâm bồ đề - hay bodhicitta.
The admonition not to waste this time is something we must heed right now, not “next year,” or in some vague future. We cannot waste this moment! This is because life can be quite short, and the best way to take advantage of our precious human rebirth is to develop a bodhichitta aim.

Chúng ta hãy phản chiếu, một cách sâu sắc, trên vấn đề một kiếp sống con người quý giá có thể hiếm hoi và ngắn ngủi như thế nào. Chúng ta hãy quyết tâm, một cách dứt khoát, để sử dụng nó trong một cách tận lực nhất, thực hiện cầu nguyện và thỉnh cầu để làm điều này bằng việc phát triển khuynh hướng tâm giác ngộ. Đây là hoàn tất sự chuẩn bị đầu tiên.
Let us reflect, deeply, on how rare and short a precious human life can be. Let us resolve, decisively, to use it in the best possible way, making prayers and requests to do this by developing a bodhichitta aim. This completes the first preliminary.