Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016

NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT QUAN TRỌNG VỚI TÔN GIÁO KHÁC

NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT QUAN TRỌNG VỚI TÔN GIÁO KHÁC
MAJOR DIFFERENCES FROM OTHER REGILIONS
1- Không có một đấng Thượng Đế toàn năng trong Đạo Phật. Không có ai đưa ra sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong một Ngày Phán Xét giả định.
1. There is no almighty God in Buddhism. There is no one to hand out rewards or punishments on a supposedly Judgement Day.
2- Đạo Phật hoàn toàn không phải là một tôn giáo trong phạm vi của một đức tin và thờ phượng do lòng trung thành một thế lực siêu nhiên.
2. Buddhism is strictly not a religion in the context of being a faith and worship owing allegiance to a supernatural being.
3- Không có khái niệm cứu rỗi trong Đạo Phật. Một Đức Phật không phải là một đấng cứu rỗi bằng năng lực cứu độ cá nhân của Ngài. Mặc dù người Phật tử quy y với Đức Phật như bậc hướng dẫn vô song, bậc chỉ con đường của tịnh hóa, nhưng người Phật tử không như đầu phục như nô lệ. Người Phật tử không nghĩ rằng người ấy có thể đạt đến sự tịnh hóa chỉ đơn thuần bằng việc quy y với Đức Phật hay chỉ bằng việc có niềm tin trong Ngài. Không phải vì năng lực của Đức Phật mà rửa sạch sự ô nhiễm của kẻ khác.
3. No saviour concept in Buddhism. A Buddha is not a saviour who saves others by his personal salvation. Although a Buddhist seeks refuge in the Buddha as his incomparable guide who indicates the path of purity, he makes no servile surrender. A Buddhist does not think that he can gain purity merely by seeking refuge in the Buddha or by mere faith in Him. It is not within the power of a Buddha to wash away the impurities of others
4- Một Đức Phật không phải là một hiện thân của thần linh/ Thượng đế (như một số tín đồ Ấn Giáo tuyên bố). Mối quan hệ giữa Đức Phật và đệ tử của Ngài và tín đồ là của một vị thầy và học nhân.
4. A Buddha is not an incarnation of a god/God (as claimed by some Hindu followers). The relationship between a Buddha and his disciples and followers is that of a teacher and student.
5- Sự giải thoát tự ngã là trách nhiệm của tự thân. Đạo Phật không kêu gọi một đức   tin mù quáng vô điều kiện đối với tất cả mọi tín đồ Đạo Phật. Nó đặt nặng yếu tố tự chủ, tự giác và phấn đấu cá nhân.
5. The liberation of self is the responsibility of one's own self. Buddhism does not call for an unquestionable blind faith by all Buddhist followers. It places heavy emphasis on self-reliance, self discipline and individual striving.
6- Quy y với Ba Ngôi tôn quý là Phật, Pháp và Tăng; không có nghĩa là tự đầu hàng hay hoàn toàn nương tựa vào một sức mạnh ngoại tại hay một phía thứ ba cho việc hổ trợ hay cứu rỗi.
6. Taking refuge in The Triple Gems i.e. the Buddha, the Dharma and the Sangha; does not mean self-surrender or total reliance on an external force or third party for help or salvation.
7- Giáo Pháp (giáo lý Đạo Phật) tồn tại bất chấp có một Đức Phật hay không. Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni (Đức Phật lịch sử) khám phá và chia sẻ giáo lý/ lẻ thật phổ quát với tất cả chúng sanh. Ngài không phải là đấng sáng tạo ra những giáo lý như vậy cũng không phải là sứ giả của một Thượng Đế toàn năng trao truyền những giáo lý như vậy cho người khác.
7. Dharma (the teachings in Buddhism) exists regardless whether there is a Buddha. Sakyamuni Buddha (as the historical Buddha) discovered and shared the teachings/ universal truths with all sentient beings. He is neither the creator of such teachings nor the prophet of an almighty God to transmit such teachings to others.
8- Nhấn mạnh một cách đặc biệt trong Đại thừa Phật giáo là tất cả chúng sanh có Phật tánh/ bản thể. Một người có thể thành một Đức Phật (một chúng sanh siêu việt Giác Ngộ) qua một tiến trình  tu tập nếu người ấy thực hành một cách cần mẫn và đạt đến sự tịnh hóa của tâm thức (hoàn toàn không còn vọng tưởng hay phiền não).
8. Especially emphasized in Mahayana Buddhism, all sentient beings have Buddha Nature/ Essence. One can become a Buddha (a supreme enlightened being) in due course if one practises diligently and attains purity of mind (ie absolutely no delusions or afflictions).
9- Trong Đạo Phật, mục tiêu tối hậu của tín đồ/ hành giả là Giác Ngộ và/ hay giải thoát khỏi vòng luân hồi; thay vì đi đến một Thiên đàng ( hay thế giới chư thiên trong phạm trù của vũ trụ quan Phật giáo).
9. In Buddhism, the ultimate objective of followers/practitioners is enlightenment and/or liberation from Samsara; rather than to go to a Heaven (or a deva realm in the context of Buddhist cosmology).
10- Nghiệp và nghiệp lực là viên đá nền tảng của giáo lý nhà Phật. Chúng được giảng nghĩa rất kỷ lưởng trong Đạo Phật. Nghiệp liên quan đến một khái niệm siêu   hình quan trọng liên hệ với hành động và những hệ quả của nó. Quy luật về nghiệp này giải thích vấn nạn của những khổ đau, bí ẩn của điều được gọi là số mạng và tiền định của một số tôn giáo, và ở trên tất cả sự bất bình đẳng hiển nhiên của loài người.
10. Karma and Karma Force are cornerstones in Buddhist doctrines. They are expounded very thoroughly in Buddhism. Karma refers to an important metaphysical concept concerned with action and its consequences. This law of karma explains the problem of sufferings, the mystery of the so-called fate and predestination of some religions, and above all the apparent inequality of mankind.
11- Tái sanh là một giáo lý chìa khóa khác trong Đạo Phật và nó liên hệ mật thiết với nghiệp. Có một sự khác biệt vi tế giữa tái sanh và đầu thai như được giải   thích trong Ấn giáo. Đạo Phật phủ nhận lý thuyết về một sự đầu thai của linh hồn thường còn, cho dù nó được tạo ra bởi thượng đế hay hiện thân từ một bản thể thần linh.
11. Rebirth is another key doctrine in Buddhism and it goes hand in hand with karma. There is a subtle difference between rebirth and reincarnation as expounded in Hinduism. Buddhism rejects the theory of a transmigrating permanent soul, whether created by a god or emanating from a divine essence. 
12- Từ ái (sankrit: Maitri, pali: Metta) và Bi mẫn (karuna) đối với tất cả chúng sanh kể cả thú vật. Đạo Phật cấm chỉ triệt để việc giết hại súc sanh để cúng tế dù cứ lý do gì. Việc ăn chay được khuyến khích nhưng không bắt buộc.
12. Maitri or Metta in Pali (Loving Kindness) and Karuna (Compassion) to all living beings including animals. Buddhism strictly forbids animal sacrifice for whatever reason. Vegetarianism is recommended but not compulsory.
13- Tầm quan trọng của việc Không dính mắc – hành xả. Đạo Phật vượt khỏi hành động tốt và biểu hiện tốt. Hành giả không được dính mắc với những hành vi tốt hay ý tưởng làm việc tốt; bằng khác đi chỉ là một hình thức khác của tham chấp.
13. The importance of Non-attachment. Buddhism goes beyond doing good and being good. One must not be attached to good deeds or the idea of doing good; otherwise it is just another form of craving.
14- Trong Đạo Phật, có sự quan tâm cho tất cả chúng sanh (đối với con người, như trong những tôn giáo khác). Người Phật tử nhìn nhận sự tồn tại của thú vật và những chúng sanh trong các cõi khác của vòng Luân Hồi.
14. In Buddhism, there is consideration for all sentient beings (versus human beings, as in other religions). Buddhists acknowledge/accept the existence of animals and beings in other realms in Samsara.
15- Không có khái niệm thánh chiến trong Đạo Phật. Giết hại là phạm một giới đạo đức then chốt trong Đạo Phật. Phật tử bị cấm chỉ triệt để việc giết hại người khác nhân danh tôn giáo, một lãnh tụ tôn giáo hay viện cớ tôn giáo hay lý do trần tục.
15. No holy war concept in Buddhism. Killing is breaking a key moral precept in Buddhism. One is strictly forbidden to kill another person in the name of religion, a religious leader or whatsoever religious pretext or worldly excuse.
16- Khổ đau là một nền tảng khác của Đạo Phật. Đó là chân lý thứ nhất trong Tứ Diệu Đế. Khổ đau được phân tích và giải thích rất tỉ mỉ trong Đạo Phật.
16. Suffering is another cornerstone in Buddhism. It is the first of the Four Noble Truths. Sufferings are very well analysed and explained in Buddhism.
17- Ý tưởng về nguyên tội hay tội tổ tông không có vị trí trong Đạo Phật. Cũng thế, nguyên tội không nên bị đánh đồng với khổ đau.
17. The idea of sin or original sin has no place in Buddhism. Also, sin should not be equated to suffering.
18- Giáo lý Đạo Phật nói về sự không có khởi đầu và không kết thúc (vô thỉ và vô chung) đối với sự tồn tại của con người hay sự sống. Hầu như không có sự quan tâm đến nguyên nhân đầu tiên – hay như đầu tiên con người hình thành như thế nào? (Vì chúng ta sẽ đòi hỏi nguyên nhân của nguyên nhân đầu tiên …)
18. Buddhist teachings expound no beginning and no end to one's existence or life. There is virtually no recognition of a first cause — e.g. how does human existence first come about? (Because we will ask for the cause of the first cause…).
19- Giáo pháp cung ứng một giải thích rất chi tiết về giáo lý vô ngã (sankrit: anatman, Pali: anatta), nghĩa là không có thực thể linh hồn (cho dù trong một kiếp sống hay nhiều kiếp sống).
19. The Dharma provides a very detailed explanation of the doctrine of anatman {anatta in Pali} or soullessness , i.e. there is no soul entity (whether in one life of many lives).
20- Đức Phật là toàn giác toàn tri nhưng không toàn năng. Ngài có thể thực hiện vô lượng công đức nhưng có 3 việc Ngài không thể làm (không thể dứt hết nghiệp chướng của chúng sanh, không thể dứt hết khổ đau của chúng sanh, không thể độ tận chúng sanh). Cũng thế, một Đức Phật không tự nhận là một đấng tạo ra những sự sống hay vũ trụ.
20. The Buddha is omniscient but he is not omnipotent. He is capable of innumerable feats but there are three things he cannot do. Also, a Buddha does not claim to be a creator of lives or the Universe.
21- Bát nhã (Prajna [Sankrit], Panna [Pali]) Tuệ trí Siêu việt chiếm vị trí chính yếu trong giáo lý Đạo Phật. Đức Thế Tôn Thích Ca giảng dạy khái niệm Bát nhã trong gần 20 năm cho giáo đoàn. Nó được dạy để cân bằng từ bi và tuệ trí nghĩa là cảm xúc (đức tin) với nhân tố căn bản (chánh kiến/ lẻ thật/ luận lý).
21. Prajna [Panna in Pali] or Transcendent Wisdom occupies a paramount position in Buddhist teachings. Sakyamuni Buddha expounded Prajna concepts for some 20 years of his ministry. One is taught to balance compassion with prajna i.e.emotion (faith) with rationale (right understanding / truth / logic). 
22- Truyền thống và hành thiền trong Đạo Phật tương đối quan trọng và mạnh mẽ. Trong khi tất cả mọi tôn giáo dạy một số hình thức hay sự đa dạng của thiền định / nhất tâm thiền (chỉ), thì chỉ có Đạo Phật nhấn mạnh thiền quán/ thiền phân tích (Tuệ minh sát) như một khí cụ đầy năng lực để giúp hành giả trong việc   tìm kiếm giải thoát hay Giác Ngộ.
22. The tradition and practice of meditation in Buddhism are relatively important and strong. While all religions teach some forms or variations of stabilising/single-pointedness meditation, only Buddhism emphazises Vipassana (Insight) meditation as a powerful tool to assist one in seeking liberation/enlightenment.
23- Giáo lý Tánh không hay Sunyata là đặc biệt của Đạo Phật và nhiều khía cạnh của nó được giải thích cặn kẻ trong giáo lý Đạo Phật phát triển. Một cách tóm lược, giáo lý này thừa nhận bản chất siêu việt của Thực tại Cứu kính. Nó tuyên bố thế giới hiện tượng là trống rỗng mọi giới hạn của diễn tả và rằng mọi khái niệm của thế giới nhị nguyên bị xóa tan.
23. The doctrine of Sunyata or Emptiness is unique to Buddhism and its many aspects are well expounded in advanced Buddhist teachings. Briefly, this doctrine asserts the transcendental nature of Ultimate Reality. It declares the phenomenal world to be void of all limitations of particularization and that all concepts of dualism are abolished.
24- Nhân duyên [Paticcasamuppada: Pali] hay Duyên khởi là một giáo lý then chốt khác của Đạo Phật. Giáo lý này giải thích rằng tất cả mọi hiện tượng tâm lý và vật lý cấu thành sự tồn tại cá thể là phụ thuộc lẫn nhau và điều kiện cần thiết hổ tương với nhau; điều này đồng thời diễn tả những gì làm chúng sanh bị vướng mắc vào vòng luân hồi.
24. Conditioned Arising [Paticcasamuppada in Pali] or Dependent Origination is another key doctrine in Buddhism. This doctrine explains that all psychological and physical phenomena constituting individual existence are interdependent and mutually condition each other; this at the same time describes what entangles sentient beings in samsara.
26- Khái niệm về địa ngục trong Đạo Phật cũng rất khác biệt với nhưng tôn giáo khác. Nó không là một nơi cho kiếp đọa đày vĩnh viễn như cái nhìn của những tôn giáo thờ ‘đấng tạo hóa toàn năng’. Trong Đạo Phật, nó chỉ là một trong sáu cõi Luân hồi [chỗ tệ hại nhất của ba thế giới khổ đau không ai muốn]. Cũng thế, hầu như có vô số địa ngục trong vũ trụ quan Phật giáo như có vô số cõi Phật.
25. The concept of Hell(s) in Buddhism is very different from that of other religions. It is not a place for eternal damnation as viewed by 'almighty creator' religions. In Buddhism, it is just one of the six realms in Samsara [i.e. the worst of three undesirable realms]. Also, there are virtually unlimited number of hells in the Buddhist cosmology as there are infinite number of Buddha worlds.
26- Vũ trụ quan Phật giáo là khác biệt rõ ràng với những tôn giáo khác vốn thường nhìn nhận chỉ có thái dương hệ (Trái Đất) này như trung tâm của Vũ trụ và hành tinh duy nhất có sự sống. Quan điểm của Đạo Phật về một thế giới Phật (cũng được biết như Ba Nghìn Đại 
Thiên thế giới) là có hàng tỉ thái dương hệ. Bên cạnh đó, giáo lý Đại thừa Phật giáo giải thích rằng có những hệ thống thế giới hiện tại như Tịnh độ của Đức Phật Di Đà và Đức Phật Dược Sư.
26. The Buddhist cosmology (or universe) is distinctly different from that of other religions which usually recognise only this solar system (Earth) as the centre of the Universe and the only   planet with living beings. The Buddhist viewpoint of a Buddha world (also known as Three Thousand-Fold World System) is that of one billion solar systems. Besides, the Mahayana Buddhist doctrines expound that there are   other contemporary Buddha worlds like Amitabha's Pure Land and Bhaisajyaguru's world system.
27- Luân  hồi là một khái niệm nền tảng trong Đạo Phật và nó đơn giản là ‘những chu kỳ tồn tại bất tận’ hay những vòng sinh tử không ngừng của sáu cõi luân hồi. Hình thức tái sanh theo chu kỳ chỉ chấm dứt khi một chúng sanh thành tựu Niết bàn, có nghĩa là sự cạn hết nghiệp chướng, dấu vết thói quen, nhiễm ô và vọng tưởng. Tất cả những tôn giáo khác giảng rằng chỉ có một thiên đàng, một trái đất và một địa ngục, nhưng quan điểm này rất giới  hạn so với vòng luân hồi của Đạo Phật nơi mà thiên đàng chỉ một trong sáu cõi luân hồi và  nó có 28 cấp độ/ tầng.
27. Samsara is a fundamental concept in Buddhism and it is simply the 'perpetual cycles of existence' or endless rounds of rebirth among the six realms of existence.   This cyclical rebirth pattern will only end when a sentient being attains Nirvana, i.e. virtual exhaustion of karma, habitual traces, defilements and delusions. All other religions preach one heaven, one earth and one hell, but this perspective is very limited compared with Buddhist samsara where heaven is just one of the six realms of existence and it has 28 levels/planes.
Tuệ Uyển chuyển ngữ
Ẩn Tâm Lộ, Thursday, December 15, 2016
http://www.buddhanet.net/e-learning/snapshot01.htm



Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

HỎI ĐÁP GIỚI THIỆU PHẬT GIÁO


Nguyên tác: Introduction Buddhism
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

HỎI: Đạo Phật là gì?
ĐÁP: Đạo Phật là một tôn giáo với khoảng ba trăm triệu tín đồ (300 triệu) trên toàn thế giới.  Chữ Phật – Buddha đến từ chữ ‘budhi’, có nghĩa là tỉnh thức’ (to awaken’) hay Giác Ngộ (enlighten). Khởi nguyên khoảng 2,500 năm trước, khi Siddhartha Gotama được biết như Đức Phật, đã Giác Ngộ (tỉnh thức) vào lúc 35 tuổi.

HỎI: Có phải Đạo Phật là một tôn giáo?
ĐÁP: Đối với nhiều người, Đạo Phật vượt qua giới hạn của một tôn giáo và là một triết lý hơn hay ‘một lối sống’. Đạo Phật là một triết lý bởi vì triết lý ‘có nghĩa là sự yêu thương của tuệ trí’ và con đường của Đạo Phật có thể được tóm tắt như:
(1) để hướng đến một đời sống đạo đức,
(2) để chánh niệm và tỉnh thức về tư tưởng và hành động, và
(3) để phát triển tuệ trí cùng sự hiểu biết.

HỎI: Đạo Phật giúp đở tôi như thế nào?
ĐÁP: Đạo Phật giải thích mục tiêu của đời sống, giải thích sự bất công và bất bình đẳng rõ ràng ở khắp nơi trên thế giới, và cung ứng một tiêu chuẩn thực hành hay một lối sống để hướng đến hạnh phúc thật sự.

HỎI: Tại sao Đạo Phật trở nên phổ biến?
ĐÁP: Đạo Phật trở nên phổ biến ở những quốc gia phương Tây vì nhiều lý do. Lý do chính đáng trước nhất là Đạo Phật đã có nhiều câu trả lời cho nhiều vấn nạn trong các xã hội vật chất hiện tại. Nó cũng bao gồm (đối với những ai quan tâm) một sự thấu hiểu sâu xa về tâm thức con người (và liệu pháp tự nhiên) nổi bật là những nhà tâm lý khắp thế giới bây giờ đang khám phá cả chính sự tiên tiến và hiệu quả của Đạo Phật về phương diện này.

HỎI: Đức Phật là ai?
ĐÁP: Siddhartha Gotama được sinh ra trong một hoàng tộc ở Lumbini, bây giờ thuộc Nepal, vào năm 563 trước Tây Lịch. Lúc 29 tuổi, ngài nhận ra rằng lối sống vương giả giàu sang và phú quý không bảo đảm hạnh phúc, vì thế ngài đã khám phá  nhiều giáo huấn và triết lý của những tôn giáo khác nhau đương thời, để tìm chìa khóa cho hạnh phúc của nhân loại. Sau sáu năm học hỏi và hành thiền, cuối cùng Ngài đã tìm ra ‘con đường trung đạo’ và Ngài đã Giác Ngộ. Sau khi Giác Ngộ, Đức Phật dành thời gian còn lại của đời sống Ngài để giảng dạy những nguyên tắc của Đạo Phật – được gọi là Lẻ Thật hay Giáo Pháp – cho đến khi Ngài nhập niết bàn vào năm 80 tuổi.

HỎI: Đức Phật có phải là Thượng Đế?
ĐÁP: Không phải, và Ngài cũng không thừa nhận như vậy. Ngài là một người giảng dạy con đường để Giác Ngộ từ kinh nghiệm của chính Ngài.

HỎI: Người Phật tử có thờ phượng ngẫu tượng không?
ĐÁP: Người Phật tử đôi khi tỏ lòng tôn kính đến những hình tượng của Đức Phật, nhưng không phải như thờ phượng ngẫu tượng, cũng không phải để cầu xin. Một tượng Phật với đôi bàn tay thoải mái trên đùi và một nụ cười mĩm từ bi  nhắc nhở chúng ta hãy cố gắng để phát triển hòa bình và yêu thương trong chính chúng ta. Lễ lạy bức tượng là bày tỏ một sự biết ơn đến giáo huấn.

HỎI: Tại sao có nhiều xứ sở Phật giáo nghèo?
ĐÁP: Một trong những giáo lý của Đạo Phật là giàu sang không bảo đảm hạnh phúc và sự giàu sang cũng vô thường. Con người ở mọi quốc gia đau khổ cho dù giàu hay nghèo, nhưng những người thông hiểu giáo huấn của Đạo Phật có thể tìm ra hạnh phúc thật sự.

HỎI: Có những loại Đạo Phật khác nhau chứ?
ĐÁP: Có nhiều loại Đạo Phật khác nhau, bởi vì tầm quan trọng thay đổi từ quốc gia này đến quốc gia khác tùy theo phong tục và văn hóa. Điều không khác biệt là cốt lõi của giáo lý – Lẻ Thật hay Giáo Pháp.

HỎI: Có phải những tôn giáo khác là sai?
ĐÁP:  Đạo Phật cũng là một hệ thống tin tưởng vốn bao dung tất cả những niềm tin hay những tôn giáo khác. Đạo Phật đồng ý với những giáo lý đạo đức của những tôn giáo khác nhưng Đạo Phật vượt xa hơn bằng việc cung ứng một mục tiêu lâu dài trong sự tồn tại của chúng ta, qua tuệ trí và sự thấu hiểu chân thật. Một Đạo Phật đúng thật là rất bao dung và không quan tâm đến những nhãn hiệu như người ‘Ki tô’, ‘Hồi giáo’, ‘Ấn giáo’ hay ‘Phật giáo’. Đó là tại sao chưa từng có bất cứ cuộc chiến tranh nào nhân danh Phật giáo. Đó là tại sao người Phật tử không thuyết giáo và cố gắng để đổi đạo, mà chỉ giảng nghĩa nếu một sự giải thích được yêu cầu.

HỎI: Có phải Đạo Phật là khoa học?
ĐÁP: Khoa học là tri thức có thể được làm thành một hệ thống, vốn tùy thuộc vào những sự kiện thấy và thử nghiệm được và có thể tuyên bố những định luật tự nhiên phổ quát. Cốt lõi của Đạo Phật tương ứng với định nghĩa này, vì Bốn Chân Lý Cao Quý (xem phía sau) có thể thử nghiệm và được minh chứng bởi bất cứ người nào, trong thực tế chính Đức Phật đã yêu cầu đệ tử của Ngài là phải thử nghiệm giáo huấn hơn là chỉ chấp nhận lời của Ngài như chân lý. Đạo Phật lệ thuộc vào sự thấu hiểu hơn là đức tin.

HỎI: Đức Phật đã giảng dạy những gì?
ĐÁP: Đức Phật đã giảng dạy nhiều thứ, nhưng những khái niệm căn bản trong Đạo Phật có thể được tóm tắt bằng Bốn Chân Lý Cao Quý, Tám Đường Cao Quý, và Sáu Ba La Mật.

HỎI: Chân lý cao quý thứ nhất là gì?
ĐÁP: Sự thật thứ nhất là sự sống là đau khổ, đó là sự sống bao gồm đau đớn, già đi, bệnh tật, và sự chết cuối cùng. Chúng ta cũng chịu những khổ não tâm lý như cô đơn, chán nản, sợ hãi, hổ thẹn, thất vọng, và giận dữ. Đây là một sự kiện chắc chắn và không thể bị phủ nhận. Nó là một thực tế hơn là bi quan bởi vì bi quan là đang mong đợi điều gì đó tệ hại. Thay vì thế, Đạo Phật giải thích vấn đề khổ đau có thể tránh được như thế nào và chúng ta có thể hạnh phúc thật sự như thế nào.

HỎI: Chân lý cao quý thứ hai là gì?
ĐÁP: Sự thật thứ hai là khổ đau được tạo thành bởi tham lam và sân hận. Chúng ta sẽ đau khổ nếu chúng ta mong đợi người khác làm thoải mái cho sự mong đợi của chúng ta, nếu chúng ta muốn người khác thích chúng ta, nếu chúng ta không có được những gì chúng ta muốn, v.v… Nói cách khác, có được những gì bạn muốn không bảo đảm hạnh phúc. Đúng hơn thay vì liên tục vật vả để có được những gì bạn muốn, thì hãy cố gắng để điều chỉnh sự tham muốn của bạn. Tham muốn cướp đi sự toại nguyện và hạnh phúc của chúng ta. Một đời sống của mong muốn tham cầu và tham muốn tiếp tục để tồn tại, đã tạo nên một năng lượng mạnh mẽ vốn làm cho con người được sinh ra. Vì thế, tham muốn đưa đến sự đau khổ vật lý bởi vì nó làm chúng ta phải tái sanh. Sau đó chúng ta sẽ có nhiều thời gian và năng lượng hơn để giúp đở người khác

HỎI: Chân lý cao quý thứ ba là gì?
ĐÁP: Sự thật thứ ba là khổ đau có thể vượt thắng được và hạnh phúc có thể đạt đến được; rằng hạnh phúc chân thật và toại nguyện là có thể. Nếu chúng ta từ bỏ sự tham muốn vô ích và học để sống mỗi ngày tại một lúc (không bám víu về quá khứ và không mơ tưởng về tương lai) rồi thì chúng ta sẽ trở nên hạnh phúc và tự do. Đó là niết bàn.

HỎI: Chân lý cao quý thứ tư là gì?
ĐÁP: Sự thật thứ tư là Tám Đường Cao Quý là con đường đưa đến chấm dứt khổ đau.

HỎI: Tám Đường Cao Quý là gì?
ĐÁP: Tóm lược, Tám Đường Cao Quý là sống đạo đức (qua những gì chúng ta nói, làm và sống đời sống của chúng ta – chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng), tập trung tâm thức để tỉnh thức hoàn toàn về những tư tưởng và hành động của chúng ta (chánh định, chánh tư duy), và phát triển tuệ trí bằng việc thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý và bằng việc phát triển từ bi với người khác (chánh kiến, chánh tinh tấn).

HỎI: Năm giới là gì?
ĐÁP: Tiêu chuẩn đạo đức trong Đạo Phật là những giới điều, năm giới chính là: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm và thụ hưởng quá độ cảm giác, không nói dối, và không dùng chất say, vì nó làm mất chánh niệm.

HỎI: Nghiệp là gì?
ĐÁP: Nghiệp là quy luật mà mỗi nguyên nhân có một hệ quả, đó là, những hành vi của chúng ta có những kết quả. Quy luật đơn giản này giải thích rất nhiều thứ: sự bất bình đẳng trên thế giới, tại sao một số người sinh ra đã bị tàn tật và một số có tài năng, tại sao một số người thì sống đời ngắn ngủi. Nghiệp nhấn mạnh tầm quan trọng của tất cả mọi người trong việc chịu trách nhiệm cho quá khứ và hành động hiện tại của họ. Chúng ta thử nghiệm hệ quả của nghiệp trong hành động của chúng ta như thế nào? Câu trả lời là tóm tắt bằng việc nhìn vào (1) xu hướng tiềm tàng của hành động, (2) hệ quả của hành động trên cá nhân người ấy, và (3) hệ quả trên những người khác.

HỎI: Tuệ trí là gì?
ĐÁP: Đạo Phật dạy rằng tuệ trí nên được phát triển cùng với từ bi. Một đàng cực đoan là bạn có thể có lòng tốt một cách khờ dại và cực đoan kia là bạn có thể đạt đến một tri thức mà không có cảm xúc gì cả. Đạo Phật sử dụng con đường trung đạo để phát triển cả hai. Tuệ trí cao nhất là thấy trong thực tế, tất cả mọi hiện tượng là không hoàn hảo, vô thường và không cấu thành một thực thể bất biến. Tuệ trí thật sự không đơn giản là tin tưởng vào những gì chúng ta được nghe mà thay vì thế là việc trải nghiệm và thấu hiểu lẻ thật và thực tế. Tuệ trí đỏi hỏi một tâm thức cởi mở, khách quan và bao dung. Con đường của Phật giáo đòi hỏi can đảm, nhẫn nại, mềm dẽo, và thông minh.

HỎI: Từ bi là gì?
ĐÁP: Từ bi bao gồm những phẩm chất chia sẻ, sẳn sang ban cho sự thoải mái, thông cảm, quan tâm, săn sóc. Trong Đạo Phật, chúng ta có thể thật sự thấu hiểu người khác, khi chúng ta có thể thật sự thấu hiểu chính mình, qua tuệ trí.

HỎI: Làm thế nào để trở thành một Phật tử?
ĐÁP: Giáo huấn nhà Phật có thể được hiểu và thể nghiệm bởi bất cứ người nào. Đạo Phật dạy rằng những giải pháp cho các vấn nạn của chúng ta là ở trong chính chúng ta chứ không phải ở bên ngoài. Đức Phật đòi hỏi các đệ tử của Ngài không xem lời của Ngài như chân lý, thay vì thế phải thử nghiệm giáo huấn cho chính họ. Trong cách này, mỗi người tự quyết định cho chính họ và chịu trách nhiệm cho những hành vi và sự thấu hiểu của họ. Điều này làm cho Đạo Phật không phải là một niềm tin trọn gói phải được chấp nhận toàn thể những gì trong ấy, và đúng hơn là một giáo huấn mà mỗi người phải học hỏi và sử dụng trong cách riêng của họ


Ẩn Tâm Lộ Thursday, December 8, 2016


Thứ Tư, 7 tháng 12, 2016

ĐẠO PHẬT


Nguyên tác: What is Buddhism
Tác giả: Geshe Kelsang Gyatso.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Khai sáng Đạo Phật là Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni người đã sống và giảng dạy ở Ấn Độ khoảng hai nghìn năm trăm năm trước. Từ đó hàng triệu người khắp thế giới đã đi theo con đường tâm linh mà Ngài đã khai mở. Cung cách của Đạo Phật về lối sống của hòa bình, yêu thương, và tuệ trí liên hệ với chúng ta ngày nay giống như đã từng tác động đến Ấn Độ cổ xưa. Đức Phật giải thích rằng tất cả mọi vấn nạn và khổ đau của chúng ta phát sinh từ những thể trạng rối rắm và tiêu cực của tâm thức, và tất cả hạnh phúc và thịnh vượng phát khởi từ những thể trạng hòa bình và tích cực của tâm thức. Ngài đã dạy những phương pháp để dần dần vượt thắng những tâm thức tiêu cực chẳng hạn như sân hận, ganh tỵ cùng si mê, và phát triển những tâm thức tích cực của chúng ta như từ ái, bi mẫn và tuệ trí. Qua cung cách này chúng ta sẽ đi đến trải nghiệm sự hòa bình và hạnh phúc bền lâu. Những phương pháp này hiệu quả cho bất cứ người nào, bất cứ quốc gia nào, và bất cứ tuổi tác nào. Một khi chúng ta đã trải nghiệm chúng cho chính tự thân thì chúng ta có thể trao truyền cho người khác để họ cũng có thể hưởng thụ cùng những lợi lạc như vậy.

HÀNH THIỀN

Thiền tập là trái tim của cung cách sống Phật giáo. Một cách căn bản đó là một phương pháp để thấu hiểu và hoạt động trên tâm thức của chúng ta. Trước tiên chúng ta họ để nhận ra những tình trạng tinh thần tiêu cực khác nhau của chúng ta được biết như là “các vọng tưởng”, và học làm thế nào để phát triển những tình trạng hòa bình và tích cực của tâm thức hay “những tâm thức đạo đức.”

Rồi thì trong thiền tập chúng ta sẽ vượt thắng những phiền não của chúng ta bằng việc làm quen thuộc với những tâm thức đạo đức. Qua hành thiền chúng ta cố gắng để duy trì những tâm thức đạo đức mà chúng ta đã phát triển và sử dụng tuệ trí để giải quyết những vấn nạn trong đời sống hàng ngày. Khi tâm thức chúng ta trở nên tích cực hơn thì hành động của chúng ta sẽ trở nên xây dựng hơn, và trải nghiệm của chúng ta về đời sống sẽ trở nên hài lòng và lợi lạc hơn cho người khác.

Mọi người đều có thể học tập những kỷ năng hành thiền căn bản và trải nghiệm những lợi lạc lớn lao, nhưng đối với tiến trình thiền tập xa hơn căn bản đòi hỏi niềm tin vào Tam Bảo – Phật, Pháp và Tăng già. Thông thường người ta thấy điều này phát triển một cách tự nhiên khi họ trải nghiệm những lợi lạc trong sự hành thiền của họ.

CON ĐƯỜNG TÂM LINH

Giáo huấn của Đức Phật khai mở con đường từng bước một đến hạnh phúc bền lâu. Bằng việc đi theo con đường này, mọi người có thể dần dần chuyển hóa tâm thức của người ấy từ tình trạng rối rắm và vị kỷ hiện tại đến tâm thức toàn hảo của Đức Phật.

Như Geshe Kelsang nói trong quyển sách phổ biến của ngài Tám Bước Đến Hạnh Phúc:

Mọi chúng sanh đều có khả năng để trở thành một Đức Phật, là một người nào đó đã hoàn toàn tịnh hóa tâm thức của họ về tất cả những lỗi lầm và giới hạn và đã hoàn thành tất cả những phẩm chất tốt lành đến hoàn thiện. Tâm thức chúng ta như một bầu trời mây, vốn là bản chất trong sáng và tinh khiết nhưng bị bao phủ bởi những đám mây của vọng tưởng.

Giống như khi những đám mây dày đặc cuối cùng tan biến, cũng thế ngay cả những vọng tưởng nặng nề nhất cũng có thể được xua tan khỏi tâm thức chúng ta. Những vọng tưởng phiền não như thù hận, tham lam, và si mê không phải là bản chất cố hữu của tâm thức. Nếu chúng ta áp dụng những phương pháp thích đáng thì chúng có thể hoàn toàn bị tiêu trừ, và chúng ta sẽ trải nghiệm niềm hạnh phúc siêu việt của sự Giác Ngộ hoàn toàn.

Đã đạt đến Giác Ngộ chúng ta sẽ có tất cả những phẩm chất cần thiết – từ ái và bi mẫn phổ quát, tuệ trí toàn tri và năng lực tâm linh vô han – để hướng dẫn tất cả chúng sanh đến cùng thể trạng tôn quý nhất. Đây là mục tiêu tối hậu của Đại Thừa Phật giáo.

Để tìm hiểu thêm về Phật Lý Căn Bản, hãy đọc Giới Thiệu Đạo Phật (Introduction to Buddhism) của Geshe Kelsang Gyatso.

Ẩn Tâm Lộ Wednesday, December 7, 2016
Bài liên hệ
Niềm Tin Phật Giáo



Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016

TÁI SANH


Nguyên tác: On Reincarnation

Tuệ Uyển chuyển ngữ

Những người Phật tử có tin trong việc tái sanh kiếp sau vào những thế giới không phải cõi người không? Bạn có tin rằng bạn sẽ là một vị trời hay một con thú không trong tương lai không? Thần thức sẽ đầu thai vào một thân thể khác của một người khác hay một con thú nào đó không? Có gì khác biệt giữa đầu thai (transmigration) và tái sanh (reincarnation)? Có phải chúng là giống nhau? Có phải nghiệp báo cũng giống như số phận? Những câu hỏi này và hàng trăm câu hỏi tương tự như vậy thường dằn vặt trong tôi.

Có nhiều sự thấu hiểu sai lạc tồn tại trong Phật giáo ngày nay, đặc biệt là trong khái niệm về tái sanh. Sự thấu hiểu sai lạc thông thường là một người đã trải qua vô lượng kiếp trước thường là một con vật, nhưng thế nào đấy mà trong kiếp này lại được sanh ra như môt con người và trong kiếp tiếp theo người ấy sẽ lại bị tái sanh như một con vật, tùy thuộc vào lối sống của người ấy.

Sự thấu hiểu sai lạc này sinh khởi bởi vì người ta thường không biết – đọc kinh luận hay giáo điển như thế nào. Như được nói rằng Đức Phật đã để lại tám mươi bốn nghìn giáo huấn; biểu tượng cho sự trình bày tùy thuộc vào căn cơ của con người, … Đức Phật đã dạy bảo tùy năng lực tinh thần và tâm linh của mỗi cá nhân. Đối với những người dân làng giản dị trong thời Đức Phật, giáo lý tái sanh là một bài học đạo đức đầy năng lực. Sự sợ hãi phải tái sanh vào thế giới thú vật làm kinh khủng nhiều người đã hành động như những con thú trong đời sống của họ.  Nếu nghiên cứu giáo lý này theo văn tự ngày này thì chúng ta phải bối rối vì chúng ta không thể thấu hiểu một cách rõ ràng.

Ở đây là vấn nạn của chúng ta. Một câu chuyện ngụ ngôn, khi chúng ta đọc theo văn tự, nó không hợp lý với tâm thức hiện đại. Do vậy, chúng ta phải nghiên cứu để phân biệt những câu chuyện và huyền thoại từ thực tế. Tuy nhiên, nếu chúng ta nghiên cứu để vượt khỏi hay siêu việt văn tự của những câu chuyện và huyền thoại thì chúng ta có thể thấu hiểu lẻ thật.

Người ta sẽ nói “Nếu trường hợp là như vậy tại sao không nói một cách trực tiếp vì vậy chúng ta có thể đi đến nắm bắt ngay lập tức lẻ thật?”  Tuyên bố này là có thể hiểu được, nhưng lẻ thật thì thường không thể diễn tả được. [Phụ giải: Như những con người chúng ta thì bị giới hạn trong việc thấu hiểu “tri kiến của Phật”. Chúng ta không thể nói LẺ THẬT, chỉ từ ngữ VỀ Lẻ Thật] Do thế, người viết và giáo thọ thường nhờ đến ngôn ngữ của sự tưởng tượng để hướng người đọc từ bậc thấp đến bậc cao hơn của LẺ THẬT. Giáo lý tái sanh thì thường được hiểu trong sự soi sáng này.

Thứ Gì Không Phải là Tái sanh.

Tái sanh không phải là một sự sanh sản vật lý giản dị của một người; thí dụ, Giáp bị tái sanh là một con chó vào kiếp tới. Trong trường hợp này Giáp sở hữu một linh hồn vĩnh cửu vốn bị chuyển hóa hình thể thành một con chó sau khi Giáp chết. Vòng lẩn quẩn này lập đi lập lại mãi. Hay nếu may mắn, Giáp sẽ được tái sanh như một con người. Khái niệm này về đầu thai của linh hồn chắc chắn là không tồn tại trong Đạo Phật.

Nghiệp

Nghiệp – karma là một từ ngữ Sanskrt có gốc từ “kri” hay hoạt động hay làm có nghĩa đơn giản là “hành động.” Nó hoạt động trong vũ trụ như vòng phản ứng tương tục của nguyên nhân và kết quả. Nó không chỉ giới hạn nhân quả trong ý nghĩa vật lý mà cũng hàm ý đạo đức. “Một nguyên nhân tốt lành, một hệ quả tốt lành; một nguyên nhân xấu ác, một hệ quả xấu ác” là lời nói thông thường. Nghiệp trong ý nghĩa này là một quy luật đạo đức luân lý.

Ngày nay con người đang liên tục phát ra những năng lực vật lý và tâm linh trong mọi phương hướng. Trong vật lý chúng ta biết rằng không năng lượng nào bị mất đi vĩnh viễn; nó chỉ thay đổi hình thể. Đây là quy luật bảo tồn năng lượng thông thường . Tương tự thế, hành động tâm linh và tinh thần không bao giờ mất đi. Nó chỉ chuyển hóa. Vì thế Nghiệp là định luật bảo tồn năng lượng đạo đức.

Bằng hành động, suy nghĩ và lời nói, con người phát ra năng lượng tâm linh vào vũ trụ và con người trở lại bị ảnh hưởng bởi những tác động [vốn của con người] đang hướng tới con người. Con người do thế là người gửi và nhận tất cả những tác động này. Toàn bộ hoàn cảnh bao quanh con người là nghiệp của con người vậy.

Với mỗi hành vi – ảnh hưởng người ấy gửi đi và cùng lúc, nhận lại, người ấy đang thay đổi. Sự thay đổi cá nhân này và thế giới mà người ấy đang sống, cấu thành tổng thể nghiệp của người ấy.

Nghiệp không nên bị lầm lẫn với số mạng. Số mạng là khái niệm rằng đời sống con người được quy định trước bởi một quyền năng bên ngoài nào ấy, và người ta không thể kiểm soát được gì với số phận của chính mình. Nghiệp trái lại có thể thay đổi được. Vì con người là một chúng sanh hữu tình ý thức cho nên người ta có thể tỉnh thức về nghiệp của chính họ và vì vậy cố gắng để thay đổi môi trường của những sự kiện (nhân duyên). Trong Lời Vàng của Phật chúng ta thấy những lời này, “Chúng ta là kết quả của những gì chúng ta suy nghĩ, nó được thấy trong suy nghĩ của chúng ta và được làm nên bởi suy nghĩ của chúng ta.”

Thế thì những gì chúng ta là thì hoàn toàn lệ thuộc vào những gì chúng ta suy nghĩ. Do vậy, đặc tính quý giá của con người là lệ thuộc vào những tư tưởng, hành động, và lời nói “tốt lành” của người ấy. Đồng thời, nếu người ấy ôm ấp những tư tưởng xấu ác, thì những tư tưởng ấy tác động không thay đổi người ấy vào những tư tưởng và lời nói tiêu cực.

Thế Giới

Theo truyền thống, Đạo Phật dạy về sự tồn tại của mười thế giới. Trước nhất là Phật và trình độ dần xuống như: Bồ tát (một chúng sanh hướng thành Phật, nhưng hiện diện ở trần gian vì mục tiêu giáo hóa những chúng sanh khác), Độc Giác Phật, Thanh Văn (những đệ tử trực tiếp của Phật), chúng sanh ở cõi trời, loài người, A tu la (những linh thức đấu tranh), súc sanh, quỷ đói, và chúng sanh ở địa ngục.

Bây giờ, mười cõi này có thể được xem như không cố định, những thế giới phi vật thể, như những thể trạng tinh thần và tâm linh của tâm thức. Những thể trạng này của tâm thức được tạo nên bởi những tư tưởng, hành động và lời nói của loài người. Nói cách khác, là những tình trạng tâm lý. Mười thế giới này là “nội tại hổ tương và bao hàm hổ tương, mỗi thế giới có trong nó chín thế giới còn lại.” Thí dụ, thế giới loài người có tất cả chín thế giới khác (từ địa ngục đến Phật quả). Con người cùng lúc có khả năng của sự vị kỷ thật sự, tạo địa ngục cho chính con người, hay là lòng yêu thương thật sự, phản chiếu tâm từ bi của Đức Phật Di Đà. Chư Phật cũng vậy có chín thế giới khác trong tâm thức, vì vấn đề là làm sao một Đức Phật có thể cứu độ những chúng sanh trong địa ngục nếu tự chính Ngài không nhận ra nổi khổ của chúng sanh và hướng dẫn những chúng sanh ấy Giác Ngộ.

Bài Học

Chúng ta có thể học một bài học bổ ích từ giáo huấn tái sanh.

Bạn đang sống trong thế giới nào? Nếu bạn đói khát quyền lực, tình thương, và tự nhận ra mình, thì bạn đang sống trong thế giới của quỷ đói. Nếu bạn bị thúc đẩy chỉ bằng sự khao khát thân thể con người, bạn đang hiện diện trong thế giới của súc sanh. Xem xét rõ ràng rồi thì bạn sẽ có động cơ và xu hướng của bạn. Hãy nhớ rằng loài người có tính cách đặc biệt ở vào vị trí trung điểm của mười thế giới; cho nên con người có thể hoặc là đột ngột hạ thấp hay dần dần đi vào địa ngục hay qua nguyên tắc đạo đức, trau dồi và tỉnh giác tâm thức để vươn đến thể trạng Giác Ngộ của Quả Phật.

Ẩn Tâm Lộ Tuesday, December 6, 2016
http://www.buddhanet.net/e-learning/reincarnation.htm