Thứ Hai, 22 tháng 1, 2018

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG (12)



Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển



HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, trong đời sống của một người, chỗ nào mà ngài nên cố gắng để nhận ra mong ước và khát vọng của ngài? Và chỗ nào ngài nên dừng lại? Câu hỏi của tôi có thể thích hợp đến mọi phương diện của đời sống hằng ngày của chúng ta, giống như sự hợp tác, nuôi dưỡng con cái, nơi làm việc và mọi thứ.

ĐÁP: Đó là câu hỏi rất lớn. Dĩ nhiên, vì tất cả những khát vọng hay đối tượng mà chúng ta muốn thành đạt, trước tiên nhất chúng ta phải phân tích chúng ta có thể đạt được bao nhiêu. Sau đó, chúng ta nên có một sự tiếp cận thực tiển, vì thế chúng ta có thể có những kết quả hài lòng hơn. Nếu sự tiếp cận là không thực tiển hay mục tiêu quá lớn, thì không thể hiện thực được. Cho nên lúc bắt đầu là rất quan trọng.

Sau đó, tôi nghĩ, một cách căn bản có hai điều – mục tiêu cho những giá trị vật chất và cho những giá trị tinh thần nội tại, giống như hòa bình và tĩnh lặng của tâm thức. Chỗ mà những giá trị vật chất được quan tâm, luôn luôn có giới hạn – ngay cả quý vị trở thành một tỉ phú, sự tham lam của quý vị có thể vẫn không hài lòng, quý vị có thể vẫn muốn nữa và nữa, và cuối cùng, quý vị sẽ chạm phải giới hạn. Thế nào đi nữa, khi có một sự giới hạn, thì quý vị nên thực hành sự toại nguyện. Không có giới hạn với giá trị nội tại – nổ lực và thực tập hơn nữa sẽ tiếp tục thu hoạch kết quả hơn nữa. Những phẩm chất tinh thần tốt đẹp này luôn luôn gia tăng vì chúng không căn cứ trên thân thể.

Bất cứ giá trị nào căn cứ trên thân thể vật chất sẽ có một sự giới hạn. Thí dụ, tầm nhìn của mắt có một sự giới hạn bởi vì nó lệ thuộc trên nhãn căn hay con mắt và não bộ. Thể trạng tinh thần không căn cứ trên trình độ thân thể, cho nên càng rèn luyện, nó càng phát triển. Trong lãnh vực ấy, một cách hợp lý, quý vị nên luôn luôn nổ lực và cố gắng để cải thiện, vì phạm vi của nó là vô hạn. Thông thường chúng ta chỉ làm ngược lại. Trong lãnh vực vật chất, nơi mà trong bất cứ trường hợp nào cũng có một sự giới hạn, thì chúng ta không bao giờ toại nguyện. Chúng ta luôn luôn muốn nữa và nữa. Nhưng ở chỗ những giá trị nội tại được quan tâm, thì chúng lại ta toại nguyện. Đó là một sai lầm.

HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, ngài có ý kiến gì về việc ăn thịt? Những con thú chúng ta săn, giết và ăn cũng muốn sống. Tôi tự hỏi chúng cảm thấy gì? Ảnh hưởng của việc ăn thịt là gì lên trí thông minh và tâm thức của con người?

ĐÁP: Chủ trương trường chay là một truyền thống cả nghìn năm, và tôi nghĩ là điều đó rất tốt. Ở Tây Tạng, theo truyền thống, dĩ nhiên – trong một số vùng ở cao nguyên Tây Tạng – không có rau cải hay trái cây; và trong thời xưa, đời sống của người Tây Tạng lệ thuộc hoàn toàn vào thú vật, cho sửa, da, long, và những thứ như vậy. Cho nên, một cách căn bản, người Tây Tạng theo Phật giáo, nhưng trong lúc ấy không ăn chay. Trong trường hợp của riêng tôi, khi tôi vào tuổi mười bốn hay mười lăm, tôi đã thay đổi các thực đơn lễ lạc chính thức, vốn trước đây liên hệ đến rất nhiều thịt, thành thực phẩm chay lạc. Rồi thì sau năm 1965, tôi cố gắng để trở thành người ăn chay. Trong hai mươi tháng sau đó, tôi là người ăn chay. Nhưng sau đó, rắc rối ở túi mật của tôi bắt đầu, vì vậy sau đó, tôi nghĩ khoảng 1967, tôi trở lại việc ăn uống không chay lạc trước đây của tôi.

Sau này, tất cả những học viện Tây Tạng lớn dừng phục vụ thịt và đã bắt đầu phục vụ thức ăn chay từ những nhà bếp quen thuộc của họ. Những nhà bếp thông thường của một số trường cũng tự động từ bỏ phục vụ thịt. Và rồi thì, tất cả những khu định cư Tây Tạng ở Ấn Độ, chúng tôi đã quyết định không nuôi heo, cá và trang trại gà vịt. Một hay hai khu định cư giữ một số gà vịt, họ nói, chỉ để lấy trứng. Sau đó, tôi đã yêu cầu họ, quý vị sẽ làm gì khi các con gà mái thôi đẻ trứng. Không có câu trả lời rõ ràng. Vài trăm con gà mái được tiếp tục nuôi dưỡng sau khi chúng không đẻ nữa; rất tốn kém. Sau đó, chúng được đưa tới từng gia đình, cũng rất nặng nề.

Cho nên tôi đã yêu cầu giữ lại nếu những trang trại lấy trứng thật cần thiết vì lý do kinh tế, thật sự cần thiết cho dân định cư. Nếu không quan trọng, tôi yêu cầu họ dẹp bỏ trang trại ấy. Do thế bây giờ, trong hai thập niên qua không có khu định cư nào có trang trại lấy trứng. Vì thế, đó là một sự đóng góp nhỏ của chúng tôi đối với việc thúc đẩy vấn đề ăn chay. Như đối với cá nhân, tùy họ mà thôi.

Ở trình độ tinh thần, ảnh hưởng nào của việc ăn chay lên tâm thức thì khó để nói. Nhưng rồi thì, cũng có những vấn đề môi trường. Những nông trại nuôi bò hay thú khác để lấy thịt cũng rất xấu cho môi trường. Cách họ nuôi thúc thú vật – cố gắng để làm chúng lớn nhanh lên và không tự nhiên và trở thành mập béo – cũng rất tai hại cho sức khỏe chúng ta. Ngày nay, các nhà khoa học nói rằng những thứ gọi là sản xuất thực phẩm sạch (organic: hữu cơ) là tốt hơn cho sức khỏe. Mới đây, những loại bệnh tật nào đó đã lan truyền vì thịt bò, heo, và gà. Cũng có những báo cáo rằng một số cá trong một số vùng nào đó đã giảm thiểu vì đánh bắt quá nhiều. Tôi nghĩ chúng ta nên có một số giới hạn nào đó, thay vì sản xuất một cách tàn nhẫn hàng triệu con thú và rồi làm thịt chúng.

Và trong khi ấy, nếu toàn thể nhân loại đều ăn chay cả, điều đó cũng không thực tế và khó khăn. Nhưng tôi nghĩ thật quan trọng để giáo dục con người rằng thật tàn nhẫn để nuôi thú vật và rồi thật tàn nhẫn để bán thịt của chúng, mà không cảm giác gì đến nổi đau đớn của chúng và không có sự tôn trọng sự sống của chúng; điều này chắc chắn là sai. Chúng ta không thể đưa ra luật lệ, nhưng quá giáo dục, thì chúng ta có thể cải thiện sự tỉnh thức.

HỎI: Điều gì quan trọng nhất mà chúng ta nên dạy dỗ con cái chúng ta?

ĐÁP: Sáng nay, chúng ta đã có một số thuyết giảng nghiêm túc về Phật giáo cũng như hành thiền, ở chỗ có nhiều trẻ em rất nhỏ. Tôi nghĩ chúng thường có tự do tối đa – chạy rông chỗ này chỗ nọ - và ở tuổi ấy, tôi nghĩ chúng không quan tâm về tầm quan trọng của những nền tảng xã hội, hay một người có được học vấn hay không. Chúng không quan tâm, miễn là chúng được nô đùa với nhau, chúng mĩm cười với nhau. Tôi nghĩ đó là một thể trạng rất trong trắng của tâm thức. Ở tuổi ấy, chúng ưa thích tình cảm và sự chăm sóc của người khác rất nhiều.

Dần dần, khi chúng lớn lên, những đứa trẻ này sẽ có nhiều độc lập hơn và nương tựa ngày càng ít  vào sự chăm sóc của người khác. Sau đó, sự ưa thích vào tình cảm của người khác trở thành không liên can nhiều như vậy. Ở trình độ ấy, tôi nghĩ chúng ta cần, qua giáo dục, để nhắc nhở chúng rằng tình cảm là rất quan trọng cho đời sống của chúng ta. Và rằng quý vị nên là một người tình cảm hơn, bởi vì nó ở trong mối quan tâm bậc nhất của quý vị. Tôi nghĩ ở Hoa Kỳ, cũng như ở Canada, trong nhiều trường hợp, có một số thảo luận nhiệt tình về tầm quan trọng của những chủ đề từ ái và bi mẫn trong nền giáo dục ngày nay. Hay, nói cách khác, vai trò của đạo đức luân lý trong hệ thống giáo dục ngày nay. Tôi đã thấy rất nhiều những buổi nói chuyện xảy ra ở Quebec và Montreal. Có những buổi tập huấn cho các giáo viên đặc biệt về vấn đề giới thiệu đạo đức luân lý trong một hệ thống giáo dục thế tục. Họ đã mời tôi và tôi cũng đã nói chuyện với họ. Do vậy, có những người nào đó thật sự làm việc, trong việc nghiên cứu, về vấn đề giới thiệu đạo đức luân lý trên căn bản thế tục trong hệ thống giáo dục hiện đại như thế nào.

Thế nên cuối cùng, tôi hy vọng có một số ý tưởng mới trong những cung cách giáo dục trẻ con về đạo đức luân lý qua những trường lớp công cộng và nền giáo dục thế tục, mà không cần đụng chạm đến tôn giáo. Trong lúc ấy, đối với cha mẹ, cũng quan trọng ngang bằng như vậy để đề nghị và khuyến khích họ không chỉ về những chủ đề như lịch sử, nhưng về từ bi yêu thương và tình cảm, qua chứng minh, chứ không chỉ bằng ngôn ngữ. Nếu cha mẹ hay giáo viên đang nói về từ bi yêu thương nhưng lại biểu hiện một khuôn mặt giận dữ, thì không thể đem đến sự thuyết phục cho tâm thức con trẻ. Vì vậy nên dạy dỗ qua hành động – lòng từ ái chân thành, tình cảm thật sự. Có những chương trình giảng dạy không bao gồm chủ đề đạo đức luân lý theo căn bản thế tục, nhưng quý vị, như một vị giáo viên, có thể dạy học trò của quý vị về những giá trị đạo đức và luân lý này.

Hiện tại, tôi nghĩ về nhiều vấn nạn mà chúng ta đang đối diện, một số là các tai họa nghiêm trọng, vượt khỏi sự kiểm soát của chúng ta, nhưng một số thật sự là các vấn nạn do con người tạo ra, như sự sợ hãi khủng bố và xung đột nhân danh các truyền thống tôn giáo khác nhau. Và cũng thế, trong một số trường hợp, rắc rối đã được tạo ra trên căn bản của sự đối xử phân biệt. Như tôi đã đề cập trước đây, một cách căn bản, chúng ta đều là những con người giống nhau. Mọi người cùng có quyền để hạnh phúc. Nhưng qua sự đối xử phân biệt, có những rắc rối không cần thiết.

Tôi cảm thấy thật sự hào trong truyền thống bất bạo động cổ truyền của Ấn Độ -ahimsa – có một ý nghĩa hòa hợp tôn giáo. Thật sự, tôi cảm thấy tự hào rằng những truyền thống này vẫn được duy trì tại Ấn Độ. Trong khi đó, cũng có hệ thống đẳng cấp và sự phân biệt đối xử trên căn bản của đẳng cấp. Những truyền thống này là lỗi thời, và chúng ta phải tuyên bố chúng một cách nghiêm túc. Những vấn đề này do con người tạo ra – những tạo tác của chính chúng ta – và bất cứ vấn nạn nào do chính chúng ta tạo ra thì chúng ta phải có khả năng hay có quyền thay đổi. Tôi mạnh mẽ cảm thấy như vậy. Tôi đã  nghe rằng trong một đảo nào đó ở Thái Bình Dương, bà mẹ là người chủ trong cộng đồng, trong gia đình. Cho nên có ưu thế của phụ nữ và một số quyền lợi cho bà mẹ. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên học hỏi thêm từ truyền thống ấy.

HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, nếu chúng ta thật sự tin việc tái sanh, tại sao chúng ta lại sợ việc dân số quá đông, nếu lý do cho việc đó là tái sanh? Không phải việc đó là mâu thuẩn sao?

ĐÁP: Không. Theo quan điểm của Phật giáo, và cũng theo một số truyền thống Ấn Độ cổ đại, thế giới là vô hạn. Rõ ràng, quý vị sử dụng cảm nhận thông thường của quý vị. Bây giờ thế này, từ hàng tỉ thiên hà ở đấy, chỉ có hành tinh này, chỉ trong thái dương hệ này – chỉ ở đây mà thôi – là có con người. Thật khó khăn để nói, nhưng phải có hàng tỉ hành tinh tương tự như thế có thể hổ trợ sự sống. Cho nên phải có nhiều sự sống hơn trong chúng. Vậy thì chúng ta giống như những khách du lịch. Chúng ta đến từ những hành tinh khác, sống hàng trăm năm ở đó, và rồi lại đi đến nơi nào khác. Đó là vấn đề theo quan điểm của Phật giáo, cho nên không có mâu thuẩn.

HỎI: Đức Thánh Thiện có tin trong đời sống của ngài, trong hai mươi hay bốn mươi năm, những tôn giáo quan trọng của thế giới có thể hợp tác và làm việc với nhau đối với việc nhận ra mục tiêu chung của chúng ta không? Ngài khuyến  nghị gì cho con người bình thường về những gì chúng ta có thể làm cho một sự đối thoại như vậy?

ĐÁP: Đức Giáo hoàng John Paul II đã đề xướng Hội nghị Assisi. Điều này liên hệ không chỉ những lãnh đạo của các giáo phái Ki tô khác nhau mà cũng có những tôn giáo Á châu – Phật giáo, Ấn giáo, và Hồi giáo. Tại Vaticant, tôi nghĩ những tài liệu của họ bây giờ dùng chử “đa nguyên”. Cho nên dường như rằng bây giờ khắp thế giới, khái niệm về vài tôn giáo đang lớn mạnh.

Một sự quán sát quan trọng là khái niệm về một tôn giáo, một chân lý, và khái niệm vài tôn giáo và vài chân lý – hai thứ này rõ ràng mâu thuẩn, nhưng cả hai là quan trọng. Bây giờ, vấn đề là chúng ta có thể vượt thắng sự mâu thuẩn này như thế nào? Khái niệm về một tôn giáo, một chân lý, trong mô thức của một cá nhân, là rất quan trọng nhằm để làm mạnh niềm tin của người ấy đối với tôn giáo của người ấy. Nhưng trong quan điểm của một cộng đồng, trong ngôn ngữ của vài người … Thí dụ, ở trong thời khắc này, có những người khác nhau của những tôn giáo khác nhau ở đây. Do vậy, sự thật rằng vài chân lý, vài tôn giáo đã hiện hữu ở đây. Do vậy, trong hình thức cá nhân, có một chân lý và một tôn giáo, trong mô thức của cộng đồng, khái niệm của vài chân lý và vài tôn giáo là thích hợp. Không mâu có gì mâu thuẩn; chúng ta phải phân biệt giữa tín ngưỡng đối với tôn giáo của một người và tôn trọng tất cả các tôn giáo khác. Vì thế, không có mâu thuẩn – sự nhận thức này đang lớn mạnh tuy thế, tôi nghĩ rằng chúng ta cần nổ lực hơn.

Thông thường, tôi có bốn ý kiến rằng tôi đang thực tập và triển khai thực hiện rong hơn năm mươi năm. Trước tiên nhất, tôi gặp gở với những học giả từ các truyền thống khác nhau và những trình độ chuyên môn để thấy những gì tương tự và những gì khác nhau tồn tại. Khi chúng ta thấy những khác biệt, thí dụ, trong triết lý, rồi thì tôi đi đến bước thứ hai – một sự đối thoại giữa những hành giả về các kinh nghiệm thật sự sâu sắc của họ. Như vậy sẽ mang đến một sự thông hiểu sâu hơn về giá trị và năng lực về tôn giáo của người khác, và như vậy thì rất lợi lạc.

Và thứ ba là để nhìn vào khung cảnh lớn, như việc thăm viếng những thánh địa của những truyền thống khác nhau. Có một cảm nhận, tôi ở Lourdes, Pháp quốc; Fatima, Bồ Đào Nha; và rồi dĩ nhiên, ở Roma và Jerusalem. Một lần, sau diễn thuyết về giáo lý Ki tô đến một nhóm Ki tô hữu ở Anh quốc, một số anh chị em Ki tô hữu đã đến Bồ Đề Đạo Tràng ở Ấn Độ. Mỗi buổi sáng nhóm Ki tô hữu đã ngồi thiền im lặng nửa tiếng dưới cây Bồ Đề. Thật là lợi lạc. Chúng ta có thể trải nghiệm những làn sóng nào đó từ những thánh địa. Một lần ở Lourdes, trước bức tượng của chúa Giê-su, tôi đã cảm thấy ngưỡng mộ vô vàn và cảm kích thánh địa này, vốn cung ứng lợi lạc và linh cảm lớn lao cho hàng triệu hàng triệu Ki tô hữu.

Và tại Fatima, một buổi sáng, chúng tôi đã viếng thăm một thánh địa ở đó, nơi có một bức tượng nhỏ của Maria. Chúng tôi dành một lúc ở trước tượng Maria để thiền im lặng. Rồi thì, khi chúng tôi rời khỏi, tôi quay lại nhìn bức tượng nhỏ ấy và tôi thật sự thấy bức tượng ấy mĩm cười. Vậy nên, tôi đã cảm thấy một sự phù hộ từ Maria. Dĩ nhiên, về mặt kỷ năng, tôi không phải là một tín hữu của Maria hay Giê-su, nhưng tôi chân thành tôn kính và ngưỡng mộ truyền thống ấy. Cho nên, tôi nghĩ là tôi đã tiếp nhận một sự phù hộ nào đó.

Và phương pháp thứ tư thì giống như cuộc gặp gở Assisi nơi mà những lãnh đạo của những truyền thống đến với nhau, và nói trong cùng âm thanh của hòa bình và tâm linh. Phương pháp thúc đẩy sự thấu hiểu gần gũi hơn của các truyền thống tôn giáo khác nhau, và quan trọng nhất, sự tiếp xúc một cách rộng rãi là rất cần thiết.

Ẩn Tâm Lộ, Saturday, December 2, 2017
Trích từ quyển The Big Book of Happiness

*

HỎI VÀ ĐÁP

HỎI: Hành động của từ bi yêu thương đơn giản nhất nhưng có tác dụng nhất là gì?

ĐÁP: Đơn giản nhất? Hiệu quả nhất? Tôi không biết. Tôi nghĩ quý vị phải chú ý hơn đến thế giới nội tại của chúng ta. Đó có nghĩa là một thế giới của tâm lý, cảm xúc và tư tưởng. Mặc dù vào thời xưa những thứ này hiện hữu như một bộ phận của tôn giáo và triết lý, thường thường tôi phân chia chúng thành 3 con đường.

Trong Phật giáo, tôi phân chia chúng thành khoa học Phật giáo, triết học Phật giáo, và tín ngưỡng Phật giáo. Triết học Phật giáo, đến một mức độ nào đó, và chắc chắn tín ngưỡng Phật giáo, là chỉ dành cho Phật tử, và không có liên hệ gì với những người khác. Nhưng khoa học Phật giáo là điều gì ấy chung. Bây giờ ở phương Tây, các nhà khoa học đang làm việc với não bộ, thần kinh, và cảm xúc của con người đang bắt đầu quan tâm vào những thông tin chi tiết hơn từ truyền thống Ấn Độ cổ xưa. Cho nên, tôi nghĩ là nó hữu ích. Để có thêm những thông tin nào đó, trải nghiệm bởi chính ta. Đó là những gì tôi có thể nói – phần còn lại thì tôi không biết.

HỎI: Ngài có viễn tượng căn bản nào cho toàn thế giới, mà ngài cảm thấy có thể đạt được một cách thực tiển trong vài thập niên tới?

ĐÁP: Tôi nghĩ rằng trong chính thế kỷ này, nếu chúng ta nổ lực, một cách chính yếu qua giáo dục, thì tôi nghĩ một thế giới thân hữu hơn, hòa bình hơn, và yêu thương hơn có thể thành tựu. Một thế giới phi quân sự hóa – tôi không biết. Nhưng chắc chắn, tỉ lệ của xung đột sẽ giảm thiểu. Loại thế giới tốt đẹp hơn như thế là rất có thể, nói một cách thực tiển.

Oh, tôi muốn thêm một thứ nữa. Trong thế giới vật chất, một vấn nạn là khoảng cách giữa giàu và nghèo. Điều này là thật sự không chỉ ở cấp độ thế giới mà cũng ở mức độ quốc gia. Hãy nhìn vào USA, nơi những nhà tỉ phú đang gia tăng, nhưng bộ phận nghèo hơn của người nghèo vẫn tiếp tục nghèo. Tôi nghĩ Singapore có thể khá hơn – gần như một thị quốc, có phải không? Tôi nghĩ khoảng cách này có thể ít hơn ở đấy, tôi không biết. Bằng như khác hơn, ở Ấn Độ, bất hạnh thay như ở Trung Hoa cũng vậy, khoảng cách giữa nghèo và giàu đang gia tăng một cách nhanh chóng. Điều này không phải sai lầm một cách đạo đức, mà cũng là một nguồn gốc của rắc rối thực tế. Tôi nghĩ chúng ta nên bày tỏ vấn nạn này một cách nghiêm túc. Điều đó là rất quan trọng.

Đây là nơi mà vai trò của yêu thương trở thành quan trọng – gia đình hay xã hội giàu có hơn nên quan tâm nghiêm túc trong nhu cầu của khu vực nghèo hơn của thế giới. Trong một quốc gia cũng vậy, người giàu sang hơn bố thí giáo dục, y tế, kỷ năng, hay khí cụ cho người nghèo và không nên khinh rẻ họ; phải nên giúp đở họ có được sự tự tin.

Tôi không tin bất cứ người nào sinh ra thấp kém hay cao thượng. Xét cho cùng những sự phân chia này là sáng tạo của chúng ta. Có lần, khi ở Nam Phi, tôi đã viếng thăm một gia đình da đen, nơi một người trong gia đình là giáo viên. Và việc này chỉ mới sau khi thay đổi, với Nam Phi trở thành một quốc gia dân chủ. Cho nên tôi đã nói với gia đình, “Hiến pháp của quý vị đã thay đổi, mọi người bình đẳng, không  còn bất cứ sự phân chia chủng tộc hay những sự phân biệt chủng tộc – nhưng theo tinh thần và cảm xúc cần có thời gian để hòa hiệp.” Rồi tôi trình bày, “Bây giờ cộng đồng da đen phải lãnh nhận trách nhiệm trọn vẹn, và nhận thức nó qua giáo dục, huấn nghệ, và sự tự tin.” Và rồi người giáo viên đó đã nói với tôi, “Não bộ của chúng tôi yếu kém. Chúng tôi không thể sánh ngang với người da trắng.”

Ngay lúc ấy tôi cảm thấy rất buồn. Đó là nguồn gốc của vấn nạn bây giờ. Tôi nói với người ấy, “Hoàn toàn sai. Từ lúc sinh ra, não bộ của chúng ta giống nhau. Sự khác biệt trong màu da chi là bề ngoài. Một cách căn bản chúng ta là những con người giống nhau – cùng tiềm năng, cùng năng lực.” Tôi kể cho ông ta thí dụ về hoàn cảnh Tây Tạng. Tôi nói với ông ta rằng nếu mọi người có cùng cơ hội, thì chúng ta có thể chứng minh rằng chúng ta là giống nhau, chúng ta bình đẳng. Tôi đã bàn luận rất lâu với ông ta. Rồi thì cuối cùng, với những cái nhìn xa xăm, thầm thì với tôi, người ấy đã tự tin rằng chúng ta là giống nhau . Vào lúc ấy, tôi cảm thấy khuây khỏa vô vàn – tối thiểu thái độ tinh thần của một người bây giờ đã thay đổi!

HỎI: Làm sao chúng ta biểu lộ lòng yêu thương đến người nào đó đã tứng làm tổn thương đến người khác?

ĐÁP: Như tôi đã đề cập trước đây, lòng yêu thương định kiến và lòng yêu thương vô tư là hai thứ. Lòng yêu thương định kiến, một cách phổ thông là sản phẩm của sinh học. Nó đến với chúng ta từ lúc sinh ra. Rồi thì với sự giúp đở của trí thông minh và tri thức của chúng ta – một kiến thức về những hậu quả dài hạn và ngắn hạn – lòng yêu thương của chúng ta trở thành vô tư. Loại yêu thương không định kiến ấy sinh ra từ tuệ trí hay tri thức, có thể mở rộng đến kẻ thù ta. Có những lý do cho điều này. Người tạo ra tổn thương đến người khác thực hiện vì cảm xúc tiêu cực. Cho nên có một loại lý do để cảm nhận quan tâm đến người đó.

Rồi thì, dĩ nhiên, có hai thứ - về phía nạn nhân và về phía thủ phạm. Về lâu về dài, có lý do hơn để quan tâm cho thủ phạm, bởi vì, trước nhất, theo tôn giáo hữu thần, người ấy đang hành động chống lại mong ước Thượng Đế và sẽ phải đối diện với những hậu quả tiêu cực. Quan điểm của tôn giáo vô thần là thủ phạm gây tổn thương tích lũy nghiệp chướng tiêu cực, vì thế không chóng thì chầy, xét cho cùng người ấy phải đối diện với những hậu quả tiêu cực. Thế nên có lý do hơn để quan tâm cho thủ phạm. Về mặt khác, vì nạn nhân đã đau khổ rồi, theo quan điểm hữu thần, Thượng Đế bây giờ sẽ chăm sóc cho người ấy nhiều hơn và theo quan điểm vô thần, người ấy đã đóng lại một chương của nghiệp xấu cân bằng trong quá khứ. Điều này có lý không? Ngay cả theo quan điểm thế tục, người làm sai – thủ phạm gây tổn thương, kẻ sát nhân, kẻ trộm, kẻ lừa dối, ngược đãi tình dục – sẽ phải đối diện với những hậu quả của luật lệ. Cho nên có lý do để quan tâm đến người làm sai. Và trên căn bản ấy, ta mở rộng lòng yêu thương đến người làm sai.

HỎI: Ngài có xem môi trường là một loại phẩm vật quý cho người giàu, và chúng ta có thể làm gì để duy trì cân bằng giữa lòng yêu thương cho người khác và hành tinh của chúng ta?

ĐÁP: Vấn đề môi trường, đối với tôi, là một vấn đề mới và sự thấu hiểu mới. Khi chúng tôi ở Tây Tạng, khí hậu khô và nóng, dân số ít ỏi, tất cả các nguồn nước đều có thể uống – không có vấn đề gì. Cho nên chúng tôi không có ý kiến gì về nước ô nhiễm. Vì thế cuối cùng, như một kết quả của nhiều lần gặp gở với những nhà khoa học và chuyên môn về sinh quyển, tôi đã chú ý đây là một vấn đề rất nghiêm trọng như thế nào. Hành tinh này của sáu tỉ con người là ngôi nhà duy nhất cho sáu tỉ người ấy. Mặt trăng trong xinh đẹp trong màn đêm – có rất nhiều thơ ca về mặt trăng – nhưng nếu chúng ta đánh mất ngôi nhà của chúng ta và cố gắng để định cư trên mặt trăng, điều đó sẽ là vô vọng. Tôi nghĩ hành tinh xanh này là ngôi nhà duy nhất cho nhân loại và những sinh vật khác.

Tôi nghĩ sự hâm nóng địa cầu có thể là qua việc mặt trời và vị trí của hành tinh chúng ta với mặt trời – là ở ngoài sự kiểm soát của chúng ta. Tôi nghĩ 5 tỉ năm trước đây, khi hành tinh này dần dần hình thành, hoàn cảnh không như thế. Do vậy, trong tương lai, sau vài tỉ năm nữa, mặt trời của chúng ta sẽ biến mất. Vì thế những thứ này là một câu hỏi khác. Nhưng với một phạm vi nào đó, qua sai sót của chúng ta, chúng ta đã tạo ra vấn đề lớn với sự hâm nóng địa cầu. Đây là một vấn đề rất nghiêm trọng hiện nay. Một nhân tố khác là sự chém giết là thứ mà tôi đề cập.

Nhưng sự suy thoái môi trường là vô hình. Không có nhiều sự chú ý, nó đang ảnh hưởng hơi thở của chúng ta, lá phổi của chúng ta, đôi mắt của chúng ta, là những thứ có thể chúng ta không chú ý cho đến khi quá trể. Do thế, điều này nghiêm trọng hơn. Chúng ta phải chú ý nhiều hơn đến vấn đề này. Vấn đề này không là một sự công bằng mà chúng ta chỉ có thể nói thôi – đây là một việc thực hành. Vì vậy, việc nghĩ về môi trường phải nên là một bộ phận của đời sống hàng ngày của chúng ta. Sự đóng góp bé nhỏ vớ vẩn của tôi đối với vấn đề đó, tôi nghĩ bây giờ là đã vài thập niên, là tôi chưa bao giờ dùng bồn tắm, chỉ vòi bông sen thôi. Ngay cả thế, tắm rửa mỗi ngày – một lần buổi sáng và một lần buổi tối là – là một sự xa xỉ lớn. Cho nên việc hành động có trách nhiệm đối với việc thiếu nước hay điện năng, tôi nghĩ nên là một phần của đời sống hàng ngày.

Việc quan tâm này có thể liên kết với yêu thương như thế nào? Trong trách nhiệm để bảo vệ hành tinh, nổ lực cá nhân có thể không có gì ấn tượng. Nhưng nếu một người thực hành sự quan tâm – và rồi mười người, một trăm người, một nghìn người – họ cuối cùng có thể làm nên một sự khác biệt. Do thế sự khởi đầu đến từ cá nhân. Tôi thường gọi điều này là một ý nghĩa của “trách nhiệm toàn cầu” – một cảm nhận cho sự cát tường của toàn nhân loại. Cho nên ở đây là sự nối kết với lòng yêu thương. Nó đến từ cả ý nghĩa của sự quan tâm cho người khác, và và một cảm nhận cho sự quan tâm đến chính mỗi cá nhân.

Thật sự, mỗi người trước tiên yêu thương chính mình. Điều này là rất thiết yếu. Cho nên, trước nhất chăm sóc tối đa cho chính mình; và rồi vì lợi ích của chính mình, hãy mở rộng tình yêu đến những người khác.

HỎI: Khi HIV tiếp tục tàn phá dân số Phi châu, ngài nghĩ chúng ta có thể làm gì để làm cho mọi người quan tâm đến nó cùng biểu lộ lòng yêu mến (từ ái) và thương cảm (bi mẫn) cần thiết để làm cho cơn dịch này biến đi?

ĐÁP: Dĩ nhiên, trước nhất, tôi nghĩ ở đó đã có một số nghiên cứu hoàn tất về HIV. Hàng triệu đô la đã được sử dụng. Tôi nghĩ là điều này nên tiếp tục, và tôi cũng hy vọng sẽ cho chúng ta một số kết quả nào đó. Bước tiếp theo của sự tỉnh thức là giáo dục. Có một số trường hợp HIV có thể lan truyền qua sự truyền máu; nhưng trong hầu hết mọi trường hợp thì qua tình dục, có phải thế không? Vậy thì có thể bao cao su nên sẳn sàng. (Cười) có thêm một điều nữa – tôi nghĩ cộng đồng không nên phủ nhận hay quay mặt với những bệnh nhân này.

HỎI: Một số người có xu hướng kém lòng từ bi yêu thương một cách tự nhiên. Có cách nào để trau dồi lòng từ bi yêu thương cho mọi người trong đời sống của họ không?

ĐÁP: Vào lúc khởi đầu của đời sống chúng ta – lúc sơ sanh – tôi không nghĩ có nhiều khác biệt. Nhưng sau khi sanh ra, từ ngay ngày đầu tiên và qua những tháng năm, những môi trường và điều kiện khác biệt biến chúng ta thành những loại người khác biệt. Đó là tại sao thật cực kỳ quan trọng để cung cấp đứa trẻ tình cảm tối đa từ cha mẹ; và cho phép bà mẹ - đặc biệt là bà mẹ - có nhiều thời gian hơn với đứa bé. Và thay vì bất cứ loại sửa nào khác, thì tôi cảm thấy sửa của chính bà mẹ là tốt nhất cho đứa bé.

Nhẫn nại cũng là một vấn đề thật sự quan trọng. Thời gian cũng là một nhân tố. Biến điều gì đó từ tốt sang xấu là rất dễ. Nhưng thay đổi điều gì đó từ xấu sang tốt phải cần một thời gian dài và cần nổ lực hơn, thế nên tự nhiên nó cũng cần nhẫn nại hơn. Vào một ngày nọ, trên máy bay từ Tokyo sang Seatlle, có một đôi vợ chồng với hai đứa con nhỏ. Lúc đầu, chúng dường như rất dễ thương. Tôi cho đứa bé trai một vài viên kẹo – tôi nghĩ một đứa là con trai, và đứa kia là con gái. Sau đó, cả đêm đứa lớn ngủ rất ngon lành; nhưng đứa nhỏ cứ khóc la, và xoay sở. Rồi thì cuối cùng người cha im lặng, rồi ngủ. Nhưng người mẹ dành trọn cả đêm chăm sóc đứa bé ấy. Vào lúc ấy tôi nghĩ, nếu là tôi, thì tôi có thể không kiên nhẫn trọn vẹn. Cảm ơn.

HỎI: Với tất cả bất mãn, tội ác, phân biệt chủng tộc, và thù hận, như những con người, chúng ta có thể làm gì để hòa nhập từ bi yêu thương, để tạo nên một sự khác biệt trong đời sống của người khác và xã hội của chúng ta?

ĐÁP: Giống như bất cứ vấn nạn nào khác, chúng ta cần những giải pháp dài hạn và những giải pháp ngắn hạn. Với những giải pháp dài hạn, như tôi đã đề cập rồi, chúng ta nên sử dụng giáo dục để thúc đẩy và làm cho mọi người nhận thức thấy các giá trị nội tại của họ. Đó là cách duy nhất về dài lâu. Một xã hội hòa bình không thể được mang đến bằng quy định, mệnh lệnh, hay bắt nạt – thế đó là khó khăn. Nó chỉ đến một cách chân thật nếu mọi cá nhân tự nguyện với năng lực của họ. Đó là tại sao chúng ta cần tỉnh thức về giá trị nội tại này.

Về mặt khác, với giải pháp ngắn hạn, tôi không biết. Tôi không có kinh nghiệm đặc biệt. Có lẽ  nó có thể được hoàn tất bằng việc thực hiện một sự nối kết hữu quan nào đó. Khi tôi viếng Bắc Ái Nhĩ Lan, tôi thấy những nạn nhân của xung đột từ hai nhóm tôn giáo. Tôi đã đến đấy hai hay ba lần. Một lần nọ, tôi được viếng thăm một nhóm nạn nhân. Khi tôi bước vào phòng đó, khuôn mặt mọi người căng thẳng và không cười, giống như sẳn sàng để chiến đấu. Không khí, ở cả hai phía đầy thù oán. Sau đó chúng toi ngồi xuống và nói chuyện. Lúc mới đầu, tôi lắng nghe kin nghiệm của họ. Tất cả đều là một loại kinh nghiệm rất khủng khiếp. Rồi thì, tôi cố gắng để làm cho không khí hơi lắng xuống bằng nụ mĩm cười, chia sẻ một vài câu nói đùa, những thứ như thế. Cuối cùng, họ đã làm tôi hơi ấm áp, và chúng tôi dần dần có một sự trao đổi rất nghiêm túc.

Khi tôi đến Bắc Ái Nhĩ Lan lần sau, sau một hay hai năm, tôi đã viếng những nạn nhân này lần thứ hai, và có một sự khác biệt lớn. Ngay từ lúc đầu,  mọi người đã  mĩm cười. Có một người đàn ông trong họ được diễn tả như một anh hung, tôi nghĩ ông khoảng mười ba hay mười bốn khi một viên đạn cao su bắn trúng ông (điểm giữa hai chân mày), lập tức ông mất thị lực. Dĩ nhiên, do bởi đau đớn, vào lúc ấy, cậu bé bất tỉnh. Khi tỉnh lại, ông ta đã bị  mù. Nhưng không có sân hận hay thù oán trong ông – chỉ hối tiếc rằng ông ta không còn có thể thấy khuôn mặt bà mẹ, ông đã nói tôi như thế. Như một kết quả, khi tôi gặp nhóm người này lần đầu tiên, người đàn ông mù vẫn tĩnh lặng và có một nụ cười mĩm trên khuôn mặt. Khi tôi gặp ông trong lần thứ hai, ông đã có một người vợ xinh đẹp và hai đứa con – hai đứa con gái rất dễ thương.

Cho nên thái độ tinh thần thật sự làm nên một khác biệt lớn trong đời sống các bạn. Những nạn nhân của cùng tai họa, một số mãi giữ sự sân hận và thù oán suốt cả cuộc đời họ, và những năm tháng của họ thì căng thẳng và khó khăn. Cậu bé này, ngay từ lúc khởi đầu, không sân hận hay thù oán. Do vậy, cuộc sống của ông ta – mặc dù không còn thấy được nữa – thì vẫn rất hạnh phúc ở đấy. Thế nên, có lẽ câu chuyện này, cùng sự chia sẻ và kể lại những câu chuyện như vậy, nếu nó là một khu vực thật sự rắc rối, thì tôi nghĩ thật đáng để mời người anh hung của tôi, tôi nghĩ thật là tuyệt vời, tôi nghĩ thế giới bên ngoài không biết gì nhiều về con người này. Vì vậy tôi nghĩ cái chính là tạo nên mối quan hệ bè bạn, đầu tiên là từ bên trong ra bên ngoài. Rồi dần dần sự cản trở đáng sợ giảm thiểu, và sau đó chúng ta có thể thực hiện những sự thảo luận nghiêm túc hơn, tôi cảm thấy như vậy. Tôi nghĩ với sự giảng giải tốt đẹp hơn, sự tỉnh thức tốt đẹp hơn, phối hợp tốt đẹp hơn,  thì những điều này sẽ dần dần thay đổi. Tôi nghĩ như thế đó.

HỎI: Từ bi yêu thương và trách nhiệm công dân là những từ ngữ với các sự diễn dịch bao quát và có nhiều ý nghĩa. Có một định nghĩa phổ quát hiệu quả đủ để nối kết con người, mặc cho những khác biệt về tôn giáo, thứ bậc, tuổi tác, và giới tính không?

ĐÁP: Tôi nghĩ trách nhiệm công dân có nghĩa là một cảm nhận trách nhiệm nào đó cho xã hội. Bản chất căn bản của con người là một tạo vật xã hội. Trước tiên hết, tôi không hiểu ý nghĩa chính xác của thuật ngữ Anh văn này – “civic responsibility – trách nhiệm công dân”. Như tôi đã đề cập, ngoại trừ chúng ta có cảm nhận của việc quan tâm hay chăm sóc cho sự cát tường của người khác, thì loại trách nhiệm ấy khó để có. Cho nên rõ ràng đây là sự nối kết này.

Bây giờ, từ bi yêu thương là ý nghĩa quan tâm cho sự khổ đau của người khác; tôi nghĩ phần đó là giống nhau đối với tất cả mọi truyền thống tôn giáo. Từ ái và bi mẫn tôi nghĩ là giống nhau. Nhưng rồi thì với khái niệm Thượng Đế, phía trí tuệ là khác. Như tôi đề cập trước đây, bây giờ có sáu tỉ con người, thì chúng ta phải tìm ra một phương pháp phổ thông vốn trên căn bản của cảm nhận chung, kinh nghiệm chung. Tình cảm giữa bà mẹ và con cái là phổ thông. Nó ngay cả chung với những động vật có vú mà đời sống của chúng lệ thuộc vào bà mẹ, chó và mèo. Chúng ta cũng giống như chúng thôi, cùng mô thức. Cho nên con người chúng ta, do bởi sự thông minh và bây giờ là những khám phá của khoa học, có thể có một tâm thức từ bi yêu thương hơn. Não bộ thể hiên chức năng tốt đẹp hơn, thì sức khỏe thân thể cũng tốt đẹp hơn. Tôi nghĩ những thứ này là phổ quát. Do vậy hãy sử dụng những thứ này như căn bản của giải thích về tầm quan trọng của từ bi yêu thương. Như thế đó, tôi nghĩ, cung cách thế tục, điều đó là rất, rất quan trọng.

Cảm ơn.

Trích từ quyển The Big Book of Happiness
Ẩn Tâm Lộ
Sunday, January 21, 2018



TỪ BI YÊU THƯƠNG VÀ TRÁCH NHIỆM CÔNG DÂN



Nguyên tác: Compassion and Civic Responsibility
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Budapest 2010
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển


Thực tế, tôi rất vui mừng và cảm thấy vinh dự lớn để đón nhận giá trị này và cũng có cơ hội để nói với những thanh thiếu niên nam nữ. Tôi nghĩ tất cả trông rất rạng rở trong đôi mắt. Một học sinh rất sáng sủa cũng ở đây. (Chỉ vào đầu của ngài và đến một học sinh sói đầu) Tôi nghĩ hai chúng tôi đang tranh đua với nhau. (Cười) Xin lỗi nhe! Vậy thì những thanh thiếu niên này – các cháu là niềm hy vọng căn bản của chúng tôi. Tôi sinh năm 1935, ngay trước thế chiến thứ II; rồi thì chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, sự chia cắt Ấn Độ và nội chiến ở Trung Hoa. Những cuộc chiến tiếp tục cho đến bây giờ, ở châu Phi và Trung Đông.

Tôi nghĩ mỗi cuộc sống cá nhân là thân mến nhất của người ấy, nhưng vô giá trị đối với sự quý giá của đời sống. Bây giờ tôi gần bảy mươi ba tuổi và tôi đã quán sát thế kỷ vừa qua. Dĩ nhiên, có nhiều hoạt động lớn trong các lãnh vực khoa học và mọi thứ khác, nhưng thế kỷ vừa qua cũng đã trở thành thế kỷ của chiến tranh và bạo động. Tôi nghĩ những người đã kích hoạt sự bạo động này chắc chắn ở đó có một hy vọng hay viễn tượng . Mặc dù họ đã chọn một phương pháp bạo động, họ đã hy vọng mang đến những ngày tươi sáng hơn cho hành tinh này, hay, tối thiểu, đến những người quan tâm đến họ. Nhưng dường như rằng bạo động và chống bạo động là vòng tuần hoàn bất tận.

Vậy cho nên, các cháu, thế hệ mới của thế kỷ 21 – các cháu là hy vọng của chúng tôi. Các cháu sẽ xây dựng thế kỷ này như một thế kỷ như một thế kỷ của hòa bình và yên bình. Không còn tắm máu nữa. Tự thể thân yêu nhất của mỗi người sống một cách hạnh phúc. Mọi người đang nói, “Hòa bình, hòa bình” một nghìn lần, nhưng hòa bình không đến từ bầu trời. Tại sao? Bạo động và chiến tranh là những tạo tác của chúng ta, cho nên hòa bình tùy thuộc vào chúng ta. Chúng ta phải tạo nên một sự hòa bình trường cửu. Vậy thì thế hệ của tôi – những giáo sư, những hiệu trưởng chúng tôi, và những người khác thuộc thế kỷ hai mươi – và đã sẳn sàng nói lời giả biệt. (Vẩy những ngón tay) Bây giờ là lúc để bàn giao – tất cả sự hổn độn trên thế giới này – đến các cháu. Các cháu phải tìm ra những cách và phương tiện để hoạt động với vấn nạn này.

Trước hết, nhằm để tiến hành những cung cách và phương pháp hiệu quả để mang đến hòa bình, thì chúng ta cần ý chí để đối diện bất cứ xung đột nào mà không sử dụng bạo lực nhưng qua đối thoại, và tương tác mặt đối mặt. Tôi thường nói với mọi người rằng thế kỷ này nên là thế kỷ của đối thoại. Đối thoại là cách duy nhất để giải quyết xung đột. Nếu chúng ta hy vọng cho một thế giới hòa bình không có bất cứ xung đột nào, như vậy là không thực tế. Tôi nghĩ cho đến khi mà con người chúng ta, với sự thông minh của chúng ta, có năng lực của những viễn tượng khác nhau, sẽ luôn luôn có những hy vọng khác nhau và những ý tưởng khác nhau. Cũng vậy với sự hâm nóng toàn cầu, những nguồn tài nguyên quan trọng giới hạn, và sự gia tăng dân số, đó là sự ràng buộc với những nhân tố cho sự xung đột. Cho nên hòa bình có nghĩa là chúng ta thách thức với những sự xung đột này mà không sử dụng sức mạnh mà qua những phương tiện hòa bình, qua đối thoại.

Bây giờ nhằm để tiến hành đối thoại, chúng ta cần ý chí và quyết tâm; và ở đây, quyết tâm cần căn cứ trên từ bi yêu thương. Điều đó có nghĩa là quý vị đơn giản cần tôn trọng những quyền lợi và quan tâm của người khác. Và tự động tránh việc làm tổn hại người khác. Để bảo đảm điều đó, chúng ta cần một trái tim của từ bi yêu thương. Thứ hai, chúng ta cần tuệ trí và một quan điểm toàn diện hơn về thực tại – một khung cảnh bao trùm tất cả. Vậy nên, mặc dù nó đến từ Phật giáo và triết lý của Đạo Phật, khái niệm liên hệ hổ tương là điều gì đó mà tôi cảm thấy có thể thích nghi với mọi người. Mọi thứ là liên hệ hổ tương.

Bây giờ, trong thế giới ngày nay, trong các vấn đề của kinh tế và những thứ khác, không chỉ những quốc gia riêng lẻ mà ngay cả các lục địa là liên hệ hổ tương. Dưới những hoàn cảnh như vậy, khó để cho một quốc gia hay một nhóm người nào là kẻ thù. Tất cả là một bộ phận của chính chúng ta. Do thế, phá hoại kẻ thù của ta hay hàng xóm của ta thật sự là phá hoại chính ta. Chăm sóc cái gọi là kẻ thù ta – những người có thể có các quan điểm khác nhau, thái độ khác nhau và có thể thái độ hơi tiêu cực với ta – cũng là một bộ phận của chính ta. Tương lai của ta lệ thuộc vào những người như vậy. Bây giờ, sử dụng bạo lực để đánh bại láng giềng là vô nghĩa. Thời xưa, đánh bại láng giềng của ta hay kẻ thù ta có nghĩa là chiến thắng cho ta. Nhưng ngày nay, nó có nghĩa là sự phá hoại hổ tương. Do vậy, khái niệm chiến tranh là lỗi thời.

Vậy nên, về một mặt, hãy cố gắng để làm mạnh lòng từ bi yêu thương đối với tất cả mọi hình thức của sự sống. Về mặt khác, trên căn bản của thuyết liên hệ hổ tương, hãy phát triển một quan điểm toàn diện. Hãy phối hợp hai thứ này và tôi nghĩ chúng ta có thể mang đến một nền hòa bình chân thành, trường cửu cho thế giới. Nếu một người đầy thù oán, sân hận, và sợ hãi, thế thì hòa bình đơn giản là lời nói đầu môi chót lưỡi. Nền hòa bình chân thật phải đến từ bên trong. Do vậy, nhằm để thành tựu một nền hòa bình chân thành hay hòa bình thế giới, trước hết chúng ta phải bắt đầu với tự chính cá nhân của chúng ta, trong tâm thức chúng ta, và trong thế giới cảm giác của chúng ta. Chúng ta phải tập trung cho sự tĩnh lặng và yên bình. Dĩ nhiên, những sự quấy rầy, thù oán, sân hận và quá nhiều nghi ngờ buộc phải xảy ra, nhưng những thứ này phải chỉ nên là ở trình độ bên ngoài. Sâu xa bên trong, chúng ta phải tôn trọng tất cả những hình thức của chúng sanh tri giác và biết rằng tương lai chúng ta tùy thuộc vào chúng. Hãy phối hợp hai thứ này và, sâu bên trong, quý vị có thể duy trì hòa bình và tĩnh lặng nội tại. Những cảm xúc tàn phá này hầu như không thể dừng lại, nhưng chúng không nên tăng sức mạnh. Với một tâm từ bi yêu thương và tuệ trí sâu sắc, thì chúng ta có thể duy trì hòa bình nội tại.

Vậy nên qua niềm hòa bình nội tại của một cá nhân, thì chúng ta có thể tạo nên một gia đình hòa bình, và rồi một cộng đồng hòa bình. Nếu cuối cùng chúng ta có thể tạo một cộng đồng loại ấy, thế thì những người trong các vai trò lãnh đạo – những chính trị gia, công chức, quân nhân hay bất cứ người nào trong cộng đồng – sẽ là khác biệt. Đó là cách để đem đến một thế giới hòa bình chân thật, hay một nền hòa bình trường cửu.

Miễn là nền giáo dục được quan tâm, quý vị là những người chuyên môn. Dĩ nhiên, đặc biệt, tất cả những giáo sư tuyệt diệu này được trang một cách đầy đủ như kiến thức hiện nay được biết đến. Tôi cảm thấy xấu hổ để nói chuyện trước những học giả lớn này. Tuy nhiên, nhân tố đã cho tôi một ít can đảm để bày tỏ ý tưởng của tôi là nền giáo dục hiện đại. Tôi có thể sai, nhưng đối với tôi dường như rằng nền giáo dục hiện đại một cách chính yếu tập trung trong việc phát triển ngoại tại hay vật chất. Tôi đồng ý rằng chúng ta không thể đổ lỗi cho việc đó, vì bây giờ cơ chế giáo dục một mình  chịu trách nhiệm chăm sóc cả nền giáo dục trí tuệ và đạo đức luân lý.

Như đạo đức luân lý được quan tâm, có những quan điểm khác nhau. Một quan điểm là đạo đức luân lý phải căn cứ trên niềm tin tôn giáo; một quan điểm khác là không nhất thiết như vậy. Đạo đức luân lý có thể là đạo đức thế tục và nên là phổ thông. Do vậy cho nên, với sự tôn trọng nghiêm túc, các giáo sư cũng như sinh viên, xin hãy chú ý một cách đầy đủ vào những giá trị nội tại, đặc biệt là lòng nhiệt tình. Đó là những gì tôi muốn chia sẻ với quý vị.

Những gì khác tôi muốn nói? – Tôi không biết. (Cười) Một ngày kia, tôi đã đề cập về điều gì đó mà tôi không muốn nghĩ là sai để nhắc lại. Nhằm để phát triển niềm hòa bình nội tại, quý vị cần một loại giải trừ quân bị bên trong. Như tôi đã đề cập trước đây, sự loại trừ hoàn toàn các cảm xúc phiền não là không thể. Nhưng chúng ta có thể làm yếu nó đi, vì vậy cảm xúc tiêu cực có thể xuất hiện, nhưng không thể làm phiền não, do bởi sức mạnh nội tại tích cực. Đó là điều mà tôi gọi là sự giải trừ quân bị bên trong.

Sân hận và thù oán có thể mang đến năng lực bổ sung. Một nhà khoa học nói với tôi rằng theo sinh lý học, khi sân hận phát triển, máu dồn vào bàn tay ta có nghĩa là sẳn sàng để đánh nhau. Tương tự thế, khi sợ hãi phát sinh, máu dồn xuống chân, điều đó bảo rằng chúng ta phải bỏ chạy. Đây là hai cảm xúc rất quan trọng cho sự sống còn và khi những cảm xúc này phát triển, những thay đổi sinh học xảy ra một cách phù hợp. Tôi nghĩ, ở một mức độ giới hạn, sân hận là tốt – cho việc tự vệ. Nhưng khi trưởng thành, đôi khi sân hận và thù oán lớn lên với chúng ta. Sự thông minh nhân bản của chúng ta, thay vì là sự mở rộng từ bi yêu thương, thì thù oán lại bành trướng. Điều đó là sai lạc.

Sự thông minh của chúng ta phải hổ trợ trong việc phát triển từ bi yêu thương, và không nên là việc sử dụng theo ý muốn của thù oán. Có điều gì đó người Phật tử gọi là thiền phân tích (quán) – đơn giản là phân tích và trù liệu tính chất của sân hận và thù oán. Sân hận và thù oán được cho là làm tổn hại người khác, nhưng trong thực tế, ngay khi sân hận và thù oán khởi lên, chúng lập tức tàn phá sự hòa bình của chính tâm thức chúng ta. Và trong tiến trình ấy chúng ta bị rối loạn sự ngủ nghỉ, sự tiêu hóa, sự ngon miệng và rồi cuối cùng, chúng ta trở thành yếu đuối thân thể. Như một kết quả của sự sân hận và thù oán liên tục, bộ phận tuyệt hảo nhất của não bộ chúng ta, vốn có thể phán xét, cũng bị giảm thiểu và yếu kém. Nếu quý vị ở trong một tình trạng bị giảm thiểu cả tinh thần và thể xác, nó sẽ làm lợi ích cho kẻ thù của quý vị.

Nếu chúng ta có một xung đột nào đó và liên tục cảm thấy sân hận đối với người thân cận, cuối cùng ta sẽ cảm thấy khổ sở. Khi ta khổ sở, có thể người thân cận của ta có một thời gian chiến thắng nào đó. Thay vì thế, ta phải duy trì sự tĩnh lặng. Nếu người thân cận phi lý với ta, thì thật cần thiết và thích đáng để đưa ra phản biện, nhưng không sân hận và thù oán. Hãy phân tích hoàn cảnh và thực hiện việc phản biện của ta với nụ cười. Như vậy hiệu quả hơn, có phải không? Vậy nên thù oán hầu như vô ích. Nếu quý vị nghĩ về những dòng này, quý vị sẽ nhận ra rằng thù oán là điều gì đó đáng để vất vào thùng rác.

Hơi giận hờn thì okay khi chúng ta còn trẻ - giống như những động vật khác – cho sự tự vệ tức thời. Nhưng như một người trưởng thành, chúng ta phải nghĩ thật cẩn thận – sân hận có ích lợi gì? Trái lại, có từ bi yêu thương. Bởi vì chúng ta là những người trưởng thành, với sự hổ trợ của trí thông minh, chúng ta có thể mở rộng lòng từ bi yêu thương giới hạn của chúng ta thành lòng bi mẫn vô hạn. Nếu lòng bi mẫn không thành kiến, nó cũng có thể vươn tới kẻ thù ta. Một khi năng lực tinh thần loại này đạt được, chúng ta chắc chắn có thể giữ gìn tâm thức hòa bình của chúng ta trong mọi lúc. Thậm chí khi chúng ta đối diện với một hoàn cảnh khó khăn nào đó, thì chúng ta sẽ vẫn có một tâm thức hòa bình. Sự giải trừ quân bị nội tại là vậy đó.

Qua cách đó, sự giải trừ quân bị bên ngoài sẽ dần dần đến. Như vậy cũng là cần thiết. Vi khái niệm chiến tranh đã lỗi thời, vũ khí bây giờ không còn hữu dụng nữa. Có lẽ một lực lượng nhỏ, giới hạn sẽ cần đến, khi vẫn luôn có một số những người độc ác nào đó. Một số quốc gia, tôi nhớ, không có quân đội. Ở những đất nước đó, một cách tương đối, kinh tế, giáo dục, và y tế thì tốt hơn nhiều, vì tất cả tài nguyên của đất nước được sử dụng cho những việc ấy; trong khi những quốc gia lân bang tài nguyên được sử dụng để mua vũ khí, đạn dược và lính đánh thuê. Cho nên chúng ta cầu nguyện cho một mục tiêu sau cùng của một thế giới phi quân sự. Dĩ nhiên điều đó không thể xảy ra qua một đêm.

Vì mục tiêu ấy, thì trước nhất, tôi nghĩ chúng ta phải kiểm soát lại việc buôn bán vũ khí. Một khôi nguyên Nobel hòa bình đã tiến hành một khởi đầu nào đó quan tâm đến điều này. Điều đó thật là kỳ diệu, rất tốt. Thật cũng đáng giá để khám phá khả năng của quân đội hợp nhất Franco-German. Hy vọng thay, ở lục địa châu Âu, tất cả những quốc gia thành viên của Liên Minh Âu Châu sẽ thành lập một quân đội chung – giống như đồng Euro, cuối cùng họ sẽ có một lực lượng quân sự thống nhất.

Những thứ này thật sự vượt ngoài vai trò của tôi, nhưng như một loại tự do ngôn luận và tư tưởng, thì tôi thường bày tỏ những thứ này. Tôi nghĩ thật là một ý tưởng tốt lành để có một ước mơ, rồi thì những sự thay đổi tích cực nào đó có thể xảy ra. Rồi, dần dần, sẽ có một quân đội ở cấp độ toàn cầu. Nếu điều gì đó như vậy xảy ra, tôi nghĩ nó sẽ vì điều tuyệt vời nhất. Cho nên tôi tận dụng cơ hội để chia sẻ một số ước mơ của tôi, cho một tương lai tươi sáng đầy sinh khí lâu dài cho những học sinh trẻ trung này. Xin hãy giữ những lời này trong tâm quý vị. Trước nhất, quý vị hãy là một người hòa bình hơn. Sau đó, mở rộng kinh nghiệm và quan điểm của quý vị - quan điểm đúng đắn và thái độ sáng suốt của quý vị. Như quăng một viên sỏi vào hồ nước, nó sẽ tạo ra một hiệu quả dao động lan tỏa.

Cảm ơn, đó là tất cả - cảm ơn.

HỎI VÀ ĐÁP

HỎI: Hành động của từ bi yêu thương đơn giản nhất nhưng có tác dụng nhất là gì?

ĐÁP: Đơn giản nhất? Hiệu quả nhất? Tôi không biết. Tôi nghĩ quý vị phải chú ý hơn đến thế giới nội tại của chúng ta. Đó có nghĩa là một thế giới của tâm lý, cảm xúc và tư tưởng. Mặc dù vào thời xưa những thứ này hiện hữu như một bộ phận của tôn giáo và triết lý, thường thường tôi phân chia chúng thành 3 con đường.

Trong Phật giáo, tôi phân chia chúng thành khoa học Phật giáo, triết học Phật giáo, và tín ngưỡng Phật giáo. Triết học Phật giáo, đến một mức độ nào đó, và chắc chắn tín ngưỡng Phật giáo, là chỉ dành cho Phật tử, và không có liên hệ gì với những người khác. Nhưng khoa học Phật giáo là điều gì ấy chung. Bây giờ ở phương Tây, các nhà khoa học đang làm việc với não bộ, thần kinh, và cảm xúc của con người đang bắt đầu quan tâm vào những thông tin chi tiết hơn từ truyền thống Ấn Độ cổ xưa. Cho nên, tôi nghĩ là nó hữu ích. Để có thêm những thông tin nào đó, trải nghiệm bởi chính ta. Đó là những gì tôi có thể nói – phần còn lại thì tôi không biết.

HỎI: Ngài có viễn tượng căn bản nào cho toàn thế giới, mà ngài cảm thấy có thể đạt được một cách thực tiển trong vài thập niên tới?

ĐÁP: Tôi nghĩ rằng trong chính thế kỷ này, nếu chúng ta nổ lực, một cách chính yếu qua giáo dục, thì tôi nghĩ một thế giới thân hữu hơn, hòa bình hơn, và yêu thương hơn có thể thành tựu. Một thế giới phi quân sự hóa – tôi không biết. Nhưng chắc chắn, tỉ lệ của xung đột sẽ giảm thiểu. Loại thế giới tốt đẹp hơn như thế là rất có thể, nói một cách thực tiển.

Oh, tôi muốn thêm một thứ nữa. Trong thế giới vật chất, một vấn nạn là khoảng cách giữa giàu và nghèo. Điều này là thật sự không chỉ ở cấp độ thế giới mà cũng ở mức độ quốc gia. Hãy nhìn vào USA, nơi những nhà tỉ phú đang gia tăng, nhưng bộ phận nghèo hơn của người nghèo vẫn tiếp tục nghèo. Tôi nghĩ Singapore có thể khá hơn – gần như một thị quốc, có phải không? Tôi nghĩ khoảng cách này có thể ít hơn ở đấy, tôi không biết. Bằng như khác hơn, ở Ấn Độ, bất hạnh thay như ở Trung Hoa cũng vậy, khoảng cách giữa nghèo và giàu đang gia tăng một cách nhanh chóng. Điều này không phải sai lầm một cách đạo đức, mà cũng là một nguồn gốc của rắc rối thực tế. Tôi nghĩ chúng ta nên bày tỏ vấn nạn này một cách nghiêm túc. Điều đó là rất quan trọng.

Đây là nơi mà vai trò của yêu thương trở thành quan trọng – gia đình hay xã hội giàu có hơn nên quan tâm nghiêm túc trong nhu cầu của khu vực nghèo hơn của thế giới. Trong một quốc gia cũng vậy, người giàu sang hơn bố thí giáo dục, y tế, kỷ năng, hay khí cụ cho người nghèo và không nên khinh rẻ họ; phải nên giúp đở họ có được sự tự tin.

Tôi không tin bất cứ người nào sinh ra thấp kém hay cao thượng. Xét cho cùng những sự phân chia này là sáng tạo của chúng ta. Có lần, khi ở Nam Phi, tôi đã viếng thăm một gia đình da đen, nơi một người trong gia đình là giáo viên. Và việc này chỉ mới sau khi thay đổi, với Nam Phi trở thành một quốc gia dân chủ. Cho nên tôi đã nói với gia đình, “Hiến pháp của quý vị đã thay đổi, mọi người bình đẳng, không  còn bất cứ sự phân chia chủng tộc hay những sự phân biệt chủng tộc – nhưng theo tinh thần và cảm xúc cần có thời gian để hòa hiệp.” Rồi tôi trình bày, “Bây giờ cộng đồng da đen phải lãnh nhận trách nhiệm trọn vẹn, và nhận thức nó qua giáo dục, huấn nghệ, và sự tự tin.” Và rồi người giáo viên đó đã nói với tôi, “Não bộ của chúng tôi yếu kém. Chúng tôi không thể sánh ngang với người da trắng.”

Ngay lúc ấy tôi cảm thấy rất buồn. Đó là nguồn gốc của vấn nạn bây giờ. Tôi nói với người ấy, “Hoàn toàn sai. Từ lúc sinh ra, não bộ của chúng ta giống nhau. Sự khác biệt trong màu da chi là bề ngoài. Một cách căn bản chúng ta là những con người giống nhau – cùng tiềm năng, cùng năng lực.” Tôi kể cho ông ta thí dụ về hoàn cảnh Tây Tạng. Tôi nói với ông ta rằng nếu mọi người có cùng cơ hội, thì chúng ta có thể chứng minh rằng chúng ta là giống nhau, chúng ta bình đẳng. Tôi đã bàn luận rất lâu với ông ta. Rồi thì cuối cùng, với những cái nhìn xa xăm, thầm thì với tôi, người ấy đã tự tin rằng chúng ta là giống nhau . Vào lúc ấy, tôi cảm thấy khuây khỏa vô vàn – tối thiểu thái độ tinh thần của một người bây giờ đã thay đổi!

HỎI: Làm sao chúng ta biểu lộ lòng yêu thương đến người nào đó đã tứng làm tổn thương đến người khác?

ĐÁP: Như tôi đã đề cập trước đây, lòng yêu thương định kiến và lòng yêu thương vô tư là hai thứ. Lòng yêu thương định kiến, một cách phổ thông là sản phẩm của sinh học. Nó đến với chúng ta từ lúc sinh ra. Rồi thì với sự giúp đở của trí thông minh và tri thức của chúng ta – một kiến thức về những hậu quả dài hạn và ngắn hạn – lòng yêu thương của chúng ta trở thành vô tư. Loại yêu thương không định kiến ấy sinh ra từ tuệ trí hay tri thức, có thể mở rộng đến kẻ thù ta. Có những lý do cho điều này. Người tạo ra tổn thương đến người khác thực hiện vì cảm xúc tiêu cực. Cho nên có một loại lý do để cảm nhận quan tâm đến người đó.

Rồi thì, dĩ nhiên, có hai thứ - về phía nạn nhân và về phía thủ phạm. Về lâu về dài, có lý do hơn để quan tâm cho thủ phạm, bởi vì, trước nhất, theo tôn giáo hữu thần, người ấy đang hành động chống lại mong ước Thượng Đế và sẽ phải đối diện với những hậu quả tiêu cực. Quan điểm của tôn giáo vô thần là thủ phạm gây tổn thương tích lũy nghiệp chướng tiêu cực, vì thế không chóng thì chầy, xét cho cùng người ấy phải đối diện với những hậu quả tiêu cực. Thế nên có lý do hơn để quan tâm cho thủ phạm. Về mặt khác, vì nạn nhân đã đau khổ rồi, theo quan điểm hữu thần, Thượng Đế bây giờ sẽ chăm sóc cho người ấy nhiều hơn và theo quan điểm vô thần, người ấy đã đóng lại một chương của nghiệp xấu cân bằng trong quá khứ. Điều này có lý không? Ngay cả theo quan điểm thế tục, người làm sai – thủ phạm gây tổn thương, kẻ sát nhân, kẻ trộm, kẻ lừa dối, ngược đãi tình dục – sẽ phải đối diện với những hậu quả của luật lệ. Cho nên có lý do để quan tâm đến người làm sai. Và trên căn bản ấy, ta mở rộng lòng yêu thương đến người làm sai.

HỎI: Ngài có xem môi trường là một loại phẩm vật quý cho người giàu, và chúng ta có thể làm gì để duy trì cân bằng giữa lòng yêu thương cho người khác và hành tinh của chúng ta?

ĐÁP: Vấn đề môi trường, đối với tôi, là một vấn đề mới và sự thấu hiểu mới. Khi chúng tôi ở Tây Tạng, khí hậu khô và nóng, dân số ít ỏi, tất cả các nguồn nước đều có thể uống – không có vấn đề gì. Cho nên chúng tôi không có ý kiến gì về nước ô nhiễm. Vì thế cuối cùng, như một kết quả của nhiều lần gặp gở với những nhà khoa học và chuyên môn về sinh quyển, tôi đã chú ý đây là một vấn đề rất nghiêm trọng như thế nào. Hành tinh này của sáu tỉ con người là ngôi nhà duy nhất cho sáu tỉ người ấy. Mặt trăng trong xinh đẹp trong màn đêm – có rất nhiều thơ ca về mặt trăng – nhưng nếu chúng ta đánh mất ngôi nhà của chúng ta và cố gắng để định cư trên mặt trăng, điều đó sẽ là vô vọng. Tôi nghĩ hành tinh xanh này là ngôi nhà duy nhất cho nhân loại và những sinh vật khác.

Tôi nghĩ sự hâm nóng địa cầu có thể là qua việc mặt trời và vị trí của hành tinh chúng ta với mặt trời – là ở ngoài sự kiểm soát của chúng ta. Tôi nghĩ 5 tỉ năm trước đây, khi hành tinh này dần dần hình thành, hoàn cảnh không như thế. Do vậy, trong tương lai, sau vài tỉ năm nữa, mặt trời của chúng ta sẽ biến mất. Vì thế những thứ này là một câu hỏi khác. Nhưng với một phạm vi nào đó, qua sai sót của chúng ta, chúng ta đã tạo ra vấn đề lớn với sự hâm nóng địa cầu. Đây là một vấn đề rất nghiêm trọng hiện nay. Một nhân tố khác là sự chém giết là thứ mà tôi đề cập.

Nhưng sự suy thoái môi trường là vô hình. Không có nhiều sự chú ý, nó đang ảnh hưởng hơi thở của chúng ta, lá phổi của chúng ta, đôi mắt của chúng ta, là những thứ có thể chúng ta không chú ý cho đến khi quá trể. Do thế, điều này nghiêm trọng hơn. Chúng ta phải chú ý nhiều hơn đến vấn đề này. Vấn đề này không là một sự công bằng mà chúng ta chỉ có thể nói thôi – đây là một việc thực hành. Vì vậy, việc nghĩ về môi trường phải nên là một bộ phận của đời sống hàng ngày của chúng ta. Sự đóng góp bé nhỏ vớ vẩn của tôi đối với vấn đề đó, tôi nghĩ bây giờ là đã vài thập niên, là tôi chưa bao giờ dùng bồn tắm, chỉ vòi bông sen thôi. Ngay cả thế, tắm rửa mỗi ngày – một lần buổi sáng và một lần buổi tối là – là một sự xa xỉ lớn. Cho nên việc hành động có trách nhiệm đối với việc thiếu nước hay điện năng, tôi nghĩ nên là một phần của đời sống hàng ngày.

Việc quan tâm này có thể liên kết với yêu thương như thế nào? Trong trách nhiệm để bảo vệ hành tinh, nổ lực cá nhân có thể không có gì ấn tượng. Nhưng nếu một người thực hành sự quan tâm – và rồi mười người, một trăm người, một nghìn người – họ cuối cùng có thể làm nên một sự khác biệt. Do thế sự khởi đầu đến từ cá nhân. Tôi thường gọi điều này là một ý nghĩa của “trách nhiệm toàn cầu” – một cảm nhận cho sự cát tường của toàn nhân loại. Cho nên ở đây là sự nối kết với lòng yêu thương. Nó đến từ cả ý nghĩa của sự quan tâm cho người khác, và và một cảm nhận cho sự quan tâm đến chính mỗi cá nhân.

Thật sự, mỗi người trước tiên yêu thương chính mình. Điều này là rất thiết yếu. Cho nên, trước nhất chăm sóc tối đa cho chính mình; và rồi vì lợi ích của chính mình, hãy mở rộng tình yêu đến những người khác.

HỎI: Khi HIV tiếp tục tàn phá dân số Phi châu, ngài nghĩ chúng ta có thể làm gì để làm cho mọi người quan tâm đến nó cùng biểu lộ lòng yêu mến (từ ái) và thương cảm (bi mẫn) cần thiết để làm cho cơn dịch này biến đi?

ĐÁP: Dĩ nhiên, trước nhất, tôi nghĩ ở đó đã có một số nghiên cứu hoàn tất về HIV. Hàng triệu đô la đã được sử dụng. Tôi nghĩ là điều này nên tiếp tục, và tôi cũng hy vọng sẽ cho chúng ta một số kết quả nào đó. Bước tiếp theo của sự tỉnh thức là giáo dục. Có một số trường hợp HIV có thể lan truyền qua sự truyền máu; nhưng trong hầu hết mọi trường hợp thì qua tình dục, có phải thế không? Vậy thì có thể bao cao su nên sẳn sàng. (Cười) có thêm một điều nữa – tôi nghĩ cộng đồng không nên phủ nhận hay quay mặt với những bệnh nhân này.

HỎI: Một số người có xu hướng kém lòng từ bi yêu thương một cách tự nhiên. Có cách nào để trau dồi lòng từ bi yêu thương cho mọi người trong đời sống của họ không?

ĐÁP: Vào lúc khởi đầu của đời sống chúng ta – lúc sơ sanh – tôi không nghĩ có nhiều khác biệt. Nhưng sau khi sanh ra, từ ngay ngày đầu tiên và qua những tháng năm, những môi trường và điều kiện khác biệt biến chúng ta thành những loại người khác biệt. Đó là tại sao thật cực kỳ quan trọng để cung cấp đứa trẻ tình cảm tối đa từ cha mẹ; và cho phép bà mẹ - đặc biệt là bà mẹ - có nhiều thời gian hơn với đứa bé. Và thay vì bất cứ loại sửa nào khác, thì tôi cảm thấy sửa của chính bà mẹ là tốt nhất cho đứa bé.

Nhẫn nại cũng là một vấn đề thật sự quan trọng. Thời gian cũng là một nhân tố. Biến điều gì đó từ tốt sang xấu là rất dễ. Nhưng thay đổi điều gì đó từ xấu sang tốt phải cần một thời gian dài và cần nổ lực hơn, thế nên tự nhiên nó cũng cần nhẫn nại hơn. Vào một ngày nọ, trên máy bay từ Tokyo sang Seatlle, có một đôi vợ chồng với hai đứa con nhỏ. Lúc đầu, chúng dường như rất dễ thương. Tôi cho đứa bé trai một vài viên kẹo – tôi nghĩ một đứa là con trai, và đứa kia là con gái. Sau đó, cả đêm đứa lớn ngủ rất ngon lành; nhưng đứa nhỏ cứ khóc la, và xoay sở. Rồi thì cuối cùng người cha im lặng, rồi ngủ. Nhưng người mẹ dành trọn cả đêm chăm sóc đứa bé ấy. Vào lúc ấy tôi nghĩ, nếu là tôi, thì tôi có thể không kiên nhẫn trọn vẹn. Cảm ơn.

HỎI: Với tất cả bất mãn, tội ác, phân biệt chủng tộc, và thù hận, như những con người, chúng ta có thể làm gì để hòa nhập từ bi yêu thương, để tạo nên một sự khác biệt trong đời sống của người khác và xã hội của chúng ta?

ĐÁP: Giống như bất cứ vấn nạn nào khác, chúng ta cần những giải pháp dài hạn và những giải pháp ngắn hạn. Với những giải pháp dài hạn, như tôi đã đề cập rồi, chúng ta nên sử dụng giáo dục để thúc đẩy và làm cho mọi người nhận thức thấy các giá trị nội tại của họ. Đó là cách duy nhất về dài lâu. Một xã hội hòa bình không thể được mang đến bằng quy định, mệnh lệnh, hay bắt nạt – thế đó là khó khăn. Nó chỉ đến một cách chân thật nếu mọi cá nhân tự nguyện với năng lực của họ. Đó là tại sao chúng ta cần tỉnh thức về giá trị nội tại này.

Về mặt khác, với giải pháp ngắn hạn, tôi không biết. Tôi không có kinh nghiệm đặc biệt. Có lẽ  nó có thể được hoàn tất bằng việc thực hiện một sự nối kết hữu quan nào đó. Khi tôi viếng Bắc Ái Nhĩ Lan, tôi thấy những nạn nhân của xung đột từ hai nhóm tôn giáo. Tôi đã đến đấy hai hay ba lần. Một lần nọ, tôi được viếng thăm một nhóm nạn nhân. Khi tôi bước vào phòng đó, khuôn mặt mọi người căng thẳng và không cười, giống như sẳn sàng để chiến đấu. Không khí, ở cả hai phía đầy thù oán. Sau đó chúng toi ngồi xuống và nói chuyện. Lúc mới đầu, tôi lắng nghe kin nghiệm của họ. Tất cả đều là một loại kinh nghiệm rất khủng khiếp. Rồi thì, tôi cố gắng để làm cho không khí hơi lắng xuống bằng nụ mĩm cười, chia sẻ một vài câu nói đùa, những thứ như thế. Cuối cùng, họ đã làm tôi hơi ấm áp, và chúng tôi dần dần có một sự trao đổi rất nghiêm túc.

Khi tôi đến Bắc Ái Nhĩ Lan lần sau, sau một hay hai năm, tôi đã viếng những nạn nhân này lần thứ hai, và có một sự khác biệt lớn. Ngay từ lúc đầu,  mọi người đã  mĩm cười. Có một người đàn ông trong họ được diễn tả như một anh hung, tôi nghĩ ông khoảng mười ba hay mười bốn khi một viên đạn cao su bắn trúng ông (điểm giữa hai chân mày), lập tức ông mất thị lực. Dĩ nhiên, do bởi đau đớn, vào lúc ấy, cậu bé bất tỉnh. Khi tỉnh lại, ông ta đã bị  mù. Nhưng không có sân hận hay thù oán trong ông – chỉ hối tiếc rằng ông ta không còn có thể thấy khuôn mặt bà mẹ, ông đã nói tôi như thế. Như một kết quả, khi tôi gặp nhóm người này lần đầu tiên, người đàn ông mù vẫn tĩnh lặng và có một nụ cười mĩm trên khuôn mặt. Khi tôi gặp ông trong lần thứ hai, ông đã có một người vợ xinh đẹp và hai đứa con – hai đứa con gái rất dễ thương.

Cho nên thái độ tinh thần thật sự làm nên một khác biệt lớn trong đời sống các bạn. Những nạn nhân của cùng tai họa, một số mãi giữ sự sân hận và thù oán suốt cả cuộc đời họ, và những năm tháng của họ thì căng thẳng và khó khăn. Cậu bé này, ngay từ lúc khởi đầu, không sân hận hay thù oán. Do vậy, cuộc sống của ông ta – mặc dù không còn thấy được nữa – thì vẫn rất hạnh phúc ở đấy. Thế nên, có lẽ câu chuyện này, cùng sự chia sẻ và kể lại những câu chuyện như vậy, nếu nó là một khu vực thật sự rắc rối, thì tôi nghĩ thật đáng để mời người anh hung của tôi, tôi nghĩ thật là tuyệt vời, tôi nghĩ thế giới bên ngoài không biết gì nhiều về con người này. Vì vậy tôi nghĩ cái chính là tạo nên mối quan hệ bè bạn, đầu tiên là từ bên trong ra bên ngoài. Rồi dần dần sự cản trở đáng sợ giảm thiểu, và sau đó chúng ta có thể thực hiện những sự thảo luận nghiêm túc hơn, tôi cảm thấy như vậy. Tôi nghĩ với sự giảng giải tốt đẹp hơn, sự tỉnh thức tốt đẹp hơn, phối hợp tốt đẹp hơn,  thì những điều này sẽ dần dần thay đổi. Tôi nghĩ như thế đó.

HỎI: Từ bi yêu thương và trách nhiệm công dân là những từ ngữ với các sự diễn dịch bao quát và có nhiều ý nghĩa. Có một định nghĩa phổ quát hiệu quả đủ để nối kết con người, mặc cho những khác biệt về tôn giáo, thứ bậc, tuổi tác, và giới tính không?

ĐÁP: Tôi nghĩ trách nhiệm công dân có nghĩa là một cảm nhận trách nhiệm nào đó cho xã hội. Bản chất căn bản của con người là một tạo vật xã hội. Trước tiên hết, tôi không hiểu ý nghĩa chính xác của thuật ngữ Anh văn này – “civic responsibility – trách nhiệm công dân”. Như tôi đã đề cập, ngoại trừ chúng ta có cảm nhận của việc quan tâm hay chăm sóc cho sự cát tường của người khác, thì loại trách nhiệm ấy khó để có. Cho nên rõ ràng đây là sự nối kết này.

Bây giờ, từ bi yêu thương là ý nghĩa quan tâm cho sự khổ đau của người khác; tôi nghĩ phần đó là giống nhau đối với tất cả mọi truyền thống tôn giáo. Từ ái và bi mẫn tôi nghĩ là giống nhau. Nhưng rồi thì với khái niệm Thượng Đế, phía trí tuệ là khác. Như tôi đề cập trước đây, bây giờ có sáu tỉ con người, thì chúng ta phải tìm ra một phương pháp phổ thông vốn trên căn bản của cảm nhận chung, kinh nghiệm chung. Tình cảm giữa bà mẹ và con cái là phổ thông. Nó ngay cả chung với những động vật có vú mà đời sống của chúng lệ thuộc vào bà mẹ, chó và mèo. Chúng ta cũng giống như chúng thôi, cùng mô thức. Cho nên con người chúng ta, do bởi sự thông minh và bây giờ là những khám phá của khoa học, có thể có một tâm thức từ bi yêu thương hơn. Não bộ thể hiên chức năng tốt đẹp hơn, thì sức khỏe thân thể cũng tốt đẹp hơn. Tôi nghĩ những thứ này là phổ quát. Do vậy hãy sử dụng những thứ này như căn bản của giải thích về tầm quan trọng của từ bi yêu thương. Như thế đó, tôi nghĩ, cung cách thế tục, điều đó là rất, rất quan trọng.

Cảm ơn.

Trích từ quyển The Big Book of Happiness
Ẩn Tâm Lộ
Sunday, January 21, 2018


TỪ BI YÊU THƯƠNG



 Nguyên tác: Compassion
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Budapest 2010
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển



Tôi rất vui mừng hiện diện ở đây với quý vị, để chia sẻ một vài quan điểm của tôi, và có thể cũng là một số kinh nghiệm nào đó. Chúng ta quên trình độ nền tảng giống nhau của chúng ta. Cho nên bây giờ ở đây, khi tôi gặp gở mọi  người, tôi được cảm nhận rằng chúng ta là những con người như nhau – tôi đúng là đang nói chuyện với những người anh chị em khác của tôi, không có rào cản nào. Dĩ nhiên, hàng rào ngôn ngữ là ở đó; nhưng nụ cười của tôi, hay những ngôn ngữ thân thể, thì vượt khỏi hàng rào ngôn ngữ. Vì vậy, thường thường trong những buổi nói chuyện công cộng của tôi thì gồm hai phần – trong phần một, tôi sẽ nói về điều gì đó với quý vị, và sau đó phần thứ hai là các câu hỏi và trả lời. Tôi cảm thấy có một lợi ích hổ tương trong các câu hỏi và trả lời – quý vị có được những điểm nào đó mà trong ấy quý vị có một sự thích thú cá nhân nào đó; và qua câu hỏi, thì tôi có thể thấu hiểu sự quan tâm chính hiện tại của quý vị. Đôi khi, những vấn đề không ngờ nào đó phát sinh, vì thế đối với tôi, trở thành điều gì đó sư phạm và hữu ích.

Tôi thường dùng những chữ “không tín ngưỡng” và “đạo đức thế tục”, cho nên buổi này là về chủ đề đó. Đạo đức thế tục là quan trọng vì trước tiên nhất, một phần lớn gần bảy tỉ con người, trong một ý nghĩa thật sự, không quá xem trọng với tôn giáo. Vậy thì, một cách căn bản, đây là loại những người không tín ngưỡng. Những người không tín ngưỡng này cũng là những con người và có mọi thứ quyền để hạnh phúc. Chúng ta phải quan tâm nghiêm túc trong những nhu cầu của những người không có tín ngưỡng. Rồi đến chính vấn đề chủ nghĩa thế tục. Như tôi đã đề cập tóm tắt hôm qua, nhiều người bạn của tôi thuộc Ki tô giáo hay Hồi giáo. Họ đúng là miễn cưỡng sử dụng chữ “chủ nghĩa thế tục”, vì họ có sự thấu hiểu rằng chủ nghĩa thế tục có nghĩa là phủ nhận hay không tôn trọng tôn giáo.

Tôi nghĩ rằng nếu người ta sử dụng chữ “chủ nghĩa thế tục” trong phạm vi của cách mạng Pháp hay cách mạng Bolshevik ở Nga , điều đó sẽ có một ý nghĩa nào đó chống lại các thể chế tôn giáo, như vậy thì okay thôi. Trong những thời điểm đó, thế chế tôn giáo đã trở thành căn bản của tầng lớp đặc lợi cầm quyền. Ngay cả Tsar – Vua Nga – đã tạo ra một ấn tượng rằng ông có những quyền đặc biệt nhân danh tôn giáo, do bởi sự phù hộ của Thượng Đế. Và rồi thì, những thể chế tôn giáo này đôi khi tự chúng thối nát. Thật đáng để chống lại những thể chế tôn giáo thối nát nhưng điều đó không có nghĩa chủ nghĩa thế tục thật sự chống lại tôn giáo – mà chỉ là chống lại thể chế tôn giáo. Theo truyền thống Ấn Độ, chủ nghĩa thế tục  hoàn toàn không có nghĩa là không tôn trọng tôn giáo. Thể chế hiện đại của Ấn Độ tự nó căn cứ trên chủ nghĩa thế tục. Điều đó hoàn toàn không có nghĩa là không tôn trọng tôn giáo nhưng thay vì thế là do sự tôn trọng tất cả các tôn giáo – không có sự ưa thích tôn giáo này hay tôn giáo nọ. Theo như sự quan tâm của quốc gia, thì có sự tôn trọng cho tất cả các tôn giáo. Đó là ý nghĩa của chủ nghĩa thế tục.

Trước đây, tôi có gặp ông Advani cựu quyền thủ tướng Ấn Độ. Tự ông là một người có tôn giáo, và trong một lần nói với tôi về cuộc phỏng vấn lớn với ông về sự thành công của nền dân chủ Ấn Độ trên một đài truyền hình Canada. Và ông đã nói với tôi, ông đã giải thích rằng trong cuộc phỏng vấn đó rằng một nhân tố của nền dân chủ thành công ở Ấn Độ là một nghìn năm; “Ấn Độ có tập quán hay truyền thống về việc tôn trọng các quan điểm đối kháng.”

Ông đã nói cho tôi thí dụ về một trường phái tư tưởng, Charvaka[1] – chủ nghĩa hư vô – thậm chí trước Đức Phật. Theo trường phái này, không có kiếp sống tới, không Thượng đế, không có tâm linh, không có gì cả; chỉ có kiếp sống này, thế nên quý vị có thể hưởng thụ tối đa. Đó là quan điểm của Charvaka. Advani đã nói trong cuộc phỏng vấn rằng những người theo quan điểm này được gọi là những người theo chủ nghĩa hư vô. Phần còn lại của truyền thống tâm linh Ấn Độ phê phán và lên án quan điểm này; nhưng những người theo quan điểm này vẫn được nhắc đến như những rishi. Rishi có nghĩa là “hiền nhân” (sage). Cho nên điều đó có nghĩa là ngay cả quý vị phê phán hay lên án một niềm tin triết lý, nhưng hãy tôn trọng người đó. Đó là truyền thống Ấn Độ nghìn năm tuổi.

Do vậy, hãy nhìn vào Ấn Độ hôm nay – tôi nghĩ rằng đó là một quốc gia duy nhất nơi mà tất cả những truyền thống tôn giáo quan trọng sống chung với nhau với sự tôn trọng hổ tương. Dĩ nhiên, trong một số trường hợp đây hay đó, một số người Ấn giáo thiêu đốt những cơ sở truyền giáo Ki tô, hay, một người Ấn giáo đánh người Hồi giáo hay một người Hồi giáo đánh người Ấn giáo. Okay vậy đó – điều đó chỉ xảy ra trong những khoảng không gian nào đó nơi đây hay nơi kia. Tôi nghĩ rằng trong khoảng một tỉ người thì luôn luôn lúc nào cũng có những người tinh ma quỷ quái nào đó.

Nhưng, quan tâm đến khung cảnh rộng hơn, Ấn Độ là xứ sở duy nhất, nơi mà bên cạnh những tôn giáo bản thổ - như Ấn giáo, Phật giáo, Kỳ na giáo[2], và sau này là Tích khắc giáo[3] (Sikhism) – những tôn giáo khác cũng tìm thấy một nơi hòa bình. Bái hỏa giáo[4] Iran, tôi nghĩ là một nghìn năm trước đây, và đã thấy Ấn Độ là nơi nương tựa. Bây giờ họ đã định cư rất tốt. Nhiều nhân vật nổi tiếng, cả trong lãnh vực thương mại và quân sự, bây giờ đang ở Paris. Họ là những người như Tata. Mặc dù số lượng rất ít, nhưng họ chung sống một cách bình đẳng. Do Thái giáo, Hồi giáo, Ki tô giáo – tất cả những truyền thống tôn giáo quan trọng trên thế giới đã hiện hữu với nhau ở Ấn Độ hàng nghìn năm. Tôi nghĩ điều này chỉ xảy ra, do bởi thái độ thế tục, sự tôn trọng tất cả các tôn giáo. Thế nên khi tôi nói chuyện về việc bao gồm cả những người không tín ngưỡng, tôi muốn nói rằng giống như họ đã đề cập đến những người không tín ngưỡng ngày xưa như những hiền nhân, những người không tín ngưỡng ngày nay cũng được tôn trọng như vậy. Khi tôi nói “chủ nghĩa thế tục”, thì tôi muốn nói nó phù hợp với khái niệm Ấn Độ.

Vậy thì, đạo đức thế tục là gì? Tôi xem những phẩm chất tốt đẹp nhân bản của loài người phải làm việc một cách chính yếu vớ những nhân tố sinh học, và không phải với sự ảnh hưởng của tôn giáo. Điều này cũng đúng với những thứ nào đó cung ứng sự hạnh phúc cho chúng ta. Như an toàn, diệt trừ sợ hãi – đó là một giá trị nhân bản và là một bộ phận của đạo đức luân lý thế tục. Tình cảm của con người là gì? Lúc chúng ta mới sinh ra, sự sống của chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào sự săn sóc của bà mẹ chúng ta. Chúng ta sống còn trên sửa của bà mẹ. Loại nổ lực không mệt mõi đó đến từ tình cảm của bà mẹ. Do vậy, nổ lực vật chất đến từ bà mẹ, và mỗi hành vi thân thể phải đến từ một động cơ nào đó. Cho nên hành động chăm sóc không mệt mõi của bà mẹ cho đứa con của bà được động viên bời tình cảm. Điều đó không phải của riêng con người. Hãy nhìn những con chó, mèo, ngựa – tất cả những động vật có vú – và cả những con chim.

Tôi biết rằng những con chim nhỏ nào đó, khi những cái trứng của nó nở, vào lúc khởi đầu bộ long của những con chim non là rất yếu để bay. Cho nên chim mẹ đã bay không mệt mõi – đến và đi, đến và đi – tìm kiếm thực phẩm cho những con chim non. Năng lượng ấy được mang đến bởi tình cảm cho con cái của chim mẹ. Nó không liên can gì với tôn giáo – đó là nhân tố sinh học. Khi người nào đó mĩm cười với chúng ta với một động cơ chân thành, chúng ta cảm thấy hạnh phúc. Cảm giác ấy làm tiêu tan sợ hãi. Vậy nên tình cảm mang đến sự thoải mái. Đây là những phẩm chất sinh học, chúng ta đã sở hữu những thứ này rồi.

Khi một đứa bé được sinh ra, nó không biết người nào là người nào, không biết ý tưởng về mẹ, nhưng một cách tình cảm, do bởi nhân tố sinh học, nó hoàn toàn dựa nương vào người ấy. Bất cứ khi nào bà mẹ chạm vào đứa bé, thì nó cảm thấy an toàn và hạnh phúc. Nếu bị tách rời khỏi bà mẹ, nó cảm thấy không an toàn và sợ hãi. Những con thú cũng như vậy. Một lần tôi đã chú ý những con chó con, rất nhỏ vào lúc ấy, mắt chúng chưa mở. Chúng kêu những tiếng nho nhỏ và cố gắng để tìm một thứ của mẹ chúng – thứ gì đấy – thứ gì be bé, cho ra sửa đấy? (mọi người cười) Quý vị thấy, những con chó con hay mèo con mà những đôi mắt sơ sinh chưa mở, nhưng nó có khả năng để tìm ra những đầu vú nhỏ. Và ngay khi chạm vào miệng nó, nó rất vui sướng và an bình. Điều đó chứng tỏ thứ tình cảm vô vàn giữa bà mẹ và đứa bé. Tôi nghĩ kinh nghiệm mà chúng ta tiếp nhận vào lúc đó – khi chính chúng ta bất lực và mờ mịt nhưng sống còn do bởi sự chăm sóc và tình cảm của bà mẹ - thật sự thấm sâu vào trong máu của chúng ta.

Nó tồn tại như vậy trong toàn bộ đời sống của chúng ta – bất cứ khi nào chúng ta tiếp nhận tình cảm từ những người khác, thì chúng ta cảm thấy hạnh phúc. Ngay lúc sắp chết, người ta biết rằng không còn ở bên nhau nữa – một người đang chết, người kia sẽ còn lại, vậy nên bây giờ không còn tình thân nữa, không còn làm gì được nữa – nhưng tuy thế, người đang chết một cách cảm xúc vẫn hạnh phúc hơn nhiều khi được quây quần chung quanh bởi những người thân quyến và thân hữu tốt lành, những người thật sự biểu lộ tình cảm đến người ấy. Đó là bản chất tự nhiên của đời sống con người.

Chính thân thể này của con người, khi được quây quần bởi những người thân tình, cũng trở thành mạnh khỏe hơn và mạnh mẽ hơn. Một số bác sĩ và khoa học gia đã tiến hành một cuộc thí nghiệm đặc biệt. Họ đem hai con heo mọi, cả hai bị thương cùng lúc. Họ đặt một con heo bị thương với một con heo khác mạnh khỏe, vậy là con heo bị thương lập tức được con heo kia liếm vào chỗ bị thương. Một con heo bị thương khác được giữ mà không có bạn hay đồng loại, cho nên không thể nhận được những cái liếm của đồng loại. Người ta thấy rằng con heo mọi được liếm hồi phục nhanh hơn nhiều. Do vậy, đó là kết quả của việc đón nhận tình cảm.

Mặc dù tình cảm không phải là vật chất, chỉ là tinh thần, nhưng nó có tác động vô cùng trên thân thể. Một số nhà khoa học thậm chí đã nói với tôi rằng những cảm xúc tiêu cực như sân hận, thù oán, và sợ hãi thật sự có thể ăn mòn hệ thống miễn nhiễm của chúng ta. Trái lại, tình cảm và tình bạn chân thành là rất hữu ích để duy trì hệ thống miễn nhiễm của chúng ta – đôi khi chúng làm cho nó thể hiện chức năng tốt hơn. Các nhà khoa học cũng tiến hành một thí nghiệm khác với những con khỉ con, một số con khỉ nhỏ được cho phép ở với mẹ chúng, trong khi những con khác bị tách rời khỏi đàn khỉ. Người ta quán sát thấy những con khỉ nhỏ ở với mẹ chúng thì tình cảm luôn luôn nô đùa vui vẻ và hạnh phúc. Còn những con bị tách rời khỏi đàn và mẹ chúng thì gần như luôn luôn chán chường và sẳn sàng để đánh nhau.

Rồi thì có một trường hợp ở thủ đô Hoa Sinh Tân, tại một đại học, chúng tôi đã thảo luận mối quan hệ giữa từ bi yêu thương và sức khỏe thân thể. Theo một bác sĩ chuyên khoa, những người thường nói đến những chữ như “tôi, của tôi, thứ của tôi, là tôi” có hiểm họa bị đau tim mạch rất lớn. Ông ta không nói lý do. Trong mức độ hạn hẹp ấy, ngay cả những vấn đề nhỏ xuất hiện rất lớn và không chịu nổi với chúng ta. Trái lại, khi chúng ta suy nghĩ vì quan tâm đến sự cát tường của người khác hơn, tâm thức chúng ta mở rộng hơn. Do vậy, với quan điểm ấy, ngay cả với những vấn đề nghiêm trọng hơn sẽ không thấy quá quan trọng như vậy.

Có hàng nghìn người quan tâm cho sự cát tường của chính họ hơn là của quý vị. Vậy nên thái độ hẹp hòi có sức phóng đại những vấn nạn nhỏ, sự phản ứng là rất mạnh và như một kết quả, có thêm sự sợ hãi, chán chường, lo lắng hơn – điều này rất tệ hại cho sức khỏe của chúng ta. Vả chăng, chúng ta là những tạo vật xã hội, do vậy những mối quan hệ tốt đẹp với những đồng loại chung quanh chúng ta là rất quan trọng. Nếu ta có một thái độ thật sự vị kỷ, thì ta tự động phát triển sự nghi ngờ, và không tin tưởng, và thật rất khó để phát triển tình thân hữu nhân loại chân thành.

Vì những người có một tình cảm nào đó cho sự cát tường của những người khác, người khác xem như điều gì đó yêu mến, cho nên sự tiếp xúc của họ với người khác dễ dàng hơn nhiều, khả dĩ dễ dàng hơn nhiều. Kết quả là không có sợ hãi hay lo lắng. Sự tin cậy căn cứ trên tính trung thực và là trong sạch. Nếu quý vị duy trì sự đạo đức giả, thì làm sao quý vị phát triển niềm tin? Không có niềm tin, làm sao quý vị phát triển tình bạn? Nếu quý vị giàu có, do bởi tb, quý vị có thể mua thêm một số khách khứa. Nhưng như thế đó, quý vị sẽ có thêm một nụ cười giả tạo hay một ít ngôn ngữ lịch sự - nhưng sâu bên trong, sẽ không có sự tôn trọng. Một tình bạn chân thành là căn cứ trên sự tin cậy. Đó căn bản tự nhiên của con người.

Nếu quý vị suy nghĩ về nhưng dòng này, thì quý vị sẽ tự động phát triển sự tự tin nhằm để có được lợi lạc tối đa cho chính quý vị, quý vị nên trung thực, trắc ẩn, và không có một thái độ vị kỷ cực đoan. Chính sự vị kỷ sẽ mang đến thêm khổ đau, thêm rắc rối và lo lắng cho quý vị. Nó cũng làm hại điều kiện thể chất của quý vị. Tất cả chúng ta được sinh ra từ những bà mẹ. Mọi người đều kinh nghiệm sửa mẹ của chính mình. Kinh nghiệm đầu đời của mọi người là sự ân cần và tình cảm của bà mẹ. Sau đó, dụng cảm nhận và kinh nghiệm thông thường của chúng ta, chúng ta phát triển và xây dựng lòng tin. Việc trau dồi một thái độ vị tha hơn là cách tốt nhất để mang đến sự an bình nội tại và sức khỏe tốt lành. Rồi thì có những khám phá của khoa học. Vì vậy có ba cách – mà qua đó chúng ta có thể phát triển một sự tỉnh giác sâu xa hơn về tầm quan trọng của bi mẫn và tình cảm. Qua đó, chúng ta có thể thúc đẩy những giá trị và những phẩm chất tốt đẹp căn bản.

Hung hăng và giận dữ cũng là một bộ phận của bản chất con người, nhưng chúng là sai. Chúng ta đón nhận những thứ này như đương nhiên. Một số khía cạnh của bản chất con người đáng lẽ phải bảo vệ chúng ta, nhưng thay vì thế, chúng lại làm tổn hại trí thông minh và năng lực để thấy thực tại. Khi sân hận nổi lên, chúng ta không thể thấy thực tại bởi vì vọng tưởng tinh thần che lấp. Do vậy, ngay cả nếu quý vị muốn sân hận ai đó hay muốn làm hại người khác, phương pháp của quý vị phải thực tế. Qua phương pháp thực tế, quý vị có được những gì quý vị muốn. Bất cứ phương pháp không thực tế nào cũng không làm quý vị có được mục tiêu. Không biết thực tại, tất cả những phương pháp của chúng ta trở thành không thực tế và thất bại trong việc đạt đến mục tiêu của chúng ta. Do vậy, thái độ quá hung hăng, tham lam, vị kỷ, sợ hãi, và không tin cậy thì thật sự rất tổn hại cho cho chức năng của trí thông minh con người. Tôi nghĩ tôi sẽ dừng lại ở đây bây giờ.

HỎI VÀ ĐÁP

HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, trong đời sống của một người, chỗ nào mà ngài nên cố gắng để nhận ra mong ước và khát vọng của ngài? Và chỗ nào ngài nên dừng lại? Câu hỏi của tôi có thể thích hợp đến mọi phương diện của đời sống hằng ngày của chúng ta, giống như sự hợp tác, nuôi dưỡng con cái, nơi làm việc và mọi thứ.

ĐÁP: Đó là câu hỏi rất lớn. Dĩ nhiên, vì tất cả những khát vọng hay đối tượng mà chúng ta muốn thành đạt, trước tiên nhất chúng ta phải phân tích chúng ta có thể đạt được bao nhiêu. Sau đó, chúng ta nên có một sự tiếp cận thực tiển, vì thế chúng ta có thể có những kết quả hài lòng hơn. Nếu sự tiếp cận là không thực tiển hay mục tiêu quá lớn, thì không thể hiện thực được. Cho nên lúc bắt đầu là rất quan trọng.

Sau đó, tôi nghĩ, một cách căn bản có hai điều – mục tiêu cho những giá trị vật chất và cho những giá trị tinh thần nội tại, giống như hòa bình và tĩnh lặng của tâm thức. Chỗ mà những giá trị vật chất được quan tâm, luôn luôn có giới hạn – ngay cả quý vị trở thành một tỉ phú, sự tham lam của quý vị có thể vẫn không hài lòng, quý vị có thể vẫn muốn nữa và nữa, và cuối cùng, quý vị sẽ chạm phải giới hạn. Thế nào đi nữa, khi có một sự giới hạn, thì quý vị nên thực hành sự toại nguyện. Không có giới hạn với giá trị nội tại – nổ lực và thực tập hơn nữa sẽ tiếp tục thu hoạch kết quả hơn nữa. Những phẩm chất tinh thần tốt đẹp này luôn luôn gia tăng vì chúng không căn cứ trên thân thể.

Bất cứ giá trị nào căn cứ trên thân thể vật chất sẽ có một sự giới hạn. Thí dụ, tầm nhìn của mắt có một sự giới hạn bởi vì nó lệ thuộc trên nhãn căn hay con mắt và não bộ. Thể trạng tinh thần không căn cứ trên trình độ thân thể, cho nên càng rèn luyện, nó càng phát triển. Trong lãnh vực ấy, một cách hợp lý, quý vị nên luôn luôn nổ lực và cố gắng để cải thiện, vì phạm vi của nó là vô hạn. Thông thường chúng ta chỉ làm ngược lại. Trong lãnh vực vật chất, nơi mà trong bất cứ trường hợp nào cũng có một sự giới hạn, thì chúng ta không bao giờ toại nguyện. Chúng ta luôn luôn muốn nữa và nữa. Nhưng ở chỗ những giá trị nội tại được quan tâm, thì chúng lại ta toại nguyện. Đó là một sai lầm.

HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, ngài có ý kiến gì về việc ăn thịt? Những con thú chúng ta săn, giết và ăn cũng muốn sống. Tôi tự hỏi chúng cảm thấy gì? Ảnh hưởng của việc ăn thịt là gì lên trí thông minh và tâm thức của con người?

ĐÁP: Chủ trương trường chay là một truyền thống cả nghìn năm, và tôi nghĩ là điều đó rất tốt. Ở Tây Tạng, theo truyền thống, dĩ nhiên – trong một số vùng ở cao nguyên Tây Tạng – không có rau cải hay trái cây; và trong thời xưa, đời sống của người Tây Tạng lệ thuộc hoàn toàn vào thú vật, cho sửa, da, long, và những thứ như vậy. Cho nên, một cách căn bản, người Tây Tạng theo Phật giáo, nhưng trong lúc ấy không ăn chay. Trong trường hợp của riêng tôi, khi tôi vào tuổi mười bốn hay mười lăm, tôi đã thay đổi các thực đơn lễ lạc chính thức, vốn trước đây liên hệ đến rất nhiều thịt, thành thực phẩm chay lạc. Rồi thì sau năm 1965, tôi cố gắng để trở thành người ăn chay. Trong hai mươi tháng sau đó, tôi là người ăn chay. Nhưng sau đó, rắc rối ở túi mật của tôi bắt đầu, vì vậy sau đó, tôi nghĩ khoảng 1967, tôi trở lại việc ăn uống không chay lạc trước đây của tôi.

Sau này, tất cả những học viện Tây Tạng lớn dừng phục vụ thịt và đã bắt đầu phục vụ thức ăn chay từ những nhà bếp quen thuộc của họ. Những nhà bếp thông thường của một số trường cũng tự động từ bỏ phục vụ thịt. Và rồi thì, tất cả những khu định cư Tây Tạng ở Ấn Độ, chúng tôi đã quyết định không nuôi heo, cá và trang trại gà vịt. Một hay hai khu định cư giữ một số gà vịt, họ nói, chỉ để lấy trứng. Sau đó, tôi đã yêu cầu họ, quý vị sẽ làm gì khi các con gà mái thôi đẻ trứng. Không có câu trả lời rõ ràng. Vài trăm con gà mái được tiếp tục nuôi dưỡng sau khi chúng không đẻ nữa; rất tốn kém. Sau đó, chúng được đưa tới từng gia đình, cũng rất nặng nề.

Cho nên tôi đã yêu cầu giữ lại nếu những trang trại lấy trứng thật cần thiết vì lý do kinh tế, thật sự cần thiết cho dân định cư. Nếu không quan trọng, tôi yêu cầu họ dẹp bỏ trang trại ấy. Do thế bây giờ, trong hai thập niên qua không có khu định cư nào có trang trại lấy trứng. Vì thế, đó là một sự đóng góp nhỏ của chúng tôi đối với việc thúc đẩy vấn đề ăn chay. Như đối với cá nhân, tùy họ mà thôi.

Ở trình độ tinh thần, ảnh hưởng nào của việc ăn chay lên tâm thức thì khó để nói. Nhưng rồi thì, cũng có những vấn đề môi trường. Những nông trại nuôi bò hay thú khác để lấy thịt cũng rất xấu cho môi trường. Cách họ nuôi thúc thú vật – cố gắng để làm chúng lớn nhanh lên và không tự nhiên và trở thành mập béo – cũng rất tai hại cho sức khỏe chúng ta. Ngày nay, các nhà khoa học nói rằng những thứ gọi là sản xuất thực phẩm sạch (organic: hữu cơ) là tốt hơn cho sức khỏe. Mới đây, những loại bệnh tật nào đó đã lan truyền vì thịt bò, heo, và gà. Cũng có những báo cáo rằng một số cá trong một số vùng nào đó đã giảm thiểu vì đánh bắt quá nhiều. Tôi nghĩ chúng ta nên có một số giới hạn nào đó, thay vì sản xuất một cách tàn nhẫn hàng triệu con thú và rồi làm thịt chúng.

Và trong khi ấy, nếu toàn thể nhân loại đều ăn chay cả, điều đó cũng không thực tế và khó khăn. Nhưng tôi nghĩ thật quan trọng để giáo dục con người rằng thật tàn nhẫn để nuôi thú vật và rồi thật tàn nhẫn để bán thịt của chúng, mà không cảm giác gì đến nổi đau đớn của chúng và không có sự tôn trọng sự sống của chúng; điều này chắc chắn là sai. Chúng ta không thể đưa ra luật lệ, nhưng quá giáo dục, thì chúng ta có thể cải thiện sự tỉnh thức.

HỎI: Điều gì quan trọng nhất mà chúng ta nên dạy dỗ con cái chúng ta?

ĐÁP: Sáng nay, chúng ta đã có một số thuyết giảng nghiêm túc về Phật giáo cũng như hành thiền, ở chỗ có nhiều trẻ em rất nhỏ. Tôi nghĩ chúng thường có tự do tối đa – chạy rông chỗ này chỗ nọ - và ở tuổi ấy, tôi nghĩ chúng không quan tâm về tầm quan trọng của những nền tảng xã hội, hay một người có được học vấn hay không. Chúng không quan tâm, miễn là chúng được nô đùa với nhau, chúng mĩm cười với nhau. Tôi nghĩ đó là một thể trạng rất trong trắng của tâm thức. Ở tuổi ấy, chúng ưa thích tình cảm và sự chăm sóc của người khác rất nhiều.

Dần dần, khi chúng lớn lên, những đứa trẻ này sẽ có nhiều độc lập hơn và nương tựa ngày càng ít  vào sự chăm sóc của người khác. Sau đó, sự ưa thích vào tình cảm của người khác trở thành không liên can nhiều như vậy. Ở trình độ ấy, tôi nghĩ chúng ta cần, qua giáo dục, để nhắc nhở chúng rằng tình cảm là rất quan trọng cho đời sống của chúng ta. Và rằng quý vị nên là một người tình cảm hơn, bởi vì nó ở trong mối quan tâm bậc nhất của quý vị. Tôi nghĩ ở Hoa Kỳ, cũng như ở Canada, trong nhiều trường hợp, có một số thảo luận nhiệt tình về tầm quan trọng của những chủ đề từ ái và bi mẫn trong nền giáo dục ngày nay. Hay, nói cách khác, vai trò của đạo đức luân lý trong hệ thống giáo dục ngày nay. Tôi đã thấy rất nhiều những buổi nói chuyện xảy ra ở Quebec và Montreal. Có những buổi tập huấn cho các giáo viên đặc biệt về vấn đề giới thiệu đạo đức luân lý trong một hệ thống giáo dục thế tục. Họ đã mời tôi và tôi cũng đã nói chuyện với họ. Do vậy, có những người nào đó thật sự làm việc, trong việc nghiên cứu, về vấn đề giới thiệu đạo đức luân lý trên căn bản thế tục trong hệ thống giáo dục hiện đại như thế nào.

Thế nên cuối cùng, tôi hy vọng có một số ý tưởng mới trong những cung cách giáo dục trẻ con về đạo đức luân lý qua những trường lớp công cộng và nền giáo dục thế tục, mà không cần đụng chạm đến tôn giáo. Trong lúc ấy, đối với cha mẹ, cũng quan trọng ngang bằng như vậy để đề nghị và khuyến khích họ không chỉ về những chủ đề như lịch sử, nhưng về từ bi yêu thương và tình cảm, qua chứng minh, chứ không chỉ bằng ngôn ngữ. Nếu cha mẹ hay giáo viên đang nói về từ bi yêu thương nhưng lại biểu hiện một khuôn mặt giận dữ, thì không thể đem đến sự thuyết phục cho tâm thức con trẻ. Vì vậy nên dạy dỗ qua hành động – lòng từ ái chân thành, tình cảm thật sự. Có những chương trình giảng dạy không bao gồm chủ đề đạo đức luân lý theo căn bản thế tục, nhưng quý vị, như một vị giáo viên, có thể dạy học trò của quý vị về những giá trị đạo đức và luân lý này.

Hiện tại, tôi nghĩ về nhiều vấn nạn mà chúng ta đang đối diện, một số là các tai họa nghiêm trọng, vượt khỏi sự kiểm soát của chúng ta, nhưng một số thật sự là các vấn nạn do con người tạo ra, như sự sợ hãi khủng bố và xung đột nhân danh các truyền thống tôn giáo khác nhau. Và cũng thế, trong một số trường hợp, rắc rối đã được tạo ra trên căn bản của sự đối xử phân biệt. Như tôi đã đề cập trước đây, một cách căn bản, chúng ta đều là những con người giống nhau. Mọi người cùng có quyền để hạnh phúc. Nhưng qua sự đối xử phân biệt, có những rắc rối không cần thiết.

Tôi cảm thấy thật sự hào trong truyền thống bất bạo động cổ truyền của Ấn Độ -ahimsa – có một ý nghĩa hòa hợp tôn giáo. Thật sự, tôi cảm thấy tự hào rằng những truyền thống này vẫn được duy trì tại Ấn Độ. Trong khi đó, cũng có hệ thống đẳng cấp và sự phân biệt đối xử trên căn bản của đẳng cấp. Những truyền thống này là lỗi thời, và chúng ta phải tuyên bố chúng một cách nghiêm túc. Những vấn đề này do con người tạo ra – những tạo tác của chính chúng ta – và bất cứ vấn nạn nào do chính chúng ta tạo ra thì chúng ta phải có khả năng hay có quyền thay đổi. Tôi mạnh mẽ cảm thấy như vậy. Tôi đã  nghe rằng trong một đảo nào đó ở Thái Bình Dương, bà mẹ là người chủ trong cộng đồng, trong gia đình. Cho nên có ưu thế của phụ nữ và một số quyền lợi cho bà mẹ. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên học hỏi thêm từ truyền thống ấy.

HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, nếu chúng ta thật sự tin việc tái sanh, tại sao chúng ta lại sợ việc dân số quá đông, nếu lý do cho việc đó là tái sanh? Không phải việc đó là mâu thuẩn sao?

ĐÁP: Không. Theo quan điểm của Phật giáo, và cũng theo một số truyền thống Ấn Độ cổ đại, thế giới là vô hạn. Rõ ràng, quý vị sử dụng cảm nhận thông thường của quý vị. Bây giờ thế này, từ hàng tỉ thiên hà ở đấy, chỉ có hành tinh này, chỉ trong thái dương hệ này – chỉ ở đây mà thôi – là có con người. Thật khó khăn để nói, nhưng phải có hàng tỉ hành tinh tương tự như thế có thể hổ trợ sự sống. Cho nên phải có nhiều sự sống hơn trong chúng. Vậy thì chúng ta giống như những khách du lịch. Chúng ta đến từ những hành tinh khác, sống hàng trăm năm ở đó, và rồi lại đi đến nơi nào khác. Đó là vấn đề theo quan điểm của Phật giáo, cho nên không có mâu thuẩn.

HỎI: Đức Thánh Thiện có tin trong đời sống của ngài, trong hai mươi hay bốn mươi năm, những tôn giáo quan trọng của thế giới có thể hợp tác và làm việc với nhau đối với việc nhận ra mục tiêu chung của chúng ta không? Ngài khuyến  nghị gì cho con người bình thường về những gì chúng ta có thể làm cho một sự đối thoại như vậy?

ĐÁP: Đức Giáo hoàng John Paul II đã đề xướng Hội nghị Assisi. Điều này liên hệ không chỉ những lãnh đạo của các giáo phái Ki tô khác nhau mà cũng có những tôn giáo Á châu – Phật giáo, Ấn giáo, và Hồi giáo. Tại Vaticant, tôi nghĩ những tài liệu của họ bây giờ dùng chử “đa nguyên”. Cho nên dường như rằng bây giờ khắp thế giới, khái niệm về vài tôn giáo đang lớn mạnh.

Một sự quán sát quan trọng là khái niệm về một tôn giáo, một chân lý, và khái niệm vài tôn giáo và vài chân lý – hai thứ này rõ ràng mâu thuẩn, nhưng cả hai là quan trọng. Bây giờ, vấn đề là chúng ta có thể vượt thắng sự mâu thuẩn này như thế nào? Khái niệm về một tôn giáo, một chân lý, trong mô thức của một cá nhân, là rất quan trọng nhằm để làm mạnh niềm tin của người ấy đối với tôn giáo của người ấy. Nhưng trong quan điểm của một cộng đồng, trong ngôn ngữ của vài người … Thí dụ, ở trong thời khắc này, có những người khác nhau của những tôn giáo khác nhau ở đây. Do vậy, sự thật rằng vài chân lý, vài tôn giáo đã hiện hữu ở đây. Do vậy, trong hình thức cá nhân, có một chân lý và một tôn giáo, trong mô thức của cộng đồng, khái niệm của vài chân lý và vài tôn giáo là thích hợp. Không mâu có gì mâu thuẩn; chúng ta phải phân biệt giữa tín ngưỡng đối với tôn giáo của một người và tôn trọng tất cả các tôn giáo khác. Vì thế, không có mâu thuẩn – sự nhận thức này đang lớn mạnh tuy thế, tôi nghĩ rằng chúng ta cần nổ lực hơn.

Thông thường, tôi có bốn ý kiến rằng tôi đang thực tập và triển khai thực hiện rong hơn năm mươi năm. Trước tiên nhất, tôi gặp gở với những học giả từ các truyền thống khác nhau và những trình độ chuyên môn để thấy những gì tương tự và những gì khác nhau tồn tại. Khi chúng ta thấy những khác biệt, thí dụ, trong triết lý, rồi thì tôi đi đến bước thứ hai – một sự đối thoại giữa những hành giả về các kinh nghiệm thật sự sâu sắc của họ. Như vậy sẽ mang đến một sự thông hiểu sâu hơn về giá trị và năng lực về tôn giáo của người khác, và như vậy thì rất lợi lạc.

Và thứ ba là để nhìn vào khung cảnh lớn, như việc thăm viếng những thánh địa của những truyền thống khác nhau. Có một cảm nhận, tôi ở Lourdes, Pháp quốc; Fatima, Bồ Đào Nha; và rồi dĩ nhiên, ở Roma và Jerusalem. Một lần, sau diễn thuyết về giáo lý Ki tô đến một nhóm Ki tô hữu ở Anh quốc, một số anh chị em Ki tô hữu đã đến Bồ Đề Đạo Tràng ở Ấn Độ. Mỗi buổi sáng nhóm Ki tô hữu đã ngồi thiền im lặng nửa tiếng dưới cây Bồ Đề. Thật là lợi lạc. Chúng ta có thể trải nghiệm những làn sóng nào đó từ những thánh địa. Một lần ở Lourdes, trước bức tượng của chúa Giê-su, tôi đã cảm thấy ngưỡng mộ vô vàn và cảm kích thánh địa này, vốn cung ứng lợi lạc và linh cảm lớn lao cho hàng triệu hàng triệu Ki tô hữu.

Và tại Fatima, một buổi sáng, chúng tôi đã viếng thăm một thánh địa ở đó, nơi có một bức tượng nhỏ của Maria. Chúng tôi dành một lúc ở trước tượng Maria để thiền im lặng. Rồi thì, khi chúng tôi rời khỏi, tôi quay lại nhìn bức tượng nhỏ ấy và tôi thật sự thấy bức tượng ấy mĩm cười. Vậy nên, tôi đã cảm thấy một sự phù hộ từ Maria. Dĩ nhiên, về mặt kỷ năng, tôi không phải là một tín hữu của Maria hay Giê-su, nhưng tôi chân thành tôn kính và ngưỡng mộ truyền thống ấy. Cho nên, tôi nghĩ là tôi đã tiếp nhận một sự phù hộ nào đó.

Và phương pháp thứ tư thì giống như cuộc gặp gở Assisi nơi mà những lãnh đạo của những truyền thống đến với nhau, và nói trong cùng âm thanh của hòa bình và tâm linh. Phương pháp thúc đẩy sự thấu hiểu gần gũi hơn của các truyền thống tôn giáo khác nhau, và quan trọng nhất, sự tiếp xúc một cách rộng rãi là rất cần thiết.

Ẩn Tâm Lộ, Saturday, December 2, 2017
Trích từ quyển The Big Book of Happiness



[1] Triết học duy vật khoái lạc: Charvaka  hay Cārvāka được phân loại như là một hệ thống triết học Ấn Độ giáo (Nāstika) không chính thống. Nó được mô tả như là một tư tưởng mang tính vật chất (duy vật) và vô thần. Trong khi chi nhánh này của triết học Ấn Độ ngày nay không được coi là một phần của sáu trường phái chính thống của triết học Hindu, một số triết gia mô tả nó như một phong trào triết học vô thần hay là duy vật chất trong Ấn Độ giáo.

[2] Kỳ Na giáoKì-na giáo (chữ Hán: 耆那教) hay là Jaina giáo (tiếng Anh: Jainism), là một tôn giáo của Ấn Độ, một tôn giáo có hệ tư tưởng ngoài hệ thống thánh điển Veda, mặc dù trong số những vị mở đường ấy có RsabhaAgitanàtha và Aritanemi; cả ba đều ở thời cổ đại và được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda.
[3] Sikh giáo ( /ˈsɪkɪzəm/tiếng PunjabਸਿੱਖੀSikkhī) hay Tích-khắc giáo theo phiên âm Hán Việt, cũng gọi là đạo Sikh, do Guru Nanak sáng lập vào thế kỷ 15 tại vùng Punjab, truyền dạy những giáo lý của Guru Nanak [1] (người lập đạo và cũng là guru đầu tiên) và 10 vị guru khác truyền lại (người cuối cùng thành thánh trong Guru Granth Sahib)
[4] Hỏa giáo còn được gọi là Hiên giáoHỏa hiên giáo[1]Hỏa yêu giáo[2] hay Bái hỏa giáo là tôn giáo do nhà tiên tri Zoroaster(Zarathushtra)[3] sáng lập vào khoảng cuối thế kỷ 7 TCN tại miền Đông Đế quốc Ba Tư cổ đại. Đây là một trong những tôn giáo lâu đời nhất của nhân loại,[4][5] với bộ kinh chính thức là kinh Avesta (Cổ kinh Ba Tư) tôn vinh thần trí tuệ Ahura Mazda là thần thế lực cao nhất.