Thứ Sáu, 10 tháng 8, 2018

THÀNH TỰU NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI CHO THỜI ĐIỂM LÂM CHUNG



Nguyên bản: Gaining favorable condition for the time of death
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

-***-

Một số chết trong bào thai,
Số khác chết lúc sanh ra,
Nhưng một số lúc chúng có thể bò
Một số khi chúng có thể đi.

Một số thì già,
Những người khác là trưởng thành,
Ra đi từng người một
Như trái cây rơi trên đất.
-ĐỨC PHẬT-

-***-

Thi Kệ Số Sáu
Xin cho chúng tôi ghi nhớ những giáo huấn cho sự thực tập
Khi bác sĩ bỏ rơi chúng tôi và các nghi thức không có kết quả,
Bạn bè đã bó tay với sự sống của chúng tôi,
Và chúng tôi không còn gì nữa để làm.

Chương trước quan tâm chính yếu với hai chướng ngại đến một sự thực tập chính đáng khi lâm chung – đau khổ tràn ngập và những hiện tướng sai lầm làm sinh khởi tham luyến, thù oán, hay rối rắm. Trong khi tìm cách để tránh hai chướng ngại này, ta cũng cần phát sinh những thái độ đạo đức bằng việc nhớ lại sự thực tập của chúng ta. Khi không còn hy vọng gì được nữa cho kiêp sống này, khi các bác sĩ đã buông tay, khi những nghi lễ tôn giáo không còn hiệu quả nữa, và khi ngay cả những người bạn và người thân của ta từ trong đáy lòng đã không còn hy vọng, thì ta phải làm những gì có ích. Ngay khi ta có chánh niệm, thì ta phải làm bất cứ điều gì ta có thể giữ tâm thức chúng ta trong một cung cách đạo đức.

Để làm điều này, ta cần nhớ những chỉ dẫn cho việc phát sinh các thái độ đạo đức. Như tôi sẽ bàn luận trong những thi kệ sau, những chỉ dẫn được sử dụng (1) trước linh quang của sự chết; (2) khi linh quang của sự chết biểu hiện; (3) khi linh quang của sự chết chấm dứt và thể trạng trung ấm thân bắt đầu; và (4) trong thể trạng trung ấm vì thế ta có thể đạt được những thiện xảo du già đặc biệt. Bất cứ chỉ dẫn điều gì ta phải tiếp nhận phù hợp với năng lực và sự thông tuệ của ta cần phải được nhớ một cách rõ ràng vào những lúc này. Hãy điều khiển sự thực tập thông thường của chúng ta ở bất cứ trình độ nào mà ta đã đạt đến trong những lúc này.

Qua năm năng lực sau đây thì sự thực tập của ta có thể có một tác động lớn:

1-    Năng lực của sự quen thuộc: trau dồi thường xuyên và trở thành quen thuộc đến bất cứ điều thực tập nào thường lệ của ta là – cho dù đây là sự trau dồi của xu hướng giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, việc trau dồi từ ái, bi mẫn, việc trau dồi của mục tiêu để đạt được Giác Ngộ vì lợi ích của chúng sanh, hay việc trau dồi những giai đoạn của Tantra Yoga Tối Thượng.
2-    Năng lực hướng đến tương lai: hãy nghĩ, “Tôi sẽ duy trì sự thực tập của tôi trong kiếp sống này, thể trạng trung ấm thân, và những kiếp sống tương lai cho đến khi đạt được Quả Phật.”
3-    Năng lực của những thiện nghiệp: hãy tích tập năng lực của những hành vi phước đức (thiện nghiệp) để thúc đẩy sự thực tập của ta.
4-    Năng lực của việc trừ tiệt: hãy quyết định rằng tất cả những hiện tượng chẳng hạn như sanh, chết, và trung ấm thân chỉ tồn tại một cách lệ thuộc – chúng không có sự tồn tại cố hữu, ngay cả trong vi tế nhất. Hãy thực hiện quyết định này như một phần của niềm tin chúng ta rằng sự tự yêu mến là một kẻ thù, việc suy nghĩ, “Rằng tôi trải nghiệm khổ đau trong vòng luân hồi là qua sự tự yêu mến; gốc rể của sự tự yêu mến đến từ vọng tưởng rằng chúng sanh và mọi thứ là tồn tại cố hữu, trái lại chúng không như vậy.”
5-    Năng lực của nguyện ước: hãy lập đi lập lại nguyện ước sau đây: “Ngay cả sau khi chết nguyện cho tôi đạt được một thân thể phục vụ như một sự hổ trợ cho sự thực hành giáo huấn trong kiếp sống tới. Quan tâm cho một sự hướng dẫn tâm linh tuyệt vời, nguyện cho tôi không bị tách rời khỏi sự thực tập.”

Năm năng lực này là đặc biệt lợi lạc trong việc ghi nhớ để thực tập, ngay khi khó để làm như vậy.

Khi rõ ràng rằng một người nào đó sắp chết, bạn bè không nên tập họp chung quanh người ấy trong một cách dính mắc, nắm chặc tay người sắp chết, ôm lấy người ấy khóc lóc đẫm lệ, hay than vãn hoàn cảnh. Điều này sẽ không giúp ích gì cả; thay vì thế, cung cách như vậy sẽ làm phát sinh một thái độ thèm khát trong tâm thức người sắp chết, làm hủy hoại bất cứ cơ hội nào cho việc phát sinh một tư duy đạo đức. Bạn bè và người thân nên giúp để cung ứng những điều kiện đúng đắn cho việc phát sinh đạo đức bằng việc nhắc nhở người ấy về những hướng dẫn và thực hành tôn giáo, nói nhỏ nhẹ vào tai cho đến khi hơi thở ra chấm dứt.

Thí dụ, nếu người sắp chết tin vào một Thượng Đế tạo hóa, thế thì hãy nghĩ Thượng Đế có thể làm cho người ấy thoải mái hơn, an bình hơn, và ít dính mắc, sợ hãi, sân hận, và hối tiếc hơn. Nếu người sắp chết tin vào tái sanh, thế thì hãy nghĩ về kiếp sống tới đầy đủ ý nghĩa trong việc phụng sự người khác sẽ có những kết quả tương tự. Một Phật tử có thể chánh niệm về Đức Phật và hồi hướng phước nghiệp trong kiếp sống này đến kiếp sống mới tích cực. Một người không tín ngưỡng có thể quán chiếu tương tự rằng sự chết là một bộ phận tất yếu của đời sống, và bây giờ nó đang diễn ra thì lo lắng không ích gì. Điểm chính là sự an bình của tâm hồn nhằm để không quấy rầy tiến trình của sự chết.

TOÁT YẾU THỰC TẬP

1-    Thật hữu ích để biết rằng ở một thời điểm nào đó tất cả mọi hy vọng cho sự tiếp tục của kiếp sống này sẽ chấm dứt. Vào lúc ấy bác sĩ, tu sĩ, bè bạn, và người thân không thể giữ ta lại kiếp sống này; nó tùy thuộc vào ta làm bất cứ điều gì hữu ích.
2-    Trong khi lâm chung, ta cần nhớ lại những hướng dẫn tâm linh phù hợp với trình độ thực tập của chính ta và biểu hiện nó.
3-    Hãy phát triển việc quen thuộc với sự thực tập của ta. Hãy quyết định duy trì đường hướng tâm linh này trong tất cả mọi hoàn cảnh, bất chấp nó khó khăn như thế nào. Hãy dấn thân trong nhiều hành động phước đức vì thế sự tích lũy năng lực của chúng tác động mọi khía cạnh của sự sống và sự chết của ta. Hãy nhận thấy rằng khổ đau sinh khởi từ sự tự yêu mến và hãy học hỏi để yêu mến người khác. Hãy thường xuyên nguyện ước duy trì sự thực tập tâm linh của ta qua những kiếp sống tương lai.
4-    Khi một người khác chết, hãy cẩn thận không làm người ấy khó chịu bằng việc làm dính mắc hơn hay kích động sân hận và thù oán. Không kêu la sự ra đi của họ, ôm nắm họ, hay khóc lóc trong sự hiện diện của họ. Hãy giúp đở họ ra đi một cách đầy đủ ý nghĩa bằng việc nhắc nhở họ về sự thực tập sâu hơn.
5-    Nếu hoàn toàn có thể, hãy yêu cầu những người khác cũng làm như ta. Hãy xếp đặt để có người nào đó nói một cách êm dịu vào tai ta thỉnh thoảng, nhắc nhở ta về một thái độ thực tập tâm linh đặc thù mà ta muốn thể hiện.

Thi Kệ Số Bảy
Xin cho chúng tôi có sự tự tin hân hoan và hỉ lạc
Khi thực phẩm và tài sản được tích lũy với những sự đau khổ bị bỏ lại phía sau
Và chúng tôi chia lìa mãi mãi với những người thân yêu mến và ước mong,
Ra đi đơn độc tới một hoàn cảnh hiểm nghèo.

Thông thường, nếu ta nghe rằng sự chết của ta sắp xảy đến, sẽ thật sầu khổ, không chỉ cho chính ta mà cả bạn bè và gia đình. Trong nổi đau buồn này, tiến trình của sự chết – sự rút lui dần dần của tâm thức – sẽ xảy ra. Tuy nhiên, nếu như sự giải thích ở trên, ta đã quán chiếu trên tầm quan trọng của việc rút ra tinh  hoa của hoàn cảnh kiếp sống này và sự cần thiết cho nhu cầu thực tập tâm linh, và đã quán chiếu lặp đi lặp lại tính vô thường, thế thì qua việc nhớ lại những sự hướng dẫn này trong khi lâm chung, ta sẽ không bị ảnh hưởng bởi những điều kiện không thuận lợi như đau buồn và sầu khổ. Tất cả những hiện tướng phối hợp với sự chết thay vì làm ta xao lãng, lại nhắc nhở ta về sự thực tập và khuyến khích ta hướng đến việc hành thiền.

Với điều này trong tâm, thật sẽ có thể chết với an lạc và tự tin, giống như một đứa bé vui vẻ trở về nhà cha mẹ của nó. Trong những người sẽ đi vào thể trạng trung ấm thân giữa những kiếp sống, điều tốt nhất có thể quyết định sự tái sanh mới của họ; chẳng hạn như một người có thể chết với sự tự tin, mà không có bất cứ sự lo lắng nào. Một hành giả trung bình sẽ không sợ hãi, và người tệ nhất cũng sẽ không có bất cứ sự hối tiếc nào. Vì ta đã chuẩn bị cho việc tái sanh trong một cung cách đầy đủ ý nghĩa – có thể tiếp tục sự nổ lực tâm linh – không có hối tiếc, phiền muộn hay sợ hãi khi sự chết đến. Tâm thức chúng ta có thể ra đi với sự tự tin mạnh mẽ.

Một số tu sĩ và học giả mà tôi biết đã chết trong cung cách ấy. Họ nhận ra rằng họ sắp chết và mời gọi những người quen của họ lại để chào giả biệt. Vào ngày họ chết họ đắp lên bộ y màu vàng nghệ, và thâm nhập thiền định mà không có một chút lo lắng nào về sự chết. Một tu sĩ ở Dharamsala, sau khi sau khi yêu cầu người thị giả đem cà sa đến, ngài đắp lên và qua đời. Một vài vị ở Ấn Độ này đã có thể ở trong tâm linh quang trong nhiều ngày – một người là mười bảy ngày, những người khác trong chín hay mười ngày. Như một dấu hiệu của điều này, sau họ ngừng  thở, thân thể của họ vẫn tươi nhuận, không có một chút mùi hôi nào, vào toàn thời gian ấy trong xứ sở nóng bức này. Những cá nhân như vậy có thể duy trì không có biến động trong tâm linh quang của sự chết, và chết với sự tự tin và an lạc.

Trưởng lão giáo thọ của tôi, Ling Rinpochay, đã nói với tôi câu chuyện của một lạt ma thật vui và buồn cùng một lúc. Vào lúc gần qua đời, vị lạt ma đắp cà sa và nói với những người thiện hữu của ngài rằng ngài sắp chết. Sau đó, trong khi đang ngồi trong tư thế hoa sen của thiền tập, ngài viên tịch. Một trong những học trò mới của ngài, vừa đến từ một vùng xa xôi, không biết về khả năng viên tịch trong tư thế ngồi thiền, vào phòng của vị lạt ma và đã thấy thân thể của vị thầy trong tư thế ngồi dậy. Ông ta tưởng rằng một linh thức nào đã nhập vào thân thể của thầy ông, cho nên ông đã xô ngả thân xác ấy xuống!

TOÁT YẾU THỰC TẬP

1-    Tránh bị sầu não về sự chết, hãy nương tựa trong tôn giáo tương ứng với ta trong lòng từ bi cho tất cả chúng sanh; quán chiếu về tầm quan trọng của việc rút ra những tinh hoa của kiếp sống hiện tại, là thứ cho phép cho ta với cả việc thoải mái và những cần thiết của việc thực tập tâm linh, và hãy quán chiếu lập đi lập lại về tính vô thường.
2-    Với căn bản ấy cho việc nhớ lại một cách hiệu quả sự thực tập của ta trong khi lâm chung, thì ngay cả những sự kiện và hiện tướng kinh khủng có thể xảy ra sẽ chỉ phục vụ để thúc giục ta tĩnh lặng và để hành thiền với niềm hoan hỉ và tự tin.
-***-

Ẩn Tâm Lộ, Friday, August 10, 2018


Thứ Ba, 7 tháng 8, 2018

LOẠI TRỪ NHỮNG CHƯỚNG NGẠI ĐẾN MỘT CÁI CHẾT THUẬN LỢI




Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

-***-

Mặc dù ta kìm lại kiên cố, nhưng ta không thể ở lại
Lợi lạc gì ở đấy
Trong sự kinh khủng và sợ hãi
Của những gì không thể thay đổi được?
-ĐỨC PHẬT-

-***-

Thi Kệ Số Bốn
Xin cho chúng tôi được giải tỏa khỏi sự tràn ngập của đau khổ
Qua nhiều nguyên nhân của sự chết
Khi trong tập họp này của những nhận thức sai lầm về chủ thể và đối tượng
Thân thể của ảo tưởng được cấu thành bởi bốn yếu tố bất tịnh
Và tâm thức sắp chia ly

Hãy bắt đầu sớm sủa nhất khi có thể trong đời sống của ta để đạt được sự quen thuộc với những thể trạng đạo đức của tâm thức. Khi năng lực này được thiết lập, thì nó sẽ có thể hướng dẫn tâm thức về phía đạo đức ngay cả  khi lâm chung. Tuy nhiên, trong khi lâm chung, ta có thể bị áp đảo với cơn đau làm thành bất lực từ một chứng bệnh khủng khiếp, ta có thể đau khổ vì một cái chết bất đắc kỳ tử trong một tai nạn hay một sự tấn công, hay ta không thể chấm dứt mạng sống qua sự cạn kiệt phước đức  - việc sử dụng hết phước nghiệp vốn giữ cho sự sống tiếp tục. Những trường hợp này có thể giải thích cho sự thực tập lâu dài của ta với những thể trạng đạo đức của tâm thức đã không hoạt động (mặc dù điều này không cần thiết như vậy). Khổ đau tự nó có thể làm phát sinh rất nhiều sự sợ hãi mà việc quán chiếu đạo đức trở thành vô hiệu, ngoại trừ đối với những ai đã được tu tập đến một trình độ cao cấp và có những năng lực lớn về thiền nhất tâm. Do vậy, thật quan trọng để phát những nguyện ước ngay từ bây giờ để được thoát khỏi những nổi đau đớn và sợ hãi tràn ngập như vậy, và để chết trong một cung cách thư thái, điều này cho phép thái độ đạo đức mà ta đã từng trau dồi được mạnh mẽ; ta sẽ có thể chết với một sự thấu hiểu rộng lớn hơn.

Vì sự chết liên hệ đến việc chia lìa thân thể và tâm thức, thật quan trọng để nhận ra bản chất của “cái tôi” vốn được thiết lập liên hệ đến tập họp của các uẩn vật lý và tâm lý, cũng như bản chất của chính các tập họp uẩn này. Loại thân thể mà chúng ta sở hữu là một thực thể bất tịnh, được sản sinh từ bốn yếu tố của đất, nước, gió, lửa; chủ thể chịu đau đớn từ ngay cả những nguyên nhân sơ sài, và giống như một ảo tưởng cả trong cảm giác của việc hiện hữu ở đây một thời khắc và qua đi trong thời khắc tiếp theo, và trong cảm nhận việc xuất hiện để tồn tại một cách cố hữu nhưng thật sự là một sự tồn tại cố hữu vốn trống rỗng. Bằng việc hiện hữu là sạch nếu được rửa, và  hiện hữu hạnh phúc, thường còn, và dưới sự điều khiển của ta, thân thể an trú, có thể nói như vậy, trong một tập họp của những khái niệm sai lầm về bản chất của tâm ý và những đối tượng của nó.

Tập  họp của những khái niệm sai lầm trong thi kệ số bốn liên hệ đến vòng luân hồi. Nó được xây dựng bằng những hành vi (nghiệp) vốn dưới ảnh hưởng của các cảm xúc phiền não. Những cảm xúc phiền não sinh khởi từ si mê - khái niệm thiển cận của sự tồn tại cố hữu, ngộ nhận bản chất của tự thân và người khác, cũng như mọi thứ - vọng tưởng những thứ này tồn tại bằng cung cách hiện hữu của chính họ. Do thế, si mê là nguyên nhân căn bản của vòng đau khổ và vòng luân  hồi.

Việc hiểu sai về sự tồn tại cố hữu thúc đẩy nghiệp – cả những hành động và các khuynh hướng được tích tập từ những hành động ấy – động lực của vòng luân hồi. Các hiện tượng sinh khởi qua tiến trình này của si mê xuất hiện để tồn tại cố hữu, nhưng chúng không như vậy, và vì vậy là tập họp của những sai lầm. Tập họp của vòng luân hồi được tạo nên bằng nhận thức sai lầm rằng chủ thể và đối tượng, kẻ đi bắt và người bị bắt, các hiện tượng nội tại và ngoại tại, tồn tại trong và tự chính chúng, một cách cố hữu, dưới năng lực của chính chúng.

Với thi kệ này, ta phát nguyện ước rằng khi tâm thức sắp chia lìa khỏi thân thể ảo tưởng được làm nên bởi bốn yếu tố, thì ta sẽ không bị phiền não với nổi đau khổ tràn ngập, vì điều này sẽ gây trở ngại cho sự thực tập thành công. Những điều kiện khác ngăn trở là tham luyến và thù oán, vốn là những chướng ngại khổng lồ cho một thái độ đạo đức.

TOÁT YẾU THỰC TẬP

1-    Hãy thực tập bây giờ vì thế vào lúc lâm chung năng lực sự quen thuộc của ta với đạo đức sẽ tác động thái độ của ta.
2-    Hãy xem thân thể thật sự là một tập họp của những nhận thức sai lầm, vì mặc dù nó hiện hữu là sạch sẽ khi ta tắm rửa nó, cũng như một nguồn gốc của hạnh phúc, thường còn, và dưới sự kiểm soát của ta, nó không phải vậy. Nó được sản sinh từ bốn yếu tố (đất, nước, gió, lửa), là đối tượng của đau khổ, và thay đổi từng thời khắc tương hợp với bản chất của nó.
3-    Mọi người và mọi vật hiện hữu để tồn tại dưới năng lực, và sự si mê của chính chúng chấp nhận hiện tướng sai lầm này, làm cho sinh khởi những cảm xúc phiền não về tham luyến, thù oán, và bối rối thêm. Những cảm xúc phiền não này lại làm ô nhiễm các hành vi của thân thể, lời nói và tâm ý, làm tiến trình của vòng luân hồi kéo dài mãi. Hãy thấu hiểu rằng ta đang sống trong một tập họp của những nhận thức sai lầm.

Thi Kệ Số Năm
Xin cho chúng tôi được thoát khỏi những hiện tướng sai lầm phi đạo đức
Khi, bị lừa dối vào lúc nhu cầu kéo dài thân thể này quá thiết tha
Những kẻ thù kinh khủng – thần chết – biểu hiện
Và chúng ta tự giết mình
với những vũ khí của ba độc tố: tham luyến, thù oán, và bối rối.

Thời điểm lâm chung là rất quan trọng, vì nó đánh dấu sự chấm dứt một kiếp sống và sự bất đầu một kiếp sống mới. Nếu vào lúc quyết định này thân thể tiếp tục duy trì với ta, ta có thể đặt sự tin tưởng vào nó, nhưng vào lúc quan trọng nó lừa dối chúng ta. Thân thể của chúng ta, được kéo dài rất thân thiết bằng thực phẩm, áo quần, tiền bạc, nhà ở, thuốc men, và ngay cà những hành vi xấu ác, từ bỏ chúng ta.

Chỉ đề cập sự chết làm chúng ta hơi không thoải mái. Khi tiến trình sự chết của chính ta biểu hiện và những khía cạnh hải sợ của vô thường, được gọi là “thần chết” trong thi ca, tự biểu hiện, một số người phản ứng với một sự dính mắc mạnh mẽ với tài sản, thân nhân, bè bạn, và thân thể, trong khi những người khác tỏ ra thù oán kẻ thù của họ và cho sự đau khổ dường như không thể chịu đựng nổi. Thậm chí nếu tham luyến và thù oán không hiện diện, ta lại phát sinh một niềm tin mạnh mẽ trong chính sự tồn tại cố hữu của chính ta và tất cả những hiện tướng của nó – hình thức trung tâm của si mê. Ba độc tố này – tham luyến, thù oán, và si mê – là những chướng ngại nội tại mạnh mẽ nhất đối với sự thực tập đạo đức của ta, và trong một cảm nhận sâu hơn, đây là những vũ khí mà với nó ta tự giết mình vào lúc chết. Để giữ cho những thái độ độc hại này không sinh khởi trong khi lâm chung, hãy thiết lập những nguyện ước rằng tham luyến, và thù oán mạnh mẽ không sinh khởi và những hiện tướng sai lầm không xuất hiện.

Vào lúc lâm chung, thật quan trọng để thoát khỏi thuốc men vốn làm cho ta không thể suy nghĩ một cách thích đáng. Đối với một hành giả tôn giáo các dược phẩm làm tối tăm tâm thức là phải tránh, vì tâm ý ta phải trong sáng tối đa như có thể. Việc tiêm một mũi thuốc cho phép “một sự chết bình yên” có thể cướp mất cơ hội cho tâm thức biểu hiện trong một cung cách đạo đức bằng việc quán chiếu về vô thường, phát sinh niềm tin, cảm nhận từ bi, hay quán chiếu về vô ngã. Tuy nhiên, nếu một liều thuốc giảm đau không làm tâm thức mê mờ được phát triển, thì thậm chí nó có thể hữu ích, vì ta có thể tiếp tục biểu hiện chức năng tinh thần, thoát khỏi sự xao lãng vì đau đớn.

TOÁT YẾU THỰC TẬP

1-    Hãy thấu hiểu rằng thân thể này, mà ta duy trì với bất cứ giá nào, thì sẽ ruồng bỏ ta một ngày nào đó.
2-    Hãy tránh tham luyến với hoàn cảnh chúng ta đang lìa xa.
3-    Hãy tránh thù oán mà chúng ta phải bỏ lại.
4-    Hãy cách xa khỏi tham luyến, thù oán, và si mê tối đa như có thể, vì thế ta có thể duy trì sự thực tập đạo đức trong khi lâm chung.
5-    Hãy nhận ra rằng bằng việc uống thuốc hay tiêm thuốc để có một sự chết an lành thì ta có thể đang tự đánh mất một cơ hội quyết định cho việc biểu hiện đạo đức.

Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, August 7, 2018





CHUẨN BỊ CHO SỰ CHẾT



Nguyên tác: Preparing to Die
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

-***-

Không biết rằng tôi phải bỏ lại mọi thứ và ra đi
Tôi đã làm đủ thứ việc xấu ác vì bạn hữu và kẻ thù
-ĐỨC PHẬT-

-***-

Thi Kệ Số Hai

Xin cho chúng tôi rút ra ý nghĩa tinh hoa mà kiếp sống này hổ trợ
Không bị xao lãng với những mối quan hệ vô nghĩa của kiếp sống này,
Vì nền tảng tốt đẹp này, khó để đạt được và dễ bị suy tàn,
Hiện tại là một cơ hội của chọn lựa giữa được và mất, thoải mái và khổ đau.

Chúng ta cần cả những điều kiện nội tại và ngoại tại cho sự thành công hoàn toàn,và ta đã có sẳn những thứ này. Thí dụ, như những con người ta có một thân thể và tâm thức vốn hổ trợ cho sự thấu hiểu giáo huấn. Vì vậy, chúng ta đã tiếp nhận điều kiện nội tại quan trọng nhất. Về ngoại tại, chúng ta cần sự trao truyền các sự thực tập và sự tự do để thực tập. Nếu, việc sở hữu những hoàn cảnh này mà ta sử dụng, thì bảo đảm sẽ thành công. Tuy nhiên, nếu ta không sử dụng, thì đó là sự lãng phí kinh khiếp. Ta phải đánh giá những điều kiện này vì khi chúng không  hiện hữu, thì ta thậm chí không có một cơ hội nào. Chúng ta phải đánh giá khả năng hiện tại của ta.

Vì ta đã đạt được thân người cũng như những hoàn cảnh ngoại tại thích hợp, thế thì với nguyện vọng để thực hành, thì chúng ta có thể làm cho đời sống của chúng ta đáng giá. Ta phải làm như vậy. Đây là lúc ta phải làm như vậy. Nếu với cơ hội này ta hành động trên những nguyên nhân hữu ích, thì chúng ta có thể thành tựu nhiều năng lực mạnh mẽ; nếu được động viên bởi ba độc tham luyến, thù oán, và si mê, là ta đã làm việc trên những nguyên nhân phi đạo đức, thì tương tự ta có thể đạt được những hành vi đầy năng lực xấu trong nhiều hình thức.

Thật khó khăn cho những chúng sanh khác, chẳng hạn như những con thú, những chúng sanh không có nền tảng tuyệt vời của con người, để thành tựu các đạo đức qua năng lực của chính chúng. Có những trường hợp hiếm hoi của chúng, hành động điều gì đó đạo đức trong điều kiện ngoại tại thích hợp, nhưng thật khó cho chúng suy nghĩ. Khi thú vật hành động vì tham luyến hay thù oán, thì chúng làm như vậy một cách tạm thời và hời hợt; chúng không thể có những hoạt động thân thể và lời nói bất thiện trọn vẹn và trong sự đa dạng. Tuy thế, con người có thể suy nghĩ từ những quan điểm khác nhau. Do bởi sự thông minh của chúng ta là tác động hơn, thế nên con người có thể đạt được những điều tốt và xấu trong một mức độ rộng lớn.

Nếu thiên tư nhân tính này được sử dụng vì sự tốt lành, thì nó có thể rất mạnh mẽ. Nếu ta quan tâm và hành động với những hành vi tốt lành, thì các mục tiêu của kiếp sống này và của những kiếp sống tương lai có thể thành tựu được. Nếu ta không để ý, thì những hành vi xấu của ta có thể gây ra những khổ đau kinh khủng. Đó là tại sao, mặc dù có nhiều loại chúng sanh tiến hóa trên hành tinh này từ sự hình thành của nó, thì những chúng sanh được cải thiện nhất là loài người, và  những kẻ đã nghiên cứu để tạo ra những nổi sợ hãi, khổ đau, và những rắc rối nhất  - đe dọa ngay cả sự hủy diệt hành tinh này – cũng là con người. Sự tuyệt vời nhất đã được con người hoàn tất, và điều tệ hại nhất được hoàn thành cũng là con người. Vì ta có thiên tư thể chất đòi hỏi cho việc đạt được lợi lạc và mất mát, thoải mái và khốn cùng, cho nên ta phải biết sử dụng nó một cách chính xác.

Nếu ta biết rằng ta có thiên tư này của việc lựa chọn xuyên suốt sự tương tục lâu dài của các kiếp sống, thì có lẽ cũng ổn thôi nếu không sử dụng nó một cách thông tuệ trong kiếp sống này. Tuy nhiên, không phải như vậy. Khả năng thay đổi của bất cứ hiện tượng nào là một dấu hiệu rằng nó lệ thuộc vào các nguyên nhân, cho nên khả năng thay đổi kinh nghiệm thông thường của thân thể chúng ta là một dấu hiệu rằng, nó cũng lệ thuộc vào các nhân duyên. Những yếu tố từ cha mẹ ta được cải thiện như những nguyên nhân và điều kiện của thân thể ta, nhưng bởi vì noãn châu của mẹ và tinh trùng của cha đã đến với nhau, tuy thế vẫn có những nhân duyên khác được đòi hỏi. Thí dụ, các nhân duyên làm sâu sắc hơn trên noãn châu và tinh trùng của cha mẹ chúng và v.v…trở lại noãn châu và tinh trùng của một số chúng sanh nào đó sau sự hình thành của thế giới này. Tuy thế, nếu sự hình thành của của thân thể của thịt và máu được làm sâu sắc chỉ trên noãn châu và tinh trùng, thế thì, vì noãn châu và tinh trùng đã không hiện diện vào lúc hình thành hệ thống thế giới này và vì chúng không sinh khởi một cách không nguyên nhân (vì hậu quả rằng sau đó chúng sẽ phải xuất hiện hoặc là ở mọi nơi và mọi lúc hay không bao giờ), điều này có nghĩa là cũng có những nhân tố khác – điều này là nghiệp – karma.

Mỗi hệ thống thế giới có những kỷ nguyên của hình thành, tiếp tục, suy tàn, và cuối cùng là một thời điểm của trống không (thành, trụ, hoại, không). Sau bốn giai đoạn này, một hệ thống thế giới hình thành từ sự tuần hoàn của gió, hay năng lượng, và từ sự phát triển tiếp theo sau của những nhân tố khác. Cho dù tiến trình này được giải thích phù hợp với các quan điểm của khoa học hiện đại hay triết lý Phật giáo, thì có một thời gian, lúc một hệ thống thế giới đặc thù nào đó không tồn tại. Tiến trình của sự hình thành một hệ thống thế giới bắt đầu trong việc lệ thuộc vào nhiều nguyên nhân và điều kiện, mà tự chính chúng làm nên các hiện tượng. Những hiện tượng này phải được tạo thành bởi một đấng tạo hóa thần thánh hay bởi năng lực của nghiệp (từ những hành động quá khứ) của những con người sẽ được sinh ra ở đấy và sẽ trải nghiệm và sử dụng môi trường ấy. Theo quan điểm Phật giáo thật không thể cho điều gì được tạo ra, và vì vậy vô thường (kể cả một hệ thống thế giới), lệ thuộc vào sự tạo thành của nó trên sự giám sát, hay động lực, của một đấng thần thánh tự hữu và vĩnh cửu. Đúng hơn, chính là bởi nghiệp lực của chúng sanh vốn là tiến trình hình thành môi trường diễn ra. Sự lựa chọn duy nhất, chính sự tự hữu, sẽ là ngớ ngẫn.

Giống như môi trường được sản sinh và tàn hoại trong sự lệ thuộc vào những nguyên nhân và điều kiện, cũng giống như vậy đối với phẩm chất sự sống của các chúng sanh. Chính quy luật vững chắc của nguyên nhân và hệ quả mà về lâu dài, các nguyên nhân tốt sản sinh những hệ quả tốt và những nguyên nhân xấu sinh ra các kết quả xấu. Điều này có  nghĩa là bất cứ một ảnh hưởng tốt đẹp lâu dài nào thì cũng được đặt trước một sự tích lũy của một nguyên nhân tốt đẹp. Tương tự thế, để phát sinh một ảnh hưởng đầy năng lực, thì thật cần thiết để có một nguyên nhân đầy năng lực. Với việc quan tâm đến bản chất thân thể con người chúng ta, hay sự hổ trợ đời sống, thật cần thiết cho chúng ta trong những đời sống quá khứ tích tập những nguyên nhân và điều kiện nhiều năng lực mà từng thứ một sản sinh ra hình tướng, màu sắc, sự trong sáng của các giác quan, và những phẩm chất khác của thân thể này.

Nếu sau khi đã tiến hành một hành vi đạo đức và đã tích tụ hiệu lực của nó, thì hiệu lực đó được duy trì mà không suy tàn cho đến khi quả của nó được kết trong kiếp này hay một kiếp sống tương lai, nó sẽ không quá mong manh. Nhưng không phải như vậy. Đúng hơn, việc phát sinh một tình trạng không đạo đức mạnh mẽ của tâm thức, chẳng hạn như sân hận, chế ngự năng lực của một hiệu lực đạo đức thành lập vì thế nó không thể kết quả, giống như việc làm khô héo một hạt giống. Ngược lại, việc phát sinh một thái độ đạo đức mạnh mẽ vượt hẳn những năng lực được thành lập bởi hành vi không đạo đức, làm chúng không thể phát ra ảnh hưởng của chúng. Vì vậy thật cần thiết để không chỉ đạt được nhiều nhân tích cực đầy năng lực mà cũng phải tránh những năng lực đối kháng vốn có thể làm cho những nguyên nhân lợi ích suy thoái.

Những hành vi tốt lành đòi hỏi việc tích tập những nguyên nhân, hay hiệu lực này, phát sinh từ một tâm thức được thuần hóa, trái lại những hành vi xấu ác phát khởi từ một tâm thức không được thuần hóa. Những chúng sanh thông thường như chúng ta đã quen thuộc với một tâm thức không thuần hóa từ thời vô thỉ. Đưa ra khuynh hướng này, thì chúng ta có thể kết luận rằng những hành vi được tiến hành bởi một tâm không thuần hóa là mạnh mẽ hơn đối với chúng ta và những hành vi được biểu hiện với một tâm thức thuần hóa là yếu kém hơn. Thật quan trọng để hiểu rõ giá trị rằng sự hổ trợ tuyệt vời của kiếp sống này là một thân thể con người mà chúng ta bây giờ sở hữu một kết quả lành mạnh của nhiều hành vi tốt đẹp đầy năng lực từ một tâm thuần hóa trong quá khứ. Thật rất khó khăn để đạt được, và vì nó là rất hiếm hoi cho nên ta phải chăm sóc và sử dụng nó một cách tốt đẹp, bảo đảm rằng nó không bị lãng phí. Nếu nó không là hiếm hoi, không khó khăn để đạt đến, thì ta sẽ không phải chăm sóc, nhưng không phải như vậy.

Nếu tài năng con người này, rất khó khăn để đạt đến, là ổn định và thường hằng - không dễ bị suy thoái – thì để sau này hãy sử dụng nó làm lợi ích. Tuy thế, hệ thống hổ trợ sự sống là mong manh và dễ bị suy thoái từ nhiều nguyên nhân nội tại và ngoại tại. Trong Bốn Trăm Thi Kệ về Những Hành Vi của Bồ tát, Thánh Thiên đã nói rằng một khi thân thể lệ thuộc vào bốn yếu tố đất, nước, lửa, gió mà vốn chúng đối kháng nhau, thì sự hạnh phúc thân thể chỉ là một sự cân bằng thỉnh thoảng của những yếu tố này, chứ không phải là một sự hòa hiệp lâu dài. Thí dụ, nếu ta lạnh, thì sức nóng là sự dễ chịu trước nhất, nhưng rồi thì quá nhiều hơi nóng phải được tránh. Cũng đúng như vậy với dịch bệnh, thuốc men cho một loại bệnh cuối cùng có thể mang đến một loại bệnh hoạn khác, mà sau đó phải được làm cho mất tác dụng. Thân thể chúng ta là nguồn gốc của rắc rối và phức tạp lớn; sự hạnh phúc thể chất chỉ là sự vắng mặt tạm thời của các rắc rối như vậy.

Thân thể của chúng ta phải được giữ vững bởi phương tiện sinh sống hiển nhiên, là thực phẩm, nhưng khi chúng ta ăn quá nhiều, chính nhu cầu cần thiết để tạo nên sức khỏe trở thành nguồn gốc của bệnh tật và đau đớn. Trong những quốc gia, nơi mà thực phẩm là khan hiếm, thì thiếu ăn và nạn đói là những nguyên nhân lớn của khổ đau, nhưng trong những quốc gia nơi tràn đầy nhiều thứ dinh dưỡng đa dạng, thì vẫn có khổ đau từ việc ăn uống quá mức và khó tiêu. Khi có sự cân bằng mà không có rắc rối nào biểu hiện, thì chúng ta gọi là “hạnh phúc”, nhưng thật ngớ ngẫn để nghĩ rằng chúng ta đã trở thành, hay mãi trở nên, tự do với dịch bệnh. Loại thân thể này là ngôi nhà của các rắc rối. Không giống như trong sự vắng mặt của dịch bệnh, hay chiến tranh, hay nạn đói, thì chúng ta sẽ không chết. Bản chất của thân thể là để suy tàn. Ngay từ lúc thụ thai, thân thể là đối tượng của sự chết.

Cho nên thân thể con người này là một tặng phẩm quý báu, uy lực nhưng mong manh. Đơn giản bởi tác dụng của việc đang sống, thì ta đang ở một giao điểm rất quan trọng, và mang một trách nhiệm lớn lao. Điều lành đầy năng lực có thể đạt được cho chính ta và những  người khác, do vậy bị xao lãng bởi những mối quan hệ không quan trọng trong kiếp sống này sẽ là một sự lãng phí kinh khiếp. Ta nên phát những nguyện ước để làm cho kiếp sống này trong thân thể này một cách hiệu quả và thỉnh cầu đạo sư của ta, ba quy y, và những nguồn cội khác giúp đở trong việc làm như vậy, do đó tự thúc giục ta từ bên trong và tìm cầu sự giúp đở từ bên ngoài. Để hoàn tất việc này, không chỉ trì tụng chữ nghĩa của mật ngôn, mà phải quán chiếu ý nghĩa của chúng, làm cho nó hiện hữu trong tâm thức ta.

Tóm lại, vì thân thể con người này, nâng đở sự sống của ta, là lợi lạc, khó khăn để có được, và suy tàn dễ dàng, vì thế ta nên sử dụng nó vì lợi ích của ta và những người khác. Các lợi ích đến từ việc một tâm thuần hóa. Khi tâm thức ta an bình, thư thái, và hạnh phúc, thì những niềm vui ngoại tại chẳng hạn như thực phẩm ngon, áo quần đẹp, và những đàm luận tốt lành làm mọi thứ tốt đẹp hơn, nhưng sự vắng mặt của chúng không áp đảo ta. Nếu tâm thức ta không an bình và thuần hóa, thì bất chấp những hoàn cảnh ngoại tại tuyệt diệu như thế nào đi nữa, thì ta cũng sẽ bị gánh nặng bởi những sự hốt hoảng, hy vọng, và sợ hãi. Với một tâm thuần hóa, thì ta sẽ thích thú với sự giàu sang hay nghèo khó, mạnh khỏe hay bệnh tật; thậm chí ta có thể chết một cách hạnh phúc. Với một tâm thuần hóa, việc có nhiều bạn bè là tuyệt vời, nhưng nếu không có người bạn nào, thì cũng ổn thôi. Gốc rể của sự hạnh phúc và lợi lạc của ta đặt trên một tâm thức an bình và thuần hóa.

Trong những hình thức khác, khi ta có một tâm an bình và thuần hóa, đời sống vui tươi hơn cho những người bạn, người phối ngẫu, cha mẹ, con cái, và những người quen; ngôi nhà của ta yên ắng, và tất cả những người sống ở đấy thụ hưởng một cảm giác tuyệt vời của sự thư thái. Trong việc đi vào nhà của ta, những người khác cảm thấy một cảm giác của hạnh phúc. Khi tâm thức của chúng ta không an bình và thuần hóa, không chỉ ta cứ sân hận mãi, mà những người khác bước vào cửa nhà ta, sẽ lập tức cảm thấy nhiều sự đấu đá xảy ra trong căn nhà ấy – rằng người này thường xuyên phải cau mày.

Vì việc thuần hóa tâm thức mang đến hạnh phúc và không làm như thế thì đưa đến khổ đau, do thế hãy sử dụng sự sống của ta để giảm thiểu những thái độ không thuần hóa – chẳng hạn như việc kiểm soát các kẻ thù, thúc đẩy những người bạn, việc gia tăng lợi nhuận và những thứ như thế - và để thuần hóa, hay rèn luyện, tâm thức ta tối đa như có thể. Đây là một cách để rút ra ý nghĩa tinh hoa của thân thể con người quý giá và mong manh này.

TOÁT YẾU THỰC TẬP

1-    Hãy nhận ra giá trị của thân thể con người mà ta được phú cho, vì nó là kết quả của nhiều nhân duyên tốt đẹp từ quá khứ. Đánh giá cao sự kiện rằng giáo huấn là thuận lợi và sẳn sàng để thực tập.
2-    Vì thân thể con người quý giá này có thể được sử dụng trong những cung cách lợi lạc hay hủy hoại có tác động mạnh, và tự nó là rất mong manh, vì vậy hãy sử dụng nó một cách tốt đẹp bây giờ.
3-    Hạnh phúc thể chất chỉ là sự cân bằng thỉnh thoảng của các yếu tố trong thân thể, mà không là một sự hòa hiệp sâu sắc. Hãy thấu hiểu sự tạm bợ của thân thể.
4-    Một tâm thuần hóa làm cho chúng ta an bình, thư thái và hạnh phúc, trái lại nếu tâm thức chúng ta không an ổn và thuần hóa, bất chấp các hoàn cảnh ngoại tại là tuyệt vời thế nào, thì chúng ta cũng sẽ bị bao vây bởi sợ hãi và lo âu. Hãy nhận ra rằng gốc rể của chính sự hạnh phúc và lợi lạc của chúng ta là nằm trong một tâm an bình và thuần hóa. Đó cũng là một lợi ích lớn cho những người chung quanh ta.

-***-

Thi Kệ Số Ba

Xin cho chúng tôi nhận ra rằng không có thời gian để lãng phí,
Sự chết là chắc chắn nhưng lúc nào chết là không xác định.
Những gì đã tập họp sẽ bị chia lìa, những gì đã được tích tập sẽ được tiêu thụ mà không dư thừa.
Điểm cuối của đỉnh cao là đi xuống, kết thúc của sự sinh là sự chết.

Từ thời vô thỉ chúng ta đã bị sự tác động của một vọng tưởng về thường còn, vì thế chúng ta nghĩ luôn luôn có nhiều thời gian còn lại. Điều này đã đặt chúng ta trong một hiểm họa lớn của việc lãng phí đời sống trong sự chần chừ. Để chống lại xu hướng này, thật quan trọng để quán chiếu về sự vô thường, trong thực tế rằng sự chết có thể đến bất cứ lúc nào.

Mặc dù không chắc chắn là ta sẽ chết đêm nay, nhưng khi ta trau dồi một sự tỉnh thức về cái chết, thì ta nhận thức rằng ta có thể chết đêm nay. Với thái độ này, nếu có điều gì đó mà ta có thể làm sẽ giúp ích cho kiếp sống này và kiếp sống tới, thì ta sẽ cho nó quyền ưu tiên đối với điều gì đó chỉ có lợi cho kiếp sống này trong một cung cách hời hợt.  Xa hơn nữa, bằng việc không chắc chắn về việc khi nào sự chết sẽ đến, thì ta sẽ tránh làm những việc vốn có thể tổn hại cho cả những kiếp sống hiện tại và tương lai. Khi cảm giác cẩn trọng này phát triển, thì ta sẽ cố gắng cần mẫn hơn để không tích lũy những khuynh hướng không thuận lợi qua các hành động không được kiểm soát. Chúng ta sẽ được động viên để phát triển, phù hợp với năng lực, thái độ vốn hoạt động như những đối trị với các hình thức đa dạng của một tâm không được thuần hóa. Thế thì, cho dù ta sống một ngày, một tuần, một tháng, hay một năm, thời gian ấy sẽ đầy đủ ý nghĩa; tư tưởng và hành động của chúng ta sẽ được căn cứ  trên những gì lợi lạc về lâu dài, và càng sống lâu hơn thì chúng ta sẽ càng lợi lạc hơn.

Bằng trái lại, khi chúng ta ở dưới sự tác động của vọng tưởng về thường còn và dành thời gian của ta vốn chỉ đi sâu hơn bào bề mặt của cuộc đời, thì ta chịu mất mát lớn. Đây là tại sao trong thi kệ, Đức Ban Thiền Lạt Ma hướng sự chú ý của chúng ta đến giá trị của việc làm mỗi thời khắc trong đời sống ta có ý nghĩa.

Trong trường hợp cua riêng tôi, tôi bây giờ đã sáu mươi bảy tuổi. Tôi là người già nhất trong mười ba Đức Đạt Lai Lạt Ma trước tôi, ngoại trừ Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất đã sống đến độ tuổi tám mươi. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm sống đến sáu mươi sáu tuổi; tôi già hơn ngài – và tôi là một ông già! Tuy thế, do bởi những phát triển mới đây của y học và các điều kiện sống, tôi có hy vọng nào đó của việc sống đến tám mươi hay chín mươi, nhưng chắc chắn rằng ở một lúc nào đó hay lúc khác thì tôi phải chết. Những người Tây Tạng chúng tôi nghĩ rằng chúng ta có thể kéo dài tuổi thọ qua những nghi lễ, nhưng tôi không chắc những người tiến hành các nghi lễ này có sống lâu hơn hay không. Tôi thực hiện một nghi lễ cầu trường thọ là cần thiết để có một sự quán tưởng ổn định trong thiền nhất tâm. Thêm nữa, thật cần thiết để thấu hiểu tánh không của sự tồn tại cố hữu, vì nó chính là tuệ trí biểu hiện khi ta quán tưởng, tự ngã lý tưởng. Cũng thế, thật cần thiết để có lòng từ bi và một xu hướng vị tha để trở thành Giác Ngộ. Những đòi hỏi này làm cho các việc hành thiền về trường thọ khó khăn.

Vì các thái độ của chúng ta về thường còn và sự tự yêu mến – kềm giữ trong tâm ta giống như chúng là trung tâm của sự sống – là những gì hủy hoại chúng ta, những quán chiếu có kết quả nhất là về vô thường, tánh không của sự tồn tại cố hữu, và lòng từ bi. Không có những thứ này, các nghi thức trường thọ và những thứ như vậy không giúp ích gì. Đó là tại sao Đức Phật nhấn mạnh rằng hai cánh của con chim bay đến sự Giác Ngộ là từ bi và tuệ trí. Hai môn này là những phương cách để đối kháng lại tính thường còn và tự yêu mến, những thứ từ thời vô thỉ, đã phá ngầm những mục tiêu của hạnh phúc.

Khoảng mười lăm hay mười sáu tuổi thì tôi đã học những giai đoạn của con đường Giác Ngộ và bắt đầu một số hình thức của thiền tập để trau dồi các bước này. Tôi cũng bắt đầu giảng dạy mà trong đó tôi phải trình bày thiền phân tích càng nhiều hơn, vì giáo huấn và thiền phân tích đi đôi với nhau. Chủ đề của tỉnh thức về sự chết được bố cục chung quanh ba căn bản, chín lý do, và ba quyết định:

Căn bản thứ nhất: Quán chiếu rằng chết là chắc chắn
1-    Vì chết chắc chắn sẽ đến và vì thế không thể tránh được
2-    Vì tuổi thọ của ta không thể kéo dài và giảm bớt không ngừng nghỉ
3-    Vì ngay cả khi sống chỉ có một ít thời gian để thực hành
Quyết định thứ nhất: tôi phải thực tập

Căn bản thứ hai: Quán chiếu rằng thời điểm của sự chết là không xác định
4-    Vì tuổi thọ của chúng ta trong thế giới này là không dứt khoát
5-    Vì những nguyên nhân của sự chết là rất nhiều và các nguyên nhân của sự sống là ít ỏi.
6-    Vì thời điểm của sự chết là không chắc chắn qua sự mong manh của thân thể.
Quyết định thứ hai: Tôi phải thực tập bây giờ

Căn bản thứ ba: Quán chiếu rằng vào lúc chết không điều gì có thể giúp được ngoại trừ sự thực tập
7-    Vì vào lúc chết bạn bè của chúng ta không giúp đở gì được
8-    Vì vào lúc chết sự giàu sang của chúng ta không giúp đở gì được
9-    Vì vào lúc chết thân thể của chúng ta không giúp đở gì được
Quyết định thứ ba: Tôi sẽ thực tập không dính mắc bất cứ thứ gì tuyệt vời trong kiếp sống này.

Chính bản chất của vòng luân hồi rằng những gì đã tập họp cuối cùng sẽ phải chia ly – cha mẹ, con cái, anh em, chị em, và bạn bè. Bất chấp bạn bè yêu thích nhau bao nhiêu đi nữa, cuối cùng họ phải chia lìa. Đạo sư và học trò, cha mẹ và con cái, anh em và chị em, vợ và chồng, và bạn bè – bất chấp họ là ai – cuối cùng phải chia ly.

Trong khi trưởng lão giáo thọ của tôi là Ling Rinpochay còn khỏe mạnh, gần như tôi không thể, không chịu nổi khi nghĩ về sự viên tịch của ngài. Đối với tôi, ngài luôn luôn giống như một tảng đã rất chắc chắn mà tôi có thể nương tựa vào. Tôi tự hỏi làm sao tôi có thể sống còn mà không có ngài. Nhưng khi ngài bị tai biến mạch máu não, thì cuối cùng hoàn cảnh cho phép một bộ phận của tâm thức tôi nghĩ, “Bây giờ tốt hơn là ngài ra đi.” Đôi khi mặc dù tôi nghĩ rằng ngài cố ý tiếp nhận cơn bạo bệnh ấy, vì thế khi ngài thật sự qua đời, thì tôi sẽ săn sàng để quản lý nhiệm vụ tiếp theo – tìm kiếm sự tái sanh của ngài.

Thêm nữa với việc chia lìa với tất cả những người bạn của chúng ta, sự giàu sang và tài nguyên mà ta đã tích lũy trong quá khứ - bất chấp chúng kỳ diệu thế nào đi nữa – cuối cùng trở thành vô dụng. Bất chấp đẳng cấp và địa vị của ta cao thế nào đi nữa, thì ta cuối cùng phải ngã xuống. Để nhắc nhở chính tôi về điều này, khi tôi bước lên bục giảng cao, ngay khi tôi đang ngồi xuống, tôi đã tự trì tụng bài kệ trong kinh Kim Cang về vô thường:

Hãy xem những thứ hợp thành từ các nhân duyên
Giống như những vì sao lấp lánh, những vọng tưởng được thấy từ đôi mắt bệnh
Sự nhấp nháy của ngọn đèn bơ, những ảo tưởng phù phép
Sương mai, bọt nước, giấc mộng, tia chớp và mây bay.

Tôi quán chiếu sự mong manh của các hiện tượng duyên sanh, và rồi tôi búng ngón tay, một âm thanh ngắn ngủi biểu tượng của vô thường. Đây là tôi tự nhắc nhở rằng tôi sẽ nhanh chóng bước xuống khỏi bảo tọa của tôi.

Bất cứ chúng sanh nào – bất chấp sống lâu bao nhiêu đi nữa – cuối cùng phải chết. Không có cách nào khác. Một khi ta sống trong vòng luân hồi, thì ta không thể sống ngoài bản chất tự nhiên của nó. Bất chấp mọi thứ là kỳ diệu thế nào đi nữa, thì nó cũng được xây dựng trong chính bản chất của chúng rằng chúng và ta, những người thụ hưởng chúng, phải tàn hoại vào lúc kết thúc.

Không phải chỉ ta phải chết vào lúc kết thúc, mà ta cũng sẽ không biết khi nào sự kết thúc ấy xảy ra. Nếu ta biết, thì ta có thể dừng lại việc chuẩn bị cho tương lai. Ngay cả khi ta thấy những dấu hiệu của việc sống với một tuổi già chín muồi, thì ta cũng không thể nói với một trăm phần trăm chắc chắn rằng hôm nay ta sẽ không chết. Ta không được trì hoãn. Đúng hơn, ta phải thực hiện những sự chuẩn bị vì thế ngay cả chúng ta thật sự chết trong đêm nay, thì ta sẽ không hối tiếc. Nếu ta phát triển một sự đánh giá đúng cho sự không chắc chắn và điều nhất định sẽ đến của sự chết, thì cảm nhận về tầm quan trọng của việc sử dụng thời gian của ta một cách thông tuệ sẽ mạnh mẽ hơn và mạnh mẽ hơn. Như nhà học giả du già Tây Tạng, Tông Khách Ba đã nói:

Khi sự khó khăn của việc có được thân thể con người này được thấu hiểu, thì không có cách nào để chần chừ không làm gì cả.
Khi ý nghĩa to lớn của nó được thấy, để thời gian trôi qua một cách vô nghĩa là nguyên nhân của đau khổ.
Khi sự chết được quán chiếu, thì việc chuẩn bị cho kiếp sống tới được thực hiện.
Khi hành động và hệ quả của chúng được quán chiếu, những nguồn gốc của vô ý thức bị loại bỏ.
Khi trong cách này bốn căn bản đã trở thành vững vàng,
Thì những sự thực hành đạo đức khác lớn mạnh một cách dễ dàng.

Việc tư duy về sự chết không chỉ phục vụ như một sự chuẩn bị cho sự chết và những hành động sẳn sàng vốn lợi ích cho những kiếp sống tương lai, mà nó cũng là những tác động gây ấn tượng sâu sắc cho nhận thức tinh thần của chúng ta. Thí dụ, khi những người không quen thuộc với những sự thực tập chánh niệm về sự chắc chắn của cái chết, thế thì ngay cả khi rõ ràng rằng họ đã già và sẽ qua đời không bao lâu, bạn bè và gia đình của họ cảm thấy không thực tế với họ, và ngay cả cảm thấy cần ca tụng về ngoại hình của họ. Cả hai phía biết đó là một sự lừa dối. Thật là ngớ ngẫn!

Thậm chí đôi khi những bệnh nhân đau khổ với những cơn bệnh vào thời kỳ cuối như ung thư tránh sử dụng những chữ “chết” hay “tử vong”. Tôi cảm thấy hầu như không thể nói chuyện với họ về sự chết sắp đến với họ; họ từ chối nghe việc đó. Nhưng đối với người bây giờ không thể đối diện với chữ “chết”, không bao giờ quan tâm đến thực tế của nó, thì khi sự chết thật sự đến có lẽ sẽ mang theo nó một sự buồn phiền và sợ hãi lớn. Trái lại, khi tôi gặp một hành giả sắp chết, tôi không ngần ngại nói, “Cho dù bạn chết hay bình phục, thì bạn cũng cần chuẩn bị cho cả hai.” Không cần phải che dấu bất cứ điều gì, vì người ấy được chuẩn bị để đối diện với sự chết mà không hối tiếc. Một hành giả suy nghĩ sớm sủa về tính vô thường thì sẽ can đảm và hạnh phúc hơn trong khi lâm chung. Việc quán chiếu về thời điểm không xác định của sự chết phát triển một tâm thức an bình, ổn định và đạo đức, vì nó an trú sâu xa hơn là chuyện nông cạn của kiếp sống ngắn ngủi này.

TOÁT YẾU THỰC TẬP

1-    Nếu ta trau dồi một cảm giác về việc thời điểm không chắc chắn của sự chết, thì ta sẽ sử dụng tốt hơn thời gian của ta.
2-    Để ngăn ngừa sự chần chừ với việc quan tâm đến sự thực tập tâm linh, hãy lưu ý để không bị ảnh hưởng của vọng tưởng thường còn.
3-    Hãy nhận ra rằng bất chấp hoàn cảnh là kỳ diệu thế nào đi nữa, bản chất của nó vốn là phải đi đến kết thúc.
4-    Đừng nghĩ rằng sẽ có thời gian sau này.
5-    Hãy chân thành về việc đối diện với sự chết của chính ta. Hãy khuyến khích người khác một cách khéo léo chân thành về sự chết của họ. Đừng lừa dối nhau với những lời chúc tụng khi sự chết gần kề. Sự trung thực sẽ nuôi dưỡng lòng can đảm và hoan hỉ.

-***-
Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, August 7, 2018



Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2018

GIẢI THOÁT KHỎI SỰ SỢ HÃI




Nguyên bản: Liberation from Fear
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển 


Sự sống của ta ở giữa những nguyên nhân của sự chết
Như ngọn đèn dầu đứng giữa cơn gió mạnh
-         LONG THỌ -  TRÀNG HOA QUÝ BÁU -

Đệ nhất Ban Thiền Lạt Ma đã viết mười bảy thi kệ mà người Tây Tạng thường tập trung quán chiếu trong đời sống hàng ngày về sự chết. Tựa đề của thi kệ là: Nguyện Ước Giải Thoát Khỏi Tình Cảnh Nguy Hiểm Của Thân Trung ấm, Anh Hùng Thoát Ra Từ Sự Sợ Hãi. Nhằm để được giải thoát khỏi những tình cảnh nguy nan, chẳng hạn như bị bao vây bởi những kẻ cướp giật, côn đồ, hay thú dữ, chúng ta cần một sự hướng dẫn quả cảm và có năng lực để giải cứu ta. Tương tự thế, để được giải thoát khỏi sự kinh khủng của những hiện tướng vọng tưởng trong khi lâm chung và trong tình trạng trung ấm giữa những kiếp sống, ta cần thực tập sự hướng dẫn được cống hiến trong thi kệ này, vốn cung cấp những kỷ thuật thâm sâu cho việc thoát khỏi những sợ hãi ấy. Bằng việc quán chiếu trên thi kệ ta học vấn đề chết xảy ra như thế nào, và kiến thức sẽ hữu dụng trong tiến trình thật sự như thế nào. Lâm chung là một thời điểm mà những trình độ sâu xa của tâm thức tự biểu hiện, việc quán chiếu hàng ngày cũng mở ra cánh cửa đến những trình độ ấy.

Thi kệ chứa đựng một loạt những nguyện ước được sử dụng bởi bất cứ ai trong chúng ta vì thế khi sự chết thình lình xảy đến, tâm thức sẽ [tự động] phản ứng trong một cung cách đạo đức. Một số cố gắng để phát sanh một động cơ đạo đức đầy năng lực vào lúc lâm chung để củng cố và kích thích những khuynh hướng thiên về đạo đức, vốn đưa họ đến một sự tái sanh có ích. Mục tiêu của họ là việc đạt được sự chuyển tiếp vào kiếp sống mới [thuận lợi] để tiếp tục sự thực tập tâm linh của họ. Những người khác, như chúng ta sẽ thấy, cố gắng lợi dụng những trình độ sâu xa hơn của tâm biểu hiện trong lúc lâm chung để thành tựu những thể trạng tâm linh tiến bộ hơn. Tất cả mọi hành giả hướng đến là việc phụng sự người khác.

Thi kệ của Đệ nhất Ban Thiền Lạt Ma diễn tả ba trình độ của sự thực tập tâm linh – đối với bậc cao cấp nhất, bậc trung và bậc thường – trong hình thức của nguyện ước tỉnh thức trong tiến trình của sự chết, thể trạng giữa những kiếp sống, và tái sanh. Ngài đã nói chi tiết về những gì ta nên làm ở mỗi giai đoạn. Ta cần chấp nhận và thực tập một trình độ thích ứng cho phần còn lại của kiếp sống cá nhân vì thế vào lúc thời điểm lâm chung ta sẽ hành động thành công hơn qua mỗi giai đoạn.

Khi sự chết thật sự đến, nếu ta không quen với sự thực tập này, thì sẽ rất khó khăn để thành công bất cứ sự quán chiếu lợi lạc nào. Do thế, bây giờ là lúc để thực tập và chuẩn bị, trong khi ta vẫn vui vẻ và hoàn cảnh đời sống của ta là thích hợp. Rồi thì, vào lúc thật sự cần đến và áp lực, sẽ không có gì lo lắng. Nếu, khi ta có thời gian để lắng nghe, suy nghĩ, hành thiền, và đặt câu hỏi, ta không chuẩn bị, thì vào ngày cuối cùng sẽ không có thời gian và ta sẽ không có người che chở hay nương tựa, không có gì sót lại ngoài sự hối tiếc. Tốt nhất là trước thời điểm ấy lâu xa ta tiến hành một sự thực tập liên tục về việc quán chiếu tiến trình của sự chết và thể trạng trung ấm giữa những kiếp sống – quán tưởng những biện pháp để cho chúng trở nên quen thuộc. Điều này rất quan trọng, vì thế sau đó ta có thể đạt được sự thành công phù hợp với năng lực to lớn nhất của ta.

Chỉ kiến thức về tiến trình của sự chết và những thực tập liên quan đến nó thì không đủ, ta phải đạt được sự quen thuộc với những thứ này trải qua hàng tháng hàng năm. Nếu bây giờ, khi những giác quan còn trong sáng và sự chánh niệm chưa bị thoái hóa, mà tâm thức của ta không được rèn luyện có thể tiện dụng và quen thuộc với cung cách của đạo đức, thì sẽ rất khó khăn – khi lâm chung – vì tâm thức sẽ diễn biến phù hợp với chính nó trên một con đường xa lạ. Khi lâm chung, thân thể của ta có thể yếu đuối vì bệnh tật và tinh thần bị áp lực từ những sợ hãi kinh khiếp. Do thế, thật cần thiết để trở nên quen thuộc với những sự thực tập liên hệ đến sự chết. Không có sự thay thế. Không có những viên thuốc.

Nổ lực thực hiện để hiểu rõ những sự thực tập này lệ thuộc vào động cơ nội tại phát sanh từ sự tin chắc rằng những kinh nghiệm về khổ đau và vui sướng tương xứng với những hành vi đạo đức và không đạo đức của chính ta. Do vậy, vào lúc bắt đầu, thật quan trọng để phát triển một sự thấu hiểu về nguyên nhân và hệ quả của hành động, hay nghiệp, được đặt nền tảng trên nhận thức rằng những hành vi tốt lành xuất phát từ một tâm thức thuần hóa, và các hành vi xấu ác sanh khởi từ một tâm thức không được thuần hóa. Mặc dù những hành vi đạo đức và không đạo đức được tiến hành bởi thân thể, lời nói và tâm ý, nhưng tâm ý là quan trọng nhất, cho nên gốc rể của sự thực tập Phật giáo là sự chuyển hóa tâm thức. Sự nhấn mạnh của giáo huấn nhà Phật là trên một tâm thức thuần hóa – nền tảng của nhận thức rằng ta là đấng tạo hóa của mọi sự vui sướng và khổ đau của chính ta. Như Đức Phật đã nói:

Chư Phật không rửa sạch những hành vi xấu ác bằng nước,
Cũng không loại trừ khổ đau của chúng sanh bằng đôi tay của các Ngài,
Cũng không trao truyền sự chứng ngộ của các Ngài cho kẻ khác,
Chúng sanh được giải thoát qua giáo huấn về sự thật, bản chất của mọi thứ.

Chúng ta là đấng tạo hóa của chính chúng ta, thoải mái và không thoải mái ở trong tay của chính chúng ta.

VỊ TRÍ DÒNG TRUYỀN THỪA CỦA CÁC ĐỨC BAN THIỀN LẠT MA

Đệ nhất Ban Thiền Lạt Ma tên thật là Losang Chokyi Gyeltsen, là một giáo thọ của Đệ ngũ Đạt Lai Lạt Ma trong thế kỷ 17. Trước thời gian ấy, mặc dù là một tu sĩ thọ giới, người dân địa phương và thầy của ngài vẫn xem ngài như hóa thân của đại du già sư Tây Tạng: Ensaba. Có thể không là một trong những học giả lớn nhất, nhưng ngài là một hành giả vĩ đại. Giống như thầy của ngài, Sengyay Yeshay, ngài có một sự tôn kính chân thành với những dòng truyền thừa Phật giáo khác. Trong Công Trình Thu Thập về thầy của ngài, chúng ta thấy có những từ ngữ của những truyền thống khác, và sự cởi mở này phải ảnh hưởng trong chính sự thực tập của Đức Ban Thiền Lạt Ma Losang Chokyi Gyeltsen. Ngài chắc chắn có một sự đóng góp to lớn cho sự tương kính hổ tương và hòa hiệp giữa những trường phái Phật giáo Tây Tạng.

Đệ thập Ban Thiền Lạt Ma, Losang Trinley Lhundrup Choekyi Gyeltsen, viên tịch năm 1989. Ngài và tôi cùng sanh ra trong một tỉnh đông bắc của Tây Tạng, gọi là Amdo. Vào lúc chọn ngài như hóa thân của vị tiền nhiệm thì có một sự tranh cãi nhỏ. Những chức sắc trong tu viện cua ngài ở Shigatse, vốn ở miền tây của Tây Tạng, trong khi tỉnh Amdo là một vùng dưới ảnh hưởng cai trị của một lãnh chúa Hồi Giáo. Các vị ấy quyết định ngài là một hóa thân thật sự của Đệ cửu Ban Thiền Lạt Ma. Trong Thỏa Thuận 17 Điểm được chính quyền Trung Hoa khuyến khích như một cách để thiết lập mối quan hệ với Tây Tạng, người Trung Hoa đã cho thấy hay có lẽ khăng khăng rằng chính quyền Tây Tạng phải nhìn nhận cậu bé này, người đã ở trong tay họ, như Ban Thiền Lạt Ma. Trong cách này, sự thừa nhận ngài có hơi bị tranh cãi, nhưng chính ngài đã chứng  minh rằng ngài là một anh hùng lớn, can đảm trong việc phụng sự cho Phật giáo Tây Tạng và dân tộc Tây Tạng. Không nghi ngờ gì.

Khi tôi gặp ngài lần đầu tiên khoảng năm 1952, ngài rất ngây thơ, rất chân thành, và rất hoạt bát. Năm 1954, cả hai chúng tôi cùng đi Trung Hoa, ngài đến từ miền tây Tây Tạng và gia nhập với tôi ở thủ đô Lhasa trong vài ngày. Ngài đi đến Trung Hoa qua tỉnh Amdo và tôi đã đi qua Konpo. Có lẽ qua sự bất mãn của một số chức sắc của ngài, nên thái độ của ngài hơi thay đổi.

Năm 1956, vào kỷ niệm Phật Đản 2500, khi cả hai chúng tôi ở Ấn Độ, vẫn còn những biểu hiện nhỏ về điều này. Tuy nhiên, vì những sự kiện rất đau buồn – những trận chiến với với quân chiếm đóng Trung cộng – xảy ra trong những năm 1957 và 1958 trong hai tỉnh miền đông. Amdo và Kham, những tin tức về những sự tàn bạo được tiến hành bởi quân đội xâm lược cuối cùng đã đến tai ngài. Ngài hoàn toàn nhận ra rằng, có lẽ một cách muộn màng, rằng tất cả mọi người Tây Tạng phải thống nhất và đối diện với sự đe dọa mới. Trong sự kiểm tra học thuật sau cùng của tôi, ngài đã gửi một chức sắc tu sĩ tin cẩn đến giải thích với tôi rằng hiện tại tư duy của Đức Ban Thiền Lạt Ma đã thay đổi rất nhiều vì những tin tức mới đây từ nơi sinh quán của ngài. Dưới sự đe dọa mới, ngài đã quyết định dứt khoát rằng tu viện của ngài ở Shigatse sẽ làm việc với chính quyền Tây Tạng.

Sau khi tôi đào thoát đến Ấn Độ năm 1959, Đức Ban Thiền Lạt Ma đã đảm nhận vai trò của tôi như lãnh tụ bên trong Tây Tạng và trong vài năm tiếp theo đã hành động một cách tuyệt vời. Cuối cùng ngài đã bị quản thúc tại gia và bị cầm tù. Sau khi được trả tự do, ngài đã sử dụng cơ hội một cách thông tuệ, mở rộng mọi nổ lực để cải thiện tình hình cho Phật giáo và văn hóa Tây Tạng. Bằng chữ “thông tuệ” tôi muốn nói rằng ngài đã không đụng chạm đến những vấn đề nhạy cảm chẳng hạn nền độc lập của Tây Tạng, thay vì thế chỉ đơn giản đem mọi năng lượng của ngài vào việc bảo tồn Phật giáo và văn hóa Tây Tạng. Đôi khi ngài la mắng những người Tây Tạng chỉ mặc áo quần Trung Hoa và chỉ nói tiếng Hoa. Những người Tây Tạng đó bị buộc phải mặc quần áo Tây Tạng và nói tiếng Tây Tạng. Qua những hành động như vậy ngài đã tự chứng minh.

Sự viên tịch của ngài rất đột ngột và quá sớm. Tôi vô cùng đau buồn. Trong khi ngài sinh tiền, có một người Tây Tạng như lãnh tụ lên tiếng ở bên trong quê hương nhân danh dân tộc, trong khi tôi phục vụ từ bên ngoài một cách tối đa. Sau khi mất ngài, bây giờ không còn ai bên trong Tây Tạng có thể  làm như ngài. Họ hoặc là quá già hay quá sợ. Sự viên tịch của ngài là một mất mát lớn.

Ngay khi ngài qua đời, tôi đã gửi một thông điệp đến chính quyền Trung Cộng nói rằng tôi muốn gửi một phái đoàn tâm linh để hiến cúng tại tu viện của Đức Ban Thiền Lạt Ma, nhưng họ đã từ chối. Sau vài năm, tôi đã yêu cầu chính quyền Bắc Kinh cho phép một phái đoàn tâm linh tìm kiếm hóa thân của Đức Ban Thiền Lạt Ma, nhưng họ lại từ chối một lần nữa.

Rõ ràng, vấn đề quan trọng là sự tái sanh của Đức Ban Thiền Lạt Ma phải xác thật. Vào lúc ấy, một số người Tây Tạng khuyến nghị rằng sự tái sanh phải được tìm bên ngoài vùng bị chiếm đóng, nhưng tôi đã xem động cơ của họ là chính trị. Vấn đề quan trọng thật sự là việc tìm ra một vị tái sanh chân thật, cho dù bên trong hay bên ngoài Tây Tạng. Nếu sự tái sanh ở bên trong Tây Tạng, tôi biết sẽ cần thiết để thảo luận với chính quyền Trung Cộng, cho nên tôi muốn gửi một phái đoàn tâm linh đi tìm vị tái sanh.

Yêu cầu đó bị phủ nhận, nhưng trong lúc đó qua một kênh thông tin không chính thức, tôi đã xây dựng sự tiếp xúc với một lạt ma, Chadrel Rinpochay, người đã gửi một danh sách hơn 25 ứng viên cùng với vài tấm hình. Ngay khi tôi thấy tấm hình của Gedhun Choekyi Nyima, tôi đã có một cảm nhận thông giao hay thân thuộc. Tôi đã làm vài sự chiêm tinh, vốn rất tích cực cho Gedhun Choekyi Nyima. Cuối cùng, tôi đã tiến hành một vòng chiêm tinh, một bát với những quả bóng bột chứa đựng những tên họ của các ứng viên sau cùng trong một mãnh giấy bên trong quả bóng bột. Giống như cậu bay ra khỏi bát. Qua những bước này, tôi đã quyết định rằng cậu bé này là hóa thân của Đệ thập Ban Thiền Lạt Ma.

Tuy nhiên, tôi đã không đưa ra tuyên bố. Khi thời gian trôi qua, ngày càng nhiều người Tây Tạng, đặc biệt từ bên trong quê hương Tuyết Sơn, thúc giục tôi quyết định. Tôi cố gắng giữ sự đối thoại với chính quyền Trung Cộng mà không có kết quả. Cuối cùng, tôi nghĩ rằng sẽ thích hợp để tuyên bố vào ngày Đức Phật giảng dạy giáo huấn Kalachakra hay Thời Luân lần đầu tiên, mà Đức Ban Thiền Lạt Ma có một sự liên hệ đặc biệt. Tôi đã thực hiện một sự chiêm tinh quả bóng bột một lần nữa để xem tôi có nên tuyên bố hay không, và điều ấy có kết quả tích cực.

Tôi đã tuyên bố, và ngày kế tiếp tôi đã nhận một sự gắt gỏng ồn áo từ những vị thầy của chúng tôi, chính quyền Trung Cộng. Nhưng những gì thật sự kinh khiếp là trong vài ngày vị hóa thân trẻ tuổi cùng với cha mẹ, bị đưa ra khỏi nơi sinh quán đến Lhasa, và từ đấy đến Trung Hoa, và từ lúc ấy, không có tin tức gì về họ. Tôi cảm thấy rất buồn về điều này, vì tác động của việc ấy ra sao, theo quan điểm của chính quyền Bắc Kinh những hành vi bất hợp pháp của tôi đã làm đứa bé đau khổ.

Chính quyền Bắc Kinh tin rằng họ phải là thẩm quyền tối hậu. Điều đó thật sự đã xảy ra vài lần trong lịch sử Tây Tạng khi có sự bất đồng của vài nhóm trong cộng đồng Tây Tạng về việc thu hẹp lại sự lựa chọn những ứng viên. Họ hướng đến hoàng đế Trung Hoa, những người cả là Phật tử và bảo hộ Phật giáo Tây Tạng, để thực hiện quyết định sau cùng trước một hình tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni qua việc sử dụng một bình bằng vàng, trong đó mỗi tên được viết trên một thẻ. Đó là những trường hợp người Tây Tạng thực hiện với sự tranh luận của giới tu sĩ
trong một cung cách tôn giáo.

Vị tiền nhiệm của tôi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, được lựa chọn nhất trí bởi chính quyền Tây Tạng sau khi những tiến trình thông thường bên trong mà không có bất cứ sự tham khảo ý kiến bên ngoài nào. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 được hỏi về Đệ cửu Ban Thiền Lạt Ma, ngài đã tuyên bố sự lựa chọn của ngài, nhưng ngài quá trẻ để hoàn toàn có thẩm quyền. vì người Tây Tạng hướng đến bất cứ cách nào dễ dàng hơn, cho nên họ đã quay sang tham khảo chiếc bình vàng, vốn được tiến hành bởi đại sứ Trung Hoa. Tuy thế, tên ứng viên được Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 tiến cử đã xuất hiện từ chiếc bình vàng.

Vì người Tây Tạng tin tưởng hoàng đế Trung Hoa, tự nhiên họ sẽ liên hệ với nhà bảo hộ và ủng hộ họ trong những hành động tôn giáo quan trọng nào đó. Hoàn cảnh loại đó đã hoàn toàn thay đổi với nhà đương cục Bắc Kinh hiện tại, những người chính yếu quan tâm đến việc khống chế. Liên hệ đến Đức Ban Thiền Lạt Ma hiện tại, họ đã biểu diễn một sự chiêm tinh chiếc bình vàng để thực hiện sự lựa chọn của họ về một Ban Thiền Lạt Ma khác, nhưng nó đã được quyết định trước – họ đã ra lệnh cậu bé và gia đình của cậu chờ đợi trong Điện thờ cho một sự tuyên bố công cộng. Sau đó chính quyền đã bắt tu sĩ – người hành động như lãnh đạo của Phật giáo Tây Tạng, “chọn” thẻ - quản thúc tại gia. Đây hoàn toàn là chế độ chuyên chế.

Tuy thế, trong hai hay ba trường hợp, tôi đã xem video về Ban Thiền Lạt Ma chính thức của chính quyền, Gyaltsen Norbu, dường như cũng được đấy. Trong một video, ông đang tiến hành một giáo huấn trong liên hệ với một nghi lễ cầu trường thọ. Ông biết nghi thức từ tâm ý và giải thích ý nghĩa của nghi lễ trường thọ rất tốt.

KHÁI QUÁT VỀ THI KỆ

Thi kệ 17 đoạn của Đệ ngũ Ban Thiền Lạt Ma là một sự hướng dẫn về những kỷ thuật đặc thù của Phật giáo cho việc vượt thắng sợ hãi về sự chết và cho khả năng sử dụng những giai đoạn của sự chết cho sự tiến bộ tâm linh. Hy vọng của tôi là sự diễn tả này về những kinh nghiệm tâm lý nội tại và những thay đổi vật lý sẽ cung cấp sự quán chiếu hữu ích cho những ai quan tâm về sự chết và những trình độ sâu hơn của tâm thức, và nó sẽ phục vụ như một nguồn tin tức đáng tin cậy cho những nhà khoa học quan tâm trong việc nghiên cứu với những học giả và du già sư về những vấn đề chung quanh sự chết. Trái lại các nhà khoa học thường xem tâm thức như một sản phẩm của thân thể, nhưng những nhà chuyên môn nào đó đang bắt đầu nghĩ về tâm thức như một thực thể độc lập hơn vốn có thể ảnh hưởng đến thân thể. Rõ ràng rằng những cảm xúc mạnh mẽ, chẳng hạn như thù oán có thể tác động đến thân thể, nhưng bây giờ các cuộc thí nghiệm đang được tiến hành liên quan đến những thực tập cụ thể về việc rèn luyện một cách chủ tâm, chẳng hạnh như việc phát triển về niềm tin, từ ái, bi mẫn, định nhất tâm, quán chiếu về tánh không, hay các chủ đề hành thiền đặc biệt trong truyền thống Nyingma của Phật giáo Tây Tạng. Những thí nghiệm này cho thấy rằng việc rèn luyện tinh thần có thể có một chức năng tự chủ động, ảnh hưởng đến thân thể, ngay cả làm nó bớt nhạy cảm. Tôi nghĩ rằng việc tham với những y tá, đặc biệt ở những nhà dưỡng lão, về những dấu hiệu sắp xảy đến của sự chết cũng rất hữu ích.

Bảy thi kệ đầu của Ban Thiền Lạt Ma giải thích vấn đề tiếp cận với sự chết như thế nào. Sau một thi kệ mở đầu về quy y Phật, giáo lý của Ngài, và cộng đồng tâm linh (được giải thích trong chương này), hai thi kệ tiếp theo (chương ba) nói về tầm quan trọng giá trị của kiếp sống hiện tại như một cơ hội cho sự thực tập tâm linh. Chúng diễn tả vấn đề tận dụng hoàn cảnh quý giá như thế nào bằng việc quán chiếu trên tính vô thường của hiện tại nhằm để làm giảm thiểu sự dính mắc quá mức với những kinh nghiệm thoáng qua. Thi kệ bốn và năm (chương bốn) nói về việc đón nhận một quan điểm vốn có thể xử lý cả khổ đau và những ảo giác áp đảo xuất hiện trong lúc lâm chung. Thi kệ sáu và bảy (chương năm) qui định vấn đề đạt được những điều kiện thuận lợi nhất như thế nào cho sự chết bằng việc nhớ lại những gì đã thực tập và bằng việc duy trì hỉ lạc.

Ba thi kệ tiếp theo (chương sáu) diễn tả chi tiết những hiện tướng xảy ra trong bốn thời kỳ đầu của sự chết và vấn đề hành thiền xuyên suốt chúng như thế nào. Tiết đoạn này đòi hỏi kiến thức của chúng ta về sự suy sụp của những yếu tố vật lý vốn hổ trợ ý thức và những kinh nghiệm tương ứng của chúng. Những thứ này dần dần mở lối cho ba tâm thức sâu hơn, vi tế hơn để chúng tự biểu hiện như được diễn tả trong thi kệ tiếp theo (chương bảy). Chương này phác thảo cấu trúc của tâm thức và thân thể tương ứng với Tantra Yoga Tối Thượng. Thi kệ mười hai và mười ba (chương tám) nói về kinh nghiệm lên đỉnh điểm của tâm thức bản nhiên nền tảng của linh quang. Trình độ sâu nhất này của tâm thức là căn bản của tất cả đời sống ý thức.

Bốn thi kệ cuối cùng (chương chín và mười) diễn tả thể trạng trung ấm (sau khi chết và trước kiếp sống mới) và chỉ ra vấn đề phản ứng thế nào với những sự kiện ghê khiếp vốn có thể xảy ra trong thể trạng trung ấm. Chúng chi tiết những trình độ đa dạng của các hành giả có thể mưu cầu để hướng dẫn sự tái sanh của họ.

Cùng với nhau mười bảy thi kệ này trình bày toàn bộ quy trình chuẩn bị cho sự chết bằng việc loại trừ những điều kiện không thuận lợi, đạt được những điều kiện thuận lợi, học hỏi vấn đề dấn thân trong những sự thực tập tâm linh như thế nào trong khi sắp chết, học hỏi vấn đề xử lý thế nào với thể trạng trung ấm giữa những kiếp sống, và việc tác động đến sự tái sanh theo sau.

Thi kệ mở đầu:
Tôn kính Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ tát

Trước khi thi kệ bắt đầu, Đệ Nhất Ban Thiền Lạt Ma trước tiên thực hiện một sự biểu lộ cầu nguyện, một sự tôn kính, đến Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, sự biểu hiện vật lý của tuệ trí của tất cả chư Phật. Tác giả xem Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ tát không khác với chính vị lạt ma hay vị thầy của ngài. Lý do tại sao ngài tỏ lòng tôn kính đến Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ tát như sau đây.

Gốc rể của sự chết tốt lành và một thân trung ấm tốt lành giữa những kiếp sống, và ngay cả việc đạt đến Quả Phật trải qua một sự tương tục của các kiếp sống, sự thực tập thành công về linh quang của sự chết. Có hai loại thực tập: từ bi và tuệ trí. Sự thực tập về linh quang trong lúc lâm chung bao gồm trong sự thực tập tuệ trí, do thế nó bao hàm trong những giai đoạn của giáo huấn về quan điểm thậm thâm của tính tương hợp của hiện tướng với tánh không của sự tồn tại cố hữu – sự trao truyền pháp môn này xuất phát từ vị Thầy ân cần của chúng ta Đức Phật Thích Ca qua Đức Bồ tát Văn Thù. (Những giai đoạn của giáo huấn về các động cơ từ bi rộng lớn và những hành vi tương tự được trao truyền từ Đức Phật Thích Ca, nhưng qua Bồ tát Di Lặc và Bồ tát Quán Âm). Do vậy, từ sự thực tập công về sự chết và trung ấm thân giữa những kiếp sống chính yếu quan tâm với nhân tố của tuệ trí, Đệ Nhất Ban Thiền Lạt Ma cầu nguyện với Đức Bồ tát Văn Thù.

Tôn kính Đạo Sư Văn Thù Sư Lợi

Đã tỏ lòng tôn kính đến sự biểu hiện của tuệ trí, ngài bắt đầu thi kệ:

Thi kệ 1:

Con và tất cả chúng sanh trong khắp không gian, không loại trừ ai
Xin quy y cho đến khi Giác Ngộ tối hậu
Với chư Phật, giáo pháp, và cộng đồng tâm linh trong quá khứ, hiện tại và vị lai.
Nguyện cho chúng con được giải thoát khỏi sự khiếp sợ của kiếp sống này, thân trung ấm, và kiếp sống tới.

Trong một thái độ tự cứu, người Phật tử quy y với Đức Phật như một vị Thầy, với giáo pháp của Đức Phật (nói về sự thực chứng và các giáo lý về chúng) như sự quy y thật sự, và với cộng đồng tâm linh (tăng già) như những sự hướng dẫn cho sự quy y ấy. Người Phật tử phát triền niềm tin rằng việc tiếp thu giáo lý có thể cung ứng sự bảo vệ khỏi khổ đau. Người Phật tử xem Ba viên ngọc quý này (Phật, Pháp, Tăng) là sự quy y rốt ráo.

Tìm cầu sự quy y chỉ để làm nhẹ bớt nổi khổ đau của chính mình và thành tựu sự giải thoát khỏi vòng luân hồi không đáp ứng các phẩm chất cho sự quy y vị tha. Nhận thức của ta sẽ không rộng lớn. Thái độ quy y của ta phải nên vì lợi ich của tất cả chúng sanh, vì sự giải thoát cho họ khỏi khổ đau và thành tựu Quả Phật. Ta nên mong cầu Quả Phật toàn giác nhằm để hoàn thành mục tiêu chính yếu – cứu giúp những người khác.

Ta nên quan tâm đến tất cả chúng sanh trong khắp pháp giới, và mưu cầu thành tựu sự Giác Ngộ rốt ráo hay vô thượng, vốn vượt trội hơn các hành giả tập trung một cách nhỏ hẹp bởi vì nó liên hệ đến việc tiêu trừ những chướng ngại không chỉ giải thoát khỏi sanh tử luân hồi mà cũng là đến sự toàn giác. Sự Giác Ngộ rốt ráo, hay niết bàn vô thượng, là vượt khỏi những cực đoan của thiên kiến hoặc là trong phương hướng của chúng sanh bị vướng trong luân hồi của vòng lẫn quẩn sanh, già, bệnh, chết hay niềm an bình thụ động, một thể trạng của giải thoát khỏi vòng đau khổ nhưng không có khả năng toàn vẹn để cứu giúp người khác.

Đệ nhất Ban Thiền Lạt Ma hướng dẫn độc giả của ngài quy y với Đức Phật, giáo pháp của ngài, và cộng đồng tâm linh nhằm để đạt đến sự giác Ngộ tối thượng vì lợi ích của những chúng sanh khác. Đây là gọi là Quy Y Nhân; ta đang tiếp nhận sự quy y Ba Viên Ngọc Quý (tam bảo) vốn thiết lập trong sự tương tục tinh thần của những người khác – đặt niềm tin vững chắc một cách đặc biệt trong sự chấm dứt khổ đau và những thể trạng tâm linh, họ đã thực chứng để chiến thắng khổ đau của họ. Thỉnh cầu những ai sở hữu Ba Viên Ngọc Quý gợi lên lòng từ bi của họ - không phải bằng việc phát sinh nó trong họ mà bằng việc mở lòng chúng ta đến nó.

Bằng việc tiếp nhận quy y nhân, ta đang thực hành giáo pháp được dạy bởi Đức Phật Bổn Sư với cộng đồng tâm linh thực chứng cao độ như kiểu mẫu của chúng ta, chúng ta đang hiện thực hóa con đường tâm linh và nhiều trình độ của chấm dứt khổ đau. Trong cách này, chính ta trở thành một thành viên của cộng đồng tâm linh thực chứng cao độ, dần dần loại trừ tất cả những chướng ngại để giải thoát khỏi vòng luân hồi, và các chướng ngại đối với toàn giác – trở thành một Đức Phật. Chúng ta được thoát khỏi tất  cả những kinh sợ và thành tựu toàn giác, vì thế chúng ta biết được tâm tánh của người khác và thấu hiểu kỷ năng nào sẽ ích lợi cho họ. Vì lợi ích của việc thành tựu một sự Quy Y Quả như vậy, cho nên thi kệ này  thỉnh nguyện ba nguồn gốc nhân của quy y để thỉnh cầu lòng từ bi của Tam Bảo.

Vì quy y là việc khởi  đầu của sự thực hành Phật giáo, cho nên nguyện ước thứ nhất của thi kệ quan tâm đến nó. Không có quy y, thật khó cho những sự thực hành khác thành công được. Tuy nhiên, một thái độ vững tin hoàn toàn trong Tam Bảo tự chính nó thì không đủ. Như Đức Phật đã nói, “Ta dạy các ngươi con đường đến giải thoát. Hãy biết rằng chính sự giải thoát tùy thuộc vào các ngươi.” Đức Phật chỉ là vị thầy của con đường tu tập. Ngài không ban tặng sự thực chứng như như một món quà, ta phải phải thực hành đạo đức, thiền định, và tuệ trí.

Thí dụ, hãy xem việc trì tụng mật ngôn om mani padme hum vốn được thực hành vì mục đích thỉnh cầu lòng từ bi trong chính ta vì tất cả mọi loài chúng sanh. Sau một thời khóa trì tụng – hai mươi mốt, một trăm lẻ tám, và nhiều lần hơn nữa – giá trị của sự thực hành được dâng hiến qua việc trì tụng của một hành giả trong sự nối kết với Bồ tát Quán Thế Âm, vì Ngài là sự biểu hiện thân thể từ bi của tất cả chư Phật.

Qua đạo đức của sự thực hành này,
Nguyện cho tôi nhanh chóng đạt được một thể trạng
Đồng đẳng với Đức Quán Thế Âm
Nhằm để giúp đở tất cả chúng sanh cũng thành tựu được như vậy.

Không thể thành tựu Quả Phật chỉ đơn thuần qua việc trì tụng om mani padme hum, nhưng nếu sự thực hành của chúng ta được kết hợp với lòng vị tha thật sự, thì nó có thể phục vụ như một nguyên nhân của việc thành tựu Quả Phật. Tương tự thế, nếu ta chạm, thấy, hay lắng nghe một đạo sư phẩm chất, thì có thể có một ảnh hưởng tích cực, vốn có thể lợi lạc trong việc phát triển một kinh nghiệm tâm linh sâu sắc hơn. Khi vị giáo thọ trưởng lão của tôi, Ling Rinpochay, và tôi chạm vào trán lúc bắt đầu của một cuộc gặp gở nghi thức hay vào những lúc khác khi tôi nắm tay ngài và chạm nó trên trán tôi, một cách tình cảm thì điều này sẽ cho tôi một cảm nhận thân mật mạnh mẽ liên hệ đến niềm tin và sự tin tưởng lớn hơn. Vào thời Đức Phật, khi người nào đó thật sự tôn kính và yêu mến Ngài thì chạm vào bàn chân ngài, điều này chắc chắn sẽ mang đến một lợi lạc nào đó. Nhưng nếu ai không có niềm tin hay tôn kính Đức Phật thì ngay cả ôm đôi chân Ngài và ấn mạnh vào đầu, chắc chắn sẽ không có sự gia hộ nào. Mặc dù điều gì đó được đòi hỏi từ phía đạo sư, nhưng một cách chính yếu nó đến từ phía của người đệ tử.

Đã có một lạt ma thật sự tuyệt vời đến từ tỉnh Amdo của Tây Tạng, khi được thỉnh cầu ban phước lành bằng việc đặt bàn tay ngài lên đầu của hành giả, thì ngài nói, “Tôi không là một lạt ma có thể ban cho sự giải thoát bằng việc đặt một bàn tay – vốn có bản chất của khổ đau – lên đỉnh đầu của một người.”

TÓM TẮT HƯỚNG DẪN

1-    Động cơ thực hành của chúng ta nên là lợi ích của tất cả chúng sanh – sự tự do của họ khỏi khổ đau và thành tựu sự hoàn hảo. Hãy luôn luôn điều chỉnh động cơ của chúng ta đối với việc giúp đở người khác tối đa như có thể. Tối thiểu cố gắng không làm điều gì tổn hại.
2-    Chư Phật như những vị Thầy của con đường tâm linh, các Ngài không ban tặng sự thực chứng như một món quà. Chúng ta phải thực hành đạo đức, thiền định, và tuệ trí trên căn bản hàng ngày.

Ẩn Tâm Lộ, Friday, August 3, 2018

  
-***-