Thứ Hai, 12 tháng 8, 2019

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG (15)




Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

*

HỎI: Ngài nhấn mạnh từ bi như căn bản cho đạo đức. Nhưng trong vài trường hợp, không nhất thiết bảo đảm công lý, thay vì là lòng từ bi lại là thủ phạm gây tội? Cái chết của Osama bin Laden hầu như bị che đậy bởi truyền thông, đáng lẻ có công lý cho gây kẻ gây tội và thông tin được người ta ăn mừng. Từ bi và đạo đức thích đáng chỗ nào ở đây?

ĐÁP: Chúng ta phải có một sự phân biệt rõ ràng giữa kẻ hành động và hành động. Những hành động của Osama bin Laden là tàn phá kinh khiếp. Sự kiện 9/11 gây ra cái chết của hàng nghìn người. Cần có công lý. Nhưng kẻ hành động là một con người và chúng ta cần từ bi để đối phó với y. Nhưng bước đi cần được thực hiện để chấm dứt cội nguồn của hành vi tàn phá, nhưng kẻ hành động có thể được tha thứ. Căn bản của sự tha thứ là quên đi những gì đã xảy ra, nhưng nhớ những gì đã xảy ra rồi và cần tha thứ cho sự bình an của tâm hồn. Nhưng hành vi nghiêm trọng cần phải có những lượng định để đối phó với nó.

HỎI: Tôn giáo là cội nguồn tốt đẹp nhất của đạo đức. Nhưng đôi khi nó xung đột với luật pháp quốc gia. Chúng ta ưu tiên cho thứ nào trước và tại sao?

ĐÁP: Điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào cá nhân. Nếu ta là một người tin tưởng nghiêm túc trong một tôn giáo, thế thì tôn giáo trở thành quan trọng; nhưng nếu ta là một người không tín ngưỡng, thế thì luật pháp được ưu tiên. Ấn Độ có nhiều truyền thống nhưng là một xã hội thế tục. Vì vậy Ấn Độ trở thành một thí dụ hay kiểu mẫu cho một chủ nghĩa thế tục.

Ở Jodhpur, khi tôi đang đi ngang qua hành lang một khách sạn, một người đàn ông Châu Âu đến gần tôi. Ông đã đến từ Romania để tìm sự hòa hiệp tôn giáo của Ấn Độ. Ông thấy một làng Hồi giáo với ba gia đình Ấn giáo, nhưng không có sợ hãi xung đột, vốn làm ông ngạc nhiên. Ở Kerala, Ki Tô giáo, Hồi giáo, Ấn giáo, và Kỳ Na giáo sống chung với nhau. Mối quan hệ là lành mạnh giữa mọi người do bởi chủ nghĩa thế tục, ngay cả với sự tồn tại của tham nhũng.

Trong năm mươi năm qua, Ấn Độ đã là nơi thường trú của tôi và tôi cảm thấy rất an toàn. Ngay cả tôi không nên có một sự dính mắc với Phật giáo như một tâm thức định kiến sẽ không thế thấy thực tại. Bất cứ thành viên của tôn giáo nào mà quá dính mắc với tôn giáo của họ, thì nó sẽ làm cho họ cuồng tín, vốn là một lỗi lầm.

HỎI: Tôi làm việc cho một công ty lớn và tôi đã thấy nhiều sự nhũng lạm. Nếu tôi báo cáo nó, tôi mất việc, và tôi là người trụ cột của gia đình tôi. Tôi có nợ nần trách nhiệm gì với cộng đồng và gia đình tôi?

ĐÁP: Đó là dấu hiệu rõ ràng của sự nhũng lạm. Một lần nọ khi tôi ở Bombay, một thương gia nói với tôi rằng trong xã hội có nhiều trường hợp nhũng lạm và nếu ta là người trung thực thì khó tồn tại. Một học sinh ở Jodhpur đã nói với tôi rằng một cá nhân không thể thành công nếu không tham gia vào một hình thức nào đó của nhũng lạm. Trả lời cho cả hai trường hợp, tôi nói rằng đại đa số nhân loại có lòng từ bi, và chỉ có một bộ phận nào đó là nhũng lạm. Ta tham gia vào sự nhũng lạm chỉ vì bất lực. Đó là phạm tội là không nên bỏ qua. Trách nhiệm của chúng ta là lên tiếng chống lại nó, để đứng vững vàng chống lại sự lan tỏa của loại tội phạm như thế. Một số người có thể bị thương tổn trong cuộc đấu tranh của họ chống lại nhũng lạm, nhưng đó sẽ là một cái giá rất nhỏ phải trả cho một sự tốt lành lớn lao.

Những người nhũng lạm là đạo đức giả, khi họ chỉ quan tâm đến danh tiếng của họ và làm việc để bảo vệ nó ngay cả khi họ biết rõ rằng họ đang làm sai. Thật tốt lành hơn để sống một cách trung thực hơn là đạo đức giả. Những gia đình nghèo khó sống với một niềm tin tưởng rất nhỏ giữa họ với nhau. Hệ thống giáo dục hiện đại truyền đạt tầm quan trọng của giá trị vật chất chứ không phải đạo đức. Thật quan trọng để xây dựng một xã hội lành mạnh qua giáo dục chứ không phải qua tôn giáo.

HỎI: Tôi sắp xong đại học cộng đồng (college) và tôi mong đời sống của tôi là một sự  phục vụ và đáng giá. Cùng lúc, nhiều cơ hội ở những sự nhũng lạm không cùng chia sẻ đạo đức và giá trị của tôi. Trong khi tôi nghĩ sẽ là tuyệt vời để làm việc cho một tổ chức bất vụ lợi hay phục vụ người khác, cần thiết trong việc này là tôi phải làm ra tiền để trả tiền nhà và tiền nợ sinh viên của tôi. Ngài có chỉ bảo gì?

ĐÁP: Tôi phải trì tụng lời Phật dạy như câu trả lời – bạn là người chủ của cuộc đời bạn. Tôi nghĩ bạn nên phán xét với một nhận thức rộng rãi hơn, dự tính lâu dài, và trung thực. Nếu tôi cố vấn cho bạn điều gì đó và bạn gặp phải rắc rối sau đó, rồi thì bạn sẽ đổ thừa cho tôi.

HỎI: Có rất nhiều người đang đau khổ qua hậu của các việc làm của họ. Ngài có nghĩ rằng chúng ta có trách nhiệm đạo đức để đối xử họ với lòng từ bi không?

ĐÁP: Câu trả lời thì khác biệt tùy theo những quan điểm triết lý khác biệt. Thí dụ, theo quan điểm hữu thần, thì mọi thứ là do Thượng đế tạo nên nhưng theo những tôn giáo vô thần, như Kỳ Na giáo, Phật giáo, và Ấn giáo, một con người có nhiều kiếp sống. Họ tin rằng một số kinh nghiệm trong kiếp sống này là hậu quả của những hành động của họ trong kiếp sống trước. Vì vậy, thật phức tạp để trình bày vấn đề.

Tôi tin rằng mọi người nên chú ý hơn đến những giá trị nhân bản và sự tỉnh thức. Nó giúp năng lực của chúng ta để đối diện những thử thách. Cho nên đề nghị tốt nhất mà tôi có thể nói, và tôi trích ra từ một vị Thầy Phật giáo Ấn Độ vào thế kỷ thứ tám là nếu có một giải pháp, thì đừng nãn lòng và hãy tìm ra giải pháp. Nếu không có giải pháp, thế thì không cần phải chán nãn. Tôi đồng ý với lời dạy đặc biệt ấy vì lo lắng chỉ làm người ấy gia tăng căng thẳng.

Thí dụ, khi tôi thăm Nhật Bản sau trận sóng thần. Tôi thấy đất nước và nhớ người Tây Tạng nói rằng điều đó diễn tả hoàn cảnh ở đấy rất khéo léo – bi kịch chồng chất lên bi kịch. Những thảm  họa như động đất, sóng thần, và rò rỉ chất phóng xạ giáng xuống Nhật Bản thứ này đến thứ khác. Tôi đã nói với mọi người rằng thảm kịch đã qua rồi, vì vậy bây giờ không ai phải lo lắng vì nó nữa. Tất cả chúng ta phải làm là hành động, hướng đến tương lai, và chăm sóc gia đình. Theo quan điểm của Phật giáo, tất cả những điều này là nghiệp. Họ đang trải qua một thời điêm khó khăn, nhưng có thể vượt thắng với hành động và sự tự tin.

HỎI: Ngài là một Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng ngài cũng là một con người. Ngài có bao giờ làm điều gì phi đạo đức không?

ĐÁP: Tôi thường nói với mọi người rằng mối quan hệ của tôi với con muỗi là không đạo đức. Nếu có hiểm họa của bệnh sốt rét, thế thì tôi hành động hung hăng với chúng. Nhưng nếu tôi đang trong tâm trạng tốt và không có hiểm họa của sốt rét, thế thì tôi rất rộng rãi với những con muỗi và để nó hút máu tôi. Một lần tôi thấy con muỗi đầy máu của tôi, nó chỉ bay đi và không cho thấy cảm kích gì. Tôi thật sự nghĩ rằng nó là một con muỗi vì con muỗi thì hung hăng hơn trong các con muỗi. Nó làm tôi tò mò và một lần, trong một hội nghị ở đại học Oxford, khi tôi đang ngồi trang nghiêm trước những giáo sư, tôi hỏi họ rằng có ai có ý kiến gì về trình độ mức độ kích thước của não bộ vốn có thể biểu lộ sự cảm kích không. Những con chó thì có thể biểu lộ sự cảm kích. Do thế, trên căn bản sự quán chiếu của tôi, tôi rộng rãi với con muỗi thứ nhất ngồi trên tôi nhưng sẽ không kiên nhẫn với con thứ hai, thứ ba, hay thứ tư.

*
Trích từ quyển The Big Book of Happiness 
Ẩn Tâm Lộ, Saturday, August 10, 2019

*
HỎI VÀ ĐÁP

HỎI: Tôi muốn biết mục tiêu của đời sống là gì và ngài có tin tưởng vào định mệnh hay không? Nếu có, thế thì vai trò của định mệnh trong đời sống là gì?

ĐÁP: Theo quan điểm của Phật giáo (mặc dù quan điểm của riêng tôi thì khác), đôi mắt, tâm thức, và khát vọng vượt thắng điều gì đó tất cả là một bộ phận của bản chất. Tôi nghĩ một cách thế tục, đó là câu trả lời. Chính mục tiêu của sự sống, tôi tin, là hạnh phúc. Không có gì bảo đảm trong cuộc sống, nhưng chúng ta tồn tại do bởi hy vọng. Nếu chúng ta đánh mất hy vọng thế thì điều đó sẽ làm ngắn lại sự sống của chúng ta. Sự tồn tại của chúng ta căn cứ trên hy vọng cho một tương lai tốt đẹp, không phải là một tương lai tệ hại. Từ quan điểm này, hạnh phúc là mục tiêu duy nhất cho sự sống.

Định mệnh là cố định và chúng ta không có năng lực để thay đổi, theo những niềm tin khác nhau. Nhưng theo con đường thế tục, không có định mệnh. Những sự kiện xảy ra qua các nguyên nhân và điều kiện; thí dụ, một thân thể bệnh hoạn sẽ đưa đến một định mệnh yếu đuối. Nếu thân thể được chăm sóc, thế thì định mệnh có thể thay đổi. Vì vậy, định mệnh có thể thay đổi nếu có nổ lực thực hiện.

HỎI: Ngài có thể nói với chúng tôi vấn đề ngài vượt thắng thù oán và sợ hãi như thế nào? Và ngài có thể đưa ra một ánh sáng của thiền (zen) nào đó không?

ĐÁP: Có nhiều mức độ của thù oán và nó có thể được diễn tả như một cảm nhận xấu đối với người tạo ra rắc rối, kẻ thù, hay bạn bè. Nhưng sân hận là một bộ phận cảm xúc của chúng ta, vốn mọc lên như một cơ cấu phòng vệ trong một con người khi người ấy chạm trán với những hoàn cảnh tiêu cực hay nguy hiểm. Nói một cách sinh học, các cảm xúc như sân hận, khát vọng, và dính mắc là cần thiết cho sự tồn tại. Thù oán có thể được diễn tả như dư âm của sân hận vốn duy trì và day dứt trong một thời gian dài.

Tôi không có thù oán, nhưng nếu tôi thấy điều gì đó sai trái, tôi trở nên sân hận giận hờn. Sau khủng hoảng ở Tây Tạng vào ngày 10 tháng Ba năm 2008, tôi cảm thấy những cảm xúc giống như mà tôi đã cảm nhận vào ngày 10 tháng Ba năm 1959, khi tôi mất tự do – bất lực, bất lực, và băn khoăn. Tuy thế, những cảm xúc hiện hữu khác, khi sau khủng hoảng 2008, tôi đã quán tưởng những cán bộ Trung Cộng và tôi đã hoán đổi sự sợ hãi và sân hận của họ cho sự nhẫn nhục và từ bi của tôi. Rõ ràng, nó không giải quyết bất cứ vấn nạn nào, nhưng nó giúp tôi trong việc duy trì sự an bình tinh thần của tôi.

Ta có thể cầu nguyện để tiêu trừ thù oán. Theo tâm lý học Phật giáo, việc đối phó với các cảm giác tiêu cực là quan trọng. Thù oán vốn sắp khởi lên phải được đối phó ngay lúc đầu. Sự kích thích hoạt động như một chất xúc tác cho sân hận phát triển thành thù oán. Vào lúc đó, chúng ta cần nhớ rằng sân hận không phải là một giải pháp nhưng chỉ giúp làm tàn phá niềm hạnh phúc. Điều đó giúp cho việc giảm thiểu các tư tưởng khó chịu hình thành trong tâm thức.

Điều kiện của thân thể cũng liên quan, như một thân thể yếu đuối có thể làm nghiêm trọng sự tiêu cực, nhưng một thân thể khỏe mạnh sẽ đưa đến kết quả trong một tâm tư mạnh mẽ vốn sẽ không bị quấy rầy một cách dễ dàng. Qua sự thực hành, chúng ta cần nghiên cứu để tách rời chính ta khỏi sân hận, vốn sẽ làm cho ta nhìn vào sân hận một cách hợp lý và cuối cùng đánh bại nó một cách hoàn toàn. Nếu sân hận lan tỏa khắp tâm tư, thì nó trở thành khó khăn để loại trừ. Tâm lý Phật giáo và tâm lý học Ấn Độ giáo có những yếu tố như thiền chỉ và thiền quán giải thích những phương pháp để tìm cách giải quyết vấn nạn này của tâm thức.

Khi tôi đi ngang qua những thị trấn của Ấn Độ, tôi thấy những đền thờ như Shiva lingam, Ganesh – tôi tự hỏi tại sao không xây dựng những phòng ốc nơi mà các tín đồ có thể ngồi và thảo luận các kinh điển hơn là những đền thờ chỉ như một ngôi nhà cho một bức tượng đơn độc của một bổn tôn mà thôi? Tôi thường nói với những người Tây Tạng đừng tạo dựng thêm các tượng Phật nữa. Tôi là một Phật tử nhưng tôi biết rằng tượng Phật sẽ không bao giờ nói; nhưng tốt hơn là in thêm kinh sách vốn có thể chứng tỏ lợi lạc hơn thêm. Những kinh điển đã tồn tại hơn ba nghìn năm qua, nhưng điều thiếu vắng là sự học hỏi chúng. Nhiều người Ấn Độ là những tín đồ rất ngoan hiền, nhưng họ không chú ý đến việc học hỏi các kinh điển.

HỎI: Các bác sĩ phải phát Lời thề Hippocrates trước khi họ có thể bắt đầu việc thực hành nghề y của họ. Có một lời thề công cộng mà ngài đề nghị cho những chính trị gia đón nhận một cách phổ thông không?

ĐÁP: Tôi không phải là một nhà chính trị. Nhiều năm trước, quốc hội ở Delhi xây dựng tượng Gandhi, tôi được mời trong buổi lễ khánh thành và tôi đã nói các nhà chính trị hãy nhớ sự chân thành của Gandhi mỗi lần họ đi ngang qua tượng. Trong cuộc đấu tranh cho tự do của Ấn Độ, tất cả những lãnh tụ là vô ngã vị tha, vô úy, và trung thực với việc làm của họ. Tôi thường nói với những người bạn Ấn Độ rằng trong sáu mươi năm qua từ sự tự do của họ, các lãnh đạo cần cùng một tinh thần như những nhà đấu tranh cho tự do. Họ cũng cần trung thực, chân thành, và vô ngã vị tha.

Ấn Độ là một đất nước dân chủ và có một nền tư pháp độc lập làm cho nó là một xứ sở hòa bình. Tại một cuộc hội họp với nhiều vị thẩm phán và luật sư, tôi đùa họ trong khi ca ngợi họ rằng nếu người hoạt động cho công lý hơi thiếu trung thực, thế thì nó trở thành một thảm họa thật sự. Ấn Độ là một quốc gia khổng lồ, vì vậy một vấn đề nhỏ thỉnh thoảng xảy ra là có thể hiểu được. Nhưng nó thì ổn định hơn các lân bang nhiều.

Truyền thông Ấn Độ có một vai trò thật sự quan trọng. Trong một quốc gia dân chủ, vai trò của họ đạt tầm quan trọng hơn khi có trách nhiệm để hướng dẫn người dân về những sự kiện xảy ra chung quanh họ. Vì vậy, họ cần duy trì những giá trị nhân văn căn bản, đạo đức thế tục, và sự hòa hiệp tôn giáo. Cùng với điều đó, họ cần bảo đảm rằng họ giao tiếp với những sự thật về các nhà chính trị, các nhà hoạt động xã hội, truyền thông, và thương gia, nhưng phải bảo đảm rằng họ không đang trình bày bất cứ sự thật phũ phàng nào với người dân. Ở Trung Hoa, vì không có một ngành truyền thông độc lập, hệ thống trải qua nhiều sự nhũng lạm, mà người giàu có và quyền lực tự do bốc lột. Ngành truyền thông nên khảo sát thế giới một cách toàn diện và để người dân biết những sự thật trong một thái độ không thành kiến.

HỎI: Ngài nói rằng tiền bạc không ban cho hạnh phúc – Tôi đồng ý. Nhưng tôi tin rằng tiền bạc có thể mua những thứ để làm cho đời sống của ta thoải mái. Cho nên, theo tâm lý học Phật giáo, ngài có thể đề nghị một phương cách đưa đến sự cân bằng giữa việc có được sự giàu có và làm cho ta hạnh phúc không?

ĐÁP: Chúng ta có thân thể này và để làm cho nó thoải mái, chúng ta cần thực phẩm và nơi cư trú. Tôi đi ngang qua những xóm làng với những con người rất nghèo khổ, những người chưa bao giờ trải nghiệm sự thoải mái này. Trong toàn thế giới, khoảng cách giữa người giàu và nghèo là khổng lồ. Sự chú ý nên được hướng đến việc khắc phục khoảng cách trên cấp độ toàn cầu và quốc gia. Nền kinh tế  Ấn Độ tăng trường khá tốt, và nó là một xã hội tự do khai  phóng, không giống như Trung Hoa. Vì vậy, nó là một xã hội lành mạnh. Một sự chuyển hóa thật sự nên xảy ra trong những xa xôi hẻo lánh với nhiều sự chú ý hơn cho sự phát triển vùng sâu vùng xa.

Tôi thật sự đồng ý rằng tiền bạc là quan trọng. Những sự gia hộ thôi thì không đủ. Làm việc cần mẫn cũng quan trọng. Sự chuyển hóa thật sự đến từ việc lao động chăm chỉ chứ không đến chỉ từ việc cầu nguyện. Người giàu nên ban cho người nghèo sự học vấn và những kỷ năng công nghệ. Một vài ngày trước tôi đã ở một thị trấn mà tôi đã từng được mời đến hai thập niên trước, khi những người địa phương trình bày quyết định phát triển của họ. Tôi đã hứa hẹn hiến tặng mười triệu rupee và tiểu bang cũng hứa đóng góp. Khi tôi đến đó mới đây, người dân ở đó đã phát triển một số kỷ năng và đang sống rất yên bình.

Bây giờ, có người nào có kinh nghiệm đưa qua đưa lại tâm trạng hạnh phúc và tâm trạng đau buồn? Khi ta đau buồn và có tiền trong túi, thì ta có thể đi tới một cửa hàng lớn và đòi hỏi một tâm thức yên bình được không? Hay ta có thể đi tới một nhà thương lớn chích một mũi thuốc bình an tâm hồn không, hay yêu cầu một kỷ thuật cho sự bình an nội tại từ một nhà máy không? Chỉ nếu người ta giữ não bộ một bên và thay thế nó với cơ cấu máy móc nào đó thì chúng ta sẽ dững dưng và không trải nghiệm bất cứ cảm giác gì. Chúng ta có thật sự muốn như vậy không?

Do vậy, rõ ràng rằng tiền bạc là cần thiết chỉ cho nhu cầu thân thể, chứ không cho sự bình an của tinh thần. Vì vậy, hãy mua những tiện nghi vật chất nhưng không tôn sùng tiền bạc. Hãy nhận ra rằng có một sự giới hạn về giá trị kinh tế và tập trung năng lượng của ta để đạt được sự hòa bình nội tại.

HỎI: Dường như trong vài tháng gần đây có những dấu hiệu lo lắng trong truyền thông đối với vị lạt ma có tiền bạc gì đó. Dường như rằng sự hiện diện của ngài và sự hiện diện của cộng đồng Tây Tạng đông đảo ở Ấn Độ đang bắt đầu không thuận tiện trong con mắt người Ấn Độ trong sự phát triển toàn cầu. Ngài có những quan tâm nào đó không về tương lai của cộng đồng Tây Tạng và sự ổn định trong mối quan hệ của ngài với Ấn Độ vốn tồn tại rất lâu?

ĐÁP: Mối quan hệ giữa Tây Tạng và Ấn Độ không phải chỉ tồn tại trong vài thập niên mà hàng nghìn năm. Tôi luôn luôn duy trì mối quan hệ của chúng tôi như mối quan hệ giữa đạo sư và học trò - Ấn Độ là đạo sư và chúng tôi là học trò. Thí dụ, trong thế kỷ thứ bảy hay thứ tám, Phật giáo vào Tây Tạng và phát triển và thay đổi lối sống. Bây giờ nền văn minh Ấn Độ và văn minh Tây Tạng – như Moraji Desai nói dựa vào lời chúc mừng mà tôi đã viết cho ông khi ông trở thành Thủ tướng của Ấn Độ - là giống như những nhánh cây của một cây bồ đề. Thân cây ấy lớn lên ở Ấn Độ và vươn đến Tây Tạng. Chúng tôi có một mối quan hệ rất mạnh mẽ.

Tây Tạng bị khống chế bởi Trung Cộng, nhưng trong tâm tư họ họ đang nhìn về đất nước này. Năm 1956, chính phủ Ấn Độ đã mời tôi và tôi đã đến đây vô vàn khó khăn. Từ lúc ấy tôi đã phát triển một mối quan hệ rất đặc biệt với Nehru và Rajendra Prasad. Năm 1959, Ấn Độ cho tôi và người dân tôi tị nạn chính trị. Họ đã giúp tôi xây dựng  những trường học và những khu định cư, đặc biệt trong những bang Himachal Pradesh và Karnataka. Sau năm  mươi mốt năm, cộng đồng của tôi đã định cư rất tốt đẹp tại những nơi đây. Đó là mối quan hệ mà chúng tôi chia sẻ trên đất nước này.

Một cách địa lý, Ấn Độ chia sẻ biên giới với Tây Tạng. Không có một chiến binh Ấn Độ nào đã từng được thấy xuyên qua hàng nghìn dặm biên giới này. Sau 1959, và đặc biệt sau 1962, những trạm quân sự được xây dựng. Vấn đề Tây Tạng cũng là một vấn đề của Ấn Độ. Những sự hiểu lầm nhỏ luôn luôn xảy ra ở đấy. Những sự hiểu lầm nào đó ló lên qua sự bất cẩn của một người công nhân, nhưng trái lại không có gì nghiêm trọng về vấn đề lạt ma.

HỎI: Có phải ngớ ngẩn để nghĩ rằng tôn giáo có thể trở thành một nguyên nhân cho một cuộc chiến tranh không? Trong trường hợp ấy, tôn giáo trở thành một người bạn của chiến tranh hay hòa bình? Sẽ có hòa bình hơn nếu nó bị bãi bỏ?

ĐÁP: Chiến tranh vì tôn giáo là một phần của lịch sử nhân loại. Những người nào đó tin rằng sẽ tốt hơn nếu không có tôn giáo, nhưng thế thì Thế Chiến thứ nhất, Thế chiến thứ hai hay Chiến tranh Triều Tiên không phải xảy ra vì các vấn đề của những tôn giáo. Một sự xung đột nào đó luôn luôn ở đấy. Trong quá khứ, một số xung đột đã xảy ra vì tôn giáo. Nhưng, tôi tin rằng cái tên tôn giáo bị lạm dụng cho quyền lực.

Tôn giáo được sử dụng để lôi kéo con người. Những người tôn giáo cũng bị dính mắc với tôn giáo của họ. Ở Argentina, tôi đã gặp gở những nhà khoa học và các lãnh tụ tôn giáo, một nhà khoa học Chi lê đã nói với tôi rằng ông nghĩ ông không nên quá dính mắc ngay cả với lãnh vực khoa học của ông ta. Ngay cả tôi không nên phát triển sự dính mắc với Phật giáo, vì một tâm thành kiến không thể thấy thực tại. Bất cứ tín đồ tôn giáo nào dính mắc quá nhiều với tôn giáo của họ thì trở thành một người cuồng tín, vốn là một sai lầm.

Nhiều người Ấn giáo tin Krishna và Shiva, nhưng khi tôi yêu cầu họ định nghĩa
Ấn giáo thì họ không có câu trả lời. Tôi đùa với những người bạn của tôi, khi họ tán tụng những câu thần chú Sanskrist vào buổi sáng nhưng không biết ý nghĩa của chúng. Họ đặt bong hoa dưới chân của thần Ganesha hay bất cứ biểu tượng nào khác, nhưng không có bất cứ ý tưởng nào tại sao họ cần làm như thế. Tôi nghĩ nhiều người Hồi giáo nêu tên Allah nhưng không biết ý nghĩa là gì. Người bạn của tôi nói rằng nếu bất cứ người Hồi giáo nào làm đổ máu một người khác, thế thì người ấy không còn là một người Hồi giáo nữa. Người ta nên có lòng từ ái và bi mẫn cho những người khác, chỉ như thế thì người ấy mới có thể được gọi là một hành giả chân thành của Hồi giáo. Ý nghĩa của thánh chiến (jihad) được định nghĩa bởi những người Hồi giáo từ những phần tử khủng bố, vốn không biết giáo huấn thật sự của kinh Koran. Họ biểu lộ một sự dính mắc với tôn giáo của họ và trở thành người cuồng tín.

Ngay cả trong những người Phật giáo, cũng có những người cuồng tín. Họ không thích cách giáo huấn của tôi và chống lại tôi bởi vì sự tiếp cận của tôi không thoải mái với những giáo lý Đạo Phật truyền thống. Tình trạng tốt đẹp nhất sẽ là nếu sáu tỉ người nên biến mất và rồi thì sự hòa bình chân thật của thế giới đạt được. Chúng ta nên cầu nguyện để Thượng đế làm cho toàn bộ nền văn minh của con người biến mất. Nói đùa thôi, chúng ta nên tồn tại và trau dồi lòng từ bi vô giới hạn. Loài người cần phát triển xa hơn và nên biết thực tại cùng năng lực của con người.

*
Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, July 30, 2019


Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2019

ĐẠO ĐỨC THẾ TỤC, NHỮNG GIÁ TRỊ NHÂN BẢN VÀ XÃ HỘI





Nguyên bản: Secular Ethics, Human Values and Society
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma/ Los Angeles, 2011
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

*
Tôi cảm ơn những người tổ chức tạo cơ hội để nói chuyện và chia sẻ với mọi người, đặc biệt với giới trẻ. Tôi cũng cảm ơn chính tôi, đặc biệt là thân thể tôi. Một vài ngày qua, tôi có vấn đề với cuống họng của tôi, vì thế tôi phải uống thuốc, nhưng rủi ro thay tôi uống quá liều và nó trở nên trầm trọng. Tôi đã ngủ mười tiếng đồng hồ vào buổi tối và tôi cảm thấy rất khỏe khoắn hôm nay.

Tôi nói về những giá trị nhân bản bất cứ nơi nào tôi đến, như tôi tin rằng đó là căn bản cho sự hòa bỉnh của tâm hồn và một cuộc sống hạnh phúc. Bất cứ trong hoàn cảnh nào, nếu tinh thần chúng ta tĩnh lặng, thì các rắc rối có thể được chạm trán với sự thấu hiểu và thoải mái. Chúng không quấy rầy tinh thần nhiều, khi chúng ta tĩnh lặng về tinh thần. Cho dù ta là người có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, có một số hành vi rất quan trọng trong đời sống hàng ngày, như ngủ nghĩ, vốn giúp để cải thiện sức khỏe tinh thần. Sự hòa bình của tinh thần cũng cần thiết cho thể trạng sức khỏe của tinh thần; một sự tĩnh lặng của tâm hồn và hạnh phúc cũng là lợi ích vô vàn đối với sức khỏe. Tôi hoàn toàn chắc chắn rằng nếu tinh thần tôi không tĩnh lặng thế thì tôi không thể ngủ mười giờ đồng hồ.

Quý vị được sống một cộng đồng và quốc gia tự do, nhưng vào lúc mười sáu tuổi, tôi mất sự tự do, và lúc hai mươi bốn tuổi tôi đã mất quê hương. Trong năm mươi năm qua, thỉnh thoảng tôi nhận được những tin tức tốt lành nhưng hầu hết trong mọi lúc khác tôi đã có những tin tức tệ hại. Mặc cho tất cả, tôi cố gắng để giữ thể trạng tinh thần của tôi rất tĩnh lặng. Nhiều người phàn nàn về những vấn đề nhỏ nhặt qua sự thiếu vắng sức mạnh nội tại. Tôi luôn nói rằng nhằm để là một con người hạnh phúc, thì tiền tài, danh vọng, quyền lực, và một thân thể mạnh mẽ là quan trọng, nhưng chúng ta nên phụ thuộc vào sức mạnh nội tại. Sân hận không cung cấp sức mạnh nội tại, mặc dù tạm thời nó cho một năng lượng đặc biệt hay sự táo bạo – nhưng không lâu. Do vậy, tôi luôn luôn thúc đẩy những giá trị nội tại. Tất cả chúng ta là những con người giống nhau về tinh thần, thân thể, và cảm xúc, và tất cả chúng ta muốn hướng đến một đời sống hạnh phúc.

Tôi là một Phật tử, nhưng tôi tin rằng sự hòa hiệp giữa những tôn giáo khác nhau là rất quan trọng. Một số cộng đồng, như những người Ki Tô giáo hay Hồi giáo, có sự xung đột giữa chính họ qua những khác biệt nhỏ. Sự xung đột giữa tôn giáo là một bộ phận quan trọng của lịch sử nhân loại. Tất cả những tôn giáo có thể khác nhau, nhưng tất cả đều có cùng thông điệp cốt lõi để truyền đạt – để lan tỏa và thực hành từ ái, bi mẫn, tha thứ, và kỷ luật tự giác. Thế nên, chắc chắn không lợi ích gì trong việc tạo ra xung đột giữa những tôn giáo hay truyền thống khác nhau. Một cách toàn diện, chúng ta cần những truyền thống khác nhau như một sự đa dạng không gian tâm linh cần một sự đa dạng truyền thống để tồn tại. Cho nên, một khái niệm khác mà tôi thúc đẩy là khái niệm hòa hiệp giữa những truyền thống khác nhau.

Mục tiêu đầu tiên của chúng ta là tạo nên một thế giới hạnh phúc, vốn căn cứ trên một cộng đồng hạnh phúc, trong đó lại căn cứ trên một gia đình hạnh phúc và một cá nhân hạnh phúc. Do vậy, không có cá nhân hạnh phúc, thì một thế giới hạnh phúc không thể được tạo dựng. Dĩ nhiên, tôi là một Phật tử và ăn kiêng cùng cầu nguyện là một bộ phận của đời sống. Nhưng chúng ta không thể đạt được một thế giới hạnh phúc qua cầu nguyện. Sự cầu nguyện mang đến lợi lạc giới hạn đến cá nhân, nhưng không có gì cho thế giới. Với một thế giới hạnh phúc, một cá nhân nên là một người nhạy cảm và lan tỏa hạnh phúc trong gia đình, cộng đồng, và rồi thì ở một mức độ của quốc gia và quốc tế.

Một con người hạnh phúc không cần phải có tôn giáo, nhưng nên bao gồm việc hành thiền trong đời sống hàng ngày của người ấy để trở thành một con người nhạy cảm. Hòa bình ở mức độ thế giới không thể đạt đến được qua tôn giáo do bởi sự tồn tại của rất nhiều người không tín ngưỡng. Mục tiêu chính yếu là tìm ra một cung cách thế tục để đạt được hòa bình, không cần đụng đến tôn giáo. Ở phương Tây, những người bạn của tôi vốn là tín đồ Ki Tô giáo và Hồi giáo tin rằng chủ nghĩa thế tục là sự không tôn trọng tôn giáo của họ. Nhưng ở Ấn Độ, chủ nghĩa thế tục là sự tôn trọng tất cả mọi tôn giáo và không có sự thiên vị bất cứ tôn giáo nào.

Theo người bạn Ấn Độ của tôi, cựu phó thủ tướng Ấn Độ, thì chủ nghĩa thế tục cũng cho sự tôn trọng với những người không tín ngưỡng. Trong hơn hai nghìn năm, một bộ phận nhỏ những triết gia đã phủ nhận sự tồn tại của kiếp sống tới hay khái niệm nghiệp (karma). Ông đã nói với tôi rằng bộ phận những người tín ngưỡng đã phải đối diện sự phê phán với quan điểm ấy, nhưng họ không bất tôn trọng trong bất cứ thái độ nào. Vậy cho nên, khi tôi nói thế tục, ý tôi không muốn nói bất cứ bất cứ sự không tôn trọng với bất cứ tôn giáo nào. Tôi là một Phật tử và tin tưởng trong tôn giáo, nhưng tôi tôn trọng tất cả mọi tôn giáo và nói về chủ nghĩa thế tục. Với sự thông hiểu và từ ngữ tiếng Anh giới hạn của tôi, tôi sẽ cố gắng để giải thích ý nghĩa của đạo đức thế tục.

Đối với tôi, giá trị có nghĩa là điều gì đó lợi lạc và hữu dụng cho sự tồn tại của chúng ta. Chúng ta có một thân thể và một tâm thức, nhưng chúng ta cần có một thân thể khỏe mạnh và một tâm thức khỏe mạnh. Một tâm thức khỏe mạnh là một hiện tượng bao gồm một cung cách khách quan nhận thức sự việc. Thế giới của tâm thức được làm từ những tế bào thần kinh nhưng có những mức độ khác nhau, theo tâm lý học Ấn Độ. Những cảm xúc trình độ vi tế hơn được căn cứ trên trình độ giác quan của tâm thức; trái lại trạng thái giấc mơ là trình độ sâu hơn của tâm thức vốn không lệ thuộc vào những giác quan, nhưng tùy thuộc vào năm loại đối tượng tinh thần.

Những giấc mơ vốn là một trình độ khác của ý thức, là căn cứ trên các kinh nghiệm hay nhận thức. Xa hơn, chức năng của não bộ tìm kiếm trình độ vi tế hơn của ý thức. Một số người Ấn Độ tin rằng sau khi chết, chức năng của não bộ dừng lại nhưng thân thể vẫn tươi nhuận. Nói một cách khoa học, không có sự giải thích. Nhưng bây giờ một nghiên cứu nào đó đang được tiến hành liên hệ với vấn đề này. Ý thức của tâm là một lãnh vực nào đó đã trở thành một đối tượng thảo luận. Tâm thức chỉ có thể có kinh nghiệm khách quan vốn không có bất cứ màu sắc hay hình thể, mà ta chỉ có thể cảm nhận. Năng lượng ấy đồng hành cùng tiến trình tinh thần trong kỷ năng của thực tại là một bộ phận của mantra (mật ngôn), không phải tâm thức.

Nhằm để đạt được một đời sống hạnh phúc, chúng ta cần chăm sóc cả thân thể và tâm thức. Một cách vật lý, chúng ta có thể khỏe mạnh nhưng có thể không hạnh phúc. Nếu ta dùng thuốc an thần hay rượu bia như một loại thuốc cho sự căng thẳng thế thì ta có thể cảm nhận như thú vật và sẽ không thể sử dụng sự thông minh của con người. Tiềm năng của tâm thức chúng ta phải được sử dụng để bảo đảm rằng sự giáo dục không phải là lãng phí. Mặc dù thú vật có những giác quan bén nhạy hơn con người khi chúng tồn tại dựa vào đó, nhưng chúng ta có não bộ và năng lực suy nghĩ của chúng ta là mạnh mẽ hơn nhiều. Thật là thông tuệ để sử dụng phẩm chất đặc thù của chúng ta nhằm để đạt được một tâm thức tĩnh lặng.

Yếu tố chính, vốn được cần thiết bởi con người, là nhiệt tình. Tâm thức bị phân chia thành hai loại – thứ nhất là trình độ tri giác, căn cứ trên sự thông minh và những cảm xúc, vốn liên hệ với động cơ. Nền giáo dục hiện đại dường như chú ý nhiều đến sự thông minh mà không đủ với cảm xúc. Tôn giáo nhấn mạnh việc phát triển về phía khác, thứ lệ thuộc vào động cơ. Truyền thống Ấn Độ có một khái niệm vốn phối hợp cả những hai loại tâm thức. Đức Giáo Hoàng cũng nhấn mạnh rằng niềm tin và lý trí nên đi với nhau.

Chỉ trí thông minh đơn độc tạo nên thêm viễn kiến, mong muốn, và khát vọng nhưng cũng đem thêm sợ hãi, nghi ngờ, và không tin tưởng. Vì vậy, một sự cân bằng phải được đưa vào giữa cả hai phía của tâm thức bằng động cơ phía cảm xúc của tâm thức qua lòng nhiệt tình, vốn sẽ xua tan bất cứ cảm giác không tin tưởng nào. Như những tạo vật xã hội, con người cần một trái tim cởi mở để trở thành một cá nhân, gia đình, và cộng đồng hạnh phúc. Trong gia đình, ngay cả một chút không tin tưởng cũng mang đến sợ hãi và cô đơn. Kinh nghiệm cảm xúc với sự hổ trợ của thông minh có thể giúp con người trở thành hạnh phúc. Nếu đối diện với một hoàn cảnh bi thảm, con người với sự cân bằng của tâm thức sẽ có thể chiến thắng nghịch cảnh bi thảm một cách dễ dàng.

Thú vật có trí thông minh giới hạn, vì thế chúng không thể phát triển những phẩm chất tốt đẹp. Con người có thể khắc sâu những cảm xúc như từ bi và nhiệt tình. Một hình thức của từ bi là sinh học, vốn thành kiến, nhưng hình thức khác của từ bi có thể được phát triển. Sự trau dồi từ bi hướng đến những người khác. Qua rèn luyện tu tập, cảm giác yêu mến, từ bi cho người khác, tha thứ và quan tâm chân thành, với sự giúp đở của trí thông minh, có thể ban cho tất cả.

HỎI VÀ ĐÁP

HỎI: Ngài nhấn mạnh từ bi như căn bản cho đạo đức. Nhưng trong vài trường hợp, không nhất thiết bảo đảm công lý, thay vì là lòng từ bi lại là thủ phạm gây tội? Cái chết của Osama bin Laden hầu như bị che đậy bởi truyền thông, đáng lẻ có công lý cho gây kẻ gây tội và thông tin được người ta ăn mừng. Từ bi và đạo đức thích đáng chỗ nào ở đây?

ĐÁP: Chúng ta phải có một sự phân biệt rõ ràng giữa kẻ hành động và hành động. Những hành động của Osama bin Laden là tàn phá kinh khiếp. Sự kiện 9/11 gây ra cái chết của hàng nghìn người. Cần có công lý. Nhưng kẻ hành động là một con người và chúng ta cần từ bi để đối phó với y. Nhưng bước đi cần được thực hiện để chấm dứt cội nguồn của hành vi tàn phá, nhưng kẻ hành động có thể được tha thứ. Căn bản của sự tha thứ là quên đi những gì đã xảy ra, nhưng nhớ những gì đã xảy ra rồi và cần tha thứ cho sự bình an của tâm hồn. Nhưng hành vi nghiêm trọng cần phải có những lượng định để đối phó với nó.

HỎI: Tôn giáo là cội nguồn tốt đẹp nhất của đạo đức. Nhưng đôi khi nó xung đột với luật pháp quốc gia. Chúng ta ưu tiên cho thứ nào trước và tại sao?

ĐÁP: Điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào cá nhân. Nếu ta là một người tin tưởng nghiêm túc trong một tôn giáo, thế thì tôn giáo trở thành quan trọng; nhưng nếu ta là một người không tín ngưỡng, thế thì luật pháp được ưu tiên. Ấn Độ có nhiều truyền thống nhưng là một xã hội thế tục. Vì vậy Ấn Độ trở thành một thí dụ hay kiểu mẫu cho một chủ nghĩa thế tục.

Ở Jodhpur, khi tôi đang đi ngang qua hành lang một khách sạn, một người đàn ông Châu Âu đến gần tôi. Ông đã đến từ Romania để tìm sự hòa hiệp tôn giáo của Ấn Độ. Ông thấy một làng Hồi giáo với ba gia đình Ấn giáo, nhưng không có sợ hãi xung đột, vốn làm ông ngạc nhiên. Ở Kerala, Ki Tô giáo, Hồi giáo, Ấn giáo, và Kỳ Na giáo sống chung với nhau. Mối quan hệ là lành mạnh giữa mọi người do bởi chủ nghĩa thế tục, ngay cả với sự tồn tại của tham nhũng.

Trong năm mươi năm qua, Ấn Độ đã là nơi thường trú của tôi và tôi cảm thấy rất an toàn. Ngay cả tôi không nên có một sự dính mắc với Phật giáo như một tâm thức định kiến sẽ không thế thấy thực tại. Bất cứ thành viên của tôn giáo nào mà quá dính mắc với tôn giáo của họ, thì nó sẽ làm cho họ cuồng tín, vốn là một lỗi lầm.

HỎI: Tôi làm việc cho một công ty lớn và tôi đã thấy nhiều sự nhũng lạm. Nếu tôi báo cáo nó, tôi mất việc, và tôi là người trụ cột của gia đình tôi. Tôi có nợ nần trách nhiệm gì với cộng đồng và gia đình tôi?

ĐÁP: Đó là dấu hiệu rõ ràng của sự nhũng lạm. Một lần nọ khi tôi ở Bombay, một thương gia nói với tôi rằng trong xã hội có nhiều trường hợp nhũng lạm và nếu ta là người trung thực thì khó tồn tại. Một học sinh ở Jodhpur đã nói với tôi rằng một cá nhân không thể thành công nếu không tham gia vào một hình thức nào đó của nhũng lạm. Trả lời cho cả hai trường hợp, tôi nói rằng đại đa số nhân loại có lòng từ bi, và chỉ có một bộ phận nào đó là nhũng lạm. Ta tham gia vào sự nhũng lạm chỉ vì bất lực. Đó là phạm tội là không nên bỏ qua. Trách nhiệm của chúng ta là lên tiếng chống lại nó, để đứng vững vàng chống lại sự lan tỏa của loại tội phạm như thế. Một số người có thể bị thương tổn trong cuộc đấu tranh của họ chống lại nhũng lạm, nhưng đó sẽ là một cái giá rất nhỏ phải trả cho một sự tốt lành lớn lao.

Những người nhũng lạm là đạo đức giả, khi họ chỉ quan tâm đến danh tiếng của họ và làm việc để bảo vệ nó ngay cả khi họ biết rõ rằng họ đang làm sai. Thật tốt lành hơn để sống một cách trung thực hơn là đạo đức giả. Những gia đình nghèo khó sống với một niềm tin tưởng rất nhỏ giữa họ với nhau. Hệ thống giáo dục hiện đại truyền đạt tầm quan trọng của giá trị vật chất chứ không phải đạo đức. Thật quan trọng để xây dựng một xã hội lành mạnh qua giáo dục chứ không phải qua tôn giáo.

HỎI: Tôi sắp xong đại học cộng đồng (college) và tôi mong đời sống của tôi là một sự  phục vụ và đáng giá. Cùng lúc, nhiều cơ hội ở những sự nhũng lạm không cùng chia sẻ đạo đức và giá trị của tôi. Trong khi tôi nghĩ sẽ là tuyệt vời để làm việc cho một tổ chức bất vụ lợi hay phục vụ người khác, cần thiết trong việc này là tôi phải làm ra tiền để trả tiền nhà và tiền nợ sinh viên của tôi. Ngài có chỉ bảo gì?

ĐÁP: Tôi phải trì tụng lời Phật dạy như câu trả lời – bạn là người chủ của cuộc đời bạn. Tôi nghĩ bạn nên phán xét với một nhận thức rộng rãi hơn, dự tính lâu dài, và trung thực. Nếu tôi cố vấn cho bạn điều gì đó và bạn gặp phải rắc rối sau đó, rồi thì bạn sẽ đổ thừa cho tôi.

HỎI: Có rất nhiều người đang đau khổ qua hậu của các việc làm của họ. Ngài có nghĩ rằng chúng ta có trách nhiệm đạo đức để đối xử họ với lòng từ bi không?

ĐÁP: Câu trả lời thì khác biệt tùy theo những quan điểm triết lý khác biệt. Thí dụ, theo quan điểm hữu thần, thì mọi thứ là do Thượng đế tạo nên nhưng theo những tôn giáo vô thần, như Kỳ Na giáo, Phật giáo, và Ấn giáo, một con người có nhiều kiếp sống. Họ tin rằng một số kinh nghiệm trong kiếp sống này là hậu quả của những hành động của họ trong kiếp sống trước. Vì vậy, thật phức tạp để trình bày vấn đề.

Tôi tin rằng mọi người nên chú ý hơn đến những giá trị nhân bản và sự tỉnh thức. Nó giúp năng lực của chúng ta để đối diện những thử thách. Cho nên đề nghị tốt nhất mà tôi có thể nói, và tôi trích ra từ một vị Thầy Phật giáo Ấn Độ vào thế kỷ thứ tám là nếu có một giải pháp, thì đừng nãn lòng và hãy tìm ra giải pháp. Nếu không có giải pháp, thế thì không cần phải chán nãn. Tôi đồng ý với lời dạy đặc biệt ấy vì lo lắng chỉ làm người ấy gia tăng căng thẳng.

Thí dụ, khi tôi thăm Nhật Bản sau trận sóng thần. Tôi thấy đất nước và nhớ người Tây Tạng nói rằng điều đó diễn tả hoàn cảnh ở đấy rất khéo léo – bi kịch chồng chất lên bi kịch. Những thảm  họa như động đất, sóng thần, và rò rỉ chất phóng xạ giáng xuống Nhật Bản thứ này đến thứ khác. Tôi đã nói với mọi người rằng thảm kịch đã qua rồi, vì vậy bây giờ không ai phải lo lắng vì nó nữa. Tất cả chúng ta phải làm là hành động, hướng đến tương lai, và chăm sóc gia đình. Theo quan điểm của Phật giáo, tất cả những điều này là nghiệp. Họ đang trải qua một thời điêm khó khăn, nhưng có thể vượt thắng với hành động và sự tự tin.

HỎI: Ngài là một Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng ngài cũng là một con người. Ngài có bao giờ làm điều gì phi đạo đức không?

ĐÁP: Tôi thường nói với mọi người rằng mối quan hệ của tôi với con muỗi là không đạo đức. Nếu có hiểm họa của bệnh sốt rét, thế thì tôi hành động hung hăng với chúng. Nhưng nếu tôi đang trong tâm trạng tốt và không có hiểm họa của sốt rét, thế thì tôi rất rộng rãi với những con muỗi và để nó hút máu tôi. Một lần tôi thấy con muỗi đầy máu của tôi, nó chỉ bay đi và không cho thấy cảm kích gì. Tôi thật sự nghĩ rằng nó là một con muỗi vì con muỗi thì hung hăng hơn trong các con muỗi. Nó làm tôi tò mò và một lần, trong một hội nghị ở đại học Oxford, khi tôi đang ngồi trang nghiêm trước những giáo sư, tôi hỏi họ rằng có ai có ý kiến gì về trình độ mức độ kích thước của não bộ vốn có thể biểu lộ sự cảm kích không. Những con chó thì có thể biểu lộ sự cảm kích. Do thế, trên căn bản sự quán chiếu của tôi, tôi rộng rãi với con muỗi thứ nhất ngồi trên tôi nhưng sẽ không kiên nhẫn với con thứ hai, thứ ba, hay thứ tư.

*
Trích từ quyển The Big Book of Happiness 
Ẩn Tâm Lộ, Saturday, August 10, 2019



Thứ Ba, 6 tháng 8, 2019

BẤT BẠO ĐỘNG VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ TÂM LINH TRONG ẤN ĐỘ THẾ TỤC



Nguyên bản: Non-Violence and Spiritual Values in Secular India
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma / New Delhi 2011
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

*

Tôi có một ký ức rõ ràng về cảm giác chân thành trong việc quan tâm và thích thú sâu sắc về cả nền văn hóa và Phật giáo Tây Tạng của Tổng thống Venkataraman. Ngài quả là một người thật sự tuyệt vời – một cựu tổng thống của xứ sở vĩ đại này nhưng rất khiêm tốn và giản dị. Tôi nhớ lại vị tổng thống Ấn Độ đầu tiên, Rajendra Prasad, người cũng giống như vậy. Tôi cảm thấy rất hạnh phúc.

Có một bí mật tôi muốn chia sẻ cùng quý vị. Năm 1954, học giả Nerhu đã đến Bắc Kinh cho một buổi quốc yến hay gì đó. Tôi đã được giới thiệu với Pandit Nerhu với tất cả những lãnh tụ khác. Bên cạnh tôi Chu Ân Lai và Ban Thiền Lạt Ma cũng có mặt ở đấy. Vậy là tôi được giới thiệu như Đức Đạt Lai Lạt Ma. Pandit Nerhu có thái độ bất động.Tôi nghĩ rằng vào lúc đó ông đang phản chiếu tất cả những tác động ở Tây Tạng. Chu Ân Lai rất thông minh và lập tức giới thiệu người tiếp theo. Pandit Nerhu, một lãnh tụ vĩ đại và là một người kinh nghiệm, đã cảm thấy một cảm xúc mạnh mẽ đã làm ông đứng sửng như vậy. Tôi cũng cảm thấy hơi ngượng ngùng.

Dĩ nhiên, với việc kỷ niệm Phật đản sanh 1956, tôi đã có một vài lần gặp gở với Nerhu, và đôi khi cũng thảo luận hơi sôi nổi, vì vào lúc đó, quý vị biết, các quan chức của tôi và hai người anh em của tôi khẩn khoản tôi nên ở lại Ấn Độ. Tôi đã bàn luận với Nerhu, và ông khuyên tôi nên trở lại. Và một ngày nọ ông đã đến gặp tôi ở Hyderabad House nơi tôi đang ở. Ông đã mang theo bản copy Thỏa Ước 17- Điểm và cho tôi xem. Cho nên ông rất quan tâm.

Chúng tôi có gặp gở vài lần sau đó. Đôi khi tôi đi qua cánh cổng của ông tôi hơi sợ, nhưng sau nhiều lần gặp gở, nó đã trở thành một cảm giác rất thân mật. Ông là một người rất dễ thương. Và tôi cũng học được dân chủ là gì – tự do ngôn luận và tự do bày tỏ. Trong vài điểm, khi chúng tôi yêu cầu nhiều thứ cho vấn đề Tây Tạng, ông không đồng ý. Nhưng chúng tôi quyết định con đường của chúng tôi. Sau đó khi tôi gặp ông, tôi hơi do dự - Phản ứng của ông sẽ ra sao? Nhưng ông hoàn toàn bình thường. Tôi biết rằng đó là ý nghĩa của tự do bày tỏ, và tư tưởng khác biệt, và ông hiểu điều đó. Ở Trung Cộng không giống vậy. (Cười) Tôi học điều đó qua chín năm dành mỗi ngày với những lãnh tụ Trung Cộng. Dĩ nhiên, Chủ tịch Mao là rất ngoại lệ. Nhưng sau này, tôi thấy rằng những hứa hẹn dễ thương của ông ta hoàn toàn không chân thành, không triển khai thực  hiện sau này. Do thế, có nghĩa là chữ nghĩa chỉ là chữ nghĩa, nhưng hành động lại là việc khác.

Thế nào đi nữa, tôi cực kỳ vui mừng để đến đây. Ngay khi tôi bước vào, tôi phản chiếu lại những năm ký ức ấy của tôi. Quý vị thấy, người Tây Tạng phát âm Jawaharlal như “Jhwala.” “Jhwala” trong ngôn ngữ của chúng tôi có nghĩa là người anh lớn. Cho nên Nerhu là người anh lớn của chúng tôi – Jawaharlal Nerhu, Jawaharlal Nerhu. Và rồi tôi muốn cảm ơn người nhạc sĩ trưởng của chúng ta. Tôi thường không thích thú nhiều trong những thứ như âm nhạc, nhưng cung cách mà ông điều khiển nó rất sống động, cuốn hút hoàn toàn – như thế đó. Tôi cảm kích nó, cảm ơn.

Bây giờ, tôi nói về bất bạo động và những giá trị tâm linh trong một Ấn Độ thế tục. Tôi nghĩ thật khó khăn để nói bất cứ điều gì với những anh chị em Ấn Độ. (Cười) Quý vị đã biết những thứ này trong hơn hai nghìn năm. Tuy nhiên, thế hệ trẻ chỉ thích thú trong khoa học, kỷ thuật, và máy điện toán, cho nên có thể đáng giá để nhắc họ về truyền thống này của họ, vốn tồn tại trong xứ sở này và đã duy trì hơn hai nghìn năm.

Trước tiên, bất bạo động. Bất bạo động là gì? Chúng ta không thể thật sự rạch ranh giới giữa bạo động và bất bạo động với một từ một hành động rõ ràng, nhưng phải truy tầm động cơ sâu thẩm bên trong. Thí dụ, một vị thầy hay cha mẹ giỏi, khi đối phó với một học sinh hay đứa trẻ nghịch ngợm, đôi khi biểu lộ một thái độ hơi cứng rắn hay nghiêm khắc, nhưng vì một cảm nhận quan tâm chân thành cho tương lai cát tường của nó. Thật sự, vì hành động ấy được thực hiện vì một cảm nhận quan tâm chân thành hay từ bi thương mến, cho nên nó căn bản là bất bạo động. Trái lại, khi hành động là lừa dối hay bóc lột người khác, được che đậy bằng việc nói năng hay mĩm cười dễ thương, thì hành động ấy là giả dối, nụ cười mĩm ấy không phải là nụ cười chân thành. Quý vị nhận nụ cười của người ấy, ca ngợi người ấy hay tặng quà cáp cho người ấy – tất cả những thứ này là bất bạo động. Nhưng bởi vì động cơ căn bản của người ấy là để lừa dối, tổn hại, gian lận hay bóc lột, đấy là một hành vi bạo động. Thế nên, một cách căn bản, bất bạo động là rất liên hệ với động cơ.

Tôi thường nói rằng bất bạo động là một hành động của từ bi. Với một cảm nhận quan tâm chân thành cho sự cát tường của người khác – bất chấp khó khăn như thế nào – quý vị phải đối xử với họ như những người anh chị em nhân loại, và nhận ra rằng họ cũng có quyền để chiến thắng khổ đau. Việc thấu hiểu điều ấy và tránh dùng sức mạnh hay bạo động là bất bạo động chân thành. Bây giờ, cung cách bất lực – không tổn hại người khác – là không phải bất bạo động. Đó không phải là một lựa chọn. Bất bạo động thật sự là khi quý vị có cơ hội hay năng lực, nhưng cẩn trọng tránh bạo động vì một cảm nhận chân thành của từ bi. Đó thật sự là bất bạo động.

Bây giờ về tâm linh và những giá trị tâm linh, mặc cho những khác biệt trong quan điểm triết lý, tất cả những thể chế của các tôn giáo lớn cùng mang một thông điệp của từ ái, bi mẫn, tha thứ, bao dung, cũng như toại nguyện và kỷ luật tự giác. Đây là những yếu tố của một động cơ bất bạo động chân thành. Trong cung cách thế tục, giống như trong xứ sở này, cũng bao gồm những người không tín ngưỡng. Tôi nghĩ chủ nghĩa thế tục theo quan điểm của Ấn Độ. Chủ nghĩa thế tục không phải hoàn toàn không tôn trọng tôn giáo, nhưng mà là tôn trọng tất cả mọi tôn giáo, không thiên vị tôn giáo này hay tôn giáo nọ. Tất cả mọi tôn giáo đều được tôn trọng.

Một số người bạn của tôi – một số là Hồi giáo và Ki Tô giáo – có hơi hạn chế về chữ “chủ nghĩa thế tục”. Nhưng theo Ấn Độ, chủ nghĩa thế tục không phải hoàn toàn không tôn trọng hay một loại từ chối tiêu cực. Trong hơn ba nghìn năm, đây là xứ sở phát triển những tôn giáo, quan điểm và những người tín ngưỡng khác biệt. Một truyền thống cổ xưa là triết lý Sankhya, vốn tồn tại thậm chí trước Đức Phật. Nhiều phân phái phát triển từ triết lý Sankhya. Rồi thì Phật giáo và Kỳ na giáo cũng vậy.

Dĩ nhiên, rồi thì từ bên ngoài, Bái Hỏa giáo (Ziroastrianism) đến, tiếp theo là Ki Tô giáo và Hồi giáo, cũng như Do Thái giáo, và rồi sau này là đạo Sikh (Tích-khắc giáo). Đạo sư Narak tôn trọng cả Hồi giáo và Ấn giáo và tất cả những truyền thống khác. Thế nên đạo Sikh là một loại tôn giáo phi giáo phái. Do bởi thực tế ấy, hàng nghìn năm qua, người Ấn Độ một cách căn bản có một tâm hồn rất cởi mở. Từ thời thơ ấu, họ đã biết về tất cả những loại tôn giáo khác nhau.

Tôi thấy ở Kerala, từ cơ sở, truyền thống này đã được giữ trong hàng nghìn năm. Do vậy, chủ nghĩa thế tục tôn trọng tất cả mọi tôn giáo, và rồi thì, như tôi đã đề cập trước đây, cũng có những người không tín ngưỡng. Tôi nghĩ rằng thực tế đó là sức mạnh của Ấn Độ. Và như thông thường, tôi diễn tả Ấn Độ như đạo sư, chúng tôi là những học trò. Chính tôi mang hai trong số những truyền thống của Ấn Độ -  bất bạo động hay ahimsha, và sự hòa hiệp tôn giáo. Bất cứ nơi nào tôi đến, tôi luôn nói về hai thứ này. Cho nên, tôi tự xem mình là một sứ giả của tư tưởng cổ truyền Ấn Độ. Do vậy tôi thường nói, “Ở mức độ sứ giả, tôi hoàn toàn năng động để thúc đẩy những thứ này. Bây giờ ông chủ thật sự của tôi nên thực hiện một vai trò năng động hơn về việc thúc đẩy bất bạo động và hòa hiệp tôn giáo. Thế giới cần điều đó.”

Hai thứ này - bất bạo động và hòa hiệp tôn giáo – không chỉ là cổ xưa mà rất liên hệ với thế giới ngày nay. Hãy nhìn vào những người Ki Tô giáo – họ cùng tin tưởng trong Chúa Ba Ngôi – nhưng những người Thiên Chúa giáo và Tin Lành đang đánh nhau ở Bắc Ái Nhĩ Lan. Rất buồn. Tôi đã từng ở Bắc Ái Nhĩ Lan trong vài trường hợp. Một lần nữa, quý vị thấy, cả hai phái Sunni và Shia tuân theo những lời dạy của cùng Nhà Tiên Tri Mô-ha-mét và sử dụng cùng kinh Koran. Nhưng qua những khác biệt nhỏ ở đây ở kia, họ chiến đấu với nhau và giết nhau. Rất buồn.

Do vậy, đôi khi, thật vậy, tôn giáo cũng trở thành một nhân tố của chia rẻ. Tất cả những tôn giáo đều nói về từ ái, bi mẫn, và tình cảm anh chị em. Đặc biệt những tôn giáo hữu thần dạy rằng tất cả mọi người cùng đến từ một cội nguồn. Cho nên theo quan điểm ấy, họ thật sự là những anh chị em. Nhưng những khái niệm thật sự thông tuệ và chính thống bị quên lãng và có rất nhiều nhấn mạnh về những thứ nhỏ bé lại đưa đến sự đấu tranh.

Thế nên, trong hàng nghìn năm, quý vị đã gìn giữ hai thứ này vẫn còn rất sống động trong xứ sở này. Bây giờ quý vị nên cho cả thế giới thấy – bất cứ nơi nào có sự xung đột hay chia rẻ nhân danh tôn giáo. Bây giờ quý vị phải nhận một vai trò năng động trong lãnh vực này, không phải vì những lý do chính trị hay kinh tế nhưng vì lợi ích của nhân loại. Chủ nghĩa thế tục là một nhấn mạnh cao độ về đạo đức thế tục, vì trong thực tế, một khoảng lớn bây giờ trong số bảy tỉ con người không đặt nặng về tôn giáo.

Điều này cũng là một phần quan trọng của nhân loại. Cho dù người ta tin tưởng trong tôn giáo hay không, đó là vấn đề cá nhân. Nhưng họ phải là những công dân lương thiện, từ bi yêu thương. Tôi muốn nói những con người từ bi yêu thương là một bộ phận của nhân loại. điều đó rất quan trọng. Thế nên nếu chúng ta nói, “Oh, sự thực hành từ bi yêu thương là điều gì đó quan trọng vì Đức Phật đã nói như thế, hay đức chúa Giê-su đã nói như thế, hay đức Mô-ha-mét đã nói như thế,” rồi thì những người này sẽ nói, “Oh, tôi không quan tâm, tôi không thích thú với những thứ này.” Cho nên, chúng ta phải có những phương cách của chúng ta và mang niềm tin vững chắc đến với những người này. Sự thực hành từ ái, bi mẫn, và ân cần tử tế là cho chính sự cát tường của chúng ta.

Mọi người muốn hạnh phúc và khỏe mạnh. Chỉ thuốc men thôi có thể không đem đến sự khỏe mạnh. Bây giờ những bác sĩ và các nhà khoa học đã bắt đầu nhận ra rằng sự hòa bình và tĩnh lặng của tâm hồn là nhân tố then chốt cho sức khỏe tốt. Và tâm thức càng tĩnh lặng, thì tâm thức càng hòa bình hơn, đi đến tự tin hơn. Thiếu sự tự tin là sợ hãi, không tin tưởng, nghi ngờ, và những thứ này là rất tệ hại cho sức khỏe của chúng ta. Nhằm để trở thành một con người nhạy cảm hơn, chúng ta không nhất thiết đi theo những truyền thống tôn giáo. Không có tôn giáo người ta có thể là một con người rất dễ thương, một con người rất nhạy cảm. Vì thế cho nên, bất cứ nơi nào tôi đến, tôi luôn luôn nói về tầm quan trọng của đạo đức thế tục.

Tôi nghĩ trong đất nước này, một cách căn bản con người tương đối có đầu óc tôn giáo hơn. Nhưng sự thực hành tôn giáo của họ là vào buổi sáng, trước tượng Ganesh hay linga Shiva, nơi người ta nhắm mắt lại và đọc tụng một thần chú nào đó mà không biết ý nghĩa của nó, rồi thì đặt bông hoa hay nhang đèn ở đấy. Không có sự kết nối với đời sống hàng ngày của họ. Vì vậy, bất cứ khi nào họ thấy có cơ hội, thì tham nhũng xảy ra. Những con người tôn giáo này vẫn tiếp tục tham nhũng.

Vậy thì thiếu vắng thứ gì? Sự tự tin chân thành. Quý vị không chỉ cầu nguyện mà phải có sự tự tin như một con người. Nhằm để đạt được một loại hạnh phúc cá nhân – hạnh phúc gia đình, hạnh phúc cộng đồng – điều cần thiết là trung thực và liêm khiết. Đây là nhân tố then chốt đưa đến sức mạnh nội tại. Khi ta tự cư xử như con người trung thực và liêm khiết, thì ta có thể mang đến sự minh bạch. Điều đó mang đến sự tin tưởng. Sự tin tưởng mang đến sự hòa hiệp và tình thân hữu. Cuối cùng, chúng ta là những tạo vật xã hội. Sự hợp tác và rất cần thiết, bây giờ không chỉ căn bản quốc gia - với - quốc gia mà cũng là lục địa - với - lục địa. Sự hợp tác là thiết yếu và đến trên căn bản của tình hữu nghị. Với sự hữu nghị đi đến lòng tin. Lòng tin đi đến lòng từ bi thương cảm. Cho nên, đây không chỉ là những vấn đề của tôn giáo, mà rất quan trọng trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì thế tôi luôn luôn cố gắng.

Đó là tất cả, xin cảm ơn.

*

Trích từ quyển The Big Book of Happiness
Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, August 6, 2019

Thứ Ba, 30 tháng 7, 2019

ĐẠO ĐỨC CHO THIÊN NIÊN KỶ MỚI




Nguyên bản: Ethics for The New Millennium
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

*

Tôi đã đi ngang qua Goa[1] vài lần vì có một trại định cư của người Tây Tạng gần đấy, nhưng đây là lần đầu tiên tôi có một cuộc hội ngộ ở đây. Vị Thủ Hiến có thể xếp đặt một cuộc họp mặt và tôi muốn cảm ơn ông cho vinh dự lớn này.

Tự nhiên, mỗi con người bẩm sinh muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Ngay cả thú vật hay côn trùng cũng có cùng khát vọng như thế. Mọi người có quyền để hướng đến một đời sống hạnh phúc, vượt thắng rắc rối, và theo đuổi hạnh phúc. Bây giờ, chữ “hạnh phúc” không có nghĩa là chỉ hài lòng mà một sự hài lòng sâu xa, ở trình độ tinh thần. Thật quan trọng để làm một sự phân biệt giữa sự hài lòng đến qua cảm nhận giác quan và sự hài lòng sâu xa hơn.

Cảm nhận giác quan có thể đạt được bằng việc nhìn vào điều gì đó thú vị với đôi mắt hay lắng nghe âm nhạc. Loại hài lòng tinh thần này lệ thuộc trên những vật chất bên ngoài nhưng tự nhiên không bền lâu. Một khi chúng biến mất, sự hài lòng tinh thần giảm thiểu và những gì còn lại là ký ức. Trình độ hài lòng khác – sự hài lòng sâu sắc – chỉ đến qua việc hướng đến một đời sống đầy đủ ý nghĩa và cứu giúp người khác. Tất cả những người đó có niềm tin trong Thượng đế và hành thiền có thể đạt được sự hài lòng nội tại và họ không lệ thuộc vào những nhân tố ngoại tại. Sự hài lòng đạt được qua hành thiền bền hơn. Trong trường hợp hài lòng giác quan, khi nguồn gốc của sự hài lòng bị lấy mất hay khi người ta đến tuổi già và những giác quan của họ yếu đi, thế thì sự hài lòng giác quan trở thành khó khăn để đạt được, một cách đặc biệt nếu họ không có kinh nghiệm về sự hài lòng sâu sắc của tinh thần.

Không thấu hiểu trình độ hài lòng sâu xa hơn và chỉ lệ thuộc vào tiền bạc và sự giảu có không bảo đảm hạnh phúc. Nếu một người giàu làm chủ một chiếc nhẫn đắc tiền, bất chấp người ấy hôn nó nhiều như thế nào, chiếc nhẫn sẽ không đáp ứng lại. Trái lại, nếu cùng tình cảm ấy được biểu lộ cho thú vật, chúng sẽ đáp ứng lại trong sự trìu mến và điều đó làm con người vui mừng. Tình cảm chân thành, khi được biểu lộ, có được một sự đáp ứng tương đồng và điều đó làm một người và gia đình hạnh phúc. Sự giàu có có thể màng đến sự nghi ngờ và ganh đua cực đoan. Nó khiến không thể phát triển một mối thân hữu chân thành giữa sự ngờ vực và tranh đua tiêu cực.

Tiền bạc phải được sử dụng một cách thông tuệ - bằng trái lại giá trị vật chất làm giảm dần giá trị con người. Tôi đã nói với những người bạn thương gia của tôi rằng họ lệ thuộc với tiền bạc. Tôi chú ý rằng họ thường không vui vẻ và đau khổ với nhiều căng thẳng và băn khoăn. Tôi không đối kháng với việc phát triển, vì chúng ta thật sự có thân thể vật lý và chăm sóc nó là cần thiết cao độ. Với sự giúp đở của kỷ thuật và khoa học, chúng ta đã đi một bước dài, nhưng chúng ta không thể lệ thuộc vào chúng cho hòa bình và hạnh phúc của con người, khi chúng cũng phải trở thành những năng lực tàn phá. Trong thế kỷ hai mươi, hơn hai trăm triệu người đã bị giết qua bạo động. Khi những năng lực tàn phá này gia tăng trên thế giới, sự thương cũng gia tăng một cách rõ ràng.

Một người không nên quên lãng những giá trị nội tại, khi chúng là rất quan trọng. Tôi đánh mất tự do vào tuổi mười sáu, và vào lúc hai mươi lăm tuổi, tôi đánh mất quê hương. Tất cả những người Tây Tạng đã đặt niềm tin vào tôi và đó là trách nhiệm đạo đức của tôi, nhưng tình hình là bất lực. (Cười) Tôi  không tiêu thụ bất cứ hình thức thuốc men an thần nào. Như một Phật tử, tôi không sử dụng chúng. Nhưng mặc dù thế tôi đau lòng, dù không lâu. Tôi vẫn không sử dụng rượu và ma túy. Tôi có thể giữ tâm hồn tôi tĩnh lặng và vì thế tôi tương đối hạnh phúc. Tất cả mọi con người được sanh ra với cùng tiềm năng để thành đạt, nhưng chúng phát triển với tri thức, một tâm tĩnh lặng và nhiệt tình, với tình cảm của cha mẹ.

Nhằm để phát triển những giá trị nội tại nhân bản, tôi cảm thấy rằng có ba cách. Trước nhất, tín ngưỡng tôn giáo hay niềm tin trong Thượng đế giúp một người đạt được lòng bác ái, một cảm giác bao dung và nhẫn nại, và một nguyên tắc nào đó, vốn thúc đẩy những giá trị bên trong một cách căn bản. Ngay cả đối với những người tín ngưỡng tôn giáo không thờ ngẫu tượng như Phật giáo và Kỳ Na giáo, người ta tin tưởng rằng không có đấng tạo hóa nhưng một cách căn bản là sự tự tạo tác. Họ tin trong những lý thuyết như Darwin, vốn tuyên bố rằng thế giới được làm từ những nguyên tử và những thành phần tập họp với nhau chúng tạo nên những con người khác nhau. Những người Ấn Độ, trái lại, tin tưởng trong nghiệp, vốn có nghĩa là mọi thứ xảy ra trong sự đáp ứng lại với những hành vi của người ấy. Bất cứ hành vi nào mang đến hạnh phúc với người khác sẽ có kết quả trong hạnh phúc của chính bạn, và tương tự thế, bất cứ hành vi nào vốn mang lại sự tổn hại cho người khác – như ám sát, hiếp dâm và lừa dối – sẽ mang đến những hậu quả tiêu cực. Vì vậy, nhằm để đạt được hạnh phúc, chúng ta phải phục vụ người khác và không tổn hại người khác.

Thứ đến, một số người bạn Ki Tô giáo và Hồi giáo của tôi tin tưởng rằng đạo đức dựa trên luân lý (đức tin), nhưng tôi tin căn bản của đạo đức là lòng từ bi. Ngay cả những con thú cũng có đạo đức. Thí dụ, nếu bạn tử tế với một con chó, nó sẽ đáp ứng trong sự tử tế với bạn và trung thành với bạn. Một đứa trẻ, ngay khi sinh ra, lệ thuộc vào mẹ nó với tình cảm. Vì vậy, đạo đức phải không có bất cứ ảnh hưởng nào từ tôn giáo. Trong trường hợp của Ấn Độ, để tránh bất cứ sự phức tạp nào, những cha già dân tộc như Thánh Gandhi và Rajendra Prasad tiếp nhận chủ nghĩa thế tục. Chủ nghĩa thế tục, đối lại với niềm tin phổ biến, không bất tôn trọng bất cứ tôn giáo nào nhưng tôn trọng tất cả mọi tôn giáo một cách bình đẳng. Ấn Độ cũng có một số lượng khổng lồ những người không tín ngưỡng, và hiến pháp Ấn Độ cũng tôn trọng họ.

Những giá trị nhân bản có thể được thúc đẩy trong những người có tín ngưỡng và không tín ngưỡng bằng việc sử dụng ba kinh nghiệm thông thường:

       i.            Lớn lên với tình cảm của bà mẹ từ lúc ấu thơ thường giúp một con người ổn định trong đời sống. Thiếu vắng sự chăm sóc của bà mẹ gieo những hạt giống bất an và đưa đến một cuộc sống không ổn định.
     ii.            Cộng đồng và gia đình cũng đóng một vai trò quan trọng. Nếu cộng đồng hay gia đình sống với lòng thấu cảm trong cuộc sống của họ, thì họ có thể giải quyết bất cứ vấn nạn nào xảy ra trên đường của họ. Những gia đình giàu có, có ảnh hưởng – ngay cả những gia đình rất giàu và quyền lực – có thể rất căng thẳng. Người ta phải nhận tầm quan trọng của thái độ tình cảm, khi nó đưa đến một tâm tĩnh lặng và một cách căn bản là một con người khỏe mạnh. Bất cứ người nào sống mà không có tình cảm trong đời sống của họ sẽ có những bất an băn khoăn sâu sắc.
  iii.            Cho đến cuối thế kỷ hai mươi, khoa học không chú ý nhiều đến tầm quan trọng của thế giới nội tại hay tâm thức. Sau này, với sự phát triển trong lãnh vực  của y khoa hay khoa học thần kinh, các nhà khoa học nhận ra rằng thế giới nội tại là một nhân tố quan trọng cho sức khỏe.

Trong ba mươi năm qua, tôi đã gặp và thảo luận với những nhà khoa học trong vấn đề này. Nhiều người trong họ tiến hành những cuộc thí nghiệm trong những nhóm người. Trước khi cho họ bắt đầu một chương trình thiết kế để nghiên cứu về sự hợp tác của sự thấu cảm (từ bi) và tình cảm trong cuộc sống, các bác sĩ kiểm tra huyết áp của họ, khối lượng căn thẳng, và v.v… Sau hai tuần trong chương trình, các bác sĩ lại kiểm tra những thứ này và khám phá rằng huyết áp và căng thẳng đã giảm thiểu đáng kể.

Tôi đã viếng thăm một đại học ở Hoa Kỳ vốn tiến hành những thí nghiệm tương tự trên những sinh viên trong trường và thấy sự tập trung, sắc bén, và ứng xử xã hội của họ đã cải thiện, do bởi họ trở thành hạnh phúc hơn. Các nhà khoa học y tế đã tuyên bố rằng sự sợ hãi ăn mòn hệ thống miễn nhiễm của chúng ta, và tâm tĩnh lặng ít bệnh tật hơn và cũng hồi phục nhanh chóng hơn. Trong một trường hợp, một bác sĩ tiến hành một thí nghiệm với hai bọ bị thương (chuột lang). Một con bọ bị giữ cô lập và một con được để trong bầy. Con sống trong bầy hồi phục nhanh hơn.

Một nhà khoa học từ trường đại học Columbia tuyên bố rằng những người thường nói “tôi”, “của tôi”, và “tôi” (I, my, me) thì rất thường có cơ hội lớn bị đau tim. Từ việc đó tôi đã hiểu rằng những người ích kỷ không có tâm tĩnh lặng và, vì vậy, họ thậm chí thấy vấn đề nhỏ nhoi là không thể chịu nổi. Nhưng nếu người nghĩ trong một thái độ toàn diện hơn, thì ngay cả một vấn nạn lớn cũng có thể đối diện với một tâm tĩnh lặng.

Loài người là những tạo vật xã hội tự nhiên và vì vậy cộng đồng là căn bản cho một đời sống hạnh phúc. Sự tin tưởng chỉ có thể đạt được nếu ta sở hữu một cảm nhận chân thành về quan tâm; qua sự tin tưởng đi đến hợp tác, và hữu nghị đến hợp tác, vốn đưa đến một sự tồn tại hòa bình. Nền tảng cho một nền hòa bình cuối cùng đến từ hòa bình, và lý trí, chứ không phải tôn giáo.

Chúng tôi đã có một hội nghị ở Delhi với những bậc thầy tâm linh và các nhà khoa học về tầm quan trọng của nhiệt tình và đã thảo luận những vấn đề như giới thiệu những học sinh tiểu học với lòng nhiệt tình trong một cung cách thế tục, nhằm để giảm tiểu sự nhấn mạnh về bề ngoài và biết về thực tại. Cách đó, thì chúng ta có thể giúp tuổi trẻ khắc sâu những phẩm chất như sự tự tin và nhiệt tình. Thường thường, như tôi đã giải thích trước đây, chúng ta ích kỷ một cách tự nhiên và vì thế chúng ta không tìm cách để phát triển lòng thấu cảm đối với nhau. Nhưng lòng thấu cảm (từ bi) là một sự mở rộng của sự tự yêu mến và vì vậy chúng ta có thể cực kỳ hạnh phúc nếu chúng ta mang hạnh phúc đến những người khác. Tình thương hẹp hòi chỉ có thể đưa đến sự tự tàn phá. Đó là những gì tôi muốn nói về cung cách thấu cảm thế tục, lòng từ bi thế tục.

HỎI VÀ ĐÁP

HỎI: Tôi muốn biết mục tiêu của đời sống là gì và ngài có tin tưởng vào định mệnh hay không? Nếu có, thế thì vai trò của định mệnh trong đời sống là gì?

ĐÁP: Theo quan điểm của Phật giáo (mặc dù quan điểm của riêng tôi thì khác), đôi mắt, tâm thức, và khát vọng vượt thắng điều gì đó tất cả là một bộ phận của bản chất. Tôi nghĩ một cách thế tục, đó là câu trả lời. Chính mục tiêu của sự sống, tôi tin, là hạnh phúc. Không có gì bảo đảm trong cuộc sống, nhưng chúng ta tồn tại do bởi hy vọng. Nếu chúng ta đánh mất hy vọng thế thì điều đó sẽ làm ngắn lại sự sống của chúng ta. Sự tồn tại của chúng ta căn cứ trên hy vọng cho một tương lai tốt đẹp, không phải là một tương lai tệ hại. Từ quan điểm này, hạnh phúc là mục tiêu duy nhất cho sự sống.

Định mệnh là cố định và chúng ta không có năng lực để thay đổi, theo những niềm tin khác nhau. Nhưng theo con đường thế tục, không có định mệnh. Những sự kiện xảy ra qua các nguyên nhân và điều kiện; thí dụ, một thân thể bệnh hoạn sẽ đưa đến một định mệnh yếu đuối. Nếu thân thể được chăm sóc, thế thì định mệnh có thể thay đổi. Vì vậy, định mệnh có thể thay đổi nếu có nổ lực thực hiện.

HỎI: Ngài có thể nói với chúng tôi vấn đề ngài vượt thắng thù oán và sợ hãi như thế nào? Và ngài có thể đưa ra một ánh sáng của thiền (zen) nào đó không?

ĐÁP: Có nhiều mức độ của thù oán và nó có thể được diễn tả như một cảm nhận xấu đối với người tạo ra rắc rối, kẻ thù, hay bạn bè. Nhưng sân hận là một bộ phận cảm xúc của chúng ta, vốn mọc lên như một cơ cấu phòng vệ trong một con người khi người ấy chạm trán với những hoàn cảnh tiêu cực hay nguy hiểm. Nói một cách sinh học, các cảm xúc như sân hận, khát vọng, và dính mắc là cần thiết cho sự tồn tại. Thù oán có thể được diễn tả như dư âm của sân hận vốn duy trì và day dứt trong một thời gian dài.

Tôi không có thù oán, nhưng nếu tôi thấy điều gì đó sai trái, tôi trở nên sân hận giận hờn. Sau khủng hoảng ở Tây Tạng vào ngày 10 tháng Ba năm 2008, tôi cảm thấy những cảm xúc giống như mà tôi đã cảm nhận vào ngày 10 tháng Ba năm 1959, khi tôi mất tự do – bất lực, bất lực, và băn khoăn. Tuy thế, những cảm xúc hiện hữu khác, khi sau khủng hoảng 2008, tôi đã quán tưởng những cán bộ Trung Cộng và tôi đã hoán đổi sự sợ hãi và sân hận của họ cho sự nhẫn nhục và từ bi của tôi. Rõ ràng, nó không giải quyết bất cứ vấn nạn nào, nhưng nó giúp tôi trong việc duy trì sự an bình tinh thần của tôi.

Ta có thể cầu nguyện để tiêu trừ thù oán. Theo tâm lý học Phật giáo, việc đối phó với các cảm giác tiêu cực là quan trọng. Thù oán vốn sắp khởi lên phải được đối phó ngay lúc đầu. Sự kích thích hoạt động như một chất xúc tác cho sân hận phát triển thành thù oán. Vào lúc đó, chúng ta cần nhớ rằng sân hận không phải là một giải pháp nhưng chỉ giúp làm tàn phá niềm hạnh phúc. Điều đó giúp cho việc giảm thiểu các tư tưởng khó chịu hình thành trong tâm thức.

Điều kiện của thân thể cũng liên quan, như một thân thể yếu đuối có thể làm nghiêm trọng sự tiêu cực, nhưng một thân thể khỏe mạnh sẽ đưa đến kết quả trong một tâm tư mạnh mẽ vốn sẽ không bị quấy rầy một cách dễ dàng. Qua sự thực hành, chúng ta cần nghiên cứu để tách rời chính ta khỏi sân hận, vốn sẽ làm cho ta nhìn vào sân hận một cách hợp lý và cuối cùng đánh bại nó một cách hoàn toàn. Nếu sân hận lan tỏa khắp tâm tư, thì nó trở thành khó khăn để loại trừ. Tâm lý Phật giáo và tâm lý học Ấn Độ giáo có những yếu tố như thiền chỉ và thiền quán giải thích những phương pháp để tìm cách giải quyết vấn nạn này của tâm thức.

Khi tôi đi ngang qua những thị trấn của Ấn Độ, tôi thấy những đền thờ như Shiva lingam, Ganesh – tôi tự hỏi tại sao không xây dựng những phòng ốc nơi mà các tín đồ có thể ngồi và thảo luận các kinh điển hơn là những đền thờ chỉ như một ngôi nhà cho một bức tượng đơn độc của một bổn tôn mà thôi? Tôi thường nói với những người Tây Tạng đừng tạo dựng thêm các tượng Phật nữa. Tôi là một Phật tử nhưng tôi biết rằng tượng Phật sẽ không bao giờ nói; nhưng tốt hơn là in thêm kinh sách vốn có thể chứng tỏ lợi lạc hơn thêm. Những kinh điển đã tồn tại hơn ba nghìn năm qua, nhưng điều thiếu vắng là sự học hỏi chúng. Nhiều người Ấn Độ là những tín đồ rất ngoan hiền, nhưng họ không chú ý đến việc học hỏi các kinh điển.

HỎI: Các bác sĩ phải phát Lời thề Hippocrates trước khi họ có thể bắt đầu việc thực hành nghề y của họ. Có một lời thề công cộng mà ngài đề nghị cho những chính trị gia đón nhận một cách phổ thông không?

ĐÁP: Tôi không phải là một nhà chính trị. Nhiều năm trước, quốc hội ở Delhi xây dựng tượng Gandhi, tôi được mời trong buổi lễ khánh thành và tôi đã nói các nhà chính trị hãy nhớ sự chân thành của Gandhi mỗi lần họ đi ngang qua tượng. Trong cuộc đấu tranh cho tự do của Ấn Độ, tất cả những lãnh tụ là vô ngã vị tha, vô úy, và trung thực với việc làm của họ. Tôi thường nói với những người bạn Ấn Độ rằng trong sáu mươi năm qua từ sự tự do của họ, các lãnh đạo cần cùng một tinh thần như những nhà đấu tranh cho tự do. Họ cũng cần trung thực, chân thành, và vô ngã vị tha.

Ấn Độ là một đất nước dân chủ và có một nền tư pháp độc lập làm cho nó là một xứ sở hòa bình. Tại một cuộc hội họp với nhiều vị thẩm phán và luật sư, tôi đùa họ trong khi ca ngợi họ rằng nếu người hoạt động cho công lý hơi thiếu trung thực, thế thì nó trở thành một thảm họa thật sự. Ấn Độ là một quốc gia khổng lồ, vì vậy một vấn đề nhỏ thỉnh thoảng xảy ra là có thể hiểu được. Nhưng nó thì ổn định hơn các lân bang nhiều.

Truyền thông Ấn Độ có một vai trò thật sự quan trọng. Trong một quốc gia dân chủ, vai trò của họ đạt tầm quan trọng hơn khi có trách nhiệm để hướng dẫn người dân về những sự kiện xảy ra chung quanh họ. Vì vậy, họ cần duy trì những giá trị nhân văn căn bản, đạo đức thế tục, và sự hòa hiệp tôn giáo. Cùng với điều đó, họ cần bảo đảm rằng họ giao tiếp với những sự thật về các nhà chính trị, các nhà hoạt động xã hội, truyền thông, và thương gia, nhưng phải bảo đảm rằng họ không đang trình bày bất cứ sự thật phũ phàng nào với người dân. Ở Trung Hoa, vì không có một ngành truyền thông độc lập, hệ thống trải qua nhiều sự nhũng lạm, mà người giàu có và quyền lực tự do bốc lột. Ngành truyền thông nên khảo sát thế giới một cách toàn diện và để người dân biết những sự thật trong một thái độ không thành kiến.

HỎI: Ngài nói rằng tiền bạc không ban cho hạnh phúc – Tôi đồng ý. Nhưng tôi tin rằng tiền bạc có thể mua những thứ để làm cho đời sống của ta thoải mái. Cho nên, theo tâm lý học Phật giáo, ngài có thể đề nghị một phương cách đưa đến sự cân bằng giữa việc có được sự giàu có và làm cho ta hạnh phúc không?

ĐÁP: Chúng ta có thân thể này và để làm cho nó thoải mái, chúng ta cần thực phẩm và nơi cư trú. Tôi đi ngang qua những xóm làng với những con người rất nghèo khổ, những người chưa bao giờ trải nghiệm sự thoải mái này. Trong toàn thế giới, khoảng cách giữa người giàu và nghèo là khổng lồ. Sự chú ý nên được hướng đến việc khắc phục khoảng cách trên cấp độ toàn cầu và quốc gia. Nền kinh tế  Ấn Độ tăng trường khá tốt, và nó là một xã hội tự do khai  phóng, không giống như Trung Hoa. Vì vậy, nó là một xã hội lành mạnh. Một sự chuyển hóa thật sự nên xảy ra trong những xa xôi hẻo lánh với nhiều sự chú ý hơn cho sự phát triển vùng sâu vùng xa.

Tôi thật sự đồng ý rằng tiền bạc là quan trọng. Những sự gia hộ thôi thì không đủ. Làm việc cần mẫn cũng quan trọng. Sự chuyển hóa thật sự đến từ việc lao động chăm chỉ chứ không đến chỉ từ việc cầu nguyện. Người giàu nên ban cho người nghèo sự học vấn và những kỷ năng công nghệ. Một vài ngày trước tôi đã ở một thị trấn mà tôi đã từng được mời đến hai thập niên trước, khi những người địa phương trình bày quyết định phát triển của họ. Tôi đã hứa hẹn hiến tặng mười triệu rupee và tiểu bang cũng hứa đóng góp. Khi tôi đến đó mới đây, người dân ở đó đã phát triển một số kỷ năng và đang sống rất yên bình.

Bây giờ, có người nào có kinh nghiệm đưa qua đưa lại tâm trạng hạnh phúc và tâm trạng đau buồn? Khi ta đau buồn và có tiền trong túi, thì ta có thể đi tới một cửa hàng lớn và đòi hỏi một tâm thức yên bình được không? Hay ta có thể đi tới một nhà thương lớn chích một mũi thuốc bình an tâm hồn không, hay yêu cầu một kỷ thuật cho sự bình an nội tại từ một nhà máy không? Chỉ nếu người ta giữ não bộ một bên và thay thế nó với cơ cấu máy móc nào đó thì chúng ta sẽ dững dưng và không trải nghiệm bất cứ cảm giác gì. Chúng ta có thật sự muốn như vậy không?

Do vậy, rõ ràng rằng tiền bạc là cần thiết chỉ cho nhu cầu thân thể, chứ không cho sự bình an của tinh thần. Vì vậy, hãy mua những tiện nghi vật chất nhưng không tôn sùng tiền bạc. Hãy nhận ra rằng có một sự giới hạn về giá trị kinh tế và tập trung năng lượng của ta để đạt được sự hòa bình nội tại.

HỎI: Dường như trong vài tháng gần đây có những dấu hiệu lo lắng trong truyền thông đối với vị lạt ma có tiền bạc gì đó. Dường như rằng sự hiện diện của ngài và sự hiện diện của cộng đồng Tây Tạng đông đảo ở Ấn Độ đang bắt đầu không thuận tiện trong con mắt người Ấn Độ trong sự phát triển toàn cầu. Ngài có những quan tâm nào đó không về tương lai của cộng đồng Tây Tạng và sự ổn định trong mối quan hệ của ngài với Ấn Độ vốn tồn tại rất lâu?

ĐÁP: Mối quan hệ giữa Tây Tạng và Ấn Độ không phải chỉ tồn tại trong vài thập niên mà hàng nghìn năm. Tôi luôn luôn duy trì mối quan hệ của chúng tôi như mối quan hệ giữa đạo sư và học trò - Ấn Độ là đạo sư và chúng tôi là học trò. Thí dụ, trong thế kỷ thứ bảy hay thứ tám, Phật giáo vào Tây Tạng và phát triển và thay đổi lối sống. Bây giờ nền văn minh Ấn Độ và văn minh Tây Tạng – như Moraji Desai nói dựa vào lời chúc mừng mà tôi đã viết cho ông khi ông trở thành Thủ tướng của Ấn Độ - là giống như những nhánh cây của một cây bồ đề. Thân cây ấy lớn lên ở Ấn Độ và vươn đến Tây Tạng. Chúng tôi có một mối quan hệ rất mạnh mẽ.

Tây Tạng bị khống chế bởi Trung Cộng, nhưng trong tâm tư họ họ đang nhìn về đất nước này. Năm 1956, chính phủ Ấn Độ đã mời tôi và tôi đã đến đây vô vàn khó khăn. Từ lúc ấy tôi đã phát triển một mối quan hệ rất đặc biệt với Nehru và Rajendra Prasad. Năm 1959, Ấn Độ cho tôi và người dân tôi tị nạn chính trị. Họ đã giúp tôi xây dựng  những trường học và những khu định cư, đặc biệt trong những bang Himachal Pradesh và Karnataka. Sau năm  mươi mốt năm, cộng đồng của tôi đã định cư rất tốt đẹp tại những nơi đây. Đó là mối quan hệ mà chúng tôi chia sẻ trên đất nước này.

Một cách địa lý, Ấn Độ chia sẻ biên giới với Tây Tạng. Không có một chiến binh Ấn Độ nào đã từng được thấy xuyên qua hàng nghìn dặm biên giới này. Sau 1959, và đặc biệt sau 1962, những trạm quân sự được xây dựng. Vấn đề Tây Tạng cũng là một vấn đề của Ấn Độ. Những sự hiểu lầm nhỏ luôn luôn xảy ra ở đấy. Những sự hiểu lầm nào đó ló lên qua sự bất cẩn của một người công nhân, nhưng trái lại không có gì nghiêm trọng về vấn đề lạt ma.

HỎI: Có phải ngớ ngẩn để nghĩ rằng tôn giáo có thể trở thành một nguyên nhân cho một cuộc chiến tranh không? Trong trường hợp ấy, tôn giáo trở thành một người bạn của chiến tranh hay hòa bình? Sẽ có hòa bình hơn nếu nó bị bãi bỏ?

ĐÁP: Chiến tranh vì tôn giáo là một phần của lịch sử nhân loại. Những người nào đó tin rằng sẽ tốt hơn nếu không có tôn giáo, nhưng thế thì Thế Chiến thứ nhất, Thế chiến thứ hai hay Chiến tranh Triều Tiên không phải xảy ra vì các vấn đề của những tôn giáo. Một sự xung đột nào đó luôn luôn ở đấy. Trong quá khứ, một số xung đột đã xảy ra vì tôn giáo. Nhưng, tôi tin rằng cái tên tôn giáo bị lạm dụng cho quyền lực.

Tôn giáo được sử dụng để lôi kéo con người. Những người tôn giáo cũng bị dính mắc với tôn giáo của họ. Ở Argentina, tôi đã gặp gở những nhà khoa học và các lãnh tụ tôn giáo, một nhà khoa học Chi lê đã nói với tôi rằng ông nghĩ ông không nên quá dính mắc ngay cả với lãnh vực khoa học của ông ta. Ngay cả tôi không nên phát triển sự dính mắc với Phật giáo, vì một tâm thành kiến không thể thấy thực tại. Bất cứ tín đồ tôn giáo nào dính mắc quá nhiều với tôn giáo của họ thì trở thành một người cuồng tín, vốn là một sai lầm.

Nhiều người Ấn giáo tin Krishna và Shiva, nhưng khi tôi yêu cầu họ định nghĩa
Ấn giáo thì họ không có câu trả lời. Tôi đùa với những người bạn của tôi, khi họ tán tụng những câu thần chú Sanskrist vào buổi sáng nhưng không biết ý nghĩa của chúng. Họ đặt bong hoa dưới chân của thần Ganesha hay bất cứ biểu tượng nào khác, nhưng không có bất cứ ý tưởng nào tại sao họ cần làm như thế. Tôi nghĩ nhiều người Hồi giáo nêu tên Allah nhưng không biết ý nghĩa là gì. Người bạn của tôi nói rằng nếu bất cứ người Hồi giáo nào làm đổ máu một người khác, thế thì người ấy không còn là một người Hồi giáo nữa. Người ta nên có lòng từ ái và bi mẫn cho những người khác, chỉ như thế thì người ấy mới có thể được gọi là một hành giả chân thành của Hồi giáo. Ý nghĩa của thánh chiến (jihad) được định nghĩa bởi những người Hồi giáo từ những phần tử khủng bố, vốn không biết giáo huấn thật sự của kinh Koran. Họ biểu lộ một sự dính mắc với tôn giáo của họ và trở thành người cuồng tín.

Ngay cả trong những người Phật giáo, cũng có những người cuồng tín. Họ không thích cách giáo huấn của tôi và chống lại tôi bởi vì sự tiếp cận của tôi không thoải mái với những giáo lý Đạo Phật truyền thống. Tình trạng tốt đẹp nhất sẽ là nếu sáu tỉ người nên biến mất và rồi thì sự hòa bình chân thật của thế giới đạt được. Chúng ta nên cầu nguyện để Thượng đế làm cho toàn bộ nền văn minh của con người biến mất. Nói đùa thôi, chúng ta nên tồn tại và trau dồi lòng từ bi vô giới hạn. Loài người cần phát triển xa hơn và nên biết thực tại cùng năng lực của con người.

*
Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, July 30, 2019


[1] Goa là một tiểu bang của Ấn Độ nằm ở vùng duyên hải tên Konkan tại miền Tây Ấn Độ. Nó tiếp giáp với Maharashtra về phía bắc và Karnataka về phía đông và nam, với biển Ả Rập về phía tây.

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2019

HÒA BÌNH VÀ TỪ BI




Nguyên bản: Peace and Compassion/ Madison 2008
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

*

Anh chị em thân mến, thật sự, tôi rất, rất vui mừng và rất vinh dự để nói chuyện với quý vị. Tôi không nói gì đặc biệt, chỉ là những kinh nghiệm thông thường. Tôi đến đây là lần thứ bảy. Và mỗi lần như vậy, những người ở đây biểu lộ với tôi những cảm nhận nhân bản và thân hữu chân thành. Vì thế, cũng tự nhiên thôi, đó là lý do tại sao tôi cảm thấy hạnh phúc bất cứ khi nào tôi nhận được lời mời. Cho nên tôi rất, rất là vui mừng.

Cùng lúc đó, khi tôi thấy đông đảo mọi người đến để nghe tôi nói chuyện. Tôi luôn luôn làm rõ rằng, trước tiên nhất, là hoàn toàn đúng đắn để đến đây vì tò mò. Rồi thì, có lẽ, một số người đến đây để nhìn Đức Đạt Lai Lạt Ma xem ông ấy nói gì. Điều đó cũng hoàn toàn đúng đắn, rất tốt. Bất cứ khi nào tôi nói chuyện đặc biệt là về vấn đề Tây Tạng, tôi nói một cách chân thật. Tôi nói về công lý. Cho nên, bất cứ người nào muốn biết thêm về những gì Đức Đạt Lai Lạt Ma đang suy nghĩ thì được hân hoan chào đón nhất.

Nhưng một số người cũng đến với niềm tin rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma có một năng lực mầu nhiệm nào đó. Loại thái độ ấy là nguy hiểm. Tôi không có năng lực gì đặc biệt – không có gì cả! Nếu tôi có những năng lực mầu nhiệm thật sự, tôi có thể không phải đối diện với những rắc rối này. Nhưng rõ ràng, có nhiều rắc rối mà tôi đang phải đối diện – không phải là những thứ cá nhân của tôi nhưng là những thứ đến vì cái tên Đức Đạt Lai Lạt Ma và những trách nhiệm của cái tên ấy. Đơn giản  tôi chỉ là một người bình thường. Do bởi thế, tôi đơn giản đang đổi diện một số vấn nạn, đôi khi là những vấn nạn không cần thiết ở đấy.

Rồi thì, có một vấn đề khác. Một số người đến để thấy tôi với niềm tin rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma có năng lực chửa bệnh. Điều đó là vớ vẫn. Dĩ nhiên, trước tiên nhất, tôi không tin trong những năng lực chửa bệnh như vậy. Chỉ chạm vào một người nào đó một cách vật lý và chửa lành một căn bệnh là không thể có. Nếu có những người thật sự có những năng lực chửa bệnh như vậy, thế thì sau cuộc hội họp này, tôi muốn gặp họ, bởi vì, quý vị thấy, ở đây là ngón tay nhỏ bé của tôi. Trong một lần tôi viếng Hoa Kỳ, tôi đã gặp một người Mông Cổ, tôi đã bắt tay với người đó một cách thông thường, nhưng người đàn ông ấy không buông tay tôi ra. Và bây giờ như một kết quả, ngón tay tội nghiệp của tôi hơi bị tổn thương. Cho nên nếu có người nào đó có năng lực chửa bệnh, thì đây là cơ hội tốt để thừ nghiệm (Cười) Tôi không có gì đặc biệt, và bài nói chuyện của tôi cũng là một loại kinh nghiệm thông thường.

Rõ ràng, mọi người – cho dù là Đông hay Tây, giàu hay nghèo, có học vấn hay không, có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng – đều muốn một đời sống hạnh phúc. Và tôi nghĩ mọi người thậm chí muốn một giấc mơ hạnh phúc. Trong giấc mơ của chúng ta, chúng ta muốn hạnh phúc. Tôi tin rằng mục tiêu chính yếu của cuộc sống chúng ta – nói một cách phổ thông từ một quan điểm thế tục – là đế có một đời sống hạnh phúc. Nếu người nào đó thật sự đánh mất  hy vọng, thế thì chính thái độ đó đã làm ngắn lại tuổi thọ của họ. Trong trường hợp tệ hại nhất, tự tử cũng có thể xảy ra. Do vậy, mặc dù không có gì bảo đảm cho hạnh phúc hay một cuộc sống hạnh phúc, nhưng chúng ta tồn tại trên căn bản của hy vọng cho sự tốt đẹp hơn. Hy vọng có nghĩa là điều gì đó tốt đẹp. Thế nên, căn bản sự tồn tại của chúng ta là rất căn bản dựa trên hy vọng trong việc tìm ra một đời sống hạnh  phúc.

Nhằm để đạt được một đời sống hạnh phúc và thoải mái, tựu trung chúng ta tin tưởng rằng những tiện nghi vật chất là căn bản. Tôi nghĩ chúng ta đến từ một xã hội hay cộng đồng hay thế hệ nơi mà những tiện nghi vật chất đang thiếu thốn. Vì thế xu hướng tinh thần của chúng ta là tìm ra những tiện nghi khác – hơn là thêm tiền bạc, thêm tiền bạc nữa. Hay thí dụ, quan tâm hàng đầu của một người đói là thức ăn, thức ăn, thức ăn. Nhưng bây giờ, dường như rằng con người từ những gia đình hay xã hội vốn bị ảnh hưởng bởi vật chất và có mọi tiện nghi vật chất cũng đang bắt đầu hiểu được sự giới hạn của những giá trị vật chất. Điều này hoàn toàn tự nhiên. Những tiện nghi vật chất bên ngoài chỉ có thể cung ứng thoải mái trên trình độ vật lý.

Một cách căn bản chúng ta là những tạo vật xã hội. “Tạo vật xã hội” có nghĩa là tương lai hay sự cát tường của mỗi cá nhân lệ thuộc vào một nhóm con người. Do vậy, đó chính là bản chất tự nhiên của chúng ta. Nhưng cá nhân con người đôi khi đánh mất khái niệm đó. Cá nhân trở nên quan trọng hơn phần còn lại của cộng đồng. Cho nên thay vì tôn trọng hay quan niệm rằng cộng đồng là căn bản của tương lai họ, thì họ lại lợi dụng, bóc lột, và bắt nạt những kẻ khác.

Và vì thái độ tin thần của chính chúng ta là như thế, cho nên rất có thể chúng ta trở thành có ấn tượng rằng những người khác cũng có thái độ tương tự như vậy – rằng họ chỉ bóc lột hay lợi dụng ta. Qua niềm tin đó, chúng ta tự nhiên lớn lên nổi sợ hãi, nghi ngờ, và xa cách với người khác. Sâu thẩm bên trong, điều đó mang đến một cảm giác của cô đơn và bất lực. Một khi chúng ta ở trong một tình trạng tinh thần khổ não như vậy, thì chúng ta chán chường. Điều đó mang đến sân hận. Điều đó tàn phá sức khỏe và những mối thân hữu. Cho nên loại thái độ này rất chống lại căn bản tự nhiên của chúng ta như một tạo vật xã hội. Do bởi căn bản tự nhiên của chúng ta như những tạo vật xã hội, thì chúng ta phải có những cảm giác thật gần gũi đối với cộng đồng của chúng ta. Thái độ tinh thần đó thường được chúng ta gọi là tình cảm hay thương cảm.

Nếu chúng ta mở rộng cảm nhận quan tâm chân thành của chúng ta với sự tôn trọng, thì điều đó mang đến mối thân hữu và tin tưởng chân thành. Liên tục sợ hãi, sân hận, hay thù oán là rất tệ hại cho sức khỏe của chúng ta. Một số nhà khoa học có một lần đã nói với tôi rằng, sân hận, thù oán, và sợ hãi thật sự ăn mòn những hệ thống miễn nhiễm của chúng ta. Ngay cả nếu chúng ta có mọi tiện nghi vật chất và nằm nghĩ trên một chiếc giường thoải mái, nhưng nếu chúng ta đầy sợ hãi và sân hận, thì hệ thống miễn nhiễm của chúng ta sẽ giảm thiểu. Trái lại, nếu chúng ta chỉ nghèo tiện nghi nhưng đầy tự tin, hạnh phúc, khuyến khích tốt đẹp, thế thì hệ thống miễn nhiễm của chúng ta duy trì cát tường. Cho nên, sức khỏe thân thể chúng ta cũng rất liên hệ với thái độ tinh thần của chúng ta.

Tôi thường đề cập một nghiên cứu đặc thù được tiến hành bởi một nhóm nhà khoa học, ở đấy họ đem những con khỉ trẻ nào đó, và để vài con với bà mẹ chúng, và vài con khác bị tách khỏi mẹ. Những con khỉ con ở với khỉ mẹ thì luôn luôn vui đùa hạnh phúc; chúng hiếm khi tranh cải. Nhưng những con khỉ bị tách khỏi khỉ mẹ thì luôn luôn trong tình trạng buồn bã và thường tranh cải nhau. Con người chúng ta cũng giống như vậy. Những người thiếu tình cảm từ gia đình họ khi thơ ấu có những đời sống thật  khó khăn. Sự học vấn của họ đau khổ do bởi quá nhiều bất hạnh. Sự lớn mạnh thân thể cũng đau khổ - điều này là rất rõ ràng. Nhưng điều tệ hại nhất , cả cuộc đời còn lại của họ, họ thấy khó khăn biểu lộ tình cảm cho người khác. Những người này thường trở thành những con người sân hận và chán chường. Sự chán chường biến thành sân hận, và sự sân hận biến thành bạo động.

Thậm chí rồi có cả  một số ít biến thành những kẻ gây rối. Những con người này có thể bị cô lập, vì thế họ không thể ảnh hưởng sự thân hữu hạnh phúc, tin tưởng, và chân thành trong toàn xã hội còn lại. Nhằm để tạo nên một gia đình hạnh phúc và thương cảm, trước tiên nhất, mối thương cảm phải bắt đầu từ cá nhân. Cho nên khi chúng ta nói về một thế giới hạnh phúc hơn và hòa bình hơn, thì tôi tin khởi đầu trước tiên phải đến từ cá nhân. Dĩ nhiên, nhiều cá nhân biết điều đó. Do thế, mỗi chúng ta có một tiềm năng nào đó để tạo nên một thế giới hạnh phúc.

Tương lai và hạnh phúc của một cá nhân tùy thuộc vào thế giới còn lại. Bây giờ thí dụ, lấy trường hợp của chính tôi – tôi là một cá nhân con người, chỉ là một người trong sáu tỉ người. Quá nhiều thứ về tương lai của tôi lệ thuộc vào cát tường cua sáu tỉ con người. Nếu tất cả những con người còn lại đang đối diện với những khó khăn, thế thì sẽ có thêm bạo động, và tôi phải có sự sợ hãi liên tục. Và với sự hòa bình của chính tâm tư tôi ở trong hiểm họa, và thật khó khăn cho tôi có một đời sống hạnh phúc.

Rồi thì, đặc biệt trong thế giới ngày nay, có một thực tế mới. Nền kinh tế toàn cầu lệ thuộc hổ tương nhau một cách sâu sắc. Có vấn đề môi trường. Đây là những vấn đề phổ quát, những vấn đề toàn cầu. Cho nên, trong thực tế mới này, khái niệm về một cá nhân hay chỉ nghĩ trong dạng thức của “tôi” và “thế hệ tôi” là không còn thực tế nữa. Theo thực tế  mới, những chữ “chúng tôi” và “họ” là không liên hệ. Toàn bộ thế giới còn lại thật sự là một bộ phận của ta. Do vậy, theo thực tế đó, chúng ta phải có một cảm nhận quan tâm – một cảm nhận chân thành cho toàn bộ thế giới, cho toàn bộ nhân loại.

Rồi thì, có chủ đề của thế giới hòa bình. Thế giới hòa bình một cách tự nhiên đến qua hòa bình nội tại. Nếu, bên trong, là đầy thù oán, nghi ngờ, không tin tưởng, thì không thể tạo nên hòa bình. Cho nên hòa bình phải đến từ bên trong.

Thù hận, nghi ngờ, không tin – đây là những trạng thái bạo động của tâm thức. Nhằm để tạo ra hòa bình nội tại, chúng ta phải giải trừ quân bị. Qua sự giải trừ quân bị bên trong, thì có khả năng thật sự để đạt được sự giải trừ quân bị bên ngoài. Điều này là hợp lý. Nhân và quả, nhân và quả. Mọi hành vi tích cực và tiêu cực cua con người liên hệ với cảm xúc và động cơ của chúng ta. Vì vậy  cho nên, nhằm để đạt được một nền hòa bình thế giới chân thành trường cửu, trước tiên, chúng ta phải chăm sóc niềm hòa bình bên trong cá nhân chúng ta. Tôi nghĩ điều đó là quan trọng. Bây giờ, những nhân tố quan trọng nhất là một cảm nhận quan tâm và trách nhiệm, và một cảm giác cộng đồng. Những điều này, tôi nghĩ, là các nhân tố then chốt.

Cho nên bây giờ đi đến câu hỏi về thương cảm hay tình cảm. Tình cảm không phải là điều gì mới đối với chúng ta. Cách chúng ta được sanh ra, lập tức sau khi được sanh ra, chúng ta tiếp nhận tối đa tình cảm từ các bà mẹ của chúng ta, và với điều đó, chúng ta tồn tại. Do thế, thân thể này và cuộc sống này được khởi đầu trong một không khí của tình cảm hay thương cảm. Đó là cung cách. Và, theo những nhà y học, sau khi sanh ra, trong vài tuần tới chi có sự xúc chạm của bà mẹ là cần thiết cho sự phát triển thích đáng của não bộ đứa bé. Vì vậy, đó là cung cách vốn không phải đến từ tôn giáo mà là thực tế.

Một lần ở Ba Lan, tôi đã viếng thăm một nhà trẻ. Những đứa trẻ đó, người tổ chức nói với tôi, là “những đứa trẻ không ai mong muốn”. Mặc dù có người cho chúng ăn uống và mặc áo quần, dĩ nhiên, và dạy dỗ chúng một ít và nơi cư trú ở đó, nhưng tôi không nghĩ tâm hồn những đứa trẻ đó thật sự hạnh phúc, vì các bà mẹ đã từ bỏ chúng. Thật là tai hại đối với trẻ con. Vì thế cho nên, tình cảm, tôi nghĩ, là một sản phẩm vật lý, một sản phẩm sinh học. Tuy nhiên, nếu chúng ta phân tích xa hơn, tình cảm hay thương cảm vốn chính yếu đến từ một nhân tố sinh học là thiên kiến hay giới hạn. Loại thương cảm định kiến không thể mở rộng đến một người xa lạ, vì hành động của người đó không tổn hại cũng không lợi lạc cho ta – nó là trung tính. Do vậy, một thái độ tình cảm là khó khăn. Rồi thì, một cách đặc biệt với kẻ thù ta, vì thái độ của người đó là tổn hại cho ta, cho nên không có căn bản cho thương cảm. Nhưng bây giờ, qua lý do vì chúng ta là những tạo vật xã hội – một cách đặc biệt trong thực tế ngày nay, nơi mà mọi thứ là liên hệ hổ tương, từ quan điểm y học cũng thế - nhiệt tình thương cảm hơn là tốt cho sức khỏe.

Rồi thì, có sự phát triển thương cảm. Sân hận là tai hại cho sức khỏe của chính ta, rất tai  hại. Cũng tai hại cho tình thân hữu với bạn bè của ta. Trong những mối quan hệ quốc gia, trong mọi lãnh vực, sân hận và thù oán là tai hại. Vì vậy, chúng ta phải cố gắng một cách thận trọng để giảm thiểu tối đa những cảm xúc tiêu cực, và cố gắng một cách thận trọng để tăng cường các cảm xúc tích cực. Rồi thì, thương cảm hay tình cảm có thể tiến xa hơn từ hai phía.

Bây giờ ở đây, thật không hợp lý để nói rằng chúng ta nên mở rộng lòng thương cảm đối với kẻ thù ta bởi vì kẻ thù đang làm tổn hại ta. Cho nên, chúng ta phải tiếp cận nó trong một cung cách khác biệt. Điều đó có nghĩa là, kẻ thù đang làm tổn hại ta một cách trực tiếp, bên dưới người ấy cũng là một bộ phận của con người. Vì thế, tương lai của chúng ta thế nào đó cũng liên hệ với người đó. Tối thiểu, nếu do bởi thái độ của người đó, ta để tự ta nổi giận với người đó, nó tai hại cho sức khỏe của chính ta. Thế nên, tốt hơn là giữ một thái độ tích cực đối với người đó. Cũng vậy, về lâu về dài, nếu ta tiếp tục giữ tình cảm, kẻ thù hôm nay có thể một ngày nào đó trở thành người bạn tốt của ta. Còn nếu chúng ta tiếp tục giữ thái độ tiêu cực của ta, thì điều đó đóng lại cánh cửa khả dĩ trở thành bằng hữu. Sử dụng những loại lý trí này, thì chúng ta có thể không để ý đến thái độ của kẻ thù ta.

Bây giờ, thí dụ lấy trường hợp của tôi. Tôi có một lượng thương cảm – từ bi nào đó. Hạt giống của điều này không phải đến từ thầy tôi hay giáo lý nhà Phật, nhưng từ bà mẹ tôi. Mẹ tôi rất tử tế. Bà là một nông dân mù chữ - một bà mẹ làng quê – nhưng là một người có trái tim rất, rất ấm áp. Mẹ tôi cũng rất thương cảm. Ở độ tuổi rất trẻ - một hay hai tuổi – khi với những đứa con khác, mẹ tôi luôn luôn bồng tôi. Cho nên, đôi khi, tôi thường bắt nạt mẹ tôi. Tôi nắm tai mẹ tôi. Nếu tôi muốn đi hướng này, tôi sẽ làm như thế. (Diễn tả kéo tai) Nếu mẹ tôi đi một hướng mà tôi không muốn, thì tôi sẽ khóc, cậu bé đó, vốn hung hăng hơn mẹ tôi. Rất xấu. Thế nên mẹ tôi thật là tử tế. Tôi luôn luôn cảm thấy rằng hạt giống thương cảm hôm nay có gốc rễ từ mẹ tôi. Mọi người đều có mẹ. Vì thế, cho nên, lòng thương cảm là điều gì đó quan trọng và mọi người có tiềm năng của điều đó từ lúc sanh ra. Vấn đề duy nhất là chúng ta có chú ý hơn hay không và có thực hiện nổ lực đó hay không. Về phương diện khác, mọi người đều có tiềm năng. Một khía cạnh khác của lòng thương cảm là một thái độ thương cảm hơn có nghĩa rằng, sâu bên trong, có một sự tự tin. Do vậy, điều đó có nghĩa rằng, sâu bên trong, chúng ta có sức mạnh.

Với nhiều sân hận và thù oán, thì sẽ đi đến có một chút của sự không chắc chắn. Lòng thương cảm – từ bi có nghĩa không chỉ nghĩ về tự chính mình mà thôi mà là chăm sóc người khác, quan tâm đến người khác. Điều đó có nghĩa là chúng ta có sự chắc chắn, sức mạnh.  Một thái độ vị kỷ có nghĩa là không nghĩ về người khác mà chỉ nghĩ về những thứ của tự thân mà thôi – điều đó mang đến sự lo âu. Vì thế cho nên, lòng thương cảm – từ bi mang đến sức mạnh nội tại. Sức mạnh  nội tại mang đến một tâm tĩnh lặng. Tâm tĩnh lặng là một nhân tố rất quan trọng cho việc thể hiện các chức năng của não bộ. Sợ hãi là rất tệ hại. Sân hận cũng thế. Khi đời sống của chúng ta là rất phức tạp, thì chúng ta cần những sự phân tích một cách rõ ràng. Không hiểu biết về thực tại, không có sự hổ trợ của phân tích thì chúng ta không thể thấy thực tại. Rồi thì tất cả mọi hành vi của chúng ta đều trở thành không thực tế.

Thí dụ, nếu vài con muỗi đến, thì không cần phải phân tích nhiều. Nếu quý vị cảm thấy đói bụng, thế thì không cần phải phân tích – chỉ nghĩ về thức ăn. Cho nên khi ta đang đói bụng, chúng ta không cần phải nhờ đến những sự phân tích phức tạp, thí dụ, tự hỏi sự đói của ta sẽ được hài lòng với muỗng đầu đầy thức ăn hay muỗng thứ hai hay thứ ba, và v.v… Thức ăn ấy được làm từ những phân tử nào, chuyện gì xảy ra trong bao tử - không, quý vị không cần những thứ này, chỉ ăn mà thôi. Nhưng khác đi, quý vị thấy, đối với những hành động phức tạp hơn, chúng ta cần một sự thấu hiểu rõ ràng, một sự tỉnh thức rõ ràng về thực tế mục tiêu của chúng ta. Vậy nên, nhằm để biết biết thực tại, chúng ta cần khảo sát qua những phương hướng hay phương diện đa dạng. Chỉ một chiều kích thì không đủ.

Một trong những người bạn khoa học gia của tôi một lần nọ đã nói với tôi rằng khi ta phát triển sân hận, thì đối tượng sân hận của ta xuất hiện một cách tiêu cực. Vì vậy khoảng chín mươi phần trăm tiêu cực ấy thật sự là sự phóng chiếu tinh thần hay vọng tưởng. Điều này không đến từ kinh điển tôn giáo mà đến từ những nhà khoa học. Kinh điển Phật giáo cũng đã đề cập giống như vậy. Khi tâm ta bị khích động, thì ta không thể thấy thực tại, vì sự khích động chỉ đến từ một khía cạnh của đối tượng. Cũng có những khía cạnh khác nữa.

Bây giờ, thí dụ, chúng tôi đánh mất quê hương của chúng tôi hơn năm mươi năm qua. Nếu tôi nhìn vào khía cạnh đó, sự đau buồn của tôi gia tăng. Nhưng nếu tôi có thể nhìn cỏa cùng sự kiện từ một khía cạnh khác: vì chúng tôi đánh mất quê hương, cho nên chúng tôi có được cơ hội mới của việc gặp gỡ những người khác nhau. Và đặc biệt là tôi – tôi thấy những cuộc gặp gỡ với những nhà khoa học là rất hữu ích. Việc gặp gỡ những người từ những truyền thống tín ngưỡng khác nhau cũng rất, rất lợi lạc để thấu hiểu những giá trị của các truyền thống tôn giáo khác. Nếu tôi vẫn ở Lhasa – trong điện Potala, mà người ta đôi khi gọi là Chiếc Lồng Vàng – thế thì tâm thức tôi sẽ không như là hôm nay, tôi nghĩ thế. Dĩ nhiên, ngay cả hôm nay, tôi đang học điều gì đó mới mẻ qua sự tiếp xúc cá nhân, trong căn bản ngày qua ngày.

Và nhiều người Tây Tạng – tối thiểu 150,000 người Tây Tạng – có được cơ hội mới này với tôi, về việc  học hỏi những điều mới mẻ và kết giao thêm bạn bè. Và điều đó vô cùng lợi lạc, để gia tăng tỉnh thức về nền văn hóa Tây Tạng. Thế nên sự kiện tiêu cực này đã mang đến nhiều thứ tích cực. Do vậy, hãy nhìn từ nhiều khía cạnh khác nhau. Không cần phải buồn lo nhiều. Ah, cũng có những thứ tích cực ở đấy. Kẻ thù của ta – nếu ta nhìn vào một hành động đặc thù nào đó, thì cảm thấy chán nản và giận dữ. Nhưng nếu ta nhìn từ một khía cạnh khác, người ấy cũng không tệ hại như vậy. Nếu ta làm một sự so sánh, một người khác thậm chí tệ hại hơn. Thế thì sự kiện này có thể dễ chấp nhận hơn. Hãy nhìn một sự kiện từ những khía cạnh khác nhau và những chiều kích khác nhau. Một chiều kích, bốn chiều kích, sáu chiều kích. Sau đó ta có được một cục diện rõ ràng hơn về thực tại. Do thế, để tiến hành những sự khảo sát như vậy, một tâm thức bình thường và định tĩnh là rất quan trọng. Một tâm khích động không thể tiến hành loại chức năng ấy đúng đắn. Vì vậy, cũng từ quan điểm ấy, tâm từ bi là điều gì đó quan trọng và đáng giá. Tôi nghĩ rằng đó là về năng lực của từ bi. Quý vị nghĩ gì, có phải là hợp lý không? (Cười)

Vì thế đây là điều mà tôi gọi là những giá trị thế tục. Không liên hệ gì với tôn giáo. Và cung cách tiếp cận cũng không dính dáng gì với tôn giáo. Nhưng đơn giản, hãy sử dụng cảm nhận thông thường, kinh nghiệm thông thường của chúng ta và những khám phá của khoa học. Dĩ nhiên, những người tin tưởng tôn giáo hữu thần sử dụng khái niệm về Thượng đế để thúc đẩy những thứ này. Và thái độ của tôn giáo vô thần, luật nhân quả, hãy sử dụng khái niệm ấy và thúc đẩy từ bi. Tất cả những truyền thống tôn giáo quan trọng cùng mang một thông điệp. Thông điệp của từ ái, bi mẫn, tha thứ mặc dù triết lý khác nhau. Đó là chí nguyện thứ hai của tôi – việc thúc đẩy hòa hiệp tôn giáo.

Trên tất cả những giá trị cảm xúc nhân bản. Như tôi đề cập trước đây, qua một sự tiếp cận thế tục. Cho nên nếu quý vị có một sự quan tâm nào đó vậy thì hãy thẩm tra xa hơn, quán chiếu xa hơn, và rồi thì hãy cố gắng để thực hiện. Sau đó quý vị sẽ có một số kinh nghiệm. Nếu quý vị cảm thấy điều gì đó tốt đẹp, điều gì đó hữu dụng, thế thì đưa nó xa hơn, hãy thực hành. Nếu quý vị cảm thấy không có giá trị, lợi lạc gì nhiều, thế thì hãy quên đi, không có vấn đề gì.

Cảm ơn, đó là phát biểu của tôi, bây giờ là câu hỏi.

HỎI VÀ ĐÁP

 HỎI: Khi tâm thức tiêu cực của chúng ta mạnh quá vì thế chúng ta không thể áp dụng những sự đối trị, chúng ta phải làm gì?

ĐÁP: Tôi nghĩ đối với những cảm xúc tiêu cực chẳng hạn như sân hận hay sợ hãi, thì có hai loại. Một sợ hãi nào đó là hợp lý và hữu ích và một sợ hãi nào đó là không cần thiết. Vì vậy, một cách căn bản, tôi nghĩ thù oán sinh ra một cảm giác rất tiêu cực. Trái lại, sân hận cũng có thể tích cực và tiêu cực, cũng như thái độ vị kỷ.

Như tôi đề cập trước đây, trong sự sợ hãi tiêu cực và sân hận liên tục hay quá nhiều dính mắc, trong thời khắc ấy việc thực hành đối trị là khó khăn. Thì phải có một loại trạng thái trung tính. Tôi  nghĩ phương pháp dễ dàng nhất là chỉ quên lãng đối tượng mà chúng ta cảm thấy tiêu cực, quên nó đi, chỉ quan tâm đến hơi thở, thở vào, thở ra, chỉ thiền tập về hơi thở. Hai mươi lần, ba mươi, bốn mươi, một trăm lần. Rồi thì sau đó, tâm thức chúng ta hơi tĩnh lặng hơn. Sau đó có thể quán chiếu dễ dàng hơn, để áp dụng những phương pháp đối trị. Ngay thời điểm đó, đừng nghĩ cả hai bên, hãy thiền tập về hơi thở. Sau đó một lúc tâm tư ta sẽ tĩnh lặng hơn, rồi thì hãy nghĩ về những phía tích cực. Hãy cố gắng điều đó. Đó là một phương pháp.

Rồi thì một cách căn bản giống như hệ thống miễn nhiễm của chúng ta, thái độ căn bản của chúng ta là quan trọng. Nếu thái độ căn bản của chúng ta từ bi hơn và rồi thì những sự khích động nào đó đến và đi, và không có tác động nhiều. Thế nên, nếu thái độ căn bản của chúng ta là nghèo nàn, thì không dễ xử trí những thứ này. Nhằm để phát triển thái độ tích cực hơn, đầu tiên chúng ta cần tri thức. Rồi thì thứ đến là,  hãy nổ lực liên tục. Kế đến thứ ba là nhân tố thời gian. Hãy nổ lực liên tục với tri thức trọn vẹn hơn. Hàng tuần hay hàng tháng có thể cho một kết quả tích cực. Hàng năm có thể cần đến. Rồi thì thái độ tinh thần chính yếu của ta có thể được chuyển hóa. Cho nên chúng ta cần nhẫn nại. Và một số hành giả của chúng ta, một số người muốn thay đổi một cách nhanh chóng. Điều đó là không thực tế với sự mong đợi của ta. Không thực tế. Cần thời gian. Việc định hình tâm thức ta cần thời gian. Không dễ dàng. Câu hỏi tiếp.

HỎI: Cội nguồn sức mạnh và chịu đựng của ngài là gì khi đối diện với sự xúc phạm?

ĐÁP: Ngủ ngon! Ăn ngon! (Cười) Rồi thì, dĩ nhiên, những gì tôi gọi là thiền quán (phân tích). Ah, có một số vấn đề rắc rối. Như Shantideva nói, tôi lập lại hàng ngày câu: “Khi đối diện với thảm kịch, hãy suy nghĩ. Rồi thì khi có cách để vượt thắng thảm kịch ấy, thế thì không cần phải lo lắng, hãy thực hiện nổ lực để hành động về việc đó. Nếu không có cách để chiến thắng thảm kịch, thế thì lo lắng không ích gì. Hãy chấp nhận.” Như một Phật tử, hãy đổ thừa nghiệp. Hãy chấp nhận. Nếu bạn tin tưởng Thượng đế, với một mức độ nào đó, với sự tôn kính, hãy đổ thừa Thượng đế.

HỎI: Phương pháp nào hữu ích nhất của việc có được đạo đức, để động viên mọi người tất cả mọi tầng lớp, một cách cá nhân hay trong từng nhóm, để tha thứ những lỗi lầm trước đây, và không có ý xấu đối với người khác?

ĐÁP: Tôi nghĩ tha thứ có lẽ liên hệ với việc chấp nhận thực tế. Điều gì đó xảy ra. Điều gì xấu xảy ra. Hãy chấp nhận nó. Rồi thì nếu người khác làm gì đó, hãy tha thứ. Ôm ấp cảm giác xấu thì không lợi ích gì. Tha thứ không có nghĩa là quên lãng. Hay tha thứ không có nghĩa là chấp nhận việc làm sai trái của người khác. Tôi nghĩ tinh yếu là không có những cảm giác tiêu cực chẳng hạn như sân hận sinh khởi đối với người làm sai. Tha thứ không có nghĩa là ta chấp nhận việc làm sai của những người khác. Bây giờ khi ta quan tâm đến việc làm sai, trong một số trường hợp chúng ta cần biện pháp đối phó nhằm để chấm dứt việc làm đó. Nhưng biện pháp đối phó nên được tiến hành với một cảm giác quan tâm cho người làm sai. Nếu ta để người làm sai liên tục làm sai, họ sẽ bị tổn hại. Cho nên vì một cảm nhận quan tâm, vì lòng từ bi, hãy ngừng họ lại. Hãy cố gắng để dừng lại. Hãy sử dụng những biện pháp đối phó nào đó. Điều đó, tôi nghĩ, thật sự không để sân hận phát ra, vì một cảm nhận quan tâm lòng từ bi. Đó là cảm nhận đúng đắn của tha thứ. Quý vị thấy, đôi khi người ta có ấn tượng rằng sự thực hành từ bi liên hệ với một loại ngu ngơ nào đó, không thể phân biệt giữa đúng và sai. Hay dững dưng. Không phải như vậy.

HỎI: Thật là kinh ngạc khi thấy người Tây Tạng vẫn còn đủ sự đồng nhất để nổi dậy chống nhà cầm quyền Trung Cộng như họ làm đầu năm nay. Ngài có thể nói với chúng tôi những gì ngài biết về vị thế của người Tây Tạng ở Tây Tạng trong dạng thức của bản sắc dân tộc, và sức sống của sự tồn tại Phật giáo, sức mạnh của Phật giáo, trong họ?

ĐÁP: Tôi  nghĩ bản sắc của mỗi cộng đồng nhân loại là rất liên hệ với văn hóa và di sản văn hóa của nó. Một giáo sư đến từ Hoa Lục và rất trung thực và không thành kiến một lần đã diễn tả, “nền văn hóa Tây Tạng mạnh hơn nền văn hóa Trung Hoa.” Ông đã nhận xét như thế.

Thí dụ, Trung Hoa gần đây đã rất cởi mở với thế giới bên ngoài, và bây giờ, rất nhiều người trẻ Trung Hoa đang đổ xô bắt chước nền văn hóa phương Tây. Kể cả nền văn hóa ở đây. (Chỉ vào đầu ngài) Quý vị cũng có thể thấy điều này trong những người Nhật Bản. Tôi nghĩ trong những người Ấn Độ, rất ít người nhuộm tóc của họ. Dĩ nhiên, một số diễn viên cần nhuộm tóc cho phim ảnh mà họ đang quay; nhưng trong những trường hợp khác thì rất ít người nhuộm tóc ở Ấn Độ.

Dĩ nhiên, tôi nghĩ một cách phổ quát, thì tôi không phải chuyên môn trong những thứ này – mà chúng ta cần nghiên cứu hơn nữa. Vì Ấn Độ là một phần thuộc địa của đế quốc Anh, nền giáo dục Anh quốc của người Ấn Độ là rất tốt, nhưng họ vẫn duy trì nền văn hóa của họ. Trong những người Tây Tạng, tôi đã thấy một ít người nhuộm tóc của họ trong những màu sắc khác nhau. Nhưng người Tây Tạng, nói chung, cũng có một nền văn hóa hữu dụng truyền thống lâu dài. Tôi nghĩ điều đó đã cho họ một loại sức mạnh  nội tại nào đó. Phật giáo cũng hổ trợ một cách nào đó. Tôi thường phát biểu khát vọng rằng những người nào đó nên tiến hành việc nghiên cứu để quyết định tình trạng tinh thần của những người tị nạn – những người tị nạn từ Tây Tạng, từ Shinjang (Tân Cương) gần Bangladesh, và cũng từ những quốc gia Phật giáo khác như Campuchia và Việt Nam. Những khác biệt gì trong các trình độ tinh thần của họ? Tôi đã gặp một số người tị nạn từ  Shinjang, những người gần sáu mươi. Thái độ của họ và thái độ của người Tây Tạng đối với người Trung Hoa hơi khác nhau.

Tôi nghĩ điều này phải là do bởi một sự khác biệt trong lòng từ bi. Những người Tây Tạng chúng tôi cầu nguyện và cầu nguyện cho “tất cả”, có nghĩa là tất cả chúng sanh. Có  nghĩa là kể cả những anh chị em Trung Hoa. Qua sự tuyên truyền gần đây của chính quyền, nhiều người Trung Hoa có cảm giác rằng những người Tây Tạng chúng tôi chống người Hoa. Chắc chắn là không. Những người Tây Tạng chúng tôi tôn trọng dân tộc Trung Hoa rất nhiều – như một dân tộc văn hóa, làm việc cần mẫn, và thực tiển. Bất cứ nơi nào người Trung Hoa sống, họ cuối cùng tạo nên một phố Tàu (Chinatown), với ngôn ngữ Trung Hoa, chữ viết Trung Hoa, và chắc chắn là với thực phẩm Trung Hoa, thực phẩm tuyệt vời! Cho nên quý vị thấy, họ là những người làm việc cần mẫn và văn hóa. Nhưng rồi thì, do bởi sự tuyên truyền của chính quyền, họ đã quay sang chống lại Tây Tạng rất nhiều. Và điều đó là rất xấu, rất xấu. Cho nên tôi muốn làm rõ điều này – chúng tôi luôn luôn tôn trọng dân tộc Trung Hoa, nhưng chúng tôi không tôn trọng chính quyền Trung Cộng và chế độ chuyên chế. Mọi người đều biết bản chất của loài người là yêu tự do. Chủ nghĩa chuyên chế là một chướng ngại cho tự do. Cho nên xin vui lòng đừng hiểu sai sự ngoan cường chống lại chế độ chuyên chế của chúng tôi. Nó không nên bị xem là hành động chống lại người Hoa, xin quý vị.

HỎI: Những tôn giáo khác nói về sự bắt đầu và kết thúc của thế giới. Đức Phật nói gì về điều này?

ĐÁP: Không phải chỉ Đức Phật mà Mahavira, vị thầy của đạo Jain (Kỳ Na giáo), như tôi biết, cả hai tin tưởng trong luật nhân quả. Cho nên luật nhân quả có nghĩa là một sự kiện nào đó xảy ra qua những nguyên nhân của chính nó. Nguyên nhân đó cũng qua những nguyên nhân của chính nó. Vì thế từ cung cách ấy, nguyên nhân của một sự kiện khác thật sự là một sự kiện, của chính nguyên nhân của nó.

Bây giờ thí dụ, Big Bang, vụ nổ lớn. Thế nào đi nữa nó là sự bắt đầu của một vũ trụ mới. Nhưng Big Bang phải có những nguyên nhân và điều kiện của chính nó. Nhưng rõ ràng năng lượng kinh khủng, năng lượng dày đặc vốn tạo nên Big Bang. Vậy thì năng lượng ấy đến từ đâu, nguyên nhân và điều kiện của nó là gì, để đi đến nơi chốn bắt đầu.

Rồi thì một khía cạnh  khác là trình độ vật lý. Một khía cạnh khác là một tự ngã. Tự ngã. Một tự ngã độc lập. Tự ngã thiết kế phức thể thân và tâm. Như tôi đã đề cập trước đây, những phân tử căn bản của thân thể này đến từ cha mẹ đến cha mẹ đến cha mẹ đến cha mẹ. Và vì thế nó đi đến, sự bắt đầu của thế giới, trước đó, không gian trống rỗng, có những hạt; thậm chí là những hạt vi tế là nguyên nhân của sự phát triển sau này. Do thế, thân-tâm ngày nay là sự tương tục căn bản của những hạt thân-tâm liên hệ với thời điểm trước. Vì vậy nó là không có sự bắt đầu, vô thỉ. Tương tự thế, tâm thức là một hiện tượng khác. Nó không có tướng mạo, màu sắc, hình thức. Do vậy nó thay đổi luôn luôn. Điều đó có nghĩa là phải có những nguyên nhân.

Người Phật tử nói không có sự bắt đầu của tự ngã, vì không có bắt đầu của tâm thức. Nếu quý vị chấp nhận sự bắt đầu của tâm thức, thế thì tâm thức nguyên thỉ phải đến từ những loại hiện tượng khác. Điều đó là không hợp lý. Điều đó là căn bản những đời sống trước và sự tái sanh. Nếu quý vị cảm thấy không thoải mái, thế thì quên nó đi. Đừng nghĩ. Bây giờ kết thúc trong Phật giáo, trong truyền thống Phật giáo, có hai loại. Một nói, sau giai tầng Phật, một giai tầng cao hơn, cơ thể của một người biến mất. Nhưng hầu hết mọi truyền thống Phật giáo phủ nhận điều đó. Không có lý do gì để chấm dứt tâm thức của chúng ta. Do vậy cho nên, quan điểm của Phật giáo, tâm thức là không có bắt đầu và không có kết thúc, vô thỉ và vô chung.

HỎI: Mục tiêu của sự sống của tôi là gì và đặc biệt hơn, mục tiêu sự sống của tôi được phục vụ tốt nhất trong dạng thức của một nghề  nghiệp tương lai và năng lực của tôi liên  hệ với sinh kế của tôi với sự phát triển tâm linh của tôi như thế nào? Thí dụ, ngay bây giờ, tôi làm trong một công ty Hoa Kỳ, trong thương nghiệp, và tạo nên một cuộc sống tuyệt vời nhưng cảm thấy không đầy đủ và vướng mắc thế nào đấy. Tôi biết đây là sáng tạo của riêng tôi, có phải trở thành nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe hoặc y tá cho người sắp chết sẽ phù hợp hơn với tôi trong cuộc sống này  hay không? Điều này có nghĩa là trở lại trường học và kiếm được ít tiền hơn. Nói tóm lại, bước tiếp theo của tôi là gì trong việc nhận ra, và tiến tới, kiếp sống tới của tôi?

ĐÁP: Tôi cảm kích câu hỏi chân thành của bạn. Rất tốt. Tôi nghĩ một cách căn bản như tôi đề cập trước đây, có những giá trị bên ngoài, giá trị vật chất, và những giá trị tinh thần hay giá trị bên trong. Tôi nghĩ chúng tôi nên tiến tới những giá trị nội tại. Cho nên tôi hoàn toàn đồng ý. Việc phụng sự, những giáo viên, y tá, đây là điều gì đó giúp đở, phục vụ một cách trực tiếp. Những thứ này thông thường tôi gọi là những hành động từ bi. Tuyệt vời. Nhưng nếu mọi người liên hệ trong việc điều dưỡng hay giảng dạy, thế thì tiền bạc sẽ đến từ đâu?

Chúng ta nên có những thương gia. Chúng ta nên có những người cộng tác trong các công ty. Và tôi nghĩ những người kinh nghiệm, thông tuệ là rất cần thiết trong lãnh vực này. Bằng khác đi, thế giới công ty sẽ sụp đổ. Cho nên xã hội con người cần những con người đa dạng và chuyên nghiệp. Nhưng ở đây, mọi hành động của con người, cho dù tiêu cực hay tích cực, cuối cùng tùy thuộc vào động cơ.

Làm ra tiền, không phải từ động cơ vị kỷ hay sự không hài lòng về lối sống xa hoa của ta, nhưng mà cũng nghĩ về thế giới và những người nghèo. Có rất nhiều người nghèo đói ở Phi châu. Nhiều người đang đối diện với nạn đói. Cùng là những con người. Cùng là nhân loại. Họ cũng có quyền để tồn tại. Không chỉ tồn tại mà hạnh phúc. Chúng ta cần tiền. Thế thì câu hỏi là chúng ta sử dụng tiền như thế nào.

Chỉ có một lối sống cá nhân xa hoa thì tôi nghĩ là sai đạo đức. Nhưng chúng ta cũng cần tiền. Và để tiêu dùng một cách thông tuệ. Khoảng cách này giữa giàu và nghèo là rất, rất tệ. Ở đây, bây giờ những người tỉ phú đang gia tăng. Người nghèo vẫn nghèo, đôi khi lại nghèo hơn. Điều đó là đáng xấu hổ, là tệ hại. Do thế, chúng ta cần tiền để giảm thiểu khoảng cách này, và cung cấp dụng cụ và chuyên môn qua giáo dục. Rồi thì những vùng nghèo hơn, thay vì chán chường và giận dữ, hoạt động cần mẫn cho giáo dục, cho huấn nghệ, căn cứ trên sự tự tin. Chúng ta là những con người giống nhau, chăm sóc nhau, chúng ta phải làm việc cần mẫn, và chúng ta phải rèn luyện. Cho nên tôi nghĩ chúng ta cần tiền. Tôi nghĩ chúng ta làm việc. Tiến hành với động cơ chân thành và một viễn cảnh toàn cầu. Tôi nghĩ điều đó là có thể. Đó là việc làm từ bi yêu thương. Việc làm tích cực. Rất tốt.

HỎI: Tôi ba mươi chín tuổi, tôi là một góa phụ. Chồng tôi chết sau một thời gian chống chỏi với ma túy và rượu. Ông quá liều vào lúc chỉ ba mươi sáu tuổi. Tôi cần tìm sự an tĩnh tâm hồn của tôi. Tôi vật vả với điều này mỗi ngày. Ngài có thể đề nghị những cung cách nào đó để tôi có thể tập trung vào chính tôi để giúp tôi tìm ra một lối thoát vượt qua nổi đau đớn và thống khổ này không?  Tôi yêu cuộc sống và tôi thích cảm thấy hạnh phúc. Tôi nhớ những cảm xúc này. Trái tim tôi nặng nề, và tâm hồn tôi tổn thương. Ngài có thể ban cho tôi bất cứ lời khuyên nào không? Cảm ơn.

ĐÁP: Rất buồn. Câu chuyện buồn. Tôi không biết. Như tôi đã đề cập trong sự thực tập của chính tôi. Tôi cũng đã trải nghiệm những thảm kịch. Điều đó đã xảy ra. Bây giờ tôi nghĩ một điều, nếu bà lo lắng, lo lắng, lo lắng, bà vẫn như thế. Nếu người chồng quá cố của bà thật sự yêu bà, và, tôi nghĩ, cha mẹ bà thật sự thương bà, do vậy trong một cung cách nào đó họ biết về tình trạng tinh thần của bà hôm nay.

Nếu tâm tư bà, trạng thái tinh thần của bà thay vì ở trạng thái này, thì hãy cố gắng để tĩnh lặng và tiến hành mọi công việc một cách bình thường, tôi nghĩ cha mẹ bà cũng như người chồng quá cố của bà, phải cảm thấy hạnh phúc. Nếu bà vẫn với loại tình trạng rất buồn thế này, trong cách nào đó, thì biết rằng cha mẹ bà và bạn bè của bà cũng sẽ cảm thấy rất buồn. Do vì thảm kịch đã xảy ra. Bây giờ tôi nghĩ thảm kịch này nên chuyển hóa sự tự tin của bà và mang đến năng lượng mạnh hơn, đời sống của bà nên là điều gì đó hữu ích cho xã hội, cho cộng đồng. Và qua cách ấy, bà sẽ đạt được sự tự tin hơn và vui sướng hơn. Nếu bà vẫn buồn, buồn, buồn, thế thì không có cách nào để đạt được sự tự tin.

Do vậy hãy làm việc cần mẫn. Và thảm kịch này, nỗi buồn thảm này, nên được chuyển hóa thành năng lượng mới. Hãy làm việc chăm chỉ. Và trường hợp  thảm kịch của bà, trong sáu tỉ con người, những thứ như vậy phải là vô số. Không chỉ trường hợp của riêng bà. Như vậy bà cũng thấy lợi lạc, tôi nghĩ thế. Đôi khi một thảm kịch nào đó xảy ra và rồi phản ứng đầu tiên của ta là, “Ô, tôi đã có kinh nghiệm loại này tệ hại như thế nào.” Rồi nghĩ, “Ô, trong sáu tỉ người, có nhiều người khác cũng trải nghiệm như tôi vậy, một số trường hợp thậm chí tệ hại hơn.” Điều đó đôi khi cũng rất lợi lạc, để giảm thiểu cảm giác không thể chịu đựng nổi của bà. Rồi thì nếu bà tin tưởng trong Thượng đế, thế thì hãy nghĩ về Thượng đế. Nếu đây là thảm kịch, thế thì ở trình độ sâu hơn, phải có ý nghĩa nào đó. Điều đó cũng giúp đở ít nhiều. Nếu bà là một người có tín ngưỡng, thế thì hãy sử dụng cảm nhận thông thường như tôi đề cập trước đây. Nếu sự thảo luận đưa đến một loại tri thức hay quan tâm đến Thượng đế, tôn giáo vô thần, thế thì tôi nghĩ luật nhân quả. Mỗi sự kiện, mỗi kinh nghiệm xảy ra qua nguyên nhân và điều kiện của nó. Cho nên một cách chính yếu những nguyên nhân này là do chính chúng ta tạo ra. Những hậu quả nào đó xảy ra hôm nay do bởi những hành vi nào đó trước đây. Điều đó cũng hữu ích.

Cảm ơn.

*

Ẩn Tâm Lộ, Friday, July 19, 2019