Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2019

TRÁNH LÀM TỔN HẠI




Nguyên bản: Refraining from Harm
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / Wednesday, February 20, 2019

-*-


Các Phật tử tiếp nhận thệ nguyện đạo đức (giới) trong phạm vi thứ nhất của quy y – trong Phật bảo, trong những thể trạng của thực chứng, và trong cộng đồng tâm linh. Quy y là nền tảng cho việc thực hành đạo đức. Đức Phật dạy chúng ta tìm nơi nương tựa thế nào từ khổ đau và giới hạn, nhưng nơi ẩn náo tốt nhất, cội nguồn của sự bảo vệ, được thấy trong những thể trạng của sự thực chứng được thành tựu qua việc  thực hành đạo đức, thiền tập trung, và tuệ trí (giới – định – tuệ).

Kinh điển Phật giáo giới thiệu rằng chúng ta che dấu những phẩm chất và những thành tựu tốt đẹp của chúng ta như một ngọn đèn bên trong một lục bình. Chúng ta không nên quảng bá nó ngoại trừ có một mục tiêu lớn lao trong việc làm như vậy. Nó được xem là một vi phạm nhỏ với thệ nguyện xuất gia nếu vị tu sĩ đạt được thể trạng giải thoát và nói với người nào đó rằng, “tôi đã thành tựu sự giải thoát.” Đây là trường hợp, thật khó khăn để quyết định thể trạng nào của kinh nghiệm nội tại mà một người khác đã đạt được. Tôi đã có cơ hội gặp vài người đã đạt được những sự phát triển tâm linh ngoại hạng. Đã có một tu sĩ vốn không học hỏi nhiều lắm từ tu viện Namgyel của tôi, đến Ấn Độ khoảng 1980. Vì chúng tôi biết nhau, cho nên chúng tôi ngẫu nhiên trò chuyện với nhau vào một ngày nọ. Ông nói với tôi rằng khi ông ở trong trại lao động khổ sai của Trung Cộng gần 18 năm, ông đã đối diện với nguy hiểm trong vài trường hợp. Tôi nghĩ rằng ông liên hệ đến việc đe dọa tính mạng của ông. Nhưng khi tôi hỏi, “Hiểm họa gì?” ông trả lời, “Đánh mất lòng từ bi đối với người Trung Hoa”. Ông xem đó là hiểm họa! Hầu hết mọi người chúng ta sẽ cảm thấy tự hào khi nói với người khác về vấn đề chúng ta đã phải căm giận thế nào, giống như chúng ta là một loại anh hùng nào đó.

Một lạt ma từ truyền thống Drukpa Kagyu và tôi rất gần gũi. Chúng tôi thường gặp nhau và nói chuyện vui, đùa cợt với nhau thế này thế nọ. Trong một trường hợp, tôi đã hỏi ông về kinh nghiệm tâm linh. Ông đã nói với tôi rằng khi còn trẻ, ông đang ở với thầy của ông, người bảo ông tiến hành việc thực tập dự bị, lễ một trăm nghìn lạy (100.000) với Đức Phật, giáo lý và cộng đồng tâm linh. Vào buổi sáng sớm và chiều tối, ông phải lạy nằm sấp xuống cả thân mình trên sàn gỗ thấp. Thầy của ông đang thiền tọa trong bóng tối của một phòng kế bên; để dối vị thầy nghĩ rằng ông đang lễ lạy phủ phục cho nên ông đã gõ nhẹ những ngón tay vào sàn gỗ. Những năm sau đó, sau khi thầy ông đã qua đời, ông tu tập trong một hang động, khi quán tưởng về sự ân cần to lớn của thầy mình sau hàng năm rèn luyện ông, và ông đã lau nước mắt không ngớt. Ông hầu như kiệt sức, nhưng rồi thì ông đã trải nghiệm linh quang, là thứ ông vẫn tiếp tục thực hành. Tiếp theo đó, sau khi thành công các sự thực hành thiền quán, thỉnh thoảng ông đã nhớ lại những phản chiếu sinh động quá khứ như trước mắt ông.

Đây là những chuyện  trực tiếp đầy cảm hứng đối với tôi. Rõ ràng có những hành giả ngày nay đang hướng đến Quả Phật. Việc gặp gở những người này làm gia tăng sự ngưỡng mộ và quyết tâm của chúng ta và qua họ giáo lý trở thành sống động. Trong cách này cộng đồng tâm linh cung ứng những kiểu mẫu cho các hành giả tham chiếu, vốn có thể hướng chúng ta đến sự nương tựa.

Ba thứ này – Phật bảo, những thể trạng thực chứng và giáo lý giảng dạy về chúng (Pháp bảo), và cộng đồng tâm linh (Tăng bảo) – là những nhân tố bên ngoài chúng ta vốn có năng lực to lớn hơn để chấm dứt khổ đau hơn là chúng ta đang làm hiện tại. Tuy nhiên, một Phật tử không thỉnh cầu tam bảo ban cho hạnh phúc. Đúng hơn, hạnh phúc đến từ việc đưa giáo lý vào thực tập. Đức Phật dạy chúng ta sự nương tựa thật sự - thực tập giáo lý như thế nào – nhưng trách nhiệm chính là ở sự thực hiện của chính chúng ta. Để tạo dựng nền tảng cho một thể trạng tâm linh cuối cùng không có khổ đau và sự giới hạn thì chúng ta cần dấn thân trong việc thực tập sau đây:

1-    Xác định mười điều bất thiện (xem chương hai)
2-    Xác định mười điều thiện (vốn đối lập với những điều bất thiện ấy)
3-    Từ bỏ những mười điều bất thiện và tiếp nhận mười điều thiện.

NHỮNG TRÌNH ĐỘ ĐẠO ĐỨC CỦA GIẢI THOÁT CÁ NHÂN

Vì con người có năng lực đa dạng trong việc giữ gìn những thệ nguyện, cho nên Đức Phật diễn tả các trình độ khác nhau của việc thực hành đạo đức. Trong đạo đức của giải thoát cá nhân, có:

-         Những người sống đời sống tại gia đình.
-         Những người đã từ bỏ đời sống gia đình để trở thành một tu sĩ nam hay nữ.

Nếu chúng ta có khả năng duy trì sự giản dị trong đời sống, thì ta có thể lìa bỏ cuộc sống gia đình và tiếp nhận những thệ nguyện của tu sĩ. Nếu ta không thể duy trì cuộc sống giản dị thanh bạch  nhưng có thể giữ gìn những thệ nguyện, thì ta có thể tiếp nhận những thệ nguyện nào đó của cư sĩ cho cả đời, hay những thứ khác chỉ trong một ngày.

LỢI ÍCH CỦA ĐẠO ĐỨC

Chúng ta thấy nhiều sự tương đồng trong đời sống tu sĩ trong tất cả mọi tôn giáo – giản dị, dâng hiến qua cầu nguyện hay thiền tập, và  phục vụ người khác. Những tu sĩ Ki tô giáo đặc biệt với chí nguyện phục vụ trong các lãnh vực giáo dục, sức khỏe, cùng phúc lợi, và tu sĩ Phật giáo phải học hỏi nhiều từ những truyền thống này của Ki tô giáo.

Việc thực hành đạo đức của giải thoát cá nhân dù tu sĩ hay cư sĩ, đưa đến toại nguyện. Thí dụ, các tu sĩ tuân thủ với một sự kiêng khem giới hạn – một bữa điểm tâm nhỏ, và rồi bữa trưa, không có gì sau đấy. Họ không có quyền đòi hỏi, “Tôi muốn thức ăn này hay nọ.” Bất cứ thứ gì họ được cúng dường trong những buổi khất thực hàng ngày, họ phải chấp nhận. Vì tu sĩ Phật giáo không nhất thiết  phải ăn chay; cho nên bất cứ thứ gì họ nhận được, họ sẽ ăn. Đó là việc rèn luyện toại nguyện về thực phẩm. Nó giảm bớt băn khoăn về việc nhận được thực phẩm này hay nọ. Người cư sĩ có thể bắt chước sự thực hành này bằng việc không nhấn mạnh vào những thực phẩm đặc biệt. Ngay cả khi giàu có, ta thật sự không thể tiêu thụ nhiều hơn người nghèo, ngoại trừ sự hao tổn của chính bạn. Cả người giàu và nghèo có cùng một bao tử.

Liên quan đến áo quần, tu sĩ nam nữ chỉ có một bộ y áo. Để có hơn một bộ, người tu sĩ ấy phải có sự gia hộ của một tu sĩ khác, giữ trong lòng rằng bộ y áo có thêm ấy cũng thuộc về một người khác. Chúng tôi không thể ăn mặc những áo quần đắc tiền. Trước khi quân Trung Cộng xâm lược, tăng ni đôi khi mặc những áo quần quý giá, vốn đưa đến sự mua chuộc và tự lừa dối. (Trong một phương diện, người Trung Cộng đã tử tế với chúng tôi bằng việc trừ khử những sự hư hỏng này!) Việc giới hạn trong ăn mặc là sự thực hành về toại nguyện về áo quần. Người cư sĩ có thể tiếp nhận một sự thực tập tương tự qua việc tiết độ trong trang phục. Nó cũng đúng với việc trang sức. Việc đeo hơn một chiếc nhẫn trong mỗi ngón tay thì đúng là quá nhiều! Thật sai lầm khi nghĩ rằng thật đáng giá khi tiêu dùng nhiều hơn với thực phẩm, áo quần, và trang sức chỉ vì ta có nhiều tiền. Đúng hơn, hãy dành nhiều hơn cho sức khỏe và giáo dục cho người nghèo. Đây không phải là sự thúc ép của chủ nghĩa xã hội nhưng là sự tự nguyện của từ bi.

Cũng thế thật thiết yếu cho tu sĩ hài lòng với nơi cư ngụ tương xứng. Một căn nhà trau chuốt là không được phép. Đây là được gọi là sự toại nguyện về nơi ở. Người cư sĩ có thể tiếp nhận sự thực tập này bằng việc giảm thiểu việc đòi hỏi không ngừng nghỉ cho một căn nhà tốt đẹp hơn và cho bàn ghế cùng các sự trang trí trong nó.

Hãy thẩm tra thái độ của ta đối với thực phẩm, áo quần, và nơi cư trú. Bằng việc giảm thiểu sự mong đợi thì ta sẽ khuyến khích sự toại nguyện. Năng lượng phụ trội nếu có nên dùng để hiến dâng cho việc thiền tập và để đạt đến sự chấm dứt các vấn nạn, tương ứng với sự thật cao quý thứ tư và thứ ba. Trong cách này, sự toại nguyện là căn bản, và hành động đưa đến được gọi là thích thiền tập và từ bỏ.

Chúng ta nên toại nguyện trong những lãnh vực vật chất, cho những ai bị ràng buộc với sự giới hạn, nhưng không liên quan với tâm linh, vốn có thể được mở rộng đến vô giới hạn. Cho dù đúng rằng một con người không thỏa mãn thì dù làm chủ cả thế giới này có thể muốn có một trung tâm du lịch ở trên mặt trăng, thì đời sống của người ấy vẫn bị giới hạn, ngay cả tất cả những gì có thể làm chủ được cũng là giới hạn.Tốt hơn là toại nguyện ngay từ lúc bắt đầu. Tuy nhiên, với việc quan tâm đến lòng từ bi và vị tha thì không giới hạn, và vì thế chúng ta không nên thỏa  mãn với mức độ mà chúng ta có. Chúng ta đúng là mâu thuẩn; trong lãnh vực tâm linh thì chúng ta thỏa mãn với khối lượng thực tập và tiến trình nhẹ nhàng vậy là đủ, nhưng về vật chất chúng ta luôn luôn muốn nữa và nữa. Phải nên là cách ngược lại. Mọi người cần thực hành điều này, cho dù là cư sĩ hay tu sĩ.

Việc thực hành đạo đức của sự giải thoát cá nhân cũng hữu ích trong việc gia tăng chánh niệm và tự quán chiếu. Nếu một tu sĩ sắp có chí nguyện hành động nào đó ngay cả trong giấc mộng, người ấy nhận rõ “Tôi là một tăng/ni; Tôi không nên hành động như vậy.” Chánh niệm đến từ một sự tỉnh thức phát triển cao độ  của các hành vi thân thể và lời nói, được mang vào trong giấc mộng. Nếu chúng ta chú ý thật sâu sắc tới hạnh kiểm của chúng ta khi ăn uống, đến và đi, đứng và ngồi, và v.v… rồi thì một điều kiện mạnh mẽ của chánh niệm sẽ hiển hiện.

Sự thực hành đạo đức giải thoát cá nhân cũng nuôi lớn bao dung và nhẫn nhục. Đức Phật nói rằng nhẫn nhục là hình thức cao nhất của sa môn, và qua nó ta có thể đạt đến niết bàn. Đối với tăng ni, có bốn phẩm chất nhẫn nhục và bao dung được duy trì:

- Nếu người nào đó đẩy ta vòng quanh, ta nên bao dung và nhẫn nhục
- Nếu người nào đó biểu lộ sự sân hận đối với ta, ta không nên đáp lại với sân hận
- Nếu người nào đó đánh ta, ta không nên đánh trả lại
- Nếu người nào đó lúng túng và xúc phạm ta, ta không nên đáp lại

Những sự thực hành này làm gia tăng nhẫn nhục. Một người đã rời bỏ đời sống thế tục nhưng làm tổn hại người khác là không dấn thân trong một hành vi thích đáng. Có những câu chuyện về những tu sĩ ở Tây Tạng ngay cả đi vào chiến tranh! Họ đã tự đưa mình vào trong chiến trận mặc dù giáo lý nhà Phật đã lặp đi lặp lại rằng làm tổn hại bất cứ người nào khác chắc chắn là không đạo đức cho một vị tu sĩ nam hay nữ.

Sự thực hành tâm linh không chỉ về những thứ bên ngoài – thực phẩm, áo quần, hay những thứ như vậy. Sự thực hành tâm linh xảy trong tâm chúng ta, trong trái tim chúng ta. “Sự thay đổi chân thật là ở bên trong; lìa bên ngoài như nó là”. Nếu thái độ của chúng ta phản chiếu một cách chân thật sự trau dồi tâm thức và con tim, thế là tốt. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ làm một màn biểu diễn về sự thành tựu tâm linh nhằm để có tiền, thí dụ thế, đó là đạo đức giả.

Thực hành Đạo Phật có nghĩa là chuyển hóa thái độ của ta. Những sự thực hành của tu sĩ có thể được phối hợp vào trong đời sống của cư sĩ qua một nguyện ước mạnh mẽ, có ý thức để tránh khỏi việc làm tổn hại những người khác, thân thể hay lời nói. Điều này đòi hỏi nhẫn nhục vốn sẽ chịu đựng sự tấn công bằng thân thể hay lời nói.

Một sự tiếp cận dần dần là tốt hơn nhiều so với việc cố gắng nhảy quá cao quá nhanh; bằng trái lại, sẽ có một hiểm họa và nguy cơ lớn. Trong thời gian này, hãy cống  hiến cho xã hội và thực hành lời Phật dạy. Một khi ta đạt đến một giai tầng nào đó của kinh nghiệm thì chúng ta có thể  thực hành với một năng lực lớn hơn nếu ta trở thành một tu sĩ. Những sự thực hành này thích hợp với nhau từng bước một.

Thông thường sự khuyên bảo của tôi cho những người mới bắt đầu là nhẫn nhục; có ít sự mong đợi về chính mình hơn. Quan trọng nhất hãy là một công dân trung thực, một thành viên tốt của cộng đồng nhân loại. Cho dù ta thấu hiểu những ý tưởng sâu sắc hay không thì điều quan trọng hãy là một con người thiện lương bất cứ ta ở nơi nào ngay bây giờ. Chúng ta đừng quên lãng một mục tiêu lớn hơn vì lợi ích của một thứ nhỏ hơn. Hãy xem cả hiện tại và về lâu dài, trong cùng phương cách rằng sự thành tựu kinh tế tạm thời nên được lưu tâm trong mối quan hệ với những nhu cầu môi trường lâu dài.

-*-

Tôi muốn nói rằng tinh hoa của lời Phật dạy có thể được thấy hai điều:

Nếu có thể, ta nên giúp đở người khác.
Nếu không thể làm thế, thì tối thiểu ta không nên làm tổn hại.

Tránh việc làm tổn hại người khác là tinh hoa của giai tầng khởi đầu trong việc sống với giáo huấn về đạo đức.

-*-

TOÁT YẾU THỰC HÀNH HÀNG NGÀY

1-    Hãy chú ý việc ta dính mắc với thức ăn, áo quần, và nơi ở, và tiếp nhận sự thực hành tu sĩ với sự toại nguyện cho đời sống cư sĩ. Hãy hài lòng với những thực phẩm, áo quần, và nơi ở tương xứng. Hãy sử dụng thời gian rỗi rảnh cho thiền tập vì thế ta có thể vượt thắng nhiều vấn nạn hơn.
2-    Hãy phát triển một sự khao khát mạnh mẽ để tránh làm tổn hại người khác cho dù bằng thân thể hay lời nói, bất chấp ta bị bối rối, xúc phạm, xỉ vả, xô đẩy, hay đánh đập.

-*-
Ẩn Tâm Lộ, Sunday, February 24, 2019



Thứ Năm, 21 tháng 2, 2019

KHÁM PHÁ RẮC RỐI PHÁT SINH VÀ DỪNG LẠI NHƯ THẾ NÀO




Nguyên bản: Discovering how trouble starts and stops
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / Saturday, February 16, 2019

-*-

SỰ THẬT CAO QUÝ THỨ HAI: NGUỒN GỐC CỦA KHỔ ĐAU (TẬP ĐẾ)

Sau khi đã xác định phạm vi của khổ đau, chúng ta cần khám phá nguồn gốc của nó, vốn có hai phần: phiền não, hay chướng ngại ẩn tàng, các cảm xúc, và nghiệp chướng nhiễm ô.

Các Cảm Xúc Phiền Não Chướng Ngại Ẩn Tàng

Vì các cảm xúc phiền não, nghiệp chướng nhiễm ô, hay các hành vi, tôi sẽ thảo luận chúng trước tiên. Có hai loại cảm xúc phiền não – một thứ là rõ ràng và thứ kia không rõ ràng. Một thí dụ về thứ rõ ràng là nổi sợ hãi kinh khủng từ quá khứ đã trở thành cố định trong tâm thức. Trong trường hợp này, một cách chắc chắn thì thật lợi lạc để cho cảm giác của ta biểu lộ và thảo luận về vấn đề ấy.

Khi tôi khoảng mười bốn tuổi vào mùa hè ở Cung điện Norbulingka, vị Nhiếp Chính (người lúc ấy là giáo thọ trưởng của tôi) la mắng tôi sau một bài giảng mà ông dạy hàng năm. Với một thái độ nghiêm khắc, ông nói, “Ngay cả ngài tương đương với một vị trời, thái độ của ngài vẫn phải làm cho phù hợp với một con người.” Tôi bị tổn thương bởi vì tôi đã nghĩ rằng tôi đang hành động như một học trò bình thường đang lắng nghe ông giảng dạy mặc dù tôi là Đạt Lai Lạt Ma thứ bậc ở trên ông. Tôi bị bức rức và không thoải mái cả vài tháng sau. Rồi thì quân Trung Cộng xâm lăng miền Đông Tây Tạng vào năm 1950, và tôi phải đào thoát khỏi thủ đô Lhasa đến Tomo ở miền Tây Nam Tây Tạng gần biên giới với Ấn Độ. Đúng lúc các quan chức ở Lhasa khuyến nghị tôi rằng tình trạng có thể xoay sở được và tôi nên trở lại. Trong khi tôi trên đường trở lại Lhasa, chúng tôi dành vài ngày ở lại tu viện của vị Nhiếp Chính, Talungdra. Một ngày nọ, ông đã hỏi tôi trong buổi nói tán chuyện ngẫu nhiên rằng có phải vì thái độ của ông mà tôi đã từng phiền lòng không. Tôi đã đề cập những vì đã từng xảy ra, thế nào đấy một cách mơ hồ, không chi tiết lắm. Thật là khuây khỏa! Thế là chúng tôi có một dịp trú ngụ dễ chịu ở tu viện.

Thật tốt đẹp để nói về những thứ như vậy vốn xảy ra chỉ một lần, trái lại những thứ cảm xúc phản tác dụng – vốn bao gồm những thứ cảm giác như tham dục, oán hận, thù hằn, ganh tỵ, và giao tranh – không nên được biểu hiện; bằng không chúng trở thành thường xuyên hơn. Biểu lộ chúng có xu hướng làm chúng mạnh hơn và lan tràn. Thật tốt đẹp để quán chiếu về những bất lợi của việc tiến hành trong những cảm xúc như vậy và thay thế chúng với những cảm giác của hài lòng và yêu thương. Chúng ta nên vượt thắng một cách mạnh mẽ những cảm xúc tiêu cực khi chúng xuất hiện, nhưng thậm chí sẽ là tốt đẹp hơn để tìm cách ngăn chặn chúng ngay từ đầu.

Tham dục và thù hận làm sinh khởi những cảm xúc phản tác dụng khác và do thế tạo nên hàng loạt vấn nạn trong thế giới này. Chúng ta không thể toại nguyện để sống với những hậu quả của tham dục và thù hận. Trong hai thứ này, thù hận là tệ hại hơn cả trên căn bản tức thời bởi vì  nó đem đến tổn hại một cách nhanh chóng cho người khác, nhưng tham dục tương ứng cho việc đưa đẩy trong tiến trình của sinh tử luân hồi – những vòng bất tận của sinh, già, bệnh, chết – từ kiếp này đến kiếp khác.

Gốc rễ của tham dục và thù hận là si mê về bản chất chân thật của tất cả chúng sinh hữu tình (động vật) cũng như mê mờ về bản chất của chúng sinh vô tình (sự vật). Sự si mê này không chỉ là thiếu hiểu biết mà cũng là một ý thức tưởng tượng đối ngược với lẽ thật; hiểu sai những gì thật sự như vậy. Có nhiều trình độ của nhận thức sai lầm, như thất bại để thấu hiểu những gì nên tiếp nhận trong thực tập và những gì cần loại bỏ trong thái độ hàng ngày, nhưng ở đây chúng ta đang nói về sự si mê ở gốc rễ của tất cả mọi khổ đau. Đây là khái niệm rằng tất cả chúng sinh hữu tình và những hiện tượng khác tồn tại một cách cố hữu, trong và của chính chúng. Tôi sẽ thảo luận về chủ đề khó này trong Chương Tám, Chín và Mười.

Nghiệp Chướng Nhiễm Ô

Tất cả mọi sự vui sướng và đau khổ tùy thuộc vào nghiệp và những hành vi quá khứ, chúng đã tạo ra những khuynh hướng trong tâm thức. Nghiệp có thể được phân chia thành đạo đức và không đạo đức tùy vào chúng hoặc là phát sinh vui sướng hay đau khổ về lâu dài. Thí dụ, nếu hệ quả của một hành vi là để xuất sinh một đời sống mới của con người, thế thì hành vi đó là đạo đức vì hệ quả lâu dài của nó là sự luân hồi tốt đẹp. Trái lại, nếu hệ quả của một hành vi là làm sự tái sinh của ta như một quỷ đói, thế thì hành vi ấy là không đạo đức vì hệ quả lâu dài của nó là là một sự luân hồi xấu.

Nghiệp cũng có thể được phân chia thành (1) những thứ vốn xây dựng bản phác họa tổng quát của một kiếp sống mới bằng việc quyết định loại tái sinh nào cũng như tuổi thọ của đời sống ấy, và (2) những thứ vốn ghi vào các chi tiết của một kiếp sống, chẳng hạn như sự thịnh vượng, sức khỏe tốt, và v.v… Loại (1) được gọi là “con đường của hành động” vì hành động ấy (đạo đức hay không) phục vụ như một con đường, hay một phương tiện, đến một kiếp sống hoàn toàn trong một sự luân hồi hạnh phúc hay một sự luân hồi khốn khó. Để là một “con đường của hành động”, một nghiệp nhân phải có bốn đặc trưng: ý định thúc đẩy; xác định chính xác về cá nhân hay đối tượng; chuẩn bị đúng mức; và hoàn toàn thành tựu. Đôi khi tất cả những nhân tố này xảy ra, như trong trường hợp chúng ta có ý muốn cho một người ăn xin và thật sự làm như thế; đôi khi chỉ có động cơ hiện diện, và ta có ý muốn cho một người ăn xin nhưng không thật sự làm như thế; hay ta có thể có một kết quả vô ý thức, nếu một vài đồng tiền rơi qua một cái lỗ của túi áo ta nằm trên lề đường và người ăn xin lượm nó lên. Các hành động không có tất cả bốn đặc trưng có thể rơi vào loại (2), vốn ghi vào trong chi tiết của một kiếp sống.

Cuối cùng, những thứ nghiệp có thể được phân chia thành những loại thực hiện bởi những nhóm, chẳng hạn như tổ chức từ thiện, và những loại thực hiện cá nhân. Những hệ quả của các thứ nghiệp có được trải nghiệm trong cùng một kiếp sống, trong kiếp sống tới, hay trong một kiếp sau đó. Những nghiệp đạo đức hay không đạo đức mạnh mẽ với động cơ đầy năng lực để hổ trợ hay làm tổn hại có thể mang lại các hệ quả của chúng trong cùng một kiếp sống.

Tiến Trình Của Sự Chết

Nhằm để thấu hiểu các loại nghiệp và những đặc điểm đặc biệt của chúng của những trình độ tu tập cao nhất, thì chúng ta cần thấu hiểu động lực của ba giai đoạn: tiến trình của sự chết; trạng thái trung ấm thân giữa kiếp sống này và kiếp sống tới; và tiến trình tái sinh từ trạng thái trung ấm thân. Sự trao truyền các nghiệp nhân từ kiếp sống này sang kiếp sống khác xảy ra lúc lâm chung qua một tâm thức rất vi tế của linh quang. Mặc dù trình độ sâu sắc nhất này của tâm thức tồn tại qua đời sống, nhưng nó chỉ biểu hiện vào lúc lâm chung, và do vậy thường được giảng dạy trong phạm vi này.

Ta có thể học hỏi thêm về điều này trong nhiều bản văn của Tantra Yoga Tối Thượng (Vô Thượng Du Già), được Đức Phật giảng dạy, chẳng hạn như Mật Điển Bí Mật Tập Hội. Những văn bản này diễn tả nhiều đặc trưng khác nhau của tâm hay thức, đi từ thô đến vi tế. Những thể trạng vi tế của tâm là năng lực và hiệu quả hơn khi được áp dụng trong sự thực hành tâm linh. Trình độ thô của thức lãnh hội qua mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân thức. Vi tế hơn là ý thức, tự nó vốn đi từ những trình độ thô, chẳng hạn như ý nghĩ thông thường, đển giấc ngủ sâu và bất tĩnh nhân sự khi hơi thở đã dừng, đến tâm vi tế sâu nhất của linh quang. Ngoại trừ trong những thể trạng thiền định ngoại hạng,  bằng không thì thức vi tế nhất hay sâu xa nhất tự nó chỉ biểu hiện khi chúng ta lâm chung, sắp chết. (Rút lui kém và do thế phiên bản tóm tắt cua những trình độ vi tế của thức cũng xảy ra khi ngủ, chấm dứt một giấc mơ, nhảy mũi, ngáp, và trong lúc xuất tinh. Tôi sẽ thảo luận thứ cuối cùng trong Chương 11)

Tiến trình của sự chết liên hệ đến một loại chấm dứt, hay hòa tan, của bốn yếu tố nội tại: đất (vật thể rắn của thân thể); nước (chất lỏng), lửa (sức nóng), gió (năng lượng, chuyển động). Trong đời sống bình thường, những yếu tố này phục vụ như căn bản cho thức, nhưng trong tiến trình lâm chung, năng lực của chúng hổ trợ cho thức giảm lần, bắt đầu với yếu tố đất. Mỗi bước trong tiến trình hòa tan thật sự gia tăng năng lực của yếu tố tiếp theo để hổ trợ cho thức. Từng bước một giống như thế này:

1-    Khi yếu tố đất, hay chất cứng của thân thể ta hòa tan vào yếu tố nước, sự biểu lộ bên ngoài là thân thể trở nên gầy ốm hơn; nội tại, ta thấy những gì xuất  hiện là một ảo giác được thấy trong một sa mạc.
2-    Khi yếu tố nước của thân thể hòa tan vào yếu lửa, những dấu hiệu bên ngoài là chất lỏng trong thân thể cạn kiệt – miệng khô, mũi co dúm lại, và v.v…; nội tại ta thấy những gì được diễn tả như luồng khói từ một ống khói hay khói tràn ngập khắp phòng.
3-    Khi yếu tố lửa của thân thể hòa tàn vào trong yếu gió, hay không khí, sự biểu lộ bên ngoài là sức nóng của thân bị giảm dần; nội tại, ta thấy những gì giống như những con đom đóm vào ban đêm hay giống như những tia lửa bắn ra. Sức nóng rút lui khỏi thân thể trong những cách khác nhau – (1) từ bàn chân lên đến tim hay (2) từ đỉnh đầu đi xuống. Cách (1) tốt đẹp hơn bởi vì nó biểu thị rằng tâm thức sẽ xuất khỏi thân thể hoặc là đi lên hoặc là thẳng tới, không đi xuống, và vì vậy sẽ rất có thể hướng đến một kiếp sống tới thuận lợi. Điều này  được hình thành bởi nghiệp đạo đức.
4-    Tiếp theo, gió hay chuyển động năng lượng trong thân thể, hòa tan vào thức, và hơi thở bên ngoài chấm dứt; vào lúc này ta thấy một hiện tướng giống như ánh sáng ở trên một cây đèn sáp nhấp nháy khi cháy gần hết. (Một số bác sĩ xem người ở trạng thái này là đã chết, nhưng theo quan điểm Phật giáo việc chấm dứt hơi thở bên ngoài không có nghĩa là thần thức đã rời thân thể.) Ánh sáng nhấp nháy được tiếp theo bởi hiện tướng của một ngọn lửa ổn định.

Bốn giai đoạn cuối cùng của sự chết liên hệ sự hòa tan những trình độ thô của thức vào các trình độ vi tế hơn. Điều này xảy ra khi gió, hay năng lượng bên trong, vốn phục vụ như sự gắn kết của thức tan rả. Hãy nghĩ về thức như cưỡi trên năng lượng như một kỵ mã trên lưng ngựa. Trong việc chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo, những năng lượng vốn phục vụ như sự gắn kết của nhiều loại ý thức hòa tan, di chuyển căn bản của thức từ các trình độ thô đến vi tế hơn của năng lượng. Những việc này xảy ra dần dần trong bốn giai đoạn.
5-    Tâm của ta tự nó biến thành một tính chất màu trắng cùng khắp, rộng lớn sinh động. Nó được diễn tả như bầu trời trong sáng tràn đầy ánh sáng của mặt trăng – không phải mặt trăng chiếu sáng trong không gian trống rỗng mà không gian tràn đầy ánh sáng trắng. Tư tưởng khái niệm đã tan biến, và không có gì hiện hữu ngoại trừ sự trắng trong sinh động này, vốn là thức của chúng ta. Tuy nhiên, một cảm nhận vi tế về chủ thể và đối tượng vẫn duy trì, cho nên thể trạng này là nhị nguyên một cách nhẹ nhàng.
6-    Tâm ta biến thành tính chất đỏ hay cam rộng lớn, sinh động hơn trước đây; không có gì khác xuất hiện. Nó giống như một bầu trời trong sáng tràn đầy ánh sáng mặt trời – không phải ánh sáng mặt trời chiếu sáng trong bầu trời mà là tự không gian như vậy, tràn đầy ánh sáng đỏ hay cam. Trong thể trạng này tâm thức ít nhị nguyên hơn nữa.
7-    Tâm ta tự nó biến thành thể trạng màu đen tĩnh lặng, vi tế và sinh động hơn nữa; không có gì khác xuất hiện. Điều này được gọi là “gần thành tựu”, bởi vì ta đang gần đến sự biểu hiện của tâm linh quang. Tâm màu đen sinh động rộng khắp giống như một bầu trời không có mặt trăng, rất tối đúng ngay sau khi hoàng hôn khi không có một vì sao nào được thấy. Vào lúc bắt đầu giai đoạn này, ta tỉnh thức, nhưng rồi thì ta mất sự tỉnh thức khi ta trôi vào trong bóng đen dày đặc hơn.
8-    Khi hiện tướng của tâm màu đen chấm dứt, tâm ta tự nó biến thành tâm tỉnh thức hoàn toàn của linh quang. Được gọi là tâm bẩm sinh nền tảng của linh quang, đây là trình độ vi tế, thậm thâm, và năng lực nhất của thức. Nó giống như thể trạng bản chất của bầu trời vào lúc bình minh (mặt trời chưa ló dạng) – không có ánh sáng của mặt trăng, mặt trời, hay bóng tối.

Giai đoạn trải qua tâm linh quang có thể nhanh hay chậm. Một số người duy trì trong giai đoạn cuối cùng, tâm linh quang của sự chết, chỉ vài phút; những người khác trú lại cả tuần hay hai tuần. Vì tâm linh quang năng lực rất mạnh mẽ, cho nên nó đáng để thực tập, nhiều hành giả Tây Tạng diễn tập những giai đoạn lâm chung này hàng ngày. Chính tôi thực hành chúng sáu lần trong ngày bằng việc quán tưởng tám trình độ của tâm thức từng thứ một (dĩ nhiên, không có những thay vật lý trong bốn giai đoạn đầu). Tám trình độ của tâm là:

1-    ảo giác
2-    luồng khói
3-    đom đóm
4-    ngọn lửa của ngọn đèn sáp
5-    tâm bầu trời trắng sinh động
6-    tâm bầu trời đỏ hay cam sinh động
7-    tâm bầu trời đen sinh động
8-    linh quang

Trong tiến trình lâm chung, chúng ta biết rằng người ở trong linh quang cho đến khi thân thể không bắt đầu bốc mùi hay phân hủy. Có những người Tây Tạng bị tra tấn và, trong việc bị đưa lại phòng giam giữ của họ, ngồi xếp bằng trong tiến trình của sự chết, duy trì tâm linh quang. Tin tức cho biết rằng, những cai ngục Trung Cộng đã kinh ngạc về điều này. Theo quan điểm giáo điều của họ, họ xem Phật giáo là mù quáng, cho nên khi họ đối diện với những bằng chứng như vậy, họ cố gắng giữ im lặng về nó. Ở Ấn Độ cũng vậy, có một số những hành giả đã duy trì trong thể trạng này, đôi khi vài ngày và trong một trường hợp khoảng mười bảy ngày. Khi một người đang an trú trong thể trạng linh quang, nếu năng lượng hổ trợ cho trình độ sâu thẩm này của tâm bắt đầu thay đổi, vào lúc ấy thức cuối cùng lìa thân thể, và thân thể hay đầu chuyển động một cách nhẹ nhàng.

Có nhiều cơ  hội cho những việc thẩm tra xa hơn trong những thể trạng đa dạng của sự chết. Khoa học hiện đại đã làm những việc nghiên cứu hữu dụng về sóng năng lượng, não bộ con người, và những chức năng của nó. Các nhà khoa học và Phật học chia sẻ một sự quan tâm chung về lãnh vực này, và tôi tin tưởng là chúng ta nên làm việc với nhau để điều tra mối quan hệ giữa tâm và năng lượng bên trong của nó, và giữa não bộ cùng thức. Những diễn giải của nhà Phật có thể đóng góp cho việc nghiên cứu khoa học, và ngược lại. Sự phối hợp này đã từng diễn ra rồi, và thêm nữa sẽ rất hữu ích.

Thể Trạng Trung ấm Thân

Tất cả chúng sinh được tái sinh như những con người đi qua thể trạng trung ấm thân giữa kiếp sống này và kiếp sống tới. Trong thể trạng trung ấm này, thân thể chúng ta tiếp nhận một hình dáng giống với thân thể của chúng ta trong kiếp sống tới vào khoảng năm hay sáu tuổi (mặc dù một số người nói rằng điều này không nhất thiết như vậy). Khi đời sống trung ấm chấm dứt, cây cầu đến kiếp sống tới đã được vượt qua. Tiến trình này được tiến hành bởi trình độ vi tế nhất của tâm.

Tiến Trình Tái Sinh

Liên quan đến tái sinh, thức đi vào tử cung khi những yếu tố thụ tinh trộn lẫn với nhau – được cung ứng không có gì sai trong tử cung hay với tinh trùng, và cung ứng với tất cả những nhân tố thuận lợi chẳng hạn như nghiệp nối kết hiện diện. Tuy nhiên, thức không nhất thiết phải nhập vào lúc ấy, khi nam nữ phối hợp, vì trong các luận điển của chúng tôi có những trường hợp diễn ra một cách riêng lẻ. Dường như rằng hoặc là những yếu tố này đi với nhau bên trong hay, như thỉnh thoảng có những trường hợp ngày nay, bên ngoài tử cung trong ống nghiệm, thức phải đi vào trong khi chúng trộn lẫn với nhau. Tuy thế, thật  khó đế có một sự giải thích cả quyết theo luận điển Phật giáo vì một số sách nói rằng sự thụ tinh xảy ra khi có sự khát dục mạnh mẽ.

Chủ đề phức tạp này trở thành phức tạp hơn ở thời hiện đại. Hãy xem một thí dụ khi phôi thai được đông lạnh. Một khi sự nối kết đã được thực hiện từ kiếp sống quá khứ đến kiếp sống mới qua việc thụ tinh, thì chúng sinh mà phôi thai bị đông lạnh có phải chịu đau khổ vì lạnh không? Chính sự bắt đầu của thân thể đã được hình thành, và vì thế, theo sự giải thích của chúng ta, cơ quan cảm giác của thân thể  đã được hình thành sơ khởi (mặc dù cơ quan thị giác và những thứ khác thì chưa). Có phải có sự cảm giác thân thể ngay từ thời điểm sau khi thụ tinh hay không? Tôi chưa có một quyết định cho những điềm này; đây là chủ đề phải thảo luận nhiều hơn nữa.

Nếu chúng ta giả định rằng chúng sinh trong phôi thai đau khổ vì lạnh, thì điều này làm phát sinh vấn đề người đặt phôi thai vào tủ lạnh có bị nghiệp xấu cho hành vi ấy hay không. Điều tùy thuộc vào động cơ của người ấy. Chúng ta không thể nói rằng chỉ vì một chúng sinh khác chịu đựng khổ đau qua điều gì đó mà người khác liên hệ đến ta, thì ta sẽ gánh nghiệp xấu. Thí dụ, ngay cả những trường hợp thông thường một thai nhi ở trong tử cung bà mẹ chịu đựng đau khổ qua việc ở trong tử cung, nhưng bà mẹ không tích tập bất cứ nghiệp xấu nào. Tương tự thế, khi trẻ con được sinh ra, nếu đau khổ lần nữa, nhưng bà mẹ không tích tập bất cứ nghiệp xấu nào. (Nếu bà mẹ thật sự tích tập nghiệp xấu thì bà mẹ sinh nhiều con phải tích tập hàng khối nghiệp xấu, thì thật là vô lý!). Do vậy, động cơ của một người là chìa khóa quyết định loại nghiệp nào phải tích tập.


SỰ THẬT CAO QUÝ THỨ BA: SỰ CHẤM DỨT CHÂN THẬT (DIỆT ĐẾ)
Vì những nhiễm ô của tâm thức chẳng hạn như tham dục, thù hận, ganh tỵ, và hung hăn căn cứ trên căn bản nhận thức sai lầm về bản chất của con người và đối tượng, cho nên tiến trình vượt thắng chúng đòi hỏi một giải pháp cho sự si mê ấy. Vấn đề trở thành việc nhổ gốc rể của si mê làm ra nguyên nhân của khổ đau như thế nào. Nó không thể là việc nhổ một cây gai qua phẩu thuật. Nhằm để vượt thắng nhận thức sai lầm này về bản chất của con người và sự vật, thì chúng ta phải thấu hiểu bản chất thật sự của chúng. Rồi thì, qua thiền quán tiếp tục, chúng ta trở thành quen thuộc với sự thật và gia tăng năng lực của tuệ trí để làm xói mòn những cảm xúc tiêu cực có gốc rể trong si mê.

Ở điểm này, thì một giải thích về tánh không sẽ lợi ích vì đây là những gì mà tuệ trí nhận ra bản chất của con người và sự vật (xem Chương Tám – Mười). Nhưng, tóm lại, sự kiện rằng những nhiễm ô chẳng hạn các cảm xúc phiền não có thể được tiêu trừ hoàn toàn là qua việc bản chất tâm thức vốn trong sáng, không bị nhiễm ô. Bản chất của nó là tinh khiết. Những phiền não được tịnh hóa qua thiền tập trên bản chất chân thật của cả tâm thức và tất cả những thứ khác. Việc tiêu trừ những phiền não này là sự thật cao quý thứ ba – sự chấm dứt chân thật, diệt đế - một thể trạng vượt khỏi khổ đau và các nguyên nhân của nó.

SỰ THẬT CAO QUÝ THỨ TƯ: CON ĐƯỜNG LẼ THẬT (ĐẠO ĐẾ)

Những con đường chân thật liên hệ đến ba phương diện rèn luyện vốn là chủ đề chính của quyển sách này – đạo đức, tập trung, và tuệ trí (giới – định – tuệ ). Sự thực tập tâm linh theo những con đường này đưa đến sự chấm dứt chân thật, đạt đến niết bàn và cuối cùng là Quả Phật.

-*-

Từ thời vô thỉ, chúng ta đã có một nhận thức vững chắc, hay ý thức, về “cái tôi”. “Cái tôi” này, hay tự ngã , bản chất và bẩm sinh muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, và khát vọng này là vững chắc – nó là đúng đắn và hợp lý. Kết quả là, tất cả chúng ta có quyền để đạt đến hạnh phúc và xua đuổi khổ đau. Sự thật rằng khổ đau và hạnh phúc tự nó thay đổi từ thời khắc này đến thời khắc khác biểu thị rằng những trải  nghiệm này tùy thuộc trên các nguyên nhân và điều kiện của nó. Nhằm để thoát khỏi khổ đau thì chúng ta cần loại trừ các nguyên nhân và điều kiện tức là các nhân duyên đem đến khổ đau và nhằm để đạt đến hạnh phúc thì chúng ta cần đỏi hỏi những nguyên nhân và điều kiện hay các nhân duyên của hạnh phúc.

Sự thật cao quý thứ nhất áp dụng đến các hiện tượng nhiễm ô mà chúng ta cần thoát khỏi – sự thật về khổ đau, là các tác động và nguyên nhân thật sự, vốn là những nguyên nhân. Hai sự thật cao quý cuối cùng là những thể trạng tinh khiết mà chúng ta muốn đạt được – sự chấm dứt chân thật, vốn là các hệ quả, và những con đường chân thật, vốn là các nguyên nhân. Cung cách Đức Phật giảng dạy về Bốn Chân Lý Cao Quý, chúng bao hàm hai trình tự - một là khổ đau, thứ chúng ta muốn từ bỏ, và một là hạnh phúc, thứ chúng ta tìm cầu để tiếp nhận.

TOÁT YẾU THỰC HÀNH HÀNG NGÀY

Đã nhận ra phạm vi của khổ đau, nghiên cứu về các nguyên nhân, hay nguồn gốc, và xác định rằng nguồn gốc của khổ đau là si mê về bản chất thật sự của con người và sự vật, vốn là đưa đến kết quả tham dục, thù hận, và v.v… Hãy nhận ra rằng khổ đau có thể được tiêu trừ, nó có thể bị loại bỏ trong không gian của thực tại. Hãy quán chiếu rằng sự chấm dứt chân thật này (diệt đế) đạt được qua sự thực hành về đạo đức, tập trung, và tuệ trí (giới – định – tuệ ) – là những con đường chân thật.

-*-

Ẩn Tâm lộ, Thursday, February 21, 2019



Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2019

NHẬN DIỆN PHẠM VI CỦA KHỔ ĐAU




***

Nguyên bản: Identify the Scope of Suffering
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / Tuesday, January 9, 2018

TỔNG QUÁT VỀ NHỮNG LOẠI ĐẠO ĐỨC

Nguyên lý chính của đạo đức Phật giáo là để giúp đở người khác, và , nếu không thể, thì tối thiểu không làm tổn hại người khác. Chí nguyện nền tảng này với bất bạo động, được động viên bởi việc quan tâm vì người khác, là trung tâm của ba loại đạo đức trong Phật giáo:

·        Đạo đức của việc giải thoát cá nhân (là chủ đề của chương này) một cách chính yếu được thực tập từ việc kiềm chế khỏi những hành vi của thân thể và lời nói làm tổn hại. Sự thực tập này được gọi là “cá nhân” vì nó cung ứng một phương pháp cho một người chuẩn bị để vượt khỏi chu kỳ lẩn quẩn của sanh, già, bệnh, và chết, mà Phật tử gọi là vòng luân hồi (samsara).
·        Đạo đức của việc quan tâm vì người khác – được gọi là đạo đức của Bồ tát (những chúng sanh quan tâm chính yếu với việc hổ trợ người khác) – thực tập một cách chính yếu bởi việc kiềm chế tâm thức khỏi rơi vào vị kỷ. Vì đối với những người thực tập đạo đức Bồ tát, điểm quan trọng là để kiềm chế khỏi sự yêu mến vị kỷ, mà cũng kiềm chế khỏi những hành vi xấu ác của thân thể và lời nói.
·        Đạo đức của Mật tông tập trung chung quanh những kỷ năng đặc biệt cho việc quán tưởng một thể trạng phát triển toàn vẹn của thân thể và tâm thức hổ trợ người khác một cách hiệu quả. Nó cung ứng một phương pháp để kiềm chế và vì vậy vượt thoát nhận thức giới hạn của chúng ta về thân thể và tâm thức vì thế chúng ta có thể nhận thức chính chúng ta tỏa sáng với tuệ trí và yêu thương.

ĐẠO ĐỨC CỦA SỰ GIẢI THOÁT CÁ NHÂN

Việc thực tập đạo đức cho giải thoát cá nhân đòi hỏi sự tự tỉnh thức cần thiết để tránh khỏi những hành vi của thân thể và lời nói đem đến sự tổn hại cho người khác. Điều này có nghĩa là từ bỏ những gì Phật giáo gọi là mười điều bất thiện. Những điều này tạo thành ba đặc trưng. Thân thể bất thiện là giết hại, trộm cắp, và ,tà dâm. Lời nói bất thiện là nói dối, nói lời chia rẻ, nói lời độc ác và nói lời vô nghĩa. Tinh thần bất thiện là tham muốn, xu hướng tổn hại, và tà kiến.

Vì động cơ có trước và lèo lái hành vi, việc kiểm soát nó tốt nhất là ngăn ngừa sự thôi thúc và sự lạm dụng tiềm tàng các hành vi của thân thể và lời nói. Khi chúng ta đột nhiên muốn điều gì đó và chỉ tiến tới và thực hiện nó mà không nghĩ đến các hậu quả, sự tham muốn của ta tự biểu hiện một cách hăng hái, không có quán chiếu lợi hại. Trong sự thực tập hàng ngày, chúng ta nghiên cứu việc thẩm tra cộng cơ của ta một cách liên tục.

Khi tôi là một thiếu niên, Ling Rinpoche, người lúc đó là giáo thọ phó của tôi, luôn luôn rất nghiêm khắc; ngài không bao giờ mĩm cười, ngay cả không một chút nào. Điều này làm tôi rất chán nản. Bằng việc tự hỏi tại sao ngài quá cứng nhắc như vậy, tôi thẩm tra nhiều hơn và nhiều hơn những gì tôi đang làm trong tâm thức tôi. Điều này giúp tôi phát triển sự tự tỉnh thức với việc quan tâm đến động cơ của tôi. Lúc mới 20 khi tôi vừa trưởng thành, Ling Rinpoche hoàn toàn thay đổi; ngài luôn luôn có một nụ mĩm cười rạng rở khi chúng tôi bên nhau.

Sự thực tập hiệu quả đạo  đức giải thoát cá nhân tùy thuộc vào động cơ lành mạnh, dài lâu. Thí dụ, người ta không nên trở thành tăng ni để tránh phải làm việc nặng nhọc vì ăn mặc. Cũng thế, thật không đầy đủ để chỉ mong cầu tránh khỏi sự khó khăn trong kiếp sống này. Được động viên bởi một mục tiêu tầm thường như vậy không giúp để thành tựu sự giải thoát khỏi vòng luân hồi – lý do tối hậu để thực tập đạo đức giải thoát cá nhân.

Điều này được củng cố bởi câu chuyện về cuộc đời của Đức Phật. Một ngày nọ Đức Thích Ca đi ra ngoài tường thành của hoàng cung để chính ngài trải nghiệm cuộc đời. Lần đầu tiên ngài đã thấy một người bệnh, một người già, và một xác chết. Khốn khó sâu xa bởi khổ đau của bệnh tật, tuổi già, và sự chết, ngài đi đến kết luận rằng cuộc sống trần gian là không bền chắc. Sau này, cảm hứng từ một số hành giả tôn giáo, Đức Phật trở nên say mê bởi khả năng của  một đời sống tâm linh cao siêu, và đầy đủ ý nghĩa hơn. Đến lúc ấy ngài đã vượt thoát kinh thành, để lại cuộc sống thông thường sau lưng và theo đuổi viễn tượng ấy.

Điều này dạy cho chúng ta những gì? Giống như Đức Phật chúng ta cần bắt đầu bằng việc quan tâm về nổi khổ đau của sinh tử  luân hồi và bằng việc quay lưng với những xao lãng tạm thời. Được tác động với thái độ mới này, chúng ta phải áp dụng một hệ thống đạo đức bằng việc viễn ly cõi luân hồi và bằng việc tiếp nhận những thệ nguyện của thái độ tinh khiết qua việc tầm cầu để tránh mười hành vi bất thiện.

BỐN CHÂN LÝ CAO QUÝ

Nhằm để giải thoát chúng ta khỏi sinh tử luân hồi thì chúng ta cần thấu hiểu bản chất của nó. Chúng ta cần (1) biết những loại khổ đau đặc thù liên hệ, (2) khám phá những nguyên nhân của các khổ đau ấy, (3) thấy có thể loại trừ những nguyên nhân ấy không, và sau đó (4) quyết định những gì nên thực tập. Viễn ly, do thế, liên hệ ít nhất một sự thấu hiểu phần nào đó về Bốn Chân Lý Cao Quý:

1-    Sự thật về khổ đau
2-    Sự thật về nguồn gốc của khổ đau
3-    Sự thật về sự chấm dứt khổ đau và cội nguồn của nó
4-    Sự thật về những con đường cho việc thực chứng sự chấm dứt chân thật [khổ đau]

Khi Đức Phật giảng dạy lần đầu tiên, ngài đã dạy về Bốn Chân Lý Cao Quý trong thứ tự nêu trên. Tuy nhiên, thứ tự này không phản chiếu vấn đề những sự thật này hình thành như thế nào. Theo trình tự thời gian, sự thật thứ hai – nguồn gốc của khổ đau – đứng trước sự thật thứ nhất. Tương tự thế, sự thật thứ tư – những con đường thực tập – phải đứng trước sự thật thứ ba – sự chấm dứt khổ đau. Tuy nhiên, Đức Phật dạy Bốn Sự Thật trong trình tự của việc thực tập, chứ không trong thứ tự mà trong ấy chúng hình thành.

Trong thực tập, chúng ta phải xác định mức độ của khổ đau trước nhất, để biết rằng lối sống này bị bao vây bởi khốn khó; điều này làm sâu sắc mong ước tự nhiên được thoát khỏi khổ đau của chúng ta. Khi chúng ta nhận ra khổ đau là gì, như Đức Phật đã làm, rồi thì chúng ta sẽ bị lôi cuốn vào việc khám phá những nguyên nhân của nó, nguồn gốc của khổ đau. Giống như một vị bác sĩ trước tiên phải chẩn đoán cơn bệnh, thì chúng ta cũng phải thấu hiểu gốc rể của khổ đau trước khi chúng ta có thể điều trị nó. Không phải cho đến khi chúng ta đã xác định những nguồn gốc của khổ đau thì chúng ta mới có thể thấu hiểu rằng có thể có một sự chấm dứt nó hay sao. Cũng thế, không có một sự thấu hiểu quả quyết rằng việc chấm dứt khổ đau là có thể, thì chúng ta có thể xem việc thực hành con đường này giống như sự thử thách khó khăn vô hiệu quả. Sau đó chúng ta có thể tìm đến những con đường của sự thật cho việc thực chứng việc chấm dứt [khổ đau]. Đây là tại sao Đức Phật đã trình bày Bốn Chân Lý Cao Quý trong trình tự của việc thực tập.

Tôi thảo luận sự thật thứ nhất ở chương này và ba sự thật kế tiếp ở chương thứ ba.

SỰ THẬT CAO QUÝ THỨ NHẤT VỀ KHỔ ĐAU

Khổ đau giống như một cơn bệnh mà tất cả chúng ta mắc phải. Để tìm việc chửa trị, chúng ta phải thận trọng xác định toàn thể phạm vi của cơn bệnh: đau khổ, thay đổi, và điều kiện cùng khắp.

1-    Khổ khổ: Một trình độ của khổ đau là hiện tướng đau đớn mà tất cả chúng ta cùng nhận ra như vậy. Ngay cả những con thú cũng muốn thoát khỏi nó. Những sự đau đớn thân thể và tinh thần trong đời sống hàng ngày, nhức đầu và đau khổ vì chia lìa là thuộc phạm trù này.
2-    Hoại khổ: Những gì chúng ta thường trải nghiệm như vui sướng là chủ yếu giảm đau đớn. Nếu thực phẩm hay thức uống ngon lành, thí dụ thế, thật sự đúng là vui lòng – nếu chúng có một bản chất nội tại vui lòng – thế thì bất chấp chúng ta ăn hay uống thế nào, thì chúng ta cũng sẽ cảm thấy hạnh phúc và hạnh phúc lớn hơn trong sự đo lường tương ứng. Thay vì thế, nếu chúng ta hưởng thụ quá mức, thì chúng ta bắt đầu khổ sở trong thân thể và tâm thức chúng ta. Điều này cho thấy rằng những trải nghiệm vui sướng này có bản chất nội tại là đau khổ. Tôi muốn kể một câu chuyện về một gia đình đã mua một máy truyền hình mới. So sánh với máy cũ, nó thật sự là tuyệt vời, và mọi người xem nó ngày ngày. Nhưng cuối cùng họ cũng mệt mõi vì nó. Điều này cho thấy rằng căn nguyên của vui sướng là khổ đau. Những tình trạng như vậy về hạnh phúc tạm thời được gọi là khổ đau của sự thay đổi.
3-    Hành khổ: Thêm nữa một đau khổ thông thường và khổ đau của thay đổi, có một trình độ sâu xa hơn của khổ đau gọi là điều kiện cùng khắp. Tâm thức và thân thể hoạt động dưới sự ảnh hưởng của nghiệp (những xu hướng được tạo ra bởi những hành vi trước đây) và của phiền não, hay chướng ngại ẩn tàng, các cảm xúc chẳng hạn như tham muốn, và thù hận. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta được sinh ra từ và trong ảnh hưởng cùng khắp của nghiệp và các cảm xúc phiền não. Ngay cả những tình trạng trung tính của cảm giác cũng ở dưới tác động của các nguyên nhân và điều kiện vượt khỏi sự kiểm soát của chúng ta – chúng ta bị vướng trong một tiến trình dễ bị tác động với khổ đau.

Điều Kiện Con Người

Khởi đầu sự sống của chúng ta là sự sinh ra, trong tiến trình ấy chúng ta đau khổ, và vào lúc kết thúc sự sống là sự chết, trong tiến trình ấy chúng ta cũng đau khổ.
Giữa hai điều này, hai thứ đến là tuổi già và bệnh tật. Bất chấp chúng ta giàu sang như thế nào hay thân thể mạnh khỏe thế nào, thì chúng ta cũng phải đau khổ qua những hoàn cảnh thế này.

Trên tất cả những điều này làm đưa đến sự không toại nguyện. Ta muốn nữa và nữa và nữa. Điều này, trong một ý nghĩa, thật sự là nghèo đói – luôn luôn là đói, đói, đói mà không có lúc nào hài lòng. Những người khác có thể không giàu có, nhưng sự toại nguyện làm cho họ ít lo lắng hơn, ít kẻ thù hơn, ít rắc rối hơn, và ngủ rất ngon lành. Hơn một lần, khi tôi viếng một ngôi nhà rất xinh đẹp trong những cộng đồng giàu có, tôi đã nhìn trộm tủ đựng thuốc trong nhà tắm và đã thấy một số thuốc men cung cấp năng lượng hàng ngày và những thứ khác phụ trợ cho giấc ngủ ban đêm. Toại nguyện có thể làm cả hai việc này tốt hơn vì nó làm giảm thiểu lo lắng trong ngày, mở đường cho giấc ngủ một cách an bình.

Trong cuộc sống tất bật hiện đại, chúng ta đánh mất tầm nhìn với giá trị thật sự của con người. Mọi người trở thành tổng lượng những gì họ sản xuất. Con người hành động như những máy móc vốn thể hiện chức năng làm ra tiền. Điều này chắc chắn là sai. Mục tiêu của việc làm ra tiền là vì hạnh phúc cho con người, chứ không phải thứ khác. Con người không phải vì tiền, mà tiền là vì con người. Chúng ta cần đủ tiền để sống, cho nên tiền là cần thiết, nhưng chúng ta cũng cần nhận ra rằng nếu quá dính mắc vào cảnh sung sướng, thì cũng không giúp ích gì. Tất cả những vị thánh nói với chúng ta rằng, càng trở nên giàu sang, ta càng phải chịu đựng khổ đau hơn.

Ngay cả thân hữu cũng có thể đem đến khổ đau. Thông thường người ta cảm thấy rằng thân hữu mang đến vui sướng hơn và hạnh phúc hơn, nhưng đôi khi họ mang đế rắc rối hơn. Ngày nay thân hữu ta có bộ mặt mĩm cười, nhưng trong một lúc đàm luận có thể biến thành chua chát, và bắt đầu đấu tranh, không có chút gì hữu nghị. Chúng ta thật sự có được hạnh phúc và hài lòng từ những thân hữu của chúng ta, nhưng nó là tạm thời, không phải là hạnh phúc chân thật. Trong một ý nghĩa sâu xa, mối thân hữu thông thường cũng là bản chất của khổ đau.

Hãy nhìn vào thân thể của chính ta. Bất chấp ta hòa nhã, đáng yêu thế nào và hình dáng của ta đẹp đẻ thế nào, nhưng nếu ta để rơi ngay cả một giọt máu, thì ta đột nhiên trông không đẹp lắm. Dưới làn da này là thịt sống; nhìn sâu hơn thì ta thấy xương. Bộ xương trong một viện bảo tàng hay một nhà thương làm cho hầu hết mọi người chúng ta không thoải mái, nhưng bên dưới tất cả chúng ta hoàn toàn giống nhau. Một số người có thể mập béo, những người khác gầy ốm, một số đẹp trai, nhưng nếu ta nhìn họ qua máy quang tuyến X, ta sẽ thấy một phòng đầy những bộ xương với những hố mắt khổng lồ. Bản chất thân thể của chúng ta là như vậy.

Hãy xem đến niềm sung sướng của việc ăn uống. Hôm nay ta có một số thức ăn ngon  miệng. Khi ta ăn nó, thật là tuyệt vời, nhưng khi nó đi qua dạ dày và ruột của ta, nó thay đổi thành thứ gì đó không quá tuyệt vời. Khi ăn, chúng ta tránh chú ý rằng điều này là những gì xảy ra, và chúng ta vui mừng suy nghĩ, “Ô, bây giờ là thức ăn rất tốt! Tôi thật sự vui sướng.” Nhưng thức ăn tốt lành ấy dần dần đi qua thân thể ta, và cuối cùng đi vào nhà vệ sinh trong một dạng thức mà không ai xem là đẹp đẽ. Thứ này mọi người xem như rất dơ bẩn thật sự là sản phẩm của thân thể con người này. Trong một ý nghĩa, việc làm ra phẩn tiểu là một chức năng chính của thân thể chúng ta!

Ăn uống, hoạt động và làm ra tiền tự chính nó là vô nghĩa. Tuy nhiên, ngay cả một hành vi nhỏ của từ bi có ý nghĩa và mục tiêu cho cuộc sống của chúng ta.

BỀN BỈ VÀ HY VỌNG

Hãy phân tích. Suy nghĩ, suy nghĩ, suy nghĩ. Khi ta làm vậy, ta sẽ nhận ra rằng phương thức thông thường của cuộc sống chúng ta hầu như vô nghĩa. Đừng nản lòng. Thật là ngu ngơ nếu bỏ cuộc bây giờ. Trong những trường hợp như thế khi ta cảm thấy hầu như vô vọng, thì ta phải thực hiện một cố gắng đầy năng lực. Chúng ta quá quen thuộc với những trạng thái sai lầm của tâm thức mà thật khó khăn để thay đổi với một ít thực tập nhỏ nhoi. Chỉ một giọt mật không thể thay đổi vị đắng chát áp đảo. Chúng ta phải kiên nhẫn khi đối mặt với thất bại.

Trong những hoàn cảnh khó khăn cá nhân thì phương kế tốt nhất là cố gắng duy trì tính trung thực và chân thành tối đa như có thể. Trái lại, bằng việc đáp trả một cách nghiệt ngã và ích kỷ, đơn giản là ta sẽ làm vấn đề tệ hại hơn. Điều này rỏ ràng trong nhưng hoàn cảnh đau thương của gia đình. Chúng ta phải nhận ra rằng những trường hợp khó khăn hiện tại là hoàn toàn qua những hành vi vô nguyên tắc của ta trong quá khứ, cho nên khi chúng ta trải nghiệm một thời điểm khó khăn, thì hãy hành động một cách tốt đẹp nhất để tránh thái độ sẽ làm gia tăng gánh nặng cho ta về sau.

Thật quan trọng để giảm dần những trạng thái vô nguyên tắc của tâm thức, nhưng thậm chí quan trọng hơn là đối diện với nghịch cảnh với một thái độ tích cực hơn. Hãy giữ điều này trong lòng: Bằng việc chào đón rắc rối với sự lạc quan và hy vọng, thì ta đang làm giảm thiểu mức độ của những rắc rối tệ hại nhất. Xa hơn thế, hãy tưởng tượng rằng chúng ta đang làm dịu bớt gánh nặng của những vấn nạn khổ đau của mọi người trong cách đó. Sự thực tập này – việc quán tưởng rằng bằng việc chấp nhận nổi đau khổ của ta là ta đang sử dụng hết những nghiệp chướng tiêu cực của mọi người dành để cảm nhận nổi đau như vậy – là rất hiệu quả. Đôi khi tôi bị bệnh, tôi thực tập tiếp nhận nổi khổ đau của người khác cho chính tôi và ban cho họ năng lượng hạnh phúc của tôi; điều này cung ứng tốt cho một sự giảm nhẹ tinh thần.

Mỗi ngày vào buổi sáng sớm, và đặc biệt khi tôi có thời gian, tôi thực hành việc này trong một cung cách tổng quát với việc quan tâm đến tất cả chúng sinh. Nhưng đặc biệt tôi tách rời những lãnh tụ Trung Cộng và những cán bộ nào đã quyết định trong vấn đề tra tấn và giết hại những người Tây Tạng nào đó, tôi quán tưởng họ, tôi đưa thành kiến, thù hận, và kiêu ngạo của họ vào trong chính tôi. Tôi cảm thấy rằng, do bởi sự tu tập của chính tôi, ngay cả nếu trong thực tế tôi có thể hấp thu một phần thái độ tiêu cực của họ, nhưng nó không thể tác động thái độ của tôi và biến tôi thành một người tiêu cực. Thế nên, hấp thụ những tiêu cực của họ không phải là một vấn đề lớn lao đối với tôi, nhưng nó làm giảm đi các rắc rối của họ. Tôi làm việc này với một cảm giác mạnh mẽ rằng nếu trong ngày ở văn phòng tôi nghe sự diệt chủng của họ, mặc dù một phần của tâm tư tôi hơi bị kích thích và sân hận, nhưng bộ phận chính vẫn ở dưới ảnh hưởng của sự thực hành buổi sáng; cường độ của sân hận được giảm thiểu đến mức độ không còn hiện hữu.

Cho dù sự thiền quán này có thật sự hổ trợ cho những cán bộ đó hay không, thì nó cũng cho tôi một sự bình an của tâm hồn. Rồi thì tôi có thể hiệu quả hơn, lợi lạc là vô biên.

-*-

Không hoàn cảnh nào có thể làm ta mất hy vọng. Tuyệt vọng là nguyên nhân thật sự của thất bại. Hãy nhớ rằng, ta có thể vượt thắng bất cứ vấn nạn nào. Hãy điềm tĩnh, ngay cả khi hoàn cảnh ngoại tại là rối rắm hay phức tạp; sẽ có một hiệu quả nho nhỏ nếu tâm thức ta hòa bình. Trái lại, nếu tâm tư ta bị cuốn hút với sân hận, thế thì ngay cả khi thế giới là hòa bình và thoải mái, thì sự hòa bình của tâm hồn cũng sẽ lẫn tránh ta.

-*-

TOÁT YẾU THỰC HÀNH HÀNG NGÀY

1-    Kiểm soát động cơ của ta thường xuyên như có thể. Ngay cả trước khi rời khỏi giường ngủ vào buổi sáng, hãy thiết lập một quan điểm bất bạo động, không lạm dụng cho một ngày của ta. Vào buổi tối, hãy thẩm tra những gì chúng ta đã làm trong ngày.

2-    Hãy chú ý có bao nhiêu khổ đau trong cuộc đời của chính ta:


      * Có những nổi đau thân thể và tinh thần nào từ bệnh tật, tuổi già, và sự chết, mà một cách tự nhiên ta tìm cách lẫn tránh.
      * Có những trải nghiệm tạm thời, như ăn thức ăn ngon, vốn dường như sung sướng trong và của chính nó, nhưng, nếu làm thỏa thích một cách liên tục, sẽ biến thành đau khổ. Đây là khổ đau của sự thay đổi – hoại khổ. Khi một hoàn cảnh chuyển từ sung sướng sang đau khổ, hãy quán chiếu trên sự kiện rằng bản chất sâu xa của niềm sung sướng ban đầu tự nó bộc lộ. Dính mắc vào những sự sung sướng nông cạn sẽ chỉ mang đến khổ đau hơn.
      * Hãy quán chiếu trên vấn đề ta bị vướng trong một tiến trình rộng khắp của điều kiện – hành khổ, chính là ở dưới sự kiểm soát của nghiệp và cảm xúc phiền não, hơn là ở dưới sự kiểm soát của ta

3-    Dần dần phát triển một quan điểm sâu xa hơn, thực tế hơn về thân thể bằng việc quan tâm đến những thành phần của nó – da, máu, thịt, xương, và v.v…

4-    Hãy phân tích đời sống của ta một cách chặc chẽ. Nếu ta làm vậy, thì cuối cùng ta thấy rằng thật khó để mà lạm dụng đời sống của ta bằng việc trở thành một người máy hay bằng việc tìm ra tiền như con đường đi đến hạnh phúc.

5-    Hãy tiếp nhận một thái độ tích cực khi đối mặt với khó khăn. Hãy quán tưởng rằng bằng việc chịu đựng một hoàn cảnh khó khăn với sự uyển chuyển thì ta cũng đang ngăn ngừa những hậu quả tệ hại của nghiệp chướng mà bằng khác đi ta có thể trải nghiệm trong tương lai. Hãy tự mang lấy gánh nặng khổ đau của mọi người như vậy.

6-    Hãy thường xuyên đánh giá những hệ quả tiêu cực và tích cực có thể có của những cảm giác chẳng hạnh như tham dục, sân hận, ganh tỵ, và thù oán.

            *Khi rõ ràng rằng hậu quả của chúng là rất tai hại thì hãy tiếp tục phân tích. Dần dần sự tự tin của ta sẽ mạnh thêm. Hãy lập đi lập lại việc quán chiếu vào những bất lợi của sân hận, thí dụ, nó sẽ làm cho ta hận ra rằng sân hận là vô nghĩa.
            *Quyết định này sẽ làm cho sân hận giảm thiểu dần dần.

-*-
Ẩn Tâm Lộ, Friday, February 15, 2019




Thứ Tư, 13 tháng 2, 2019

BA PHƯƠNG DIỆN THỰC TẬP



                                                 
Nguyên bản: Three Ways to Practice
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển /Wednesday, December 27, 2017

SỰ GIÁC NGỘ CỦA ĐỨC PHẬT NHƯ MỘT MẪU MỰC

Theo một số trường phái Phật giáo, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni lần đầu tiên Giác Ngộ ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 trước Dương Lịch, qua sự thực hành con đường tu tập. Tuy nhiên, những người khác tin rằng Đức Phật đã thành tựu Giác Ngộ trước đó lâu xa và rằng trong hóa thân vào thế kỷ thứ 6 Đức Phật chỉ thị hiện con đường tu tập. Ở Tây Tạng, chúng tôi chấp nhận quan điểm sau, và những môn đồ học hỏi từ mẫu mực của ngài vấn đề thực hành như thế nào nhằm để đạt đến Giác Ngộ cho chính họ.

Trong trường hợp nào đi nữa, thì chúng ta cũng cần phải chú ý rằng:

·        Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni đã sinh ra trong một đời sống giàu sang của một hoàng tử trong một hoàng gia Ấn Độ. Vào lúc 29 tuổi, qua việc thấy khổ đau của thế giới, ngài đã từ bỏ vị trí vương giả, cắt bỏ mái tóc, rời bỏ gia đình và tiếp nhận đạo đức của một tu sĩ, một hệ thống của thái độ luân lý phẩm hạnh.
·        Trong sáu năm sau đó, ngài đã dấn thân trong thiền tập khổ hạnh vì mục tiêu thành tựu thiền định.
·        Sau đó, dưới gốc cây bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng, ngài đã thực tập những kỷ năng đặc biệt để phát triển tuệ trí, và thành tựu Giác Ngộ. Ngài đã đi giáo hóa trong 45 năm, và nhập niết bàn vào lúc 81 tuổi.

Trong lịch sử cuộc đời Đức Phật, chúng ta thấy ba giai đoạn thực hành: đạo đức đến trước tiên, rồi thì thiền định và sau cùng là tuệ trí. Và chúng ta thấy rằng con đường tu tập cần thời gian.

THAY ĐỔI DẦN DẦN

Việc phát triển tâm thức phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân và điều kiện nội tại, rất giống một trạm không gian lệ thuộc vào hoạt động của nhiều thế hệ khoa học gia đã phân tích và thử nghiệm ngay cả một thành phần nhỏ nhất của nó. Không một trạm không gian hay một tâm thức Giác Ngộ nào có thể hoàn thành trong một đêm. Tương tự thế, những phẩm chất tâm linh phải được xây dựng qua những phương cách đa dạng. Tuy nhiên, không giống như trạm không gian, vốn được tạo thành bởi nhiều người hoạt động với nhau, thì tâm thức phải được phát triển bởi chính bạn mà thôi. Không có cách nào để cho người khác làm công việc giùm cho ta để ta thu thập các kết quả. Đọc những tường thuật về tiến trình tâm linh của một người nào đó sẽ không thể chuyển giao sự thực chứng của nó cho ta. Chúng ta phải tự phát triển nó.

Trau dồi một thái độ yêu thương và phát triển tuệ trí là những tiến trình chậm rãi. Khi chúng ta dần dần nhập tâm những kỷ năng cho việc phát triển đạo đức, tập trung tâm thức, và tuệ trí, những tình trạng không được chế ngự của tâm thức trở thành lập lại ngày càng ít dần và ít dần. Chúng ta sẽ cần thực tập những kỷ năng này ngày qua ngày, năm qua năm. Khi chúng ta chuyển hóa tâm thức chúng ta, chúng ta sẽ chuyển hóa [môi trường] chung quanh chúng ta. Những người khác sẽ thấy các lợi lạc từ sự thực tập của chúng ta về bao dung và yêu thương, và sẽ hành động để đem những sự lợi lạc này vào trong đời sống của chính họ.

BA SỰ THỰC TẬP

Giáo huấn của Đức Phật được phân chia thành ba tập hợp của kinh điển – tam vô lậu học.

·        Những nguyên tắc đạo đức – Giới
·        Những lời dạy về thiền tập trung  - Định
·        Những biểu hiện của tri thức giải thích về việc rèn luyện tuệ trí – Tuệ

Trong mỗi phần này, sự thực tập chính được diễn tả như một thể trạng đặc biệt từ sự hợp nhất của (1) “tĩnh lặng bất biến” (định) và (2) “tuệ giác đặc biệt” (tuệ). Nhưng nhằm để thành tựu một sự hợp nhất như vậy, trước tiên chúng ta phải chuẩn bị nền tảng của nó: đạo đức – giới.

THỨ TỰ THỰC TẬP

Đạo đức, thiền định, và tuệ trí – đây là thứ tự cần thiết của thực tập. Những lý do như sau:

·        Nhằm để cho trí của tuệ đặc biệt loại trừ những chướng ngại cho việc thấu hiểu thích đáng, và loại trừ những tình trạng tinh thần sai lầm ngay tại chính gốc rể của chúng, chúng ta cần thiền tập trung (chỉ - thiền định), một thể trạng nhất tâm hoàn toàn mà trong ấy tất cả những xao lãng nội tại đã được loại trừ. Bằng khác đi thì tâm quá bị phân tán. Không có thiền tập trung nhất điểm như vậy, tuệ trí không có năng lực, giống như ánh sáng của ngọn đèn trong ngọn gió nhẹ không thể chiếu sáng nhiều được. Do vậy, thiền định phải có trước tuệ trí.
·        Thiền nhất tâm liên hệ việc loại trừ những tán loạn vi tế nội tại chẳng hạn như tâm bị quá giải đải hay quá căng thẳng. Để làm như vậy chúng ta phải chấm dứt những tán loạn qua việc rèn luyện trong đạo đức của việc duy trì chánh niệm và ý thức với việc quan tâm đến các hành vi của thân thể và lời nói – liên tục tỉnh thức về những gì chúng ta đang làm với thân thể và lời nói. Không vượt thắng những tán loạn rõ ràng này, thì thật không thể vượt thắng những tán loạn vi tế hơn bên trong. Vì là qua duy trì chánh niệm mà chúng ta có thể thành đạt một sự tịch tĩnh của tâm thức, cho nên sự thực tập đạo đức phải đến trước sự thực tập thiền định (thiền tập trung, chỉ).

Trong kinh nghiệm của riêng tôi, việc tiếp nhận những thệ nguyện của một tu sĩ yêu cầu cho việc giảm thiểu những liên hệ và hoạt động nội tại, có nghĩa là tôi có thể tập trung hơn trong việc nghiên cứu tâm linh. Những thệ nguyện ngăn ngừa các hành vi thân thể và lời nói phản tác dụng làm cho tôi chánh niệm với thái độ của tôi và tiến về phía thẩm tra kỷ lưỡng những gì đang xảy ra trong tâm thức tôi. Điều này có nghĩa là ngay cả khi tôi không cố ý thực tập thiền tập trung, thì tôi cũng phải kiểm soát tâm thức tôi khỏi phân tán và vì vậy liên tục tiến về phía của thiền nhất tâm nội tại. Thệ nguyện đạo đức chắc chắn hành động như một nền tảng.

Nhìn vào ba sự thực tập – đạo đức, thiền định, và tuệ trí – chúng ta thấy rằng mỗi thứ phục vụ như căn bản của thứ kế tiếp. (Thứ tự này là minh chứng rõ ràng trong lịch sử cuộc đời của Đức Phật). Do vậy, tất cả những tiến trình tâm linh lệ thuộc vào nền tảng của đạo đức thích hợp.

Trích từ quyển How to Practice the Way to a Meaningful Life
Ẩn Tâm Lộ, Wednesday, January 3, 2018



LỜI ĐẦU SÁCH SỐNG TRỌN VẸN NHƯ THẾ NÀO



CỦA TIẾN SĨ JEFFREY HOPKINS
(How to Practice the Way to a Meaningful Life)


Tôi nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng lần đầu tiên vào năm 1972. Chỉ ba ngày sau khi tôi đến Dharamsala ở miền bắc Ấn, ngài đã bắt đầu khóa thuyết giảng 16 ngày,  bốn đến sáu tiếng mỗi ngày về những giai đoạn của con đường Giác Ngộ. Tôi đã bắt đầu học Tạng ngữ và thực tập Phật giáo Tây Tạng vào năm 1962, và những vị thầy của tôi, đặc biệt chỉ bảo về những sự phức tạp của các luận điển Tây Tạng, đã chuẩn bị cho tôi việc học hỏi với những học giả du già Tây Tạng tị nạn ở Ấn Độ. Nhưng thật tình mà  nói, tôi không nghĩ rằng một vị tái sanh được chỉ định nắm quyền sinh ra ở đông bắc Tây Tạng năm 1935 và được nhìn nhận qua những sự tiên đoán, các giấc mộng, những biến cố cực kỳ phi thường, và các thử nghiệm như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 vào lúc 2 tuổi – có thể đảm đương nhiệm vụ quan trọng như vậy.

Tuy nhiên tôi đã kinh ngạc.

Ngài đã nói về một biên độ rộng của những đề tài liên quan đến con đường Giác Ngộ, chiếm được tâm hồn và trái tim tôi với những khái niệm, rộng và hẹp, phân loại những vấn đề từ lâu chưa được giải quyết, mở rộng đến những người khác và đưa tôi vào những lãnh vực thấu hiểu mới.

Bằng Tạng ngữ Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với một tốc độ tường tận và minh bạch khiến tôi không thể bị xao lãng. Một lần, ngài hào hứng đặc biệt trong khi đang diễn tả những quán chiếu về việc phát sinh lòng bi mẫn. Giọng của ngài vang lên đến một cấp độ mà ngài nói đùa như “giọng-dê”, trong ấy tôi đã nghe niềm say mê đầy cảm hứng của thi ca. Trong loạt thuyết giảng ấy ngài trình bày phạm vi lãnh hội của những thực tập đưa đến Giác Ngộ, với chiều sâu của triết lý, vốn dĩ là những đề tài thường thường kề cận nhau mà người khác để trong trạng thái cách li. Cùng giọng của cả thi ca và triết lý được trình bày trong quyển sách này, đôi khi chạm vào trái tim với những tường thuật xúc động về thân phận của sự sống và các phẩm chất tốt đẹp của lòng vị tha, và vào những lúc khác là các phân biệt cẩn thận về những thực tập thậm thâm như thiền quán về tánh không, vốn phục vụ như việc nuôi dưỡng qua năm tháng cho quán chiếu.

Lúc 5 tuổi, Đức Đạt Lai Lạt được đưa về Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, nơi ngài phải trải qua việc rèn luyện theo chương trình trọn vẹn của tu viện. Qua sự xâm chiếm miền Đông Tây Tạng của Trung Cộng năm 1950, ngài bất ngờ lãnh trách nhiệm chấp chánh thế quyền trung ương lúc 16 tuổi. Mặc dù cố gắng để hợp tác với những kẻ xâm lược, nhưng ngài phải đối diện với hiểm họa cá nhân đang đe dọa và đào thoát đến Ấn Độ năm 1959. Trong lưu vong, ngài đã thành công trong việc tái lập lại trên diện rộng những trung tâm văn hóa Tây Tạng. Ngài đã du hành một cách rộng rãi gần như khắp thế giới, mang theo thông điệp – không chỉ cho những người Phật tử và tín đồ của những tôn giáo khác, mà cho mọi người – về tầm quan trọng của ân cần tử tế với chính kết cấu của xã hội. Trong việc công nhận về những nổ lực không mệt mõi của ngài nhân danh đồng bào Tây Tạng và tất cả mọi dân tộc, ngài đã được trao giải Nobel hòa bình năm 1989.

Đức Thánh Thiện đã xuất bản nhiều quyển sách, một số cho những độc giả phổ thông và một số khác cho những người đặc biệt thích thú với Phật giáo. Trong quyển sách này, ngài đã trình bày một truyền thống thực tập tâm linh lâu đời ở Tây Tạng và về kinh nghiệm của chính ngài để cống hiến những ý kiến về vấn đề thực tập một con đường tâm linh như thế nào sẽ đưa đến sự trong sáng tinh thần và việc chuyển hóa cảm xúc. Trong cách này, ngài cho thấy đời sống có thể hiện thực một cách đầy đủ ý nghĩa như thế nào.

Qua ba mươi năm mà tôi đã biết ngài và trong mười năm phục vụ như thông dịch viên trưởng của ngài trong những chuyến thuyết giảng ở Hoa Kỳ, Canada, Indonesia, Singapore, Malaysia, Úc Đại Lợi, Anh quốc, và Thụy Sĩ, tôi đã chứng kiến hóa thân của ngài trong những thực tập này với chính thâm tâm thị hiện của ngài. Thật quan trọng để cho chúng ta nhận ra con người tuệ giác tròn đầy, từ bi, hài hước và kỳ diệu này phát xuất từ nền văn hóa Tây Tạng. Chúng ta cần đánh giá rằng văn hóa như một trong những kỳ quan vĩ đại của thế giới.

Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Giáo sư Tây Tạng học,
Đại học Virginia, Hoa Kỳ
Ẩn Tâm Lộ, Sunday, December 24, 2017





NHU CẦU VÌ HÒA BÌNH VÀ ÂN CẦN




Nguyên bản: The Need for Peace and Kindness
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / December 24, 2017


  
Tôi đã du hành qua nhiều nơi khắp thế giới, và bất cứ khi nào tôi nói chuyện với mọi người, thì tôi luôn luôn có cảm giác rằng tôi là một thành viên trong gia đình của họ. Mặc dù chúng ta có thể mới gặp lần đầu, nhưng tôi xem mọi người như bạn. Thật sự chúng ta đã biết nhau, một cách sâu sắc, như những con người mà chúng ta cùng chia sẻ những mục tiêu căn bản như nhau: Tất cả chúng ta đều tìm cầu hạnh phúc và không muốn khổ đau.

HAI CÁCH ĐỂ HẠNH PHÚC

hai cách để tạo dựng hạnh phúc. Thứ nhất là bên ngoài. Bằng việc có được chỗ ở tốt đẹp hơn, áo quần tốt đẹp hơn, và những người bạn tốt đẹp hơn thì chúng ta có thể thấy được một tiêu chẩn nào đó của hạnh phúc và hài lòng. Thứ hai là qua phát triển tinh thần, vốn có thể mang lại hạnh phúc nội tại. Tuy nhiên, hai sự tiếp cận này không thể phát triển một cách như nhau. Hạnh phúc bên ngoài không thể tồn tại lâu dài mà không có bộ phận tương ứng của nó. Nếu điều gì đó đang vắng mặt trong nhận thức của ta – nếu điều gì đó tâm hồn ta đang thấy thiếu – thế thì mặc cho quanh ta là những thứ xa hoa nhất, thì ta cũng không thể hạnh phúc. Tuy nhiên, nếu ta có hòa bình trong tâm hồn, thì ta có thể thấy hạnh phúc ngay cả dưới những hoàn cảnh khó khăn nhất.

Tiến bộ vật chất không thôi đôi khi giải quyết một vấn đề nhưng lại tạo ra một rắc rối khác. Thí dụ, những người nào đó có thể có được giàu sang, một nền giáo dục tốt, và vị trí xã hội cao, nhưng hạnh phúc lãng tránh họ. Họ dùng thuốc ngủ và uống rượu quá nhiều. Đôi khi là thiếu thốn thứ gì đó khiến họ không thể hài lòng, vì thế những người này nương tựa vào ma túy hay rượu chè. Trái lại, một số người ít tiền bạc để lo lắng nhưng hưởng thụ hòa bình nhiều hơn. Họ ngủ ngon về đêm. Mặc cho nghèo trong ý nghĩa vật chất, nhưng họ toại nguyện và hạnh phúc. Điều này cho thấy tác động mạnh mẽ của một thái độ tinh thần tốt. Sự tiến bộ vật chất không thôi sẽ không thể giải quyết toàn bộ vấn nạn khổ đau của nhân loại.

Trong quyển sách này, tôi cống hiến với quý vị, những độc giả, các kỷ năng từ những truyền thống Tây Tạng, nếu thực hành hằng ngày, thì sẽ đưa đến hòa bình tinh thần. Khi quý vị tĩnh lặng tâm hồn và trái tim, thì sự khuấy động và lo lắng của quý vị sẽ tự nhiên lắng đọng, và quý vị sẽ hạnh phúc hơn. Các mối quan hệ của quý vị với những người khác sẽ phản chiếu những sự thay đổi này. Và như những con người tốt đẹp hơn, quý vị sẽ là những công dân tốt đẹp hơn của đất nước quý vị, và cuối cùng là những công dân tốt đẹp hơn của thế giới.

ÂN CẦN TỬ TẾ

Tất cả chúng ta bất lực khi được sanh ra. Không có lòng ân cần của cha mẹ thì chúng ta không thể sống còn, kém thành công hơn nhiều. Khi trẻ con lớn lên trong sợ hãi liên tục, không ai tựa nương, chúng đau khổ cả đời. Vì tâm hồn trẻ nhỏ rất yếu đuối, thế nên nhu cầu cho lòng ân cần của chúng đặc biệt rõ ràng.

Người trưởng thành cũng cần lòng ân cần. Nếu người nào đó chào đón tôi với một nụ cười dễ thương, và biểu lộ một thái độ thân hữu chân thành, tôi sẽ cảm kích rất nhiều. Cho dù tôi có thể không biết người đó hay thấu hiểu ngôn ngữ của họ, nhưng họ làm cho trái tim tôi vui sướng tức thời. Trái lại, nếu lòng ân cần thiếu vắng, thì ngay cả với người nào đó trong nền văn hóa của tôi, người mà tôi đã biết trong nhiều năm, tôi cũng cảm thấy được. Ân cần và yêu thương, một cảm nhận thật sự của tình anh chị em, những thứ này là rất quý giá. Chúng tạo thành cộng đồng hiện thực và vì vậy là rất quan trọng trong xã hội.

TIỀM NĂNG CON NGƯỜI

Mỗi chúng ta có cảm nhận tất yếu về tự ngã, “cái tôi”. Chúng ta cũng chia sẻ những mục tiêu căn bản: Chúng ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Thú vật và côn trùng cũng muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, nhưng chúng không có năng lực đặc biệt để nghĩ đến việc đạt được hạnh phúc sâu hơn và vượt thắng khổ đau như thế nào. Như những con người, được ban cho khả năng tư duy, chúng ta có tiềm năng này, và chúng ta phải sử dụng nó.

Trong mọi cấp độ - như những cá nhân, và như những thành viên của một gia đình, một cộng đồng, một quốc gia, và một hành tinh – những kẻ gây rối hiểm độc mà chúng ta đối diện là sân hận và vị kỷ. Loại vị kỷ mà tôi liên hệ ở đây không chỉ là một cảm nhận của cái tôi, nhưng là một sự phóng đại của tính tự cho mình là trung tâm. Không ai tuyên bố cảm thấy hạnh phúc trong khi sân hận. Khi nào mà sân hận vẫn còn khống chế tính khí của chúng ta, thì không thể có sự hạnh phúc tồn tại lâu dài.  Để đạt được hòa bình, tĩnh lặng, và tình thân hữu thật sự, chúng ta phải giảm thiểu tối đa sân hận và trau dồi lòng ân cần cùng một trái tim nhiệt tình. Điều này có thể đạt được qua những sự thực tập mà tôi sẽ diễn tả trong quyển sách này.

Việc phát triển một trái tim nhiệt tình của chính chúng ta cũng có thể chuyển hóa những người khác. Khi chúng ta trở thành những con người dễ thương hơn, thì những người láng giềng, bạn bè, cha mẹ, người phối ngẫu, và con trẻ sẽ trải nghiệm ít sân hận hơn. Họ sẽ trở thành nhiệt tình hơn, yêu thương hơn và hòa hiệp hơn. Chính không khí trở thành hạnh phúc hơn sẽ thúc đẩy sức khỏe tốt hơn, có lẻ ngay cả sống lâu hơn.

Quý vị có thể giàu sang, quyền lực và học vấn tốt, nhưng nếu không có những cảm nhận lành mạnh của lòng ân cần và yêu thương thì sẽ không có hòa bình trong chính quý vị, không có hòa bình trong gia đình quý vị - ngay cả con cái của quý vị cũng đau khổ. Lòng ân cần là thiết yếu cho hòa bình tinh thần. Khi quý vị thấy những trang sách sắp đến, phương pháp trung tâm cho việc đạt được một đời sống hạnh phúc hơn là rèn luyện tâm thức quý vị trong sự thực tập hàng ngày vốn làm suy yếu những thái độ tiêu cực và làm mạnh những thứ tích cực.

Câu hỏi lớn là chúng ta có thể thực tập ân cần và hòa bình hay không. Nhiều vấn nạn đã xuất phát từ các thái độ như đặt chúng ta lên trước bằng mọi giá. Tôi biết từ kinh nghiệm của chính tôi là có thể thay đổi những thái độ này và cải thiện tâm thức con người. Dù nó không màu sắc, không hình thể, và đôi khi yếu đuối, nhưng tâm thức con người có thể trở thành mạnh hơn sắt thép. Để rèn luyện tâm thức, quý vị phải tập nhẫn nại và quyết chí, nó tạo hình cho sắt thép ấy. Nếu quý vị thực tập cải thiện tâm thức với một ý chí mạnh mẽ và khoan dung, bằng việc cố gắng, cố gắng, cố gắng, thì bất chấp bao nhiêu khó khăn mà quý vị có thể chạm trán vào lúc đầu, nhưng rồi thì quý vị sẽ thành công. Với sự nhẫn nại, và thực tập, cùng thời gian, sự thay đổi sẽ đến.

Đừng bỏ dở. Nếu quý vị bi quan vào lúc khởi đầu, thì quý vị không thể thành công. Nếu hy vọng và quyết tâm, quý vị sẽ luôn luôn thấy một mức độ nào đó của thành công. Giành được huy chương vàng không thành vấn đề. Quý vị sẽ phải cố gắng tột cùng.

LỆ THUỘC HỔ TƯƠNG

Phần lớn thế giới bây giờ được nối kết với nhau bởi một mạng lưới truyền thông điện tử và thông tin tức thời. Trong thế kỷ 21, nền kinh tế toàn cầu của chúng ta đã làm cho các quốc gia và người dân của chúng lệ thuộc nặng nề vào nhau. Thời xa xưa, sự trao đổi giữa các quốc gia không cần thiết. Ngày nay, thật không thể duy trì sự cô lập, thế nên nếu các quốc gia không có sự tôn trọng hổ tương, thì các vấn nạn phải sinh ra. Mặc dù có những dấu hiệu nghiêm trọng của rắc rối giữa các quốc gia giàu nghèo, và giữa những nhóm người giàu nghèo trong các quốc gia, thì những rạn nứt kinh tế này có thể được chửa trị bằng một cảm nhận mạnh mẽ hơn của sự lệ thuộc hổ tương và trách nhiệm toàn cầu. Người dân trong nước này phải xem người dân trong nước khác như anh chị em, những người cũng xứng đáng phát triển quê hương của họ.

Mặc cho mọi nổ lực tốt nhất của các lãnh tụ thế giới, các khủng hoảng cứ bùng lên. Chiến tranh giết hại người dân vô tội; người già và trẻ con chết liên tục không ngừng. Nhiều chiến binh đang đánh nhau ở đấy không phải do ý muốn của họ, nổi khổ đau thật sự mà các chiến binh vô tội này đang trải nghiệm là rất đau buồn. Việc buôn bán vũ khí – hàng nghìn và hàng nghìn loại vũ khí và đạn dược được sản xuất trong những nhà máy như đổ dầu vào lửa bạo động, nhưng nguy hiểm hơn súng ống hay bom đạn là sự thù hận, thiếu vắng yêu thương, và thiếu vắng sự tôn trọng các quyền lợi của người khác. Khi mà thù hận vẫn còn lưu trú trong tâm thức con người, thì nền hòa bình thật sự là không thể có.

Chúng ta phải làm mọi cách để chấm dứt chiến tranh, và để thoát khỏi thế giới của vũ khí hạt nhân. Lần đầu tiên khi tôi viếng Hiroshima, nơi trái bom nguyên tử đầu tiên được thả xuống, khi tôi thấy ngay hiện trường và nghe các câu chuyện của những người sống sót, trái tim tôi xúc động sâu sắc. Bao nhiêu người đã chết ngay trong thời khắc ấy! Bao nhiêu người nữa bị thương tật! Bao nhiêu đau đớn và thê lương mà chiến tranh nguyên tử đã tạo ra! Tuy thế, hãy nhìn vào biết bao tiền của được dành cho vũ khí hủy diệt hàng loạt. Thật sốc, đáng hổ thẹn vô cùng.

Những tiến bộ trong khoa học và kỷ thuật đã làm lợi lạc vô vàn cho nhân loại, nhưng không phải là không có giá của nó. Trong khi chúng ta hưởng thụ sự phát triển của máy bay phản lực, thí dụ thế, vốn làm cho chúng ta có thể du lịch một cách dễ dàng trên thế giới, thì những vũ khí tàn phá kinh khủng cũng được tạo ra. Bất chấp quê hương của họ xinh đẹp và xa xôi như thế nào đi nữa, nhiều người vẫn sống trong sợ hãi liên tục của một hiểm họa thật sự: hàng nghìn và hàng nghìn đầu đạn hạt nhân đang chờ tấn công. Nhưng nút bấm phải được một người nào đó nhấn tay vào, và vì thế quyết định của con người là trách nhiệm tối hậu.

Cách duy nhất để đạt đến nền hòa bình trường cửu là qua sự tin tưởng, tôn trọng hổ tương, yêu thương và ân cần. Cách duy nhất. Những cố gắng bằng sức mạnh toàn cầu để chiếm ưu thế qua chạy đua vũ trang – cho dù nguyên tử, hóa học, sinh học, và quy ước – là phản tác dụng. Làm thế nào một thế giới đầy thù oán và sân hận đạt được nền hòa bình thật sự? Hòa bình bên ngoài không thể có được nếu không có hòa bình nội tại. Thật cao quý để hành động cho những giải pháp bên ngoài, nhưng chúng không thể được thực hiện một cách đầy đủ khi người ta vẫn còn thù oán và sân hận trong tâm thức họ. Đây là nơi sự thay đổi sâu sắc phải được bắt đầu. Cá biệt thì chúng ta phải hành động để thay đổi những nhận thức căn bản mà những cảm nhận chúng ta lệ thuộc. Chúng ta chỉ có thể làm như vậy qua rèn luyện, bằng việc dấn thân vào việc thực tập với mục tiêu định hướng lại dần dần cung cách chúng ta nhận thức chính mình và người khác.

Tình trạng tuyệt vọng của thế giới chúng ta kêu gọi chúng ta hành động. Mỗi chúng ta có trách nhiệm cố gắng để hổ trợ ở cấp độ sâu xa hơn cho cộng đồng nhân loại chung của chúng ta. Bất hạnh thay, nhân loại thường bị hy sinh quá nhiều trong việc bảo vệ lý tưởng. Điều này chắc chắn là sai lầm. Những hệ thống chính trị phải thật sự làm lợi ích cho con người, nhưng, như tiền bạc, chúng có thể điều khiển chúng ta thay vì hoạt động cho chúng ta. Bất kỳ lúc nào, với trái tim nhiệt tình và nhẫn nại chúng ta cũng có thể quan tâm đến những quan điểm của người khác, và trao đổi ý kiến trong những thảo luận trầm tĩnh, thì chúng ta sẽ tìm ra những điểm đồng thuận. Đó là trách nhiệm của chúng ta – vì lòng từ ái và bi mẫn cho con người – để tìm sự hòa hiệp giữa các quốc gia, các lý tưởng, các nền văn hóa, các nhóm chủng tộc, và kinh tế cùng những hệ thống chính trị. Khi chúng ta thật sự nhận ra tính duy nhất của toàn thể nhân loại, thì động cơ của chúng ta để tìm hòa bình sẽ phát triền mạnh mẽ hơn. Trong cảm nhận sâu xa nhất, chúng ta thật sự là những anh chị em của nhau, cho nên chúng ta phải chia sẻ đau khổ của nhau. Sự tôn trọng, tin tưởng và quan tâm hổ tương cho sự cát tường của nhau là hy vọng tuyệt vời nhất cho một nền hòa bình bền lâu.

Dĩ nhiên, các lãnh tụ quốc gia có một trách nhiệm đặc biệt trong lãnh vực này, nhưng mỗi cá nhân cũng phải phát huy sáng kiến, bất chấp niềm tin tôn giáo. Quả thật như là con người, bằng việc tìm cầu để thành đạt hạnh phúc và tránh khổ đau, chúng ta là những công dân của hành tinh này. Tất cả chúng ta có trách nhiệm cho việc tạo nên một tương lai tốt đẹp hơn.

Để có được một thái độ thân hữu, một trái tim nhiệt tình, tôn trọng cho các quyền của người khác, và quan tâm cho lợi ích của họ thì chúng ta phải rèn luyện tâm thức. Trong quyển sách này, tôi sẽ trình bày một loạt những thực tập được vạch ra từ các truyền thống Tây Tạng sẽ rất hữu ích cho việc hoàn thành những mục tiêu này. Đối tượng chủ yếu của sự thực tập hàng ngày là để trau dồi một thái độ của yêu thương và tĩnh lặng – một thể trạng của tâm thức đặc biệt quan trọng trong xã hội con người ngày nay vì năng lực của nó mang lại một sự  hòa hiệp chân thật giữa các quốc gia, chủng tộc và dân tộc từ những hệ thống tôn giáo, chính trị và kinh tế khác biệt.

TẠO DỰNG HÒA HIỆP

Hòa hiệp và hữu nghị vốn cần thiết trong gia đình, quốc gia, và thế giới của chúng ta chỉ có thể đạt được qua yêu thương và ân cần tử tế. Bằng việc hổ trợ nhau, với sự quan tâm và tôn trọng, chúng ta có thể giải quyết nhiều vấn nạn một cách dễ dàng. Hòa hiệp không thể xuất phát từ đỉnh điểm của mất lòng tin, lừa dối, bắt nạt và tinh thần ganh đua không thiện cảm. Thành công qua hăm dọa và bạo động là thắng thế tạm thời; thành quả tầm thường của nó chỉ có thể tạo thêm những rắc rối mới. Đó là tại sao chỉ trong vài thập niên sau thảm họa vô vàn của Thế chiến thứ I, Thế chiến thứ II đã nổ ra và hàng triệu người nữa đã chết. Nếu chúng ta thẩm tra lịch sử lâu dài của thù oán và sân hận, thì rõ ràng chúng ta thấy nhu cầu để tìm ra một phương cách tốt đẹp hơn. Chúng ta chỉ có thể giải quyết các vấn nạn của chúng ta qua những phương tiện hòa bình chân thật – không chỉ những lời nói hòa bình mà là một nền hòa bình từ tâm hồn và trái tim. Trong cách này, chúng ta sẽ có một thế giới tốt đẹp hơn.

Điều này có thể chứ? Đánh đấm, lừa dối, và bắt nạt đã cột chúng ta vào trong hoàn cảnh hiện tại; bây giờ chúng ta cần sự rèn luyện trong những sự thực tập mới để tìm lối ra. Dường như nó phi thực tế và lý tưởng hóa, nhưng chúng ta không có sự thay thế cho yêu thương, việc nhìn nhận giá trị nhân bản và tính duy nhất của nhân loại. Đây là cách duy nhất để đạt được niềm hạnh phúc miên viễn.

Tôi đã du hành từ quốc gia này qua quốc gia khác với ý nghĩa duy nhất này. Tôi đã rèn luyện tâm thức trong nhiều thập niên, vì thế khi tôi gặp gở mọi người từ những nền văn hóa khác nhau thì không có rào cản nào. Tôi tự tin rằng mặc cho những nền văn hóa khác nhau cùng những hệ thống chính trị kinh tế khác nhau, nhưng một cách căn bản tất cả chúng ta là giống nhau. Càng gặp gở nhiều người hơn sự tự tin của tôi càng trở nên mạnh mẽ hơn về tính duy nhất của nhân loại, được đặt nền tảng trong sự thấu hiểu và tôn trọng, là một căn bản thực tế và có thể thành tựu được cho tư cách của chúng ta. Bất cứ nơi nào tôi đến, đây là điều mà tôi nói đến. Tôi tin rằng từ ái và bi mẫn -  một cảm nhận chân thành về tình anh chị em – là tôn giáo phổ quát. Bất chấp ta là Phật tử hay Ki tô hữu, Hồi giáo hay Ấn giáo, cho dù chúng ta hoàn toàn không thực tập tôn giáo gì cả thì vấn đề quan trọng là cảm nhận đồng nhất với nhân loại của chúng ta.

Quý vị có đồng ý không? Quý vị có nghĩ là điều này vô nghĩa không? Tôi không phải là một Thánh Vương (God King) như một số người gọi tôi. Tôi chỉ là một tu sĩ Phật giáo. Những gì tôi đang nói là từ sự thực tập của tôi, rất giới hạn. Nhưng tôi thật sự cố gắng để thực hiện những ý tưởng này trong đời sống hàng ngày của tôi, một cách đặc biệt khi tôi đối diện với những rắc rối. Dĩ nhiên đôi khi tôi thất bại. Đôi khi tôi bực tức. Có khi tôi sử dụng những lời thô tháo, nhưng khi xảy ra như vậy, lập tức tôi nghĩ “Ô, như vậy là sai rồi.” Tôi cảm nhận điều này vì tôi đã tiếp thu những sự thực tập yêu thương và tuệ trí làm cốt lõi cho quyển sách này. Những sự thực tập hàng ngày này là rất hữu ích và rất giá trị trong đời sống của tôi. Do vậy, vì biết rằng quý vị và tôi có tâm hồn và trái tim như nhau, cho nên tôi chia sẻ chúng với quý vị.

***

Khi tôi mới 15, Hồng Quân đánh chiếm miền Đông Tây Tạng, và chỉ trong một năm chính quyền Tây Tạng quyết định tôi nên trực tiếp điều khiển công việc của quốc gia. Đó là một thời điểm khó khăn khi chúng tôi nhìn sự tự do của chúng tôi bị xói mòn, và trong năm 1959, tôi bị buộc phải đào thoát khỏi thủ đô dưới sự che chở của màn đêm. Trong lưu vong ở Ấn Độ, chúng tôi đối diện với các rắc rối hàng ngày từ nhu cầu điều hòa với khí hậu khác biệt quá lớn đến nhu cầu tái thiết lập những cơ cấu văn hóa. Sự thực tập tâm linh đã cho tôi một triển vọng để có thể giữ sự tìm kiếm cho những giải pháp mà không đánh mất quan điểm về sự kiện rằng tất cả chúng ta là những con người bị hướng dẫn lạc lối bởi những ý kiến sai lầm và được hợp nhất bởi những mối quan hệ chung, sẳn sàng cho sự cải thiện.

Điều này đã dạy tôi rằng những nhận thức của yêu thương, tĩnh lặng, và tuệ giác là quan trọng với đời sống hàng ngày và phải được trau dồi trong sự thực tập hàng ngày. Rắc rối bắt buộc phải xảy ra, cho nên việc trau dồi thái độ đúng đắn là cần thiết. Sân hận làm suy giảm năng lực phân biệt đúng và sai, và năng lực này là một trong những cống hiến cao cấp nhất của loài người. Nếu nó bị đánh mất thì chúng ta cũng không còn. Đôi khi cũng cần phản ứng một cách mạnh mẽ, nhưng điều này  nên được thực hiện mà không có sân hận. Sân hận là không cần thiết. Nó vô giá trị.

Tôi gọi từ bi yêu thương là nguyên liệu chính của địa cầu. Loài người muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Hòa bình tinh thần là nhu cầu căn bản cho toàn thể nhân loại. Đối với những chính trị gia, kỷ , khoa học gia, người nội trợ, bác sĩ, giáo viên, luật sư – cho tất cả mọi người trong mỗi nỗ lực – một động cơ lành mạnh, yêu thương là nền tảng của sự lớn mạnh tâm linh.

TỔNG QUAN CỦA QUYỂN SÁCH

Trong những chương tiếp theo, tôi sẽ diễn tả những kỷ năng Phật giáo đặc thù cho việc đạt đến hòa bình tinh thần và một năng lực lớn hơn cho từ bi yêu thương trong phạm vi của hành động để vượt thắng những gì mà Đạo Phật xem như các khái niệm sai lầm về vấn đề sự sống và sự vật tồn tại như thế nào. Trong thuật ngữ Phật giáo, đây là con đường đến Giác Ngộ. Tuy nhiên, bất cứ người nào cũng có thể hiện thực những bước đặc thù đối với việc tự cải thiện khi họ thấy thích hợp.

Tôi đã bố cục quyển sách này làm sáu phần. Bắt đầu bằng Những Căn Bản, với câu chuyện về Đức Phật như một sự hướng dẫn cho cuộc sống đầy đủ ý nghĩa, sống trọn vẹn: ở đây tôi giới thiệu ba khía cạnh của sự thực tập tâm linh – đạo đức, thiền định và tuệ trí – vốn là chủ đề chính của quyển sách. Trong phần thứ hai, Thực Hành Đạo Đức, tôi diễn tả hai loại đạo đức: tái định hướng những hành vi của thân thể và lời nói để không làm tổn hại người khác, và việc trau dồi quan tâm sâu sắc hơn cho người khác. Trong phần thứ ba, Thực Tập Thiền Định, tôi diễn tả vấn đề thành tựu tập trung tinh thần như thế nào và khôi phục tĩnh lặng trong những hoàn cảnh căng thẳng như thế nào. Điều này được tiếp theo bởi Thực Hành Tuệ Trí, trình bày chủ đề khó nhưng bổ ích của duyên khởi và tánh không. Ở đây, chúng ta đi sâu hơn vào tư duy Phật giáo khi chúng ta quan tâm đến sự khác biệt giữa tâm thức và bản chất tối hậu của nó. Trong phần thứ tư này, tôi hy vọng giảng giải bất cứ khái niệm nào mà Phật giáo vì một lý do nào đấy cho là hư vô và bi quan bằng việc diễn tả tính tương hợp giữa hiện tướng và thực tại.

Những sự thảo luận này về đạo đức, thiền định và tuệ trí diễn ra nhẹ nhàng trong phần thứ năm, Mật Tông tantra, trình bày một sự thực tập du già đặc biệt phối hợp ba thứ này. Tôi cũng thảo luận vấn đề tham muốn có thể được sử dụng trong con đường tâm linh như thế nào bởi những hành giả lão luyện.

Phần kết luận, Những Bước Trên Đường Đi, trình bày tổng quan về con đường thực tập từ lúc bắt đầu thẳng đến sự Giác Ngộ, một thể trạng nơi tâm thức và thân thể phát triển trọn vẹn để phụng sự người khác.

Từ lúc bắt đầu đến kết thúc, sự tập trung của chúng ta ở trong sự phát triển một trái tim và tâm thức thuần thiện qua một thái độ đạo đức và một sự thấu hiểu về thực tại, được tăng cường bởi sự tập trung. Hãy nghĩ về đạo đức, thiền định và tuệ trí như một như một bản đồ cho sự Giác Ngộ, nhắc nhở chúng ta về mục tiêu cao nhất của sự thực tập – một sự chuyển hóa thái độ đối với hòa bình, yêu thương, tập trung tĩnh lặng, và tuệ trí. Việc thấu hiểu bản đồ, tự nó là một phần của con đường, vạch ra cho chúng ta hướng đến mục tiêu. Tôi hy vọng rằng, những phần của quyển sách này có thể hữu dụng, nhưng nếu không thì cũng tốt thôi!

Trích từ quyển How to Practice the Way to a Meaningful Life
Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, December 26, 2017