Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2019

HÒA BÌNH QUA HÒA BÌNH NỘI TẠI




Nguyên tác: Peace Through Inner Peace
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Minneapolis 2011
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Trân trọng ông chủ tịch (hỏi người thông dịch) của trường đại học Minnesota nổi tiếng và to lớn này – (thính chúng cười) tôi phải chắc chắn những tên tuổi này, những thứ này – tâm trí tôi không quá đáng tin cậy hay tốt lắm với những chi tiết. Quý vị đã tặng tôi bằng cấp danh dự này, nên tôi cảm ơn rất nhiều. Tôi thường nói, khi tôi nhận loại bằng cấp danh dự loại này, rằng tôi đã có một học vị cao cấp đặc biệt rồi, có được mà không qua học tập. Tôi chắc rằng những người bình thường, nhằm để có được một bằng cấp loại này, thì cần nổ lực rất nhiều. Và rồi, đặc biệt cảm ơn cho chiếc mũ này. Đôi khi tôi chú ý rằng những người đầu hói yêu thích những chiếc nón. Tôi không muốn che dấu chiếc đầu trọc của tôi. (Cười) Vậy thì, sau mười năm, một lần nữa, tôi lại ở đây. Và mỗi lần mọi người thật sự biểu lộ cảm nhận chân thành, nhân bản, ấm áp. Tôi rất cảm kích điều đó.

Từ phía tôi cũng thế, bất cứ khi nào gặp gở mọi người, bất chấp văn hóa của họ là gì, bất chấp tín ngưỡng, hay màu da của họ là gì, thì tôi luôn luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của cấp độ nền tảng mà trên ấy chúng ta cùng là những con người giống nhau – tinh thần, cảm xúc, thân thể chúng ta là giống nhau. Và, quan trọng hơn, mọi người – kể cả thú vật và côn trùng – muốn một đời sống hòa bình, không muốn những quấy rầy, và mỗi người có quyền để có một đời sống hạnh phúc thành công. Và rồi thì, dĩ nhiên, một học viện giáo dục như vậy là rất, rất quan trọng, vì não bộ của con người chúng ta có tiềm năng vĩ đại cho kiến thức tăng trưởng.

Vậy nên, những học viện giáo dục như trường đại học này, tôi nghĩ, cống hiến sự hổ trợ tuyệt diệu để phát triển tiềm năng này. Hệ thống giáo dục hiện đại, mức độ mà tôi biết, đã bắt đầu khoảng một nghìn năm trước ở lục địa châu Âu, như những học viện giáo dục riêng biệt. Vào lúc ấy, những học viện tôn giáo chăm sóc những khía cạnh đạo đức, tâm linh, và luân lý của tâm thức. Những học viện tôn giáo chịu hoàn toàn trách nhiệm cho khía cạnh tâm linh này. Và cũng thế, tôi nghĩ có sự nhấn mạnh rất nhiều về những giá trị gia đình. Vì vậy, vào lúc ấy, những học viện giáo dục được phát triển một cách mới mẻ, được thành lập một cách mới  mẻ chỉ quan tâm về sự phát triền và giáo dục não bộ. Thời gian trôi qua và sự ảnh hưởng của Nhà thờ cũng suy thoái một ít, cũng như các giá trị gia đình. Do vậy, học viện giáo dục tự nó bây giờ nên chăm sóc của những khía cạnh này – về kiến thức và lòng nhiệt tình. Vì thế ở đây, dường như rằng chúng ta không chú ý tương xứng để phát triển và duy trì tâm bi mẫn thương cảm của con người.

Chúng ta đang bắt đầu thế kỷ 21. Nói một cách tổng quát, tôi nghĩ cả điều kiện vật chất hiện đại và nền giáo dục hiện đại và phát triển rất cao. Tuy nhiên, điều đó không nhất thiết giảm thiểu vấn nạn của nhân loại. Thí dụ, trong lịch sử loài người, tôi nghĩ thế kỷ 20 là quan trọng nhất. Trong thế kỷ ấy, một cách chính yếu nhiều phát minh và cải cách xảy ra trong lãnh vực của khoa học và kỷ thuật; cũng vậy trong kinh tế và trong giáo dục, đã phát triển nhiều.

Tuy nhiên, theo một số nhà sử học, trong thế kỷ 20, số lượng con người bị giết qua bạo động, qua chiến tranh – ngay cả qua nội chiến – là khoảng 200 triệu. Tôi nghĩ về tất cả những thế kỷ đã qua, con số lớn nhất của các tai họa qua bạo động là trong thế kỷ 20. Và cũng thế, như một kết quả của sáng chế trong kỷ thuật và khoa học, vũ khí nguyên tử được phát triển... Vũ khí tàn phá vô cùng này đã đem đến nhiều sợ hãi và lo lắng hơn cho hành tinh này – những thành tựu thật sự phi thường này của não bộ con người mang đến nhiều sợ hãi hơn cho thế giới. Vậy thì, điều gì sai lầm – não bộ? Ô, tri thức là kỳ diệu. Nhưng rồi thì, tôi sợ các nguyên lý đạo đức đang thiếu vắng. Vì thế, do bởi những kinh nghiệm quá khứ, tôi nghĩ rằng bây giờ đã đến lúc cho chúng ta nghĩ về vấn đề chúng ta cần trau dồi và duy trì một hệ thống nhạy cảm của đạo đức luân lý.

Đạo đức luân lý là gì? Tôi nghĩ chính chữ “đạo đức” là liên hệ với tâm thức và cảm xúc, mà không phải với vật chất. Chúng ta không thể nói, trên căn bản của vật chất đạo đức là khó khăn. Đạo đức liên hệ đến phẩm chất tinh thần. Vậy nên, chắc chắn, những tâm thức hay cảm xúc hay động cơ ấy những thứ mang đến sự thoải mái, hạnh phúc, và vui sướng, thì đó là đạo đức. Động cơ hay cảm xúc, mang đến sợ hãi, đau khổ, mất lòng tin, thì những thứ này là phi đạo đức. Do thế, chúng ta những con người, là những tạo vật xã hội, và để tồn tại thì chúng ta cần những cộng đồng loài người. Đó là tự nhiên của con người. Tự nhiên đã tạo chúng ta như những tạo vật xã hội, cho nên hợp tác chân thành là rất cần thiết. Ngay cả những côn trùng nhỏ hay chim chóc hay thú vật không tôn giáo, không hiến pháp, không chính phủ, nhưng tự nhiên, chúng hoạt động với nhau, và hợp tác.

Một cách căn bản, chúng ta cũng là những tạo vật xã hội và thật sự cần hợp tác. Nhưng sự hợp tác chân thành không thể được phát triển bằng sức mạnh, bằng tiền bạc, bằng năng lực – nó hoàn toàn căn cứ trên tình thân hữu. Tính hữu nghị là hoàn toàn căn cứ trên sự tin tưởng và sự tin tưởng căn cứ trên sự cởi mở. Nếu quý vị nhìn vào sự cởi mở và trung thực khác, nói năng và hành động một cách trung thực và chân thật, vốn mang đến sự tin tưởng. Tin tưởng mang đến tình bạn; và tình bạn mang đến sự hòa hiệp và hợp tác chân thành. Vậy nên, tôi nghĩ, yếu tố căn bản cho sự cởi mở hay tin tưởng là nhiệt tình.

Nếu ta xem những người khác, cũng giống như chúng ta, muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau thì ta sẽ thấy rằng thật không hợp lý để làm tổn hại, lừa gạt, và dối trá với người khác. Nếu ta bị lừa gạt bởi một người nào đó, ta cảm thấy không thoải mái. Do vậy, phù hợp với kinh nghiệm của chính ta, chúng ta phải tránh bất cứ hành vi thân thể, lời nói, và tâm ý vốn mang đến sợ hãi, tổn hại, hay làm người khác không thoải mái. Những thứ này là phi đạo đức. Những hành vi của thân thể, tâm ý và lời nói mang đến hạnh phúc và vui vẻ - không chỉ tạm thời mà cũng là về lâu về dài – thì đây là những thứ đạo đức.

Vậy thì bây giờ vấn đề là, theo tự nhiên, tất cả chúng ta có tiềm năng cho nhiệt tình, vì tất cả chúng ta đến từ của các bà mẹ của chúng ta, và chúng ta đã lớn lên dưới tình cảm vô biên của những bà mẹ. Tất cả chúng ta có cùng kinh nghiệm. Điều đó là rất, rất quan trọng. Tình cảm vô biên vào lúc ấu thơ thật sự làm nên một sự khác biệt cho toàn bộ đời sống của chúng ta. Bây giờ là kinh nghiệm của riêng tôi – tôi đến từ một vùng rất xa xôi, hẻo lánh, vùng đông bắc của Tây Tạng. Đặc biệt, ngôi làng của tôi, và rất xa xôi và nhà tôi là một nông trại. Cả cha mẹ tôi đều mù chữ; tuy nhiên, mẹ tôi thì rất nhân từ và một bà mẹ rất tốt. Do thế, chúng tôi, những đứa con của bà, lớn lên trong không khí ấy. điều đó tôi nghĩ thật sự có một tác động vô biên.

Đôi khi, tôi nói đùa với các bạn của tôi, mẹ tôi yêu thương tôi hơn. Tôi là đứa con nhỏ nhất của bà. Thông thường bà mẹ trải rộng niềm yêu thương cho tất cả, nhưng đặc biệt cho đứa con bé nhất của bà. Do thế điều đó tôi hơi bị hư hỏng đôi chút, tôi nghĩ thế. Trong một ngôi làng, bà mẹ thường mang đứa bé trên vai – mẹ tôi cũng thế, thường mang tôi. Bà yêu thương tôi lắm vì thế mà tôi hơi hung hăng. Cho nên trong khi tôi ngồi trên vai bà, tôi nắm hai lỗ tai của bà – khi tôi muốn đi hướng này, tôi làm thế này, và cho hướng nọ tôi làm thế nọ. (Diễn kéo lỗ tai) Nếu mẹ tôi không đi hướng ấy, thế thì tôi khóc và đôi chân tôi làm thế ấy. (Diễn đá chân) Vì vậy, trong bất cứ cách nào đi nữa, tôi cũng cảm thấy một niềm ấm ấp tự nhiên xuất phát từ mẹ tôi.

Và rồi, rõ ràng, nếu chúng ta thẩm tra mỗi cá nhân một cách toàn diện, những ai bề ngoài có vẻ hiểu biết là thông minh. Nhưng, ở một trình độ sâu xa, những ai đã tiếp nhận tình cảm tối đa từ những bà mẹ của họ vào lứa tuổi ấu thơ là trầm tĩnh hơn và ít sợ hãi – họ có một cảm giác an toàn. Một số người có thể là rất thông tuệ, học vấn cao hay nổi tiếng, nhưng nếu họ vốn tiếp nhận ít tình cảm hay đã từng bị ngược đãi, thì sâu thẩm bên trong có một cảm giác gì đó không an toàn. Những người như vậy thấy khó biểu lộ tình cảm thật sự cho những người khác. Cho nên cả đời của họ, sâu bên trong, họ mang một cảm giác cô đơn nào đó – họ bất lực. Đó là kinh nghiệm chung của chúng ta.

Cho nên tất cả chúng ta có tiềm năng của lòng nhiệt tình, vốn chúng ta tiếp nhận từ những bà mẹ và những người bạn của chúng ta. Thế thì, rõ ràng, chúng ta nhìn mọi người hay các gia đình của chúng ta. Các gia đình đầy những tình thân và tình bạn là hạnh phúc trọn vẹn ngay cả nếu họ có thể không giàu có gì. Rồi thì, có những gia đình vốn giàu có và đầy quyền lực, nhưng có một sự nghi ngờ, ganh đua, và thiếu tình cảm chân thật hay sự tin tưởng trong những thành viên của gia đình. Như một trình độ thật sự của con người về hạnh phúc hay hài lòng chân thật, họ khiếm khuyết nhiều. Điều đó là rõ ràng.

Và đôi khi, tôi diễn tả nó như cánh cửa bên trong của chúng ta vốn mở rộng và qua con đường ấy, thì chúng ta có thể dễ dàng giao tiếp với những người khác và tạo nên tình bạn. Trái lại, một thái độ cực kỳ vị kỷ làm cho chúng ta đóng cánh cửa bên trong lại. Thật khó mà giao tiếp với những người khác. Cũng thế, khi chúng ta chỉ nghĩ về mình, cái nhìn tinh thần toàn diện của chúng ta trở thành rất hạn hẹp. Và với quan kiến hẹp hòi ấy, ngay cả những rắc rối nhỏ nhoi xuất hiện như không thể chịu nổi với ta. Khi chúng ta nghĩ nhiều về sự cát tường của những người khác thì tâm tư chúng ta có được một nhận thức rộng rãi hơn, ngay cả một vấn đề thật sự nghiêm trọng cũng hiện hữu như không sao, okay. Nó có thể vẫn là không may và xấu, nhưng nó okay, bởi vì thái độ của ta mở rộng. Quá nhiều suy nghĩ vị kỷ, sẽ đưa chúng ta đến sự nguy hiểm hơn của phiền muộn và đau tim.

Đến một sự mở rộng nào đó, tôi cũng có thể nói với quý vị là điều này đến từ kinh nghiệm của riêng tôi. Tôi nghĩ thể trạng tinh thần của tôi tương đối khá yên bình. Ngay cả khi trải qua những thời điểm khó khăn nào đó, tâm tư của tôi hoàn toàn điềm tĩnh. Không bởi vì nó mờ tối – tôi nghĩ tôi có một tâm thức hoàn toàn sắc bén – nhưng sâu bên trong, có cảm nhận của tình cảm và quan tâm cho sự cát tường của người khác. Cũng thế, tôi thật sự xem những người khác như anh chị em của tôi. Họ có thể có những nhận thức và quan tâm khác biệt, nhưng họ vẫn là những con người. Thái độ đó thật sự hổ trợ vô vàn để giữ sự hòa bình của tâm hồn, vốn rất hữu ích để giữ một thân thể khỏe mạnh. Cho nên đôi khi chúng tôi gọi nó là tâm-khỏe-thân-khỏe. Chúng ta không được chỉ chăm sóc sức khỏe của thân thể. Tiền tài, những tiện nghi vật chất, và cũng thế, học vấn chính yếu biểu lộ cho quan tâm về sự thịnh vượng vật chất, vốn không đầy đủ. Phải có một chương trình nào đó để học hỏi về tâm thức chúng ta và vấn đề giải quyết những cảm xúc tàn phá như thế nào.

Bây giờ ở đây, tôi thường cảm thấy rằng có ba cách để thúc đẩy những giá trị nội tại này. Một là tôn giáo hữu thần – khái niệm về Thượng đế, vốn là rất năng lực để gia tăng từ ái và bi mẫn. Trong một trường hợp ở Jerusalem, tôi đã thảo luận với những giáo viên nào đó. Một người giáo viên Do Thái giáo đã nói với hội nghị của chúng tôi rằng ông thường nói với học trò của ông, “Khi các em gặp những người kích động các em, thì hãy nghĩ rằng người ấy là được làm từ hình ảnh của Thượng đế. Như vậy sẽ rất hữu ích.” Thế nên, trong những học sinh của ông ấy, có một số người Palestine và một số là Do Thái. Sau này một số học sinh người Palestine đã nói ông, “Sau khi nghe lời khuyến tấn và dạy dỗ của thầy, chúng em thực tập mỗi khi chúng em đến gần những trạm kiểm soát Israel.” Một trong những người bạn Hồi giáo của tôi đã nói với tôi rằng, như những người thực hành chân thành của Hồi giáo, bạn phải mở rộng tình thương của bạn đến tất cả mọi tạo vật. Vì bạn tôn kính và mến yêu Allah, thì bạn phải mở rộng tình thương của bạn đối với toàn thể tạo vật của ngài. Đây là một sự tiếp cận hữu thần rất hợp lý.

Rồi thì, có những truyền thống tôn giáo vô thần, như Phật giáo và Kỳ na giáo. Họ tuân theo quy luật nhân quả, cho nên không có Thượng đế - không có khái niệm Thượng đế hay đấng tạo hóa. Phù hợp với điều đó, nếu bạn giúp đở hay làm những việc tốt đẹp cho những người khác, thì bạn sẽ được những lợi lạc. Nếu bạn làm tổn hại một người khác, thì bạn sẽ có những hậu quả tiêu cực. Sự tiếp cận đó cũng rất lợi ích để làm gia tăng một cảm giác quan tâm cho sự cát tường của những người khác.

Rồi thì phải có một cách thứ ba, vì những giá trị này chúng ta không nói về sự quan tâm đến thiên đàng, địa ngục hay kiếp sống tương lai. Chúng ta đơn giản chỉ nói về sự cát tường trong kiếp sống này - ở những trình độ của gia đình và cộng đồng. Như tôi đã đề cập trước đây, đầu tiên chúng ta học hỏi từ những bà mẹ của chúng ta – cho dù chúng ta là những người tín ngưỡng hay không tín ngưỡng. Cho nên bản năng để nhận và cho tình yêu và nguyên tắc đạo đức này tự nó là thế tục, và không phải căn cứ trên đức tin tôn giáo. Tất nhiên, tất cả những tôn giáo quan trọng nhấn mạnh tầm quan trọng của những thứ này và có một phương pháp để làm mạnh sự thực hành này và những giá trị này. Nhưng những giá trị này tự chúng đúng là bản chất nhân tính – một bộ phận của tâm thức con người và cảm xúc con người. Do vậy, vì đối tượng tự nó, nói một cách nghiêm chỉnh, là thế tục, không có gì với tôn giáo. Ngay cả những con vật cũng ưa thích tình cảm. Các con vật cũng có khả năng để trông nom những con cái của chúng. Đây là những nhân tố sinh học, không phải là điều gì đó có được từ giáo lý tôn giáo.  Vậy nên, nó là điều gì đó thế tục. Do thế, cũng phải nên có một cung cách để thúc đẩy điều này trong một cung cách thế tục.

Như tôi đã đề cập trước đây, do sự kiện là chúng ta cùng đến từ những bà mẹ của chúng ta, và việc sử dụng cảm nhận chung, thì chúng ta thấy rằng tình cảm gia đình là hạnh phúc hơn nhiều hơn cả. Những nghiên cứu khoa học cũng hổ trợ sự quán sát này. Cho nên, hãy sử dụng những sự kiện này và phát triển sự tỉnh thức về tầm quan trọng của những thứ này, và chúng ta có thể phát triển lòng tin. Nhiệt tình là quan trọng cho sự cát tường của chính chúng ta, do vậy đó là cung cách thế tục để giáo dục. Thế nên, khi chúng ta sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa thế tục” hay “thế tục”, nó không có nghĩa là không tôn trọng tôn giáo mà đúng hơn là tôn trọng tất cả mọi tôn giáo, kể cả những người không tín ngưỡng.

Điều này không phải là mới, các bạn biết, ở Ấn Độ. Ngoài ba nền văn minh tôn giáo thế giới cổ xưa nhất – Ai Cập, Trung Hoa, và thung lũng Sông Ấn – thì dường như nền văn minh phát triển phức tạp hơn nhiều về những quan điểm triết lý. Cho nên cả nghìn năm ở Ấn Độ, một quan điểm triết lý khác biệt gọi là chủ nghĩa hư vô đã tồn tại. Nó không tin tưởng trong một Thượng đế, không kiếp sống sau, không cứu độ - không có gì ngoài cuộc sống hằng ngày. Đó là những gì họ gọi là trường phái tư tưởng hư vô. Những trường phái tư tưởng Ấn Độ khác chỉ trích quan điểm hư vô; nhưng người tin tưởng trong trường phái tư tưởng ấy được xem như một “rishi,” rishi có nghĩa là “hiền nhân” (sage).

Đó là truyền thống nghìn năm tuổi của Ấn Độ. Chúng ta có thể có những quan điểm khác nhau, và chúng ta có thể phê phán và tranh luận, nhưng như một con người thì ta phải tôn trọng những người khác. Do vậy, một người bạn Ấn Độ của tôi – một cựu phó thủ tướng Ấn Độ - đã nói với tôi rằng một trong những lý do mà Ấn Độ là một nền dân chủ rất thành công là do bởi truyền thống đó. Sự thông hiểu của Ấn Độ về chủ nghĩa thế tục tôn trọng ngay cả những người không tín ngưỡng. Điều đó tôi nghĩ, là rất liên hệ với thế giới ngày nay của chúng ta. Thế nên, khi chúng ta sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa thế tục”, thì vui lòng đừng nghĩ rằng đó là một thái độ tiêu cực với tôn giáo; mà đúng hơn, nó biểu lộ sự tôn kính.

Ấn Độ là một cộng đồng nghìn năm tuổi đa tôn giáo, kể cả vài vương quốc, bên cạnh những truyền thống tôn giáo bản địa khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo quan trọng cuối cùng tìm thấy ngôi nhà của họ và định cư ở đấy; kể cả Bái Hỏa giáo (Zoroastrianism) – mà những người theo tôn giáo ấy được gọi là Parsi – nguyên thỉ vốn đến từ Ba Tư. Ngày nay ở Ấn Độ trong một thành phố lớn, Bombay, toàn bộ dân số của họ ít hơn 100,000 người thậm chí nhỏ hơn dân số người tị nạn Tây Tạng. Nhưng họ đã giữ tôn giáo của họ. Họ luôn luôn giữ sự thờ cúng lửa mà không có hiểm họa hay sợ hãi.

Vừa mới đây tôi đã gặp một người Âu châu đến từ Romania. Bà đã tiến hành một nghiên cứu nào đó về hòa hiệp trong những truyền thống tôn giáo khác nhau ở Ấn Độ. Bà đã nói với tôi rằng bà thật ngạc nhiên khi thấy rằng trong một ngôi làng, nơi cộng đồng Hồi giáo là đa số và chỉ có ba gia đình Ấn giáo, những gia đình Ấn giáo không phải sợ hãi hay bị đe dọa gì cả. Mọi người sống rất hạnh phúc và trong mối quan hệ thân hữu gần gũi. Bà đã ngạc nhiên. Đó là truyền thống Ấn Độ - hàng nghìn năm hòa hiệp giữa những truyền thống tôn giáo khác nhau. Và tự chính hiến pháp Ấn Độ, do bởi thực tế ấy, được căn cứ trên chủ nghĩa thế tục.

Cho nên, vấn nạn là một số người tin rằng những nguyên tắc đạo đức phải được căn cứ trên niềm tin tôn giáo, và những phiền phức sinh khởi do bởi đấy. Ở Ấn Độ, do bởi thực tế của nó là một xã hội đa tôn giáo, nếu luân lý đạo đức được căn cứ trên đức tin tôn giáo – thì chúng ta nên chọn tôn giáo nào? Sẽ có nhiều phiền phức. Một số nói rằng có Thượng đế; một số nói không có Thượng đế. Đơn giản là căn cứ trên luân lý đạo đức thế tục, nó sẽ dễ dàng và tốt đẹp hơn nhiều. Điều đó sẽ là phổ thông. Đức tin tôn giáo không thể là phổ quát.

Ở đây tôi muốn chia sẻ một điều. Theo những truyền thống tôn giáo, khái niệm một- chân lý - một - tôn giáo là rất quan trọng. Ở mức độ cá nhân, điều đó rất liên hệ nhằm để tăng trưởng đức tin tôn giáo của chính ta. Nhưng trong những hình thức của cộng đồng, bây giờ, khái niệm một- chân lý - một - tôn giáo là không thực tiển. Trong những dạng thức của cộng đồng, những người khác nhau có những niềm tin khác nhau, kể cả những người không tín ngưỡng. Thế thì làm sao chúng ta có thể nói rằng tôn giáo có một người nào đó là chân lý duy nhất và tôn giáo duy nhất? Làm thế nào để ép buộc người khác? Rằng họ phải nên chấp nhận tôn giáo của ta là không thể. Do đó cho nên, nói một cách thực tế, trong những hình thức của cộng đồng, khái niệm vài-chân lý-vài- tôn giáo là thích hợp.

Bất cứ khi nào tôi có cơ hội để nói về những thứ này, tôi cảm kích nó rất nhiều. Bây giờ, trường đại học này đã tiến thêm một bước trong việc nói về tâm linh và trị liệu. Tôi nghĩ rằng rất tốt. Do vậy, Tôi đang mong đợi nhiều tiến bộ và hoạt động trong lãnh vực ấy. Trong vài năm tới đây, tôi sẽ trở lại nhằm để xem việc phát triển đã được thực hiện bao nhiêu.

Trong bất cứ trường hợp nào, tôi thật sự đánh giá cao mọi nổ lực. Một vài trường đại học khác – như Wincosin, Stanford, và Emory, như tôi biết – là đã tiến hành một số chương trình về việc rèn luyện tâm thức và tác động của nó như thế nào trên thân thể, trên tâm thức. Bây giờ, tôi đã thấy bốn trường đại học – trường đại học Minesota. Nên trong tương lai, tôi sẽ đề cập bốn trường đại học thật sự đang tiến hành một cách nghiêm chỉnh những hoạt động nghiên cứu trong sự quan tâm đó. Thế nên tôi cảm kích cơ hội này rất nhiều. Cảm ơn. Đó là tất cả, cảm ơn.

HỎI VÀ ĐÁP


HỎI: Ngẫu nhiên, nghệ sĩ Ngãi Vị Vị (Ai Weiwei) dự tính hiện diện ở đây hôm nay, nhưng không được. Ngài có khuyên bảo gì đối với ông ấy và những người đang hoạt động để làm cho Trung Hoa là một nơi tốt đẹp hơn?

ĐÁP: Bất hạnh thay, trong những năm gần đây và đặc biệt trong những tháng gần đây, chính quyền Trung Cộng, qua suy nghĩ cứng nhắc của họ, đã kiểm soát chặc chẽ những nhà trí thức và nghệ sĩ. Tôi nghĩ những người này nên nhìn về quá khứ, trong và ngay cả trước khi Cách Mạng Văn  Hóa. Trong nhiều trường hợp, có nhiều hạn chế và đàn áp trí thức. Nhưng trí thức, tôi nghĩ, nó là kho tàng của não bộ con người, cho nên nó không thể bị kiểm soát. Trong nhiều năm, một số những người này bị bỏ tù hay giam lỏng tại gia, nhưng rồi thì lại có những nhà trí thức mới, và ngay cả những người này sẽ có tự do. Cho nên ở Trung Hoa, đất nước đông dân nhất trên thế giới, với chiều dài lịch sử và văn hóa, những người làm việc cần cù, thì thảm kịch này đôi khi đến và biến mất. Điều quan trọng là những người – đặc biệt là những người trí thức – không có lý do gì để cảm thấy tuyệt vọng hay mất tinh thần; cho phải giữ tinh thần của họ và nhiệt tình của họ.

HỎI: Đâu là sự cân bằng giữa chấp thủ vào nhà cửa của một người và sự buông xả được Phật giáo giảng dạy? Xin hãy trình bày câu hỏi này trên cả trình độ cá nhân – chấp thủ với trẻ em – và trên trình độ xã hội – chấp thủ với USA.

ĐÁP: Có hai trình độ đối với việc quan tâm đến những người khác. Một trình độ, như tôi đã đề cập trước đây, là nhân tố sinh học. Những gì quý vị gọi là lòng trắc ẩn, hay thái độ tình cảm, cho nên vì vậy, trình độ ấy của lòng trắc ẩn có thể được phát triển đối với bạn bè của quý vị, chứ không với kẻ thù quý vị, vì một thái độ của kẻ thù là tiêu cực đối với quý vị. Với truyền thống tôn giáo, kể cả Phật giáo, khi chúng ta nói về lòng trắc ẩn, hay lòng từ bi, thì nó không hướng về tình cảm của họ, nhưng là, tự sáng tạo. Thí dụ, một số nuôi dưỡng bản thân không phải vì quý vị tử tế với chính quý vị mà bởi vì, một cách tự động, quý vị muốn hạnh phúc, quý vị không muốn đau khổ.

Do vậy, những người khác cũng thế, kể cả kẻ thù của quý vị, có cùng khát vọng và quyền vượt thắng khổ đau, để đạt được hạnh phúc. Trên căn bản đó, chúng ta có thể mở rộng lòng từ bi của chúng ta, vì thế lòng từ bi là không thành kiến. Lòng trắc ẩn trước là thành kiến và liên hệ rất nhiều với dính mắc, chấp thủ. Lòng từ bi nói sau là không có dính mắc, và chấp thủ.

Cho nên một lần nọ, nhà cơ học lượng tử này đã đề cập với tôi rằng ông không nên phát triển sự chấp trước vào lãnh vực khoa học của chính ông. Điều đó thật tuyệt vời. Trong trường hợp của riêng tôi, tôi là một Phật tử, nhưng tôi không nên phát triển một sự chấp trước đối với Phật giáo. Nếu tôi phát triển một sự dính mắc đối với Phật giáo, thì tôi sẽ không thấy giá trị của người khác một cách khách quan. Phật giáo không bao giờ khuyến khích việc phát triển dính mắc. Chấp trước và từ bi là hai vấn đề riêng biệt.

Do vậy, nhằm để phát triển một lòng từ bi không thành kiến, lòng từ ái và bi mẫn vô giới hạn, trước tiên ta phải tự tách riêng ra. Ta phải có lòng bình đẳng cho tất cả - cả những kẻ thù và những người bạn. Sau đó phát triển lòng từ bi không thành kiến. Và rồi thì cũng thường rằng người ta lẫn lộn Phật giáo với những tôn giáo khác nào đó, và xem khát vọng như điều gì đó tiêu cực. Khát vọng với dính mắc là tiêu cực. Chúng ta phải phát triển khát vọng với lý trí, thí dụ, khát vọng cho sự cát tường của người khác, hay khát vọng để vượt thắng sự khổ đau của chính ta. Điều đó là đúng. Khát vọng không có cơ sở thích đáng là rất liên hệ với dính mắc. Loại khát vọng đó phải được giảm thiểu. Và rồi, có sân hận. Có những loại sân hận đa dạng khác nhau – sân hận với cảm giác xấu ác thì khác với sân hận vì lòng từ bi hay một cảm giác quan tâm. Sân hận cũng có thể đến từ một thái độ vị kỷ, vốn có thể đưa đến bắt nạt và bóc lột người khác. Loại thái độ vị kỷ đó là tiêu cực. Nhưng một cảm giác vị kỷ khác - cảm giác của một tự ngã mạnh mẽ - là cần thiết. Chúng ta cần cảm giác của một tự ngã mạnh mẽ để phát triển lòng can đảm và ý chí. Thế nên, trong thế giới tinh thần và cảm giác, có rất nhiều loại đa dạng.

Tự nuôi dưỡng ta không phải qua việc ta thể hiện tử tế với chính mình; đó là vì, tự nhiên, ta muốn hạnh phúc, ta không muốn khổ đau, cho nên cảm giác chăm sóc này hiện hữu. Điều này tích cực hơn. Ngay cả niềm tin cũng là một điều tốt, nhưng niềm tin trong một điều sai lầm – niềm tin mù quáng – là nguy hiểm. Do vậy, niềm tin hành động với trí tuệ và thông minh là rất tốt. Niềm tin chỉ hành động với dính mắc là tiêu cực. Thế nên, có nhiều loại đa dạng.

HỎI: Câu hỏi này đến từ một đứa bé chín tuổi – Nếu ngài có thể giải quyết hoàn toàn một vấn nạn trên thế giới, đó sẽ là gì?

ĐÁP: Tôi không biết. Tôi nghĩ, trong thực tế, có rất nhiều vấn nạn cùng loại mà chỉ một con người không thể giải quyết bất cứ điều nào trong chúng. Mọi người – trên sáu tỉ con người – phải có trách nhiệm để giải quyết những vấn nạn này.

HỎI: Ngài thấy internet có vai trò gì trong việc hổ trợ con người trải nghiệm và khám phá một trái tim, một tâm hồn, và một vũ trụ? Chúng ta có thể làm gì xa hơn với vai trò này?

ĐÁP: Tôi nghĩ internet là một trong những phương cách giao tiếp rất tiến bộ. Và tôi nghĩ rằng, một cách căn bản, nhằm để phát triển tâm thức con người trong dạng thức phức tạp hơn, chúng ta cần nhiều thông tin. Chỉ một cảnh báo – tin tức một chiều rất tai hại, cho nên chúng ta cần thông tin đa chiều. Nếu một nhận thức gọi là điều gì đó tốt và một điều khác gọi là xấu, thì chúng ta cần cả hai nhận thức ấy. Điều đó cho chúng ta cơ hội để khảo sát bởi chính chúng ta. Do vậy, ngày nay, trong lãnh vực thông tin, Internet là tuyệt vời. Tôi nghĩ, do bởi đó, nhiều thay đổi tích cực đang xảy ra trên hành tinh này. Không như đầu hay giữa thế kỷ hai mươi, khi thiếu thốn thông tin rất nhiều và thế nên thật dễ dàng hơn để phát triển những cảm xúc tiêu cực không cần thiết.

Vì vậy thông tin, vốn xây dựng một bức ảnh rõ ràng về toàn bộ thế giới, là vô cùng lợi lạc. Tôi luôn luôn nói khi tôi gặp giới truyền thông rằng người ta nên có những chiếc mũi dài – giống như mũi của con voi – và nên ngữi cả những gì trước mặt chúng và, quan trọng nhất là những gì ở phía sau, những gì đang xảy ra. Điều đó rất rất quan trọng. Họ phải thực hiện một sự điều tra xuyên suốt những gì đang xảy ra và rồi thông báo cho công chúng, cho thấy rằng họ đã làm việc đó một cách trung thực, chân thật, không thành kiến, và khách quan. Điều đó rất quan trọng, đặc biệt trong xã hội dân chủ. Tôi đang muốn nói rằng thế giới thuộc về sáu tỉ con người – không phải là những chính phủ, và không phải bất cứ một tôn giáo đặc thù nào. Thí dụ, USA thuộc về người dân của USA, chứ không phải thuộc về Đảng Dân Chủ hay Cộng Hòa.

Dĩ nhiên, không thể cho tất cả ba trăm triệu người của một đất nước chi phối một quốc gia cùng một lúc, cho nên tốt nhất là chọn một số người qua bầu cử. Một chính quyền qua bầu cử dân chủ thật sự bởi dân, do dân và vì dân. Cung cách tốt nhất để quản trị xứ sở của quý vị là qua một hệ thống dân chủ. Và nhằm để tạo một hệ thống dân chủ hoạt động một cách hiệu quả theo những nguyên tắc đạo đức, đôi khi một hiến pháp là rất tốt. Mọi người bình đẳng dưới luật pháp; vâng, xứ sở này thật sự thực hành điều đó. Tuy nhiên, đôi khi não bộ con người là rất năng động mà ngay cả trong một hệ thống rất tốt đẹp, những rủi ro được biết xảy ra. Do thế, những người truyền thông là quan trọng. Họ cần làm rõ ràng những gì sai, những gì là tâm tư sai sót, những gì hư hỏng đang xảy ra và ở đâu. Đó là những gì mà người làm truyền thông – chứ không phải chính quyền mà những tổ chức công cộng như truyền thông – phải khảo sát và làm rõ ràng.

Trong những lãnh vực này, Internet tôi nghĩ có một vai trò rất quan trọng. Và như tôi luôn luôn nói, người làm truyền thông cũng có một vai trò rất quan trọng để tạo nên những quan điểm nào đó tỉnh thức hơn mà vốn chúng ta thường quên lãng. Đạo đức luân lý là một trong những điều đó. Tôi nghĩ kỷ thuật mới và sự lan truyền thông tin là rất tuyệt vời. Dĩ nhiên, nếu quý vị sử dụng nó trong một cách sai lầm, thì đôi khi nó cũng tạo thêm rắc rối; nhưng tôi nghĩ cho đến khi mà quý vị sử dụng nó một cách trung thực, chân thật, và trong sáng, càng nhiều tin tức, càng tốt đẹp hơn. Nếu quý vị có điều gì đó để che dấu, điều này làm nó khó khăn hơn. Nếu quý vị đạo đức giả trong những cung cách của quý vị, thế thì quý vị phải rất, rất cẩn trọng.

HỎI: Ngài nghĩ thế giới đang trở nên tốt đẹp hơn hay tệ hại hơn và tại sao?

ĐÁP: Tốt đẹp hơn. Lý do là không chỉ sự quan sát của tôi. Trong năm 1996 – khoảng cuối thế kỷ hai mươi – tôi có cơ hội tiếp xúc với cố Hoàng Thái Hậu của Anh quốc. Tuổi của bà là chín mươi sáu. Bà đã được sanh ra vào đầu thế kỷ hai mươi, cho nên trong một cách bà quan sát hầu như cả toàn bộ thế kỷ. Cùng lúc đó, tôi hỏi bà, “Vì ngài đã quán sát hầu như cả toàn bộ thế kỷ, ngài nghĩ thế giới đang trở nên tốt đẹp hơn hay tệ hại hơn, hay cũng giống như vậy?” Không do dự, bà đã nói với tôi rằng nó đang trở nên tốt đẹp hơn. Khi bà trẻ, không có những khái niệm về nhân quyền hay những quyền tự quyết. Bây giờ chúng trở thành phổ quát. Bà đã đưa ra hai điều này như những thí dụ chứng minh rằng thế giới đang trở nên tốt đẹp hơn.

Với kinh nghiệm của riêng tôi, tôi nghĩ rằng vào đầu thế kỷ hai mươi, không ai nói về tầm quan trọng của sinh quyển. Bây giờ nhiều người biểu lộ một cách chân thành việc quan tâm cho môi trường. Điều đó là tuyệt vời. Có ngay cả những đảng phái chính trị là những đảng xanh lục. Một lần nọ tôi gặp gở những người từ những đảng xanh này ở New Zealand hay một quốc gia nào đó, tôi đã nói đùa với những người ấy rằng nếu tôi vẫn ở xứ sở ấy, tôi sẽ tham gia vào đảng xanh của họ.

Trong bất cứ trường hợp nào đi nữa, tôi nghĩ, những dấu hiệu trưởng thành hơn. Tôi nghĩ các nhà khoa học bây giờ cũng đang nghiên cứu một cách nghiêm chỉnh hơn trong tâm thức. Trước đây, các nhà khoa học chỉ nghiên cứu về khoa học thô cứng – chỉ những thứ mà chúng ta có thể cân đong hay đo đếm. Tâm thức và những cảm giác là những thứ gì đó khác biệt. Bây giờ khoa học hiện đại đang tiến triển một cách chậm chạp, các nhà khoa học đang cho thấy một sự quan tâm trong tâm ý – mối quan hệ nào đó giữa não bộ và tâm thức. Và cũng thế, tôi nghĩ có một mối hòa hiệp hơn giữa những tôn giáo. Thí dụ, Đức Giáo Hoàng John Paul II triệu tập hội nghị Assisi, nơi ngài mời những lãnh tụ của những giáo phái Ki Tô khác nhau cũng như vài tông phái Phật giáo và Ấn giáo. Ý tưởng về một-chân lý-một-tôn giáo dần dần chuyển thành vài-chân lý-vài-tôn giáo. Cho nên đây là những dấu hiệu mà tôi nghĩ là rõ ràng cho một sự tiến triển và văn minh rộng lớn hơn.

Tôi cũng nghĩ kinh nghiệm về giáo dục thật sự đã thực hiện một sự đóng góp vô vàn để khai triển và mở rộng tâm thức chúng ta, dạy chúng ta thấy một cách toàn diện hơn. Quý vị nghĩ gì? Và rồi chữ “từ bi”. Trước đây, trong những tuyên bố của một nhà chính trị, tôi nghĩ không có chỗ cho từ bi. Về sau này của thế kỷ hai mươi, tôi nhớ một trong những tuyên bố của cố nữ Thủ tướng Anh Thatcher, bà đã đề cập từ bi và rồi bất bạo động.

Và trong đầu thế kỷ hai mươi, các nhà khoa học, viên chức, và chính quyền hoàn toàn hăng hái để chế tạo bom hạt nhân. Bây giờ, người ta đang nói về vấn đề giảm thiểu và đi đến việc từ bỏ hoàn toàn vũ khí hạt nhân như thế nào. Đây là những dấu hiệu của sự tiến bộ.

Trích từ quyển the Big Book of Happiness
Ẩn Tâm Lộ, Friday, June 28, 2019



Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2019

Mạn Đà La Thời Luân







Trong trung tâm của vũ trụ, mạn đà la Thời Luân, Kakachakra, được dâng hiến cho hòa bình . Nó được diễn tả như không gian vô giới hạn, bao hàm tất cả yêu thương, được diễn tả bởi lời cầu nguyện này của Shantideva, được Đức Đạt Lai Lạt Ma trích dẫn ở Oslo vào cuối bài phát biểu nhận giải Nobel Hòa Bình. Lời cầu nguyện này được diễn dịch bằng Tạng ngữ, Hoa ngữ, Pháp ngữ, Anh ngữ, và Việt ngữ:

As long as space remains,
As long as sentient beings remain,
Until then, may I too remain
And dispel the miseries of the world

Khi không gian vẫn còn tồn tại
Khi chúng sanh vẫn còn hiện hữu
Cho đến lúc ấy, tôi nguyện cũng sẽ hiện diện
Để xua tan khổ đau của trần thế

Chữ ký của Đức Đạt Lai Lạt Ma vào ngày 11 tháng Hai, 2008 ở Dharamsala


Ẩn Tâm Lộ, Friday, June 14, 2019


PHÁT BIỂU HÀNG NĂM CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NHÂN LỄ KỶ NIỆM NGÀY ĐỒNG KHỞI Ở LHASA 10 THÁNG BA NĂM 1959




10 Tháng Ba năm 2007

Nhân dịp lễ kỷ niệm lần thứ 48 cuộc đồng khởi hòa bình của người Tây Tạng ở Lhasa năm 1959, tôi bày tỏ lòng tôn kính đến tất cả những người Tây Tạng đã đau khổ và những người đã hy sinh mạng sống của họ vì vấn đề Tây Tạng. Tôi dâng lời cầu nguyện cho họ. Tôi cũng khẳng định lòng đoàn kết của tôi với những người đàn ông và đàn bà, những người vẫn tiếp tục đau khổ từ sự đàn áp và những người ở trong nhà tù bây giờ.

Năm 2006, chúng ta đã quán sát thấy những sự thay đổi cả tích cực và tiêu cực ở Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Về một mặt, vị thế cứng rắn được tăng cường, đáng chú ý với cuộc vận động phá hoại chống lại chúng ta và thậm chí sự đàn áp hạn chế chính trị ồn ào, cao độ hơn ở Tây Tạng. Về mặt khác, tại chính Trung Hoa, tự do ngôn luận trở thành lan rộng một cách rõ ràng. Đặc biệt, những nhà trí thức Trung Hoa đã làm sinh khởi một ý tưởng rằng thật cần thiết để phát triển một xã hội đầy đủ ý nghĩa hơn căn cứ trên những giá trị tâm linh. Ý tưởng rằng hệ thống hiện tại ở trong một vị trí không thích hợp để tạo nên một xã hội như vậy đang đặt nền tảng; vì thế việc phát triển niềm tin tôn giáo trong phổ quát, và quan tâm trong Phật giáo và văn hóa Tây Tạng trong đặc thù. Điều gì nữa, nhiều người đang bày tỏ mong ước tôi thực hiện một cuộc hành hương đến Trung Hoa và giảng dạy cho họ.

Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã lập lại lời kêu gọi cho một xã hội hòa hiệp là đáng ca tụng. Việc nhận ra một xã hội như vậy liên hệ đến việc phát triển lòng tin giữa những con người, vốn chỉ có thể xảy ra khi có tự do ngôn luận, sự thật, công lý và cai trị bình đẳng. Do thế, thật thiết yếu rằng tất cả mọi cơ chế có thẩm quyền ở tất cả mọi trình độ không chi chấp nhận những nguyên tắc này mà phải thật sự đưa chúng vào trong thực hành.

Như những mối quan hệ của chúng tôi với Trung Hoa, từ 1974 chúng tôi đã nhận ra rằng cơ hội để mở ra một cuộc đối thoại với Trung Hoa sẽ hiện diện không thể tránh khỏi một ngày này hay một ngày khác. Chúng tôi đã và đang chuẩn bị cho chính mình để đạt được một sự tự trị thật sự mà trong ấy tất cả mọi người Tây Tạng sẽ được thống nhất, như hiến pháp Trung Hoa đã long trọng tuyên bố. Năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã gợi ý rằng trừ việc độc lập, tất cả mọi vấn đề liên quan đến Tây Tạng đều có thể giải quyết thông qua đối thoại. Vì điều đó đồng thuận với nhận thức của chính chúng tôi, cho nên chúng tôi đã chọn chính sách Trung Đạo lợi ích hổ tương. Vì lúc ấy, trong hai mươi tám năm, điều đó đã xảy ra, chúng tôi đã theo đuổi chính sách này với sự kiên định và chân thành. nó đã được hình thành sau khi những cuộc thảo luận sâu và phân tích nghiêm chỉnh với mục tiêu phục vụ những quan tâm ngay lập tức và lâu dài của cả người Tây Tạng và Trung Hoa. Nó cũng cống hiến cho sự chung sống hòa bình ở Á châu và bảo vệ môi trường. Chính sách này được tán thành và hổ trợ bởi nhiều người Tây Tạng thực tiển cả ở bên trong và bên ngoài Tây Tạng, cũng như nhiều quốc gia.

Lý do chính phía sau đề xuất của tôi cho một khu tự trị chân thật cho tất cả mọi người Tây Tạng được bảo đảm bình đẳng thật sự và để tạo nên một cảm giác thống nhất giữa những người Tây Tạng và Trung Hoa, bằng loại trừ cả chủ nghĩa sô vanh người Hán và chủ nghĩa quốc gia địa phương. Nó cũng sẽ cống hiến cho sự ổn định của xứ sở, cảm ơn sự hổ trợ, tin tưởng và hữu nghị  hổ tương giữa hai dân tộc chúng ta. Nó cũng giúp duy trì sự phong phú về văn hóa và ngôn ngữ của chúng tôi trong một sự cân bằng thích đáng giữa việc phát triển vật chất và tâm linh, vì lợi ích của toàn thể nhân loại.

Đúng là hiến pháp Trung Hoa bảo đảm dân tộc tính một khu tự trị dân tộc. Vấn đề là nguyên tắc không được thực hành một cách trọn vẹn. Điều đó giải thích tại sao mục tiêu của nó, vốn là rõ ràng, lại không được thực hiện: bảo vệ bản sắc, văn hóa và ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số. Điều xảy ra trên căn bản giải quyết vấn đề trên các vùng thiểu số là phải theo dân tộc đa số. Kết quả là, dân tộc thiểu số, thay vì được bảo tồn bản sắc của chính họ, văn hóa và ngôn ngữ, đã không có lựa chọn nào khác mà phải tiếp nhận ngôn ngữ và phong tục của dân tộc đa số trong đời sống hàng ngày. Vì thế, hiểm họa của một tiến trình tiêu diệt ngôn ngữ và truyền thống phong phú của những dân tộc thiểu số. Không có gì sai gắn liền với việc muốn phát triển cơ sở hạn tầng, như đường sắt. Ngoại trừ đây là những nguồn gốc của nhiều vấn nạn, vì từ khi đường sắt đi vào hoạt động. Tây Tạng đã trải nghiệm việc tái lập di dân mới Trung Hoa, một sự tăng tốc làm xấu đi môi trường của nó, một sự gia tăng trong ô nhiễm, một sự quản lý sai lầm về nguồn nước và khai thác tài  nguyên thiên nhiên – tất cả những nguyên nhân của sự tàn phá đất nước và hủy hoại sự sống của những cư dân ở đấy.

Mặc dù có nhiều đảng viên có học thức, và có thẩm quyền là những người dân tộc thiểu số, đáng tiếc là quá ít người trong họ có được những vị trí lãnh đạo trên cấp độ quốc gia. Một số người trong họ đã bị buộc tội ly khai. Nếu chúng ta có được những lợi ích rõ ràng cho cả những dân tộc đa số và thiểu số, cũng như cho chính quyền trung ương và địa phương, thì một khu tự trị đầy đủ ý nghĩa nên được thành lập. Vì đây là khu tự trị quan tâm đến những dân tộc thiểu số trong cá biệt, cho nên sự đòi hỏi để thấy tất cả những người dân Tây Tạng được đặt dưới một cơ cấu hành chính là chân thành, công bằng và minh bạch. Rõ ràng là đối với thế giới chúng tôi không có chương trình gì dấu diếm. Cho nên đó là một nhiệm vụ thiên nhiên cho tất cả những người Tây Tạng tiếp tục đấu tranh cho đến khi đòi hỏi hợp lý này được hiện thực. Bất chấp là lâu dài như thế nào đi nữa; lòng nhiệt tình và quyết tâm của chúng tôi sẽ duy trì không thay đổi cho đến khi hoàn thành những nguyện vọng của chúng tôi. Cuộc đấu tranh của dân tộc Tây Tạng không phải là một cuộc chiến đấu vì vị thế đặc biệt của một vài cá nhân; đó là một cuộc đấu tranh của cả dân tộc. Chúng tôi đã chuyển biến cơ quan hành chính và cộng đồng lưu vong thành một cơ cấu dân chủ thiết thực vốn thấy một sự kế tục của những lãnh đạo được bầu cử bởi người dân của nó. Vì vậy, chúng tôi đã thiết lập một tổ chức xã hội và chính trị có gốc rễ sâu sắc và đầy năng lượng nhiệt tình sẽ tiếp tục sự đấu tranh của chúng tôi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chung cuộc, những quyết định tối hậu sẽ được thực hiện một cách dân chủ bởi chính những người dân.

Vì việc nối lại sự tiếp xúc trực tiếp giữa những người Tây Tạng và Trung Cộng trong năm 2002, những đại diện của tôi đã đưa năm vòng thảo luận toàn diện với những đại diện của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đáp ứng cho vấn đề. Trong những cuộc thảo luận này, cả hai bên có thể trình bày một cách rõ ràng trong hình thức của những sự nghi ngại, ngờ vực, và những khó khăn thật sự cố chấp của cả hai bên. Tuy nhiên, những vòng thảo luận này giúp chúng tôi tạo nên một kênh truyền thông giữa hai bên. Phái đoàn Tây Tạng sẵn sàng tiếp tục cuộc đối thoại vào bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào. Nội các sẽ đưa ra những chi tiết trong báo cáo của nó.

Tôi chúc mừng tất cả những người Tây Tạng ở quê hương Tuyết Sơn, những người như những thành viên của Cộng đảng, lãnh đạo, công chức, chuyên gia và những người khác, đã duy trì tâm linh Tây Tạng bằng việc theo đuổi một cách kiên trì nổ lực của họ trong vấn đề của dân tộc Tây Tạng. Tôi bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu sắc của tôi cho người Tây Tạng ở Tây Tạng, những người mặc cho tất cả những thử thách đã hành động để bảo tồn bản sắc, văn hóa và ngôn ngữ Tây Tạng. Tôi ngưỡng mộ quyết tâm và lòng can đảm không lay chuyển trong việc nhận ra nguyện vọng của dân tộc Tây Tạng. Tôi chắc chắn họ sẽ tiếp tục chiến đấu cho vấn đề chung của chúng ta với sự hy hiến và quyết tâm. Tôi kêu gọi tất cả những người Tây Tạng cả ở bên trong và bên ngoài Tây Tạng hãy hành động cùng nhau cho một tương lai bảo đảm căn cứ trên sự bình đẳng và hòa hiệp giữa những dân tộc.

Tôi muốn nhân cơ hội này để cảm ơn dân tộc và chính phủ Ấn Độ từ đáy lòng của tôi vì sự hổ trợ rộng lượng, không lay chuyển và vô song của họ.

Tôi bày tỏ tất cả sự biết ơn của tôi đến các chính phủ và các dân tộc của cộng đồng quốc tế vì sự quan tâm và hổ trợ mà họ đã mang đến cho vấn đề Tây Tạng.

Với những lời cầu nguyện cho hòa bình và sự cát tường đến tất cả chúng sanh.

Đức Đạt Lai Lạt Ma

*

LỜI BẠT: Đạt được hòa bình với Đức Đạt Lai Lạt Ma





Nhân dịp kỷ niệm lần thứ năm mươi Đức Đạt Lai Lạt Ma lưu vong, quyển sách này muốn ăn mừng một chiến thắng.

Trong những quyển sách lịch sử chúng ta thấy rằng một quốc gia chiến thắng một cuộc chiến tranh trong khi một nước khác thua trận. Trải qua hàng thế kỷ, những cuộc xung đột đã thành công lẫn nhau; cho thấy thật đúng đắn như thế nào rằng không có cuộc chiến tranh nào đã chiến thắng mà biểu thị cho sự chấm dứt chiến tranh. Hoàn toàn mâu thuẫn. Sự đối đầu tiếp tục từ thế hệ này sang thế hệ khác, và những thành phần đầu hàng hôm qua hy vọng trở thành kẻ chinh phục ngày mai. Chí nguyện của Đức Đạt Lai Lạt Ma là gì để phá vở vòng lẩn quẩn của xung đột một cách chính xác. Từ quan điểm ấy, năm mươi năm đã trôi qua sẽ là không vô nghĩa cũng không mất mát. Trái lại, chúng sẽ đại diện cho chiến thắng trong chiến tranh.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã giành được hòa bình; ngài đã đến cùng với chiến thắng hòa bình.

Chiến thắng này không được công bố trên những trang nhất của báo chí, và các quốc gia không tặng cho một sự chào mừng chiến thắng đến con người đã chiến thắng chiến trận này, người đã lấy sự ngưỡng mộ của ngài và kiểu mẫu chính trị của Thánh Gandhi. Chiến trận được tiến hành bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma không thể được thấy như tương tự với hàng nghìn quả bom rơi xuống dân chúng bị làm con tin bởi những cuộc đụng độ giữa các chính quyền. Chiến trận của ngài không thể được nghe như những tiếng nổ vang động qua những gì thường được gọi là “sân khấu” của những cuộc khai triển quân đội. Nhưng một cuộc chiến trận đã được tiến hành và tiếp tục được tiến hành bởi một lãnh tụ tinh thần của người Tây Tạng, phù hợp với những quy tắc của một tiến trình được quyết định của bất bạo động, với sự kiên trì bền bỉ.

Trong chiến trận này, kẻ thù không phải là người có thể nghĩ nó là. Đức Đạt Lai Lạt Ma không chiến đấu chống lại người Hoa. Làm sao ngài có thể gọi người Hoa là kẻ thù? Khi ngài nói về  họ, đã trong nhiều năm ngài gọi họ là “những người anh chị em của ngài.” Một biện hộ của sự giải trừ vũ khí bên trong và bên ngoài, ngài tiến lên trường quốc tế với đôi bàn tay không. Không khủng bố, không kế hoạch đánh bom, không viện chứng máy bay tự sát (thời thế chiến thứ hai của Nhật) như sự ngưỡng mộ của ngài. Đối với thế hệ trẻ Tây Tạng, những người muốn chiến đấu với Trung Cộng chiếm đóng; ngài khuyến khích con đường bất bạo động, con đường mà ngài không bao giờ lạc lối.

Khi rời Tây Tạng năm 1959, Đức Đạt Lai Lạt Ma không mang theo thứ gì quý giá với ngài; đó là cái giá của chuyến bay thành công vượt qua bức tường Hy Mã Lạp Sơn. Nhưng đó không có nghĩa là ngài nghèo khó. Tước bỏ những vật chất tốt đẹp, ngài mang theo mình những kho báu của tuệ trí, từ ái và bi mẫn mà ngài đã trau dồi từ lúc thiếu thời. Trong tu viện Potala, trong bí mật của những bức tường vàng son, ngài đã thực tập để cầm nắm vũ khí đánh bại tất cả mọi vũ khí, vũ khí vốn chuẩn bị cho sự chiến thắng của hòa bình.

Sự chiếm đóng quân sự của Trung Cộng đối với Tây Tạng, sự vi phạm quyền con người, sự buộc tội hình sự cư dân, sự xâm lược nhân khẩu là trắng trợn, đau đớn, và không thể chịu nổi. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã không ngừng tố cáo chúng hơn năm mươi năm qua với cộng đồng quốc tế, mà sự đáp ứng của họ không tương xứng với tình hình nghiêm trọng của những sự kiện trên Nóc Nhà của Thế Giới. Việc nhìn nhận sự diệt chủng người Tây Tạng của Ủy ban Luật gia Quốc tế (viết tắt là ICJ) năm 1950 không đưa đến những lượng định chống lại Trung Cộng. Và mặc dù Đức Đạt Lai Lạt Ma đã xoay sở để huy động công luận quốc tế khắp thế giới, nhưng ngài đã không đạt được những hứa hẹn từ những cộng đồng quốc gia trên thế giới có thể làm dừng lại việc vi phạm nhân quyền ở Tây Tạng. Đó có phải nghĩa là lòng từ ái và bi mẫn bất lực chống lại những quan tâm kinh tế và sự nổ bùng sức mạnh của Trung Cộng không? Người ta có thể nghĩ như vậy vào lúc đầu, người ta có thể mỉa mai về sự quá lý tưởng của vị lãnh đạo tinh thần Tây Tạng, một tu sĩ, nền thần quyền cuối cùng của thời đại khác, vốn ngài đã chuyển biến thành một chế độ dân chủ ngay trong năm đầu tiên của sự lưu vong. Nhưng một sự diễn dịch khác sẽ nổi lên nhanh chóng.

Trong nửa thế kỷ, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã khẩn cầu với thế giới lương tâm. Vào một thời đại của xã hội hóa và lịch sử hóa toàn cầu, khi quyền con người bị khinh thường ở Tây Tạng, có phải là đó là tính nhân bản của tất cả chúng ta bị vi phạm không? Sự chiến thắng của hòa bình đối với một chế độ độc tài không tôn trọng Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền chỉ có thể là một sự chiến thắng cho tất cả mọi người.

Nếu mà, nhằm để chuyển hóa thế giới, chúng ta phải bắt đầu bằng việc chuyển hóa chính mình sẽ là gì? Bằng việc giả định trách nhiệm toàn cầu? Sẽ là gì, nếu chúng ta đi theo kiểu mẫu của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tất cả chúng ta được kêu gọi để trở thành “những người đem lại hòa bình” nhằm để giải thoát chính chúng ta bằng việc giải thoát sáu triệu người Tây Tạng, và vì thế để lại cho những thế hệ tới với một thế giới nhân bản hơn, huynh đệ hơn?

Chúng ta phải đi đến một loại nhận thức nào đó bây giờ, vì thế chúng ta sẽ không bị hủy diệt bằng việc ân hận vì đã từng chứng kiến thụ động một thảm kịch và vì thế, với Đức Đạt Lai Lạt Ma chúng ta có thể đạt được hòa bình.

-         Sofia Stril-Rever
Tu viện Kiri
Dharamsala, tháng Mười Hai 2008

*

Chúng Ta Chỉ Có Thể Sống Trong Hy Vọng




MẶC CHO NHỮNG TỘI ÁC DIỆT CHỦNG mà Trung Cộng đã làm trong xứ sở của chúng tôi, nhưng tôi thật tình không thù ghét trong tim tôi đối với người Trung Hoa. Tôi tin rằng một trong những lời nguyền rủa và hiểm họa của thời đại chúng ta là gán cho những quốc gia vì những tội ác của các cá nhân. Tôi biết nhiều người Trung Hoa đáng khâm phục.

Trong những ngày này của sức mạnh quân đội tràn ngập, tất cả những người đàn ông và đàn bà chỉ có thể sống trong hy vọng. Nếu họ được gia hộ với những ngôi nhà và gia đình yên bình, thì họ hy vọng được phép giữ chúng và để thấy con cái họ lớn lên trong hạnh phúc; nếu họ mất nhà cửa của họ, như chúng ta có, nhu cầu của họ cho hy vọng, và niềm tin thậm chí lớn hơn. Hy vọng của toàn thể loài người, trong sự phân tích cuối cùng, đơn giản là cho sự hòa bình của tâm hồn. Hy vọng của tôi đặt niềm tin trong lòng can đảm của người Tây Tạng và tình yêu thương cho sự thật và công lý vốn vẫn ở trong trái tim của loài người, và niềm tin của tôi trong lòng từ bi của Đức Phật Thế Tôn.

HÃY LÀ CỘI NGUỒN CỦA HY VỌNG

Bất cứ điều gì xảy ra
Đừng đánh mất hy vọng!
Phát triển trái tim của bạn.
Trong xứ sở của bạn, quá nhiều năng lượng
Được cống hiến để trau dồi tâm hồn.
Hãy là cội nguồn của lòng từ bi,
Không chỉ cho bạn bè của bạn,
Mà cho tất cả mọi người.
Hãy là cội nguồn của từ bi,
Cho hòa bình.
Và tôi nói với bạn lần nữa,
Đừng bao giờ đánh mất hy vọng.
Bất cứ điều gì xảy ra,
Bất cứ điều gì xảy ra chung quanh bạn
Đừng bao giờ đánh mất niềm tin!

*

Bài thơ này được Đức Đạt Lai Lạt Ma viết do yêu cầu của nhà văn người Hoa Kỳ Ron Whitehead, sáng lập một viện nghiên cứu y khoa nghiên cứu về gen con người. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đọc nó tại một đại học New York vào tháng Tư 1994 trong một lễ hội được tổ chức bởi Ron Whitehead cống hiến cho hòa bình thế giới.
“Đừng bao giờ đánh mất hy vọng,” là một châm ngôn của giới trẻ Tây Tạng, bây giờ được viết trong những ngôi nhà trong những làng trẻ em và được in trên áo thun.

*
Nguyện cho tôi là người bảo vệ của những thứ  bị ruồng bỏ
Người hướng dẫn cho những ai lang thang trên con đường,
Và cho những khao khát trên những bến bờ khác,
Nguyện cho tôi là bình chậu, thuyền bè, cầu cống;
Nguyện cho tôi là hải đảo, cho những ai cần một hải đảo,
Ngọn đèn cho những ai cần một ngọn đèn,
Là giường cho những ai cần một chiếc giường;
Nguyện cho tôi là viên ngọc ước, chiếc chậu
Đầy châu báu, một chân ngôn đầy năng lực, cỏ thuốc,
Cây ban cho mong ước, con bò của sự phong phú.
Khi thế gian vẫn còn tồn tại,
Khi chúng sanh vẫn còn hiện hữu
Nguyện cho tôi vẫn hiện diện
Để xua tan khổ đau cho trần thế!

*

Chính là với bốn câu thơ cuối của lời cầu nguyện dài bởi Ấn độ đại thánh Shantideva vốn ca ngợi lòng yêu thương của Đức Phật cho tất cả mọi chúng sanh, mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đã kết thúc bài phát biểu nhận giải Nobel Hòa bình năm 1989.

Gần hai mươi năm sau, ngài tâm sự rằng vào lúc qua đời, ngài muốn để lại cuộc đời này ghi nhớ những dòng này, tâm thức của ngài tắm gội trong lòng từ  bi.

*