CHƯƠNG
3:
MƯỜI
SÁU THUỘC TÍNH CỦA BỐN CHÂN LÝ CAO QUÝ
BỐN
CHÂN LÝ CAO QUÝ (Pali: ariyas), thường được biết là tứ
diệu đế, hình thành khuôn khổ cho việc hiểu biết toàn
bộ giáo lý của Đức Phật. Quán chiếu những điều này
một cách sâu sắc động viên chúng ta tìm cầu giải
thoát và có thể làm cho chúng ta thấu hiểu vấn đề
những sự thực tập mà chúng ta tiến hành hướng đến
sự giải thoát như thế nào. Cả truyền thống Pali và
Sanskrit đều nói về mười sáu thuộc tính của bốn chân
lý này. Mặc dù danh sách mười sáu điều này khác nhau
trong hai truyền thống và có những sự khác biệt trong ý
nghĩa vi tế, nhưng ý nghĩa tổng quát thì tương tự.
TRUYỀN
THỐNG SANSKRIT
A
tỳ đạt ma Câu xá luận (Abhidharmakośa)
của Thế Thân và Thích Lượng Luận (Pramāṇavārttika)
của Pháp Xứng giải thích rằng mỗi chân lý có bốn
thuộc tính tương ứng với bốn nhận thức điên đảo
về chân lý ấy. Mười sáu thuộc tính giải thích những
chân lý phù hợp với những chức năng khác nhau và hiển
bày sự tồn tại của sự giải thoát và phương pháp để
đạt đến giải thoát.
Bốn
Thuộc Tính về Khổ Đế – Chân Lý về Khổ
Khổ
đế hay chân lý về khổ (dukkha-sacca, duhkha-satya), là
những tập hợp uẩn nhiễm ô :
-
Sắc: thân thể.
-
Thọ: những cảm giác.
-
Tưởng: những sự phân biệt.
-
Hành: hành động do ý muốn, những nhân tố thuộc ý chí,
những nhân tố duyên hợp
-
Thức.
“Nhiễm
ô” có nghĩa là ở dưới sự khống chế của phiền não
vọng tưởng – đặc biệt là si – và nghiệp chướng.
Khổ đế nội tại ở trong sự tương tục của con người
và bao gồm những thân thể và những tâm thức nhiễm ô.
Khổ đế ngoại tại bao gồm trong môi trường của chúng
ta mà chúng ta sử dụng và thụ hưởng.
Những
tập hợp uẩn vật chất và tinh thần được chỉ rõ như
những thí dụ về khổ đế bởi vì chúng là sản phẩm
trực tiếp của những phiền não và nghiệp chướng. Thêm
nữa, chúng hình thành căn bản cho sự mệnh danh của cái
tôi hay tự ngã. “Tự ngã” có những ý nghĩa khác nhau,
tùy thuộc vào phạm trù:
(1)
“Tự ngã” trong thuộc tính thứ tư liên hệ đến đối
tượng của sự phủ định bởi tuệ trí chứng
ngộ thực tại. Đối tượng của sự phủ định có thể
liên hệ đến một tự ngã thường còn hay linh hồn, một
con người tự tồn tại về thực chất, hay sự tồn tại
cố hữu, độc lập của tất cả mọi hiện tượng như
trong “tất cả mọi hiện tượng là trống rỗng tự
ngã” hay “sự vô ngã của những con người và những
hiện tượng” (nhân vô ngã và pháp vô ngã). Ở đây “vô
ngã” không có nghĩa là sự đối lập của vị ngã, hay
vị kỷ; nó có nghĩa là “ngã không, hay không có ngã”.
(2)
“Tự ngã” có thể liên hệ đến con người tồn tại
một cách quy ước, hay Tôi, người đi bộ, hành thiền,
v.v… và v.v…
1-
Những tập hợp uẩn nhiễm ô là vô thường (anicca,
anitya) vì chúng trải qua sự sinh và diệt liên tục không
ngừng.
Việc
thấu hiểu điều này xua tan sự tin tưởng điên đảo
rằng những thứ vô thường là thường. “Vô thường”
ở đây có nghĩa là thay đổi từng thời khắc. Những
hiện tượng duyên sanh trải qua sự thay đổi, hoại diệt
từ những gì chúng là và trở thành điều gì đó mới.
Sự thay đổi thô phù xảy ra khi một vật chấm dứt: một
người chết, một cái ghế gảy. Sự thay đổi vi tế xảy
ra từng thời khắc – đó là một vật không duy trì
giống nhau từ thời khắc này đến thời khắc kế tiếp.
Những
giác quan của chúng ta quán sát sự vô thường thô phù.
Tuy nhiên, vì những thứ nào đó như thân thể chúng ta
được sinh ra và chấm dứt trong cách rõ ràng này, thế
nên phải có một tiến trình thay đổi vi tế hơn xảy ra
trong từng thời khắc. Không có nó, sự thay đổi thô
phù, có thể quán sát từ thời trẻ thơ đến lúc tuổi
già không thể xảy ra.
Hầu
hết mọi những Phật tử thừa nhận rằng thời khắc
một vật được hình thành, thì nó cũng có bản chất
của sự hoại diệt đơn giản bởi sự kiện rằng nó
được sản sinh bởi những nguyên nhân. Không phải là
trường hợp một nguyên nhân sản sinh vât gì đó, thì
vật đó sẽ duy trì không thay đổi trong một khoảng thời
gian, và sau đó một điều kiện khác làm nó chấm dứt.
Đúng hơn, chính nhân tố làm vật gì đó sinh ra cũng làm
cho nó chấm dứt. Ngay chính thời khắc một vật hiện
hữu, thì nó cũng có bản chất của hoại diệt. Tính
nhất thời chứng tỏ rằng việc sinh ra và chấm dứt
không mâu thuẩn nhau nhưng là hai thuộc tính của cùng một
tiến trình.
Hiện
tại là mong manh. Đó là một ngưỡng cửa không thể tìm
ra giữa quá khứ (những gì đã xảy ra) và tương lai
(những gì chưa xảy ra). Trong khi chúng ta dành rất nhiều
thời gian cho quá khứ và dự tính cho tương lai, nhưng
không điều gì trong chúng đang xảy ra ngay bây giờ. Thời
gian duy nhất chúng ta sống là trong hiện tại, nhưng hiện
tại thì khó nắm bắt, thay đổi trong từng thời khắc.
Chúng ta không thể ngăn chặn sự trôi chảy của thời
gian để thẩm tra một giây phút hiện tại cố định.
Việc
thấu hiểu vô thường là một sự đối trị đầy năng
lực đối với những cảm xúc tổn hại căn cứ trên
việc chấp trước vào những thứ vô thường – những
người thân, sở hữu, tình cảm, và những vấn nạn của
chúng ta – như thường hằng. Không rơi vào chủ nghĩa hư
vô với việc nghĩ rằng không có gì đáng giá vì nó sẽ
đổi thay. Đúng hơn, vì mọi vật là tạm bợ nhất thời,
thế nên dính mắc và sân hận đối với chúng là không
thực tế. Vô thường cũng có nghĩa là khi chúng ta tạo
nên những mục tiêu, những phẩm chất tích cực của
chúng ta như từ ái, bi mẫn, và vị tha sẽ lớn mạnh.
Những
kinh điển Pali diễn tả vô thường như “sinh khởi và
biến mất.” Đôi khi họ nói vè “sự hiểu biết mọi
vật như chúng sinh khởi, như chúng hiện hữu, và như
chúng biến mất,” phát thảo ba mệnh đề: sinh khởi,
thay đổi trong khi tồn tại, và hoại diệt. Vi diệu pháp
đồng thuận với hình thức này. Các thiền giả tập
trung vào sự trình bày của kinh điển về sự sinh khởi
và biến mất, và trong ấy, đặc biệt về biến mất bởi
vì điều đó nhấn mạnh rõ rệt tính vô thường. Việc
thực hành chính niệm, thiền giả chú tâm vào tiến trình
vật chất và tinh thần, đi đến thấy rằng những gì
xuất hiện để hợp nhất thành đối tượng hay sự kiện
trong thực tế là những tiến trình vốn sinh khởi và
chấm dứt trong từng thời khắc qua những nguyên nhân và
điều kiện. Khi chính niệm sâu xa hơn, tính vô thường
vi tế được thấy một cách rõ ràng với kinh nghiệm
trực tiếp.
Việc
thấy sự sinh khởi xua tan chủ nghĩa hư vô (đoạn kiến)
– quan điểm cho rằng mọi vật hoàn toàn không tồn tại
hay sự tương tục của con người và ảnh hưởng của
nghiệp hoàn toàn chấm dứt với sự chết. Việc thấy sự
hoại diệt xua tan chủ nghĩa trường tồn (thường kiến)
– quan điểm cho rằng con người và mọi vật là một
thực thể thật sự, thường còn, vĩnh cửu.
2-
Những tập hợp uẩn nhiễm ô là không toại ý (dukkha,
duhkha) bởi vì chúng ở dưới sự khống chế của phiền
não và nghiệp chướng.
Việc
thấu hiểu điều này làm mất tác dụng của suy nghĩ
điên đảo chấp rằng mọi vật vốn không toại ý là
hạnh phúc. Qua việc ở dưới sự khống chế của phiền
não và nghiệp chướng, những tập hợp uẩn của chúng
ta là đối tượng của ba loại khổ. Khổ của đau đớn
kể cả đau đớn thân thể và cảm giác tinh thần mà tất
cả mọi chúng sanh được xem là đau khổ (khổ khổ). Khổ
của thay đổi kể cả những cảm giác sung sướng vốn
là nhiễm ô bởi vì chúng không ổn định, không bền
lâu, và để lại cho chúng ta sự không hài lòng. Bất cứ
hành vi thú vị nào, nếu theo đuổi liên tục, cuối cùng
sẽ trở thành khó chịu (hoại khổ). Khổ của điều
kiện cùng khắp (hành khổ), đó là sự kiện những tập
hợp uẩn của chúng ta ở dưới sự khống chế của
phiền não – đặc biệt là si hay vô minh – và nghiệp
chướng.
Trong
khi tất cả chúng ta muốn hạnh phúc, nhưng hạnh phúc lẫn
tránh chúng ta vì thân thể và tâm thức chúng ta ở dưới
sự khống chế của phiền não và nghiệp chướng. Việc
thấu hiểu rằng những hiện tượng luân hồi là không
toại ý, thì chúng ta sẽ không còn nhìn chúng như nguồn
gốc của hạnh phúc và niềm vui, và chúng ta sẽ từ bỏ
những mong đợi không thực tế về chúng. Việc thấy bám
víu vào những thứ luân hồi là vô ích và chướng ngại,
thì chúng ta sẽ từ bỏ việc bám víu nhằm để ủng hộ
việc thực hành trên con đường tu tập và thực chứng
diệt đế – chân lý về sự chấm dứt.
3-
Những tập hợp uẩn là trống rỗng (suñña, śūnya) do
bởi không là một tự ngã thường còn, thống nhất, và
độc lập.
Sự
thấu hiểu này đối lập với niềm tin điên đảo rằng
thân thể, vốn bất tịnh, có một người sở hữu hoàn
hảo.
Giáo
lý của Thượng tọa bộ (Theravāda), Duy thức tông
(Yogācāra), và Trung quán tông (Madhyamaka) có một số tương
đồng và một số khác biệt về ý nghĩa của thuộc tính
thứ ba và thứ tư. Một giải thích mà tất cả các
trường phái Phật giáo chấp nhận là “sự trống rỗng”
liên hệ đến sự vắng mặt của một tự ngã thường
còn, thống nhất, độc lập hay linh hồn vốn là một
thực thể tồn tại khác biệt với những tập hợp uẩn.
Trong phạm trù này “thường còn” có nghĩa là sự không
thay đổi vính viễn, không sinh hay diệt. “Sự thống
nhất” biểu thị cho sự không lệ thuộc vào những phần
tử mà là một tổng thể nguyên vẹn. “Độc lập”
liên hệ đến việc không lệ thuộc vào nhân duyên (những
nguyên nhân và điều kiện).
4-
Những tập hợp uẩn là vô ngã hay không có ngã (anattā,
nairātmya) vì chúng không có một tự ngã tồn tại độc
lập một cách chắc thật.
Việc
thấu hiểu điều này đối trị với sự chấp thủ rằng
những tập hợp uẩn, vốn không có sự tồn tại độc
lập chắc thật, là một tự ngã như vậy. Sự giải
thích được chấp nhận bởi tất cả các trường phái
Phật giáo giải thích vô ngã như sự vắng mặt của một
người tồn tại độc lập chắc thật. Một người như
vậy sẽ hoàn toàn giống như những tập hợp uẩn, một
tự ngã điều khiển những tập hợp uẩn giống như một
kẻ thống trị đối với những đối tượng của ông
ta. Khi chúng ta nói “tôi” hay “thân thể và tâm thức
của tôi” thì chúng ta có ấn tượng rằng có một tự
ngã làm chủ và thống trị những tập hợp uẩn. Chúng
ta cảm thấy tự ngã này không đơn thuần là quy cho những
tập hợp uẩn. Ở đây “sự quy cho đơn thuần” có
nghĩa là con người không thể được nhận ra mà không
nhận diện điều gì khác hơn là những tập hợp uẩn.
Trong
truyền thống Pali, vô thường, khổ, và vô ngã được
biết như ba đặc trưng của mọi vật bị quyết định
bởi vô minh (si). Hành thiền về chúng với tuệ giác là
cốt lõi của con đường tu tập. Trong truyền thống
Sanskrit, vô thường và khổ được nhận diện trước,
sau đó thiền giả tập trung vào vô ngã và tánh không
cùng với tâm bồ đề.
Trường
phái Duy thức (Yogācāra)
chấp nhận con người như trống rỗng và vô ngã. Họ
cũng chấp nhận vô ngã của những hiện tượng khác
trong ấy chúng trống rỗng sự hiện hữu một bản chất
khác biệt với thức nhận thức chúng và trống rỗng sự
tồn tại bởi những đặc trưng của chính chúng như vật
ám chỉ của một thuật ngữ.
Trung
quán tông theo những ý nghĩa của trống rỗng và vô ngã
của kinh điển Bát nhã (Prajñāpāramitā). Ở đây cả hai
chữ liên hệ đến sư vắng mặt của sự tồn tại cố
hữu, chân thật, hay độc lập và áp dụng cho tất cả
mọi hiện tượng. Sự tồn tại cố hữu là một bản
chất vốn phải tìm thấy được trong căn bản của sự
quy cho (mệnh danh) và phải tồn tại mà không lệ thuộc
vào sự hiện hữu đơn thuần được quy cho bởi những
tên gọi và nhận thức. Một sự hiện hữu giả tạo, nó
bị bác bỏ trên cả con người và những hiện tượng
khác. Tất cả mọi hiện tượng là trống rỗng và vô
ngã bởi vì chúng tồn tại lệ thuộc vào những nhân tố
khác.
Để
nối kết bốn thuộc tính này vào với nhau, thân thể và
tâm thức chúng ta thay đổi từng thời khắc; đây là bản
chất của chúng. Những tập hợp uẩn của chúng ta bị
khống chế bởi những nguyên nhân của chúng, vốn căn
bản bắt nguồn tự sự vô minh. Bất cứ điều gì được
sản sinh từ vô minh là có tính chất không hài lòng; nó
là khổ bởi điều kiện cùng khắp (hành khổ). Một khi
chúng ta phát triển sự tỉnh giác này, rồi thì bất chấp
mọi vật xuất hiện là xinh đẹp, sung sướng, và cám dỗ
như thế nào đi nữa, thì chúng ta biết rằng chúng không
đáng để dính mắc. Chúng là trống rỗng và vô ngã.
Quán
chiếu về bốn thuộc tính này của chân lý về khổ –
khổ đế là đang thức tỉnh và thay đổi một cách ấn
tượng nhận thức của chúng ta về vấn đề chúng ta là
ai và những gì sẽ mang đến hạnh phúc cho chúng ta, hướng
chúng ta từ bỏ tham luyến với những uẩn nhiễm ô và
tìm cầu niết bàn, sự hòa bình chân thật. Sự thực tập
về bốn lãnh vực quán niệm (tứ niệm xứ), sẽ được
trình bày phía sau, là một phương pháp đầy năng lực để
thực chứng bốn thuộc tính của chân lý về khổ.
Bốn
thuộc tính của tập đế – chân lý về nguồn gốc
Tập
đế hay chân lý về nguồn gốc (samudaya-sacca,
samudaya-satya) của khổ là phiền não và nghiệp nhiễm ô.
Nghiệp, hay hành động, được lèo lái bởi phiền não
chẳng hạn như dính mắc và sân hận, vốn bắt nguồn từ
phiền não căn bản, vô minh. Vô minh ngăn trở chúng ta
thấy những tập hợp uẩn là trống rỗng và vô ngã.
Theo
truyền thống Pali, vô minh là tình trạng không biết và
chướng ngại liên quan với sự thật. Sự vô minh này thể
hiện chức năng trong hai cách. Như sự tối tăm tinh thần,
nó che dấu và làm mờ tối bản chất thật sự của mọi
hiện tượng. Nó cũng tạo nên những hiện tướng giả
tạo hay điên đảo (vipallāsa, vaparyāsa) – bốn nhận
thức điên đảo về khổ đế được đề cập ở trên.
Những sự điên đảo hoạt động trong ba cấp độ. Thứ
nhất, chúng ta nhận thức mọi vật một cách không đúng
đắn. Căn cứ trên điều này, chúng ta suy nghĩ về chúng
trong một cách sai lầm. Điều này đưa đến sự hiểu
biết kinh nghiệm chúng ta một cách không đúng. Việc thấu
hiểu ba đặc tính xóa tan ba điên đảo này. Qua học hỏi
và quán chiếu chúng ta đạt được một thông hiểu nhận
thức đúng đắn về ba đặc tính; qua thiền tập chúng
ta đạt được tuệ giác trong chúng.
Theo
Duy thức tông và Trung Quán tông, vô minh không đơn giản
là một tình trạng không biết mà là một kiến thức sai
lầm chủ động chấp trước mọi vật tồn tại trong một
cách mà chúng vốn không như vậy. Theo Trung quán Cụ duyên
tông (Prāsaṅgika Mādhyamikas), trái lại con người và hiện
tượng không tồn tại một cách cố hữu hay dưới năng
lực của chính chúng, mà vô minh chấp trước sự trái
ngược với thực tế và giữ chúng như tồn tại trong
cách này.
Những
cảm xúc chẳng hạn như dính mắc và sân hận cố gốc
rể từ trong vô minh. Càng chấp trước vào một cái tôi
độc lập, chúng ta càng dính mắc với những quan tâm cho
tự ngã này. Chúng ta bám víu vào bất cứ điều gì trông
quan trọng với tự thân của chúng ta và thù địch với
bất cứ điều gì cản trở việc thỏa mãn cho những
quan tâm của tự thân. Thí dụ, chúng ta thấy một vật
xinh đẹp trong tiệm. Trong khi ở trong tiệm, chúng ta muốn
sở hữu nó. Sau khi chúng ta mua nó và đặt nhãn hiệu nó
là “của tôi”, chúng ta trở thành dính mắc với nó
mặc dù đề tài vẫn thế, nhưng phản ứng cảm xúc của
chúng ta đối với nó thay đổi bởi việc đặt nhãn hiệu
nó là “của tôi”. Phía sau nhãn hiệu “của tôi” là
sự tin tưởng trong một tự ngã, sự hường thụ của tự
thân là quan trọng. Nếu người nào làm đổ bể đối
tượng ấy, chúng ta trở thành giận dữ. Phủ nhận cái
tôi như có một thực tại độc lập là xóa tan sự dính
mắc và sân hận của chúng ta.
Tham
dục (taṇhā, tṛṣṇā), là nổi khao khát cho sự hài
lòng những tham muốn của chúng ta, là một thí dụ đáng
chú ý của những phiền não là nguồn gốc của khổ
(duḥkha). Bên cạnh tham muốn những thứ trong khi chúng ta
sống, vào lúc lâm chung tham dục kích thích chấp thủ
(upādāna), làm chín muồi những hạt giống nghiệp thúc
đẩy cho một sự tái sanh luân hồi khác.
1-
Tham dục và nghiệp là những nguyên nhân
(hetu: nhân)
của khổ bởi vì chúng là gốc rể của nó; qua chúng khổ
tồn tại một cách liên tục.
Quán
chiếu rằng khổ phát sinh từ tham dục và nghiệp, chúng
ta đạt được sự tin tưởng sâu xa rằng tất cả mọi
khổ đau có những nguyên nhân – tham dục và nghiệp
chướng. Điều này phủ nhận ý tưởng rằng khổ xuất
hiện một cách ngẫu nhiên và không có các nguyên nhân.
Việc phủ nhận luật nghiệp báo và ảnh hưởng của nó,
làm một số nhà duy vật không tin những hành động của
chúng ta có một chiều kích đạo đức và sống theo chủ
nghĩa khoái lạc, nuông chiều trong những cảm giác khoái
lạc ít suy nghĩ đến những ảnh hưởng lâu dài về
những hành vi của họ tác động trên chính họ và người
khác.
2- Tham
dục và nghiêp chướng là nguồn gốc (samudaya: tập)
của khổ vì chúng lập đi lập lại việc sản sinh tất
cả những hình thức khác nhau của khổ.
Việc
thấu hiểu điều này sẽ xua tan ý tưởng rằng khổ chỉ
đến từ một nguyên nhân duy nhất, chẳng hạn như
một thực thể nguyên sơ là nguồn gốc của mọi thứ.
Nếu khổ dựa trên một nguyên nhân, thì nó sẽ không lệ
thuộc vào nhiều nhân tố khác. Nếu các điều kiện phối
hợp không cần thiết cho một nguyên nhân sản sinh ra một
kết quả, thế thì hoặc là nguyên nhân ấy sẽ không bao
giờ sinh ra một kết quả hay nó sẽ không bao giờ ngừng
việc sản sinh một kết quả. Nếu một mầm non chỉ lệ
thuộc vào một hạt giống, thì không điều gì khác cần
thiết cho hạt giống sinh trưởng, cho nên nó phải nẩy
mầm trong mùa đông. Hay, vì không điều kiện nào khác
cần thiết cho nó nẩy mầm, hơi ấm mùa xuân sẽ không
làm nó lớn mạnh. Bởi vì mọi vật sinh khởi từ nhiều
nguyên nhân, cho nên chúng không được quyết định trước
mà tùy thuộc vào hội tụ của những nhân tố khác nhau.
3-
Tham dục và nghiệp chướng là sự sản sinh (pabhava,
prabhava: sanh) mạnh mẽ bởi vì chúng hoạt động một
cách mạnh mẽ để sản sinh sự khổ đau mãnh liệt.
Thấu
hiểu điều này xua tan quan niệm cho rằng khổ sinh khởi
từ những nguyên nhân trái ngược nhau, chẳng hạn như
một kẻ tạo hóa bên ngoài, vốn không thể tạo ra thế
giới và khổ đau trong đó. Mọi chúng sanh trải nghiệm
sự sáng tạo bằng tâm thức của họ, bằng đạo đức,
phi đạo đức, và những xu hướng trung tính và những
hành vi thân thể và lời nói mà họ thúc đẩy. Tất cả
những thứ này là nghiệp – những hành vi cố ý sinh
khởi trong tâm thức của chúng sanh. Những hành vi này ảnh
hưởng đến những gì chúng ta trải nghiệm.
Phiền
não và nghiệp chướng mang đến sự khổ mãnh liệt,
chẳng hạn như những chúng sanh trải nghiệm trong những
thế giới bất hạnh. Ngay cả những chúng sanh bình thường
hành động với lòng ân cần thoát khỏi xu hướng phiền
não, thì nghiệp lành của họ vẫn bị nhiễm ô bởi vô
minh và đem đến sự tái sanh trong cõi luân hồi. Sự hòa
bình và hạnh phúc an toàn không thể sinh khởi từ vô
minh và tham dục.
Khi
chúng tam thấu hiểu rằng tham dục và nghiệp chướng là
nguồn gốc thật sự của khổ đau, thì chúng ta sẽ chấm
dứt việc đổ thừa người khác cho những vấn nạn của
chúng ta và nhận lấy trách nhiệm cho những hành vi và
kinh nghiệm của chúng ta. Với lòng quyết tâm mạnh mẽ
để xua tan tham dục và nghiệp chướng, chúng ta có quyền
thay đổi hoàn cảnh của chúng ta và tạo ra những nguyên
nhân cho sự hạnh phúc mà chúng ta muốn bằng việc học
hỏi, quán chiếu, và hành thiền trong giáo Pháp.
4-
Tham dục và nghiệp chướng là những điều kiện
(paccaya, pratyaya: duyên) bởi vì chúng hành động như những
điều kiện hợp tác làm sinh khởi khổ đau.
Thấu
hiểu rằng khổ lệ thuộc vào cả nguyên nhân và điều
kiện xua tan khái niệm rằng bản chất của mọi vật là
cố định. Điều này chống lại ý tưởng rằng mọi vật
căn bản là thường hằng nhưng thoáng qua là tạm thời.
Nếu khổ là thường hằng và vĩnh cửu, nó không thể bị
tác động bởi những nhân tố khác và không thể bị làm
mất tác dụng. Tuy nhiên, khi những nguyên nhân bị loại
bỏ, kết quả khổ sẽ không xảy ra. Biết điều này
mang đến sức bật cho sự thực hành Phật Pháp của
chúng ta.
Quán
chiếu bốn thuộc tính này làm mạnh mẽ quyết tâm của
chúng ta để từ bỏ nguồn gốc thật sự của khổ.
Bốn
thuộc tính của diệt đế – chân lý về sự chấm dứt
Diệt
đế – chân lý về sự chấm dứt (nirodha-sacca,
nirodha-satya) là những sự chấm dứt các trình độ khác
nhau của phiền não được thực chứng bằng tiến trình
qua những con đường của a la hán đạo và toàn giác.
Những phiền não có hai loại: phiền não bẩm sinh (sahaja:
câu sanh khởi) tiếp tục không bị gián đoạn từ đời
sống này đến đời sống khác, và phiền não vọng chấp
(parikalpita: biến kế sở chấp) học hỏi từ những triết
lý sai lạc. Sự chấm dứt chân thật cuối cùng của một
vị a la hán, niết bàn – sự tận trừ cả phiền não
bẩm sinh và phiền não vọng chấp – là thí dụ về chân
lý của sự chấm dứt hay diệt đế.
1-
Niết bàn (Nirvāṇa) là sự chấm dứt (nirodha: diệt tận)
của khổ đau bởi vì, là một thể trạng mà trong ấy
những nguồn gốc của khổ đau đã được từ bỏ, nó
bảo đảm khổ sẽ không còn được sản sinh nữa.
Việc
thấu hiểu rằng đạt được sự chấm dứt chân thật
có thể bằng việc loại bỏ sự tương tục của những
phiền não và nghiệp chướng, xua tan những nhận thức
sai lầm rằng phiền não là một bộ phận cố hữu của
tâm thức và giải thoát là không thể. Nhận thức rằng
giải thoát tồn tại truyền cảm hứng cho chúng ta với
sự lạc quan và năng lượng để đạt được nó.
2-
Niết bàn là sự hòa bình (santa, śānta: tĩnh) bởi vì đó
là một sự cách ly mà trong ấy các phiền não đã được
loại trừ.
Thuộc
tính này đối trị với niềm tin rằng dù đã được
tinh luyện nhưng vẫn là những thể trạng nhiễm ô, chẳng
hạn như những tầng thiền dịnh ở cõi sắc và vô sắc,
là diệt đế – sự chấm dứt. Trong khi tĩnh lặng hơn
đời sống con người, nhưng những thể trạng này phiền
não chỉ tạm thời đình chỉ biểu hiện, và và chưa từ
bỏ những phiền não bẩm sinh từ gốc rể.Không hiểu
rằng sự chấm dứt tất cả tham dục là sự hòa bình
tuyệt đối, một số người vẫn hài lòng với những
thể trạng siêu việt như vậy trong cõi luân hồi
(saṃsāra). Những người tin chắc sự tổn hại của tham
dục và nghiệp chướng biết rằng sự chấm dứt của họ
là hòa bình và an lạc trường cửu.
3-
Niết bàn là hoành tráng (panita, praṇīta: diệu) bởi vì
nó là nguồn gốc siêu việt của lợi lạc và hạnh phúc.
Như
một sự tự do hoàn toàn khỏi tất cả những loại khổ,
chân lý về sự chấm dứt – diệt đế là hoàn toàn vô
niệm. Không thể trạng nào khác của giải thoát siêu
việt hơn nó; nó là siêu việt và hoành tráng. Hiểu biết
điều này ngăn ngừa việc suy nghĩ rằng có một thể
trạng nào siêu việt hơn sự chấm dứt của khổ và
nguồn gốc của nó. Nó cũng ngăn ngừa việc lẫn lộn
những thể trạng nào đó tạm thời hay chấm dứt từng
phần như niết bàn tối hậu. Thí dụ, người nào đó
trong dục giới với thần thông thấy kinh nghiệm an lạc
trong thể giới vật chất, nhưng vì thần thông cùa người
ấy là giới hạn, cho nên người ấy không thể thấy kết
cuộc của tình trạng ấy và sai lầm nó với sự giải
thoát trường cửu
.4-
Niết bàn là tự do (nissaraṇa, niḥsaraṇa: ly) bởi vì nó
hoàn toàn thoát khỏi vòng luân hồi và không thể đảo
ngược.
Giải
thoát là tự do, hay sự hiện hữu rõ ràng, bởi vì nó là
một sự thoát ra khỏi vòng luân hồi đau khổ không thể
thay đổi. Điều này đối lập với nhận thức sai lầm
rằng giải thoát là có thể đảo ngược và thể trạng
hòa bình cứu kính có thể suy tàn. Bởi vì diệt đế –
chân lý về sự chấm dứt là sự loại trừ tất cả mọi
phiền não và nghiệp chướng, không còn tốn tại bất cứ
nguyên nhân nào của tái sanh hay khổ đau luân hồi. Một
khi đạt đến, sự giải thoát không thể suy tàn hay thối
chuyển.
Quán
chiếu bốn thuộc tính này động viên chúng ta không dừng
lại giữa chừng mà tiếp tục thực tập cho đến khi đạt
được niết bàn.
Bốn
Thuộc Tính của Đạo Đế - Chân Lý về Những Con Đường
Truyền
thống Pali diễn tả chân lý về những con đường như
tám chánh đạo. Trung Quán tông gọi là con đường chân
thật (maggasacca, mārgasatya: đạo đế) là sự thực chứng
của hiền thánh (ārya) bằng tuệ trí trực nhận tánh
không của sự tồn tại cố hữu. Đạo đế tồn tại
trong dòng suối tâm của những vị hiền thánh trong tất
cả ba thừa. Tuệ trí thực chứng tánh không là con đường
chánh chân bởi vì nó đối lập trực tiếp với vô minh.
Trong vô minh chấp thủ sự tồn tại cố hữu, tuệ trí
thực chứng tánh không thấy sự vắng mặt của sự tồn
tại cố hữu. Vì vậy nó có thể nhổ hoàn toàn gốc rể
của vô minh và những phiền não phát sinh từ nó. Khi
phiễn não chấm dứt, nghiệp chướng nhiễm ô không còn
tạo tác được nữa. Không còn động lực nào nữa để
tái sanh trong cõi luân hồi, và sự giải thoát được
thành tựu.
1-
Tuệ trí thực chứng trực tiếp vô ngã là con đường
(magga, mārga: đạo) bởi vì nó là con đường không sai
lầm đến giải thoát
Tuệ
trí này dẫn đến giải thoát. Biết điều này chống lại
nhận thức sai lầm rằng không có con đường giải thoát
chúng ta khỏi luân hồi và cho chúng ta niềm tin vững vàng
về sự thực tập nó. Nếu chúng ta tin rằng không có con
đường, thì chúng ta sẽ không mạnh dạn học hỏi và
thực tập nó và vì vậy sẽ mãi mãi bị kẹt trong luân
hồi sanh tử.
2-
Tuệ trí thực chứng trực tiếp vô ngã là thích nghi
(ñāya, nyāya: lý) bởi vì nó hoạt động như năng lực
đối khắng với phiền não.
Tuệ
trí trực nhận vô ngã là con đường đúng bởi vì nó là
một sự đối trị đầy năng lực trực tiếp chống lại
sự tự bám víu và loại trừ khổ đau. Thấu hiểu điều
này loại trừ nhận thức sai lầm rằng tuệ trí này
không là con đường để giải thoát. Với việc nhận ra
rằng nó con đường đến giải thoát, thì chúng ta sẽ
tha thiết trau dồi tuệ trí này, vốn biết bản chất của
xiềng xích và giải thoát khỏi vòng luân hồi đúng như
nó là.
3-
Tuệ trí thực chứng trực tiếp vô ngã là hoàn thành
(paṭipatti, pratipatti: hành) bởi vì nó thực chứng không
sai lầm bản chất của tâm thức
Không
như những con đường thế gian vốn không thể hoàn thành
mục tiêu cứu kính của chúng ta, thì tuệ trí này dẫn
đến những thành tựu tâm linh không sai lạc bởi vì nó
là môt tuệ trí hăng hái thực chứng trực tiếp mô thức
tồn tại cứu kính của tâm thức, tánh không của sự
tồn tại cố hữu. Bằng việc làm như thế, nó tận diệt
phiền não và hoàn thành sự giải thoát.
Việc
thấu hiểu điều này chống lại nhận thức sai lầm rằng
những con đường thế gian, chẳng hạn như những thiền
định an chỉ của sắc giới và vô sắc giới, trừ diệt
khổ đau. Chúng có thể là an lạc, nhưng những định an
chỉ này không là sự giải thoát chân thật bảo đảm.
Tương tự thế, con đường khổ hạnh cực đoan của thế
gian không tận diệt tham dục.
4-
Tuệ trí thực chứng trực tiếp vô ngã là sự giải
thoát (niyyānika, nairyāṇika: xuất) bởi vì nó mang đến
sự giải thoát không thể đảo ngược
Mọi
hiện tượng không có sự tồn tại cố hữu. Sự tồn
tại cố hữu và không tồn tại cố hữu là riêng biệt
nhau. Bằng việc thực chứng không có sự tồn tại cố
hữu tuệ trí cuối cùng có thể loại trừ vô minh chấp
thủ sự tồn tại cố hữu. Việc loại bở một cách
chắc chắn tất cả mọi chướng ngại, tuệ trí này
không dừng lại giữa chừng mà dưa chúng ta ra khỏi vòng
luân hồi hoàn toàn vì thế khổ đau sẽ không bao giờ
xuất hiện trở lại. Điều này đối lập với nhận
thức rằng phiền não có thể tái phát sanh và không thể
bị tận diệt hoàn toàn. Nó cũng đối lập với quan niệm
sai lầm rằng trong khi một số con đường nào đó có thể
chấm dứt một số thuộc tính nào đó của khổ đau, thì
không con đường nào có thể chấm dứt nó một cách hoàn
toàn.
Quán
chiếu bốn thuộc tính này động viên chúng ta hành thiền
về những con đường chân thật, tiêu trừ khổ đau và
nguồn gốc của nó, và thực chứng diệt đế – sự
chấm dứt chân thật.
Truyền
thống Pali
Vô
Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga), một tác phẩm được
cho là của Xá Lợi Phất trong Tam tạng Pali, giải thích
mười sáu thuộc tính của Bốn Chân Lý Cao Quý – Tứ
Diệu Đế.
Bốn
thuộc tính của Khổ đế – chân lý về khổ.
Năm
tập hợp uẩn cũng tất cả những hiện tượng duyên
sanh – nhà cửa, bè bạn, sở hữu, danh tiếng, v.v… của
chúng ta – được bao gồm trong khổ đế. Ở đây “những
hiện tượng duyên sanh” liên hệ đến những vật chịu
ảnh hưởng của vô minh và nghiệp chướng. Thuộc tính
chính của khổ đế là sự thống khổ của nó; ba thuộc
tính khác biểu thị cách mà trong ấy các uẩn và những
vật duyên sanh khác là thống khổ, ngột ngạt và nặng
nề.
1-
Các uẩn là thống khổ (pīḷana: áp bức).
Khổ
đế có nghĩa là “thống khổ do sinh và diệt.” Rằng
mỗi uẩn hoạt diệt, không bền vững dù một giây phút,
chúng có bản chất không hài lòng. Bất cứ khi nào chúng
ta được sanh ra trong thế giới luân hồi – từ thế
giới chư thiên đến địa ngục – những chúng sanh bình
thường bị thống khổ bởi luân hồi, các uẩn, và môi
trường.
2-
Các uẩn là duyên sanh (saṅkhata: hữu vi).
Nhu
cầu để tạo những nguyên nhân cho một sự tái sanh may
mắn là một khía cạnh của thống khổ. Để được sanh
ra như một Phạm Thiên, chúng ta phải tạo nguyên nhân
bằng việc thành tựu trí (jhāna) như một con người, là
điều không dễ dàng. Bố thí và trì giới là những
nguyên nhân để được sanh ra như một chư thiên cõi dục.
Khi chúng ta thực hành hai điều này với nguyện vọng cho
giải thoát, thì những thử thách không là kinh nghiệm như
quá nặng nề. Nhưng khi mục tiêu của chúng ta là một sự
tái sanh may mắn, cùng những sự thực hành trở thành cực
nhọc, bởi vì chúng chỉ mang đến một sự tái sanh luân
hồi khác.
Những
chúng sanh được sanh ra trong các thế giới kém may mắn
qua những mười hành vi bất thiện. Những hành vi bất
thiện mang đến một ít sung sướng bây giờ, và chúng ta
thường gây tai họa bởi tội lỗi sau đó. Xa hơn nữa,
trong kiếp sống ấy, chúng ta trải nghiệm những phản
ứng của người khác đối với tổn hại mà chúng ta gây
ra.
3-
Các uẩn đang bốc cháy như lửa (santāpa: nhiệt)
Các
uẩn của các thế giới không may mắn bốc cháy với khổ
não với một chút, một vài thời khắc nào đó ngơi
nghĩ. Ngay cả nếu chúng ta có một sự tái sanh thích thú,
chúng ta liên tục gây ra tai họa bởi sự không hài lòng.
Chư Phạm thiên khổ đau từ sự tự phụ “tôi là,” tà
kiến, và những phiền não khác. Chư thiên cõi dục bốc
cháy với đam mê, vị kỷ, và bám víu. Loài người bị
thống khổ bởi những phiền não mãnh liệt của họ. Chỉ
cần để sống, chúng ta phải làm việc cực nhọc, và
ngay cả sau đó không bao giờ cảm thấy an toàn. Hành động
tạo thành hoàn cảnh để dấn thân vào mười hành vi bất
thiện. Những sở hữu của chúng ta bị đổ gãy hay bị
trộm cắp, thân thể chúng ta ngã bệnh. Chúng ta ham muốn
được yêu mến, được biết ơn, và tôn trọng, nhưng
những thứ này không bao giờ tương xứng với những gì
chúng ta làm để có được chúng.
Thú
vật khổ sở với việc bị ăn thịt bởi những thú khác
hay con người. Chúng không thể nói cho chính chúng khi bị
săn bắt, bắn giết, hay ngược đãi. Quỷ đói đau khổ
vì đói khát, và chán chường; chúng sanh địa ngục bị
tra tấn bởi đau đớn thân thể. Đối với những sự
tái sanh bất lợi, hãy để riêng hạnh phúc trong giáo
pháp ra, thì ngay cả một chút hạnh phúc tạm thời, là
cũng khó tìm.
4-
Các uẩn có bản chất thay đổi (vipariṇāma: hoại).
Chết
và tái sanh liên tục là nổi khốn cùng của tất cả
chúng sanh. Những ai trong các thế giới may mắn sẽ rời
bỏ những hoàn cảnh thoải mái và rồi tái sanh trong
những thế giới với khổ đau hơn, trong khi những chúng
sanh trong các thế giới bất hạnh đối diện với vô vàn
khó khăn để tạo những nguyên nhân cho một sự tái sanh
may mắn. Đúng như có một thân thể luân hồi bảo đảm
sẽ mất mát, chết chóc và rồi lại tái sanh nữa.
Tất
cả những vật duyên sanh là đối tượng của đổi thay;
không thứ gì duy trì hiện trạng trong một giây phút sau
khi nó sinh khởi. Với sự chánh niệm sâu sắc thì có thể
thấy với tuệ trí sự thay đổi nhanh chóng này xảy ra.
Khi chúng ta làm như thế, hầu như không có thứ gì ở đó
bởi vì bất cứ thứ gì sinh khởi là biến mất trong
giây phút tiếp theo.
Các
uẩn của chúng ta, môi trường, và sự thụ hưởng là
gánh nặng bởi vì khởi đầu chúng ta phải dùng năng
lượng to lớn để tạo ra những nguyên nhân để thành
đạt chúng. Khi chúng ta có chúng, chúng ta cháy bỏng với
những phiền não mà chúng kích động, và cuối cùng,
chúng ta phải lìa bỏ chúng trong sự bối rối và và bất
ổn. Qua sự quán chiếu sâu sắc bốn thuộc tính này của
khổ đế – chân lý về khổ, thì một sự thôi thúc
mạnh mẽ được giải thoát khỏi vòng luân hồi phát
sanh trong chúng ta.
Bốn
thuộc tính của Tập Đế – chân lý về nguồn gốc của
khổ
Tập
đế – chân lý về nguồn gốc của khổ là chịu trách
nhiệm cho sự phát sanh và lớn mạnh của khổ đau. Đầu
đảng tạo ra rắc rối, tham dục, có ba loại:
a-Tham
dục vì những đối tượng gợi cảm (kāma taṇhā: ái
dục) tham muốn sáu đối tượng giác quan và những cảm
giác khoái lạc sinh khởi khi tiếp xúc với chúng. Nó đưa
đến việc tham gia vào những hành vi phi đạo đức để
tìm kiếm và bảo vệ những gì chúng ta tham muốn.
b-Tham
dục cho sự tồn tại (bhava taṇhā: ái sanh tồn) tham muốn
cho sự an lạc trong sắc giới và vô sắc giới và tìm
kiếm tái sanh trong ấy. Nó làm người ta ôm ấp việc đạt
đến những định (jhānas) và không trau dồi tuệ mang đến
giải thoát.
c-
Tham dục cho sự không tồn tại (vibhava taṇhā: vô hữu
ái) tin tưởng sự chấm dứt của tự ngã vào lúc chết
là an bình và tuyệt vời và tham muốn điều này. Trong
một hình thức nhẹ hơn, nó khao khát chấm dứt bất cứ
điều gì chúng ta không thich.
Vô
minh và tham dục hoạt động song song với nhau: vô minh là
vòng thứ nhất bắt đầu của hệ thống 12 nhân duyên;
tham dục là nhân tố năng động tạo ra nghiệp cho một
sự tồn tại mới. Nó cũng làm chín muồi nghiệp chướng
vào lúc chết. Cả vô minh và tham dục không có sự khởi
đầu nhận rõ được. Chúng không phải được tạo ra
bởi một đấng siêu nhiên, cũng không sinh khởi mà không
có nguyên nhân. Chúng là những sự kiện duyên sanh vốn
sinh khởi qua vô minh và tham dục mà chúng ta có từ những
kiếp trước.
1-
Tham dục tích lũy nguyên nhân (āyūhana: tích tụ) của khổ
đau (dukkha).
Bằng
việc liên tục ham muốn những đối tượng xinh đẹp để
thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, và suy nghĩ, tham dục
thúc đẩy một sự tìm kiếm điên cuồng để làm xao
lãng tâm thức, làm tê liệt chính chúng ta với thế giới,
và chửa trị nổi đau đớn của chúng ta. Trong cách này,
chúng ta chưa bao giờ đối diện với trái tim cho những
vấn nạn của chúng ta.
Thông
thường chúng ta nghĩ về nổi khổ đau của chúng ta qua
việc không có được những gì chúng ta muốn. Trong thực
tế, đó là qua tham dục: tham dục làm không hài lòng.
Không thấy vấn nạn là bên trong chúng ta, chúng ta như
con chó với những con bò chét. Không thể thoải mái ở
một chỗ, con chó di chuyển qua chỗ khác nghĩ rằng ở đó
không có bò chét. Cho đến khi chúng ta giải thoát tâm
thức chúng ta khỏi tham dục, thì khổ não sẽ quanh quẩn
theo chúng ta. Một tâm thức tự do vói tham dục là một
tâm thức hòa bình.
2-
Tham dục là nguồn gốc (nidāna: nhân) liên tục của khổ
đau
Tham
dục không dừng lại khi chúng ta có được những gì
chúng ta muốn. Giống như uốn nước muối, càng uống
chúng ta càng khát. Chúng ta có được thứ gì đó mới
và, sau khi sung sướng với nó một thời gian ngắn, một
lần nữa chúng ta lại chán nản, không hài lòng, và tham
muốn thứ gì khác. Trong khi, mỗi thời khắc của tham dục
lại tạo ra thêm những tham dục tiềm tàng, là thứ vốn
mở đường cho chúng ta tham muốn trong tương lai.
3-
Tham dục mang xiềng xích kết buộc (saṃyoga: kết phược)
chúng ta với khổ đau
Không
bao giờ muốn lìa khỏi người thân, sở hữu, nơi chốn,
ý tưởng, trò vui, và danh tiếng chúng ta tim kiếm, cho nên
tham dục kết buộc chúng ta lại với khổ đau. Nó làm
chúng ta muốn kết hợp với chính những thứ kích thích
sự khao khát và cảm giác thiếu thốn của chúng ta. Tham
dục công nhận, khiến chúng ta ganh đua với người khác.
Nếu chúng ta chứng tỏ hay giỏi hơn, chúng ta sợ đánh
mất danh dự ấy và đau khổ với áp lực duy trì vị trí
của chúng ta. Nếu người khác vượt lên hàng đầu,
chúng ta đau khổ vì ganh tỵ. Tham dục làm ta cảm thấy
như vậy và vì thế không có an lạc trong bất cứ vị
thế nào.
4-
Tham dục là một chướng ngại và ngăn trở (palibodha:
chướng ngại) tự do khỏi khổ đau
Tham
dục ngăn trở chúng ta xa lìa những thứ chúng ta dính
mắc. Quán chiếu sâu sắc vào kinh nghiệm của chính
mình, chúng ta thấy rằng ngay cả khi chúng ta đạt đủ
niềm khao khát, thì tâm thức chúng ta cũng không an bình,
nó tiềm tàng sự so đo lo sợ đánh mất những vì chúng
ta thích. Trong cách này tham dục ngăn trở chúng ta có một
tâm thức an bình và ngăn trở chúng ta trong việc thực
hành Phật pháp, cội nguồn của an lạc chân thật.
Trong
khi tham dục được xem như thí dụ chính của nguồn gốc
khổ đau trong cả truyền thống Pali và Sanskrit, thì những
trở ngại khác cũng tồn tại. Truyền thống Pali và
Sanskrit A tỳ đạt ma Câu Xá luận (Abhidharmakośa) thảo
luận mười xiềng xích (saṃyojana), những nhân tố tinh
thần trói buộc chúng ta với luân hồi và làm trở ngại
việc thành tựu giải thoát. Năm xiềng xích thấp là quan
điểm về bản sắc cá nhân, nghi ngờ bị lừa dối, quan
điểm về những quy luật và sự thực hành, ham muốn
khoái lạc (kāmachanda, kāmacchanda: dục vọng), ác tâm
(vyāpāda: sân khuể). Năm xiềng xích cao là tham muốn tồn
tại trong sắc giới (rūparāga: ái sắc), tham muốn cho sự
tồn tại trong vô sắc giới (arūparāga: vô sắc ái), tự
phụ (māna: mạn tâm), hiếu động (uddhacca, uddhatya: trạo
cử), và vô minh (avijjā, avidyā ).