Nguyên bản:
Overview of the Path to Enlightenment
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
*
TIẾN TRÌNH TỪ TỪ
Một hành giả tiến tới Quả Phật như thế nào qua việc trau
đồi thiền quán những con đường của động cơ và tuệ trí? Trong Bát Nhã Tâm Kinh,
Đức Phật trình bày những trình độ của con đường trong một tuyên bố ngắn gọn và
thậm thâm, “Tadyata gate gate paragate parasamgate bodhi svaha,” có nghĩa là,
“Thật sự là như vậy, tiến tới, tiến tới, tiến vượt tới, tiến vượt tới triệt để,
thành tựu Giác Ngộ.” Chúng ta hãy thẩm tra điều này một cách sâu sát hơn, bắt đầu
với chữ đầu tiên, “gate” (“tiến tới” hay “đi”). Ai đang đi? Có phải “cái tôi”
hay tự ngã được biểu thị trong sự lệ thuộc trên sự tương tục của tâm. Từ điều
gì ta đang tiến tới? Chúng ta đang rời khỏi vòng luân hồi, trạng thái ở dưới ảnh
hưởng của những hành vi nhiễm ô và các cảm xúc phiền não ẩn tàng. Ta đang tiến
tới điều gì? Chúng ta đang tiến tới Quả Phật được phú cho Thân Thể Chân Thật,
vĩnh viễn thoát khỏi khổ đau và những nguồn gốc của đau khổ (cảm xúc phiền
não), cũng như những xu hướng được thiết
lập bởi những cảm xúc phiền não. Trên những nguyên nhân và điều kiện nào mà
chúng ta lệ thuộc khi chúng ta tiến tới? Chúng ta đang tiến tới trong sự lệ thuộc
trên con đường vốn là một sự phối hợp của từ bi và tuệ trí.
Đức Phật đang nói với những thực tập sinh đi trên một bờ
biển khác. Từ quan điểm của thực tập sinh, vòng luân hồi thì ở gần bên, trong tầm
tay. Ở bờ xa, một nơi xa kia, là niết bàn – thể trạng đã vượt khỏi khổ đau.
NĂM CON ĐƯỜNG
Khi Đức Phật nói, “Tadyata gate gate paragate parasamgate
bodhi svaha,” (“Thật sự là như vậy, tiến tới, tiến tới, tiến vượt tới, tiến vượt
tới triệt để, thành tựu Giác Ngộ.”), Ngài đang nói với những hành giả tiến tới
trên năm con đường:
Gate – con đường tích lũy (tư lương đạo);
Gate – con đường chuẩn bị (gia hạnh đạo).
Paragate – con đường thấy đạo (kiến đạo).
Parasamgate – con đường hành thiền (tu tập đạo).
Bodhi – con đường không còn học nữa (Giác Ngộ đạo - vô học
đạo – cứu kính đạo).
Chúng ta hãy xác định bản chất tiến triển qua năm con đường
này:
1- Con
đường khởi đầu là gì, con đường tích lũy?
Đó là thời điểm khi chúng ta chính yếu thực hành theo động cơ khác để tích lũy
dồi dào phước đức lớn. Cũng thế, mặc dù
chúng ta đang thực hành một sự phối hợp động cơ và tuệ trí, thì sự thực chứng
tánh không của ta chưa đạt đến trình độ của sự hổ trợ hổ tương của chỉ và quán
được gọi là “một thể trạng sinh khởi từ thiền”. Trên con đường này chúng ta đạt
được thiền định đầy năng lực, và đang hành động đến một thể trạng sinh khởi từ
thiền thực chứng tánh không.
2- Tại
một thời điểm mà chúng ta đạt được một thể trạng của tuệ trí sinh khởi từ thiền
thực chứng tánh không, chúng ta đi qua con
đường chuẩn bị. Bằng việc ngày càng quen thuộc với thể trạng này, cùng với
việc trau dồi động cơ từ bi, chúng ta dần dần nhận thức sự xuất hiện tánh không
càng rõ ràng hơn đối với bốn trình độ của con đường chuẩn bị (hơi nóng, đỉnh
cao, nhẫn nhịn, những phẩm chất thế tục cao nhất)[1].
3- Cuối
cùng tánh không được nhận ra một cách trực tiếp, ngay cả không có một chút nhiễm
ô từ hiện tướng nhị nguyên, vốn đã biến mất. Đây là sự bắt đầu của con đường thấy đạo – con đường khởi đầu
trực tiếp thực chứng chân lý quan tâm đến bản chất sâu xa của các hiện tượng. Tại
điểm này trong Đại thừa, thập địa Bồ tát (được gọi là đất vì trên chúng những
phẩm chất tâm linh được sanh ra) bắt đầu. Trên con đường thấy đạo và con đường
hành thiền, hai loại chướng ngại, tri thức tập nhiễm[2] và
bẩm sinh[3],
được vượt thắng một cách tương ứng. Những trạng thái tri thức tập nhiễm của tâm
hình thành qua sự chấp chặc vào những hệ thống sai lầm. Thí dụ, có những hành
giả của một số trường phái Phật giáo tin tưởng rằng các hiện tượng tồn tại một cách quy ước theo cách
của đặc tính của chính chúng, căn cứ trên “lý luận’ vô căn cứ rằng nếu các hiện
tượng không được thiết lập trong cách này, thì chúng không thể biểu hiện chức
năng. Đây là một loại nhận thức sai lầm, bị làm nhiễm ô bởi những hệ thống giáo
lý bệnh hoạn, được gọi là nông cạn, hay tri thức tập nhiễm. Ngay cả nếu chúng
ta không có được những xu hướng mới qua tư duy nhận thức sai lầm trong kiếp sống
này, thì mọi người có trong sự tương tục tinh thần của họ những xu hướng được
thiết lập bởi sự chấp chặc vào những quan điểm sai lầm trong những kiếp trước.
Ngược lại, những trạng thái bẩm
sinh sai lầm của tâm đã tồn tại trong tất cả chúng sanh – từ côn trùng cho đến
con người – từ thời vô thỉ, và vận hành
tương hợp với chính họ mà không lệ thuộc vào những kinh điển và lý luận sai lầm.
4- Tri
thức tập nhiễm, hay nông cạn, những chướng ngại được loại trừ qua con đường thấy
đạo, trái lại những chướng ngại bẩm sinh thì vượt thắng khó khăn hơn (vì chúng
ta đã bị điều kiện hóa với những trạng thái sai lầm này của tâm từ thời vô thỉ).
Chúng phải bị loại trừ bằng việc hành thiền liên tục trên ý nghĩa của tánh
không. Vì việc hành thiền như vậy xảy ra lập đi lập lại trải qua một thời gian
dài, giai đoạn này của con đường được gọi là con đường hành thiền. Thực tế, chúng ta đã hành thiền về tánh không
trước đây rồi, nhưng con đường hành thiền liên hệ đến một con đường của việcthực
hành mở rộng cho thông thạo.
Trên trình độ này, chúng ta trải
qua chín địa Bồ tát còn lại. Từ trong mười địa, bảy địa đầu được gọi là bất tịnh,
và ba địa cuối là thanh tịnh. Đây là bởi vì trên bảy địa đầu chúng ta vẫn còn ở
trong tiến trình của việc loại trừ những chướng ngại phiền não và vì vậy bảy địa
này chưa thanh tịnh. Qua phần thứ nhất của địa thứ tám chúng ta đang tiêu trừ
những cảm xúc phiền não. Sự quân bình của địa thứ tám, chín, mười cho phép
chúng ta vượt thắng những chướng ngại đến toàn tri toàn giác.
5- Bây
giờ, qua việc sử dụng thiền tập trung như kim cương thành tựu vào đoạn cuối của
mười địa Bồ tát – cực điểm vẫn còn chướng ngại chưa được chiến thắng – nhưng
chúng ta có thể làm xói mòn những chướng ngại rất vi tế đến toàn tri toàn giác.
Chính thời khắc kế tiếp của tâm chúng ta trở thành một thức toàn tri toàn giác,
một cách đồng thời bản chất sâu thẩm của tâm trở thành Thân Thể Tự Nhiên của một
Đức Phật. Đây là con đường thứ năm, con đường sau cùng, con đường không còn học nữa. Từ gió rất vi tế, năng lượng – vốn là
một thực thể với gió đó – những sắc tướng thanh tịnh và không thanh tịnh tự động
xuất hiện ra để hổ trợ chúng sanh; những thứ này được gọi là những Thân Sắc Tướng
của một Đức Phật. Đây là Quả Phật, một thể trạng của việc hiện hữu một cội nguồn
giúp đở và hạnh phúc cho toàn thể chúng sanh.
Để tôi dành một vài phút ở đây để nói đến nhiều nhận thức
sai lầm về vấn đề việc nữ nhân có thể thành tựu Quả Phật hay không. Trong kinh
điển Đại thừa, không có một biểu thị nào rằng một nữ nhân không thể đạt được Quả
Phật. Tuy nhiên, kinh luận nói rằng, trong những sự thực tập tích lũy phước đức trải qua ba a tăng kỳ kiếp, thì chúng ta sẽ
đi đến một thời điểm khi nghiệp mà chúng ta đang làm việc với ý chí trưởng
thành như những dấu hiệu vật lý và hảo tướng của một Đức Phật; vào lúc ấy, theo
kinh điển Đại thừa, nó giúp để có một sự hổ trợ vật lý mạnh mẽ, cho nên chúng
ta tự nhiên đi đến có một thân thể của nam giới. Những kinh luận này cũng nói rằng
trong kiếp cuối cùng trước khi thành tựu Quả Phật, chúng ta cần có một thân thể
đại trượng phu. Tuy nhiên, Tantra Yoga Tối Thượng, là thứ mà chúng tôi xem như
hệ thống sau cùng, nói rằng không chỉ một nữ nhân có thể thành tựu Quả Phật mà
vị ấy có thể làm như thế ngay trong kiếp sống này.
NHỮNG PHẨM CHẤT CỦA
QUẢ PHẬT
Trong tất cả mọi trường phái tu tập của Đạo Phật, sự thực
hành là căn cứ trên xu hướng xa rời cõi luân hồi. Ngoài ra, trong Đại thừa
chúng ta được động viên bằng xu hướng quan tâm khác để trở thành Giác Ngộ.
Trong Mật tông, qua những kỷ năng vốn để nâng cao việc phát triển của thiền tập
trung, vốn là sự phối hợp của định và tuệ, thì chúng ta có thể đạt được thể trạng
của Quả Phật mà trong đó tất cả mọi chướng ngại – những chướng ngại phiền não
ngăn trở việc thoát khỏi vòng luân hồi[4] và
những chướng ngại đến toàn tri toàn giác[5]
ngăn trở Quả Phật – đã được tiêu trừ.
Phẩm chất của một Đức Phật được diễn ta như những “thân
thể” khác nhau vốn có thể được phân chia thành hai loại tổng quát:
·
Thân Thể Chân Thật, cho việc hoàn thành cát tường
của chính bản thân.
·
Các Thân Thể Sắc Tướng, cho việc hoàn thành cát
tường của các chúng sanh khác.
Các Thân Thể Sắc Tướng, lần lượt, có thể được phân chia bằng
việc chúng xuất hiện như thế nào đối với chúng sanh trong những trình độ khác
nhau của thanh tịnh và bất tịnh. Những hành giả tiến bộ cao độ có thể thâm nhập
Thọ Dụng Thân[6].
Những trình độ khác của các hành giả trải nghiệm các Ứng thân[7].
Thân Thể Chân Thật cũng có thể phân chia thành hai loại, Thân Tự Tánh và Thân
Tuệ Trí. Thân Tự Tánh có thể phân chia thêm nữa thành một thể trạng của sự tịnh
hóa tự nhiên và một thể trạng của sự tịnh hóa bất định (hay làm thành) các phiền
não. Thân Thể Chân Thật Tuệ Trí có thể phân chia xa hơn tùy vào nhiều quan điểm
khác nhau. Hiện Quán Trang Nghiêm Luận
cho Sự Thực Chứng Minh Bạch[8] của
Di Lặc ghi rõ hai mươi (20) bộ tuệ trí vô nhiễm vốn có thể được phân chia thành
một trăm sáu mươi bộ (160).
SỰ THỰC HÀNH LÂU
DÀI
Đây là một sự giải thích tóm tắt cho nền tảng – hai chân
lý, quy ước và cứu kính; những con đường xây dựng trên nền tảng ấy – động cơ và
tuệ trí; những quả vị trên con đường – những Thân Thể Sắc Tướng và Thân Thể
Chân Thật của một Đức Phật. Thật lợi ích để có cái nhìn tổng quát về cấu trúc của
sự thực hành, nhưng chúng ta cần nhớ rằng sự thực chứng được phát sinh qua nhiều
nguyên nhân và điều kiện – sự thấu hiểu đúng đắn, sự tích lũy phước đức, và sự
vượt thắng các chướng ngại. Nếu ta trước tiên chưa tích lũy phước đức, và tịnh
hóa những hành vi bất thiện, thì thật khó để đạt được sự thực chứng chỉ qua việc
cố gắng hành thiền. Do vậy, thật quan trọng để làm việc thông qua mỗi một hành
vi sơ bộ.
Liên hệ trong những sự thực hành sơ bộ tiên quyết không
chỉ là một vấn đề của việc bổ sung nào đó hay ngay cả là việc hoàn thành ẩn tu
ba năm hay pha mặt trăng[9]
(như một số có thể tưởng tượng từ sự kiện rằng nhiều sự tu tập kéo dài như thế),
hay bất cứ một thời gian nào khác. Thay vì thế, chúng ta phải tích tập phước đức và tịnh hóa các chướng
ngại cho đến khi những sự thực chứng nào đó được phát sinh. Chúng ta có thể
dành trọn cả cuộc đời để làm như thế, với mục tiêu cải thiện những kiếp sống
tương lai. Đôi khi, do bởi một sự khiếm khuyết hiểu biết, cho nên những người
thực hiện những thời gian ẩn tu dài kết thúc với niềm kiêu hảnh lớn chỉ với sự
kiện rằng họ đã hoàn thành khóa tu. Sự gia tăng trong tự hào sinh ra một sự gia
tăng trong sân hận, ghen tỵ, và ganh đua. Điều giống như vậy có thể xảy ra với
tri thức đơn thuần trong sách vở về giáo lý. Thật không dễ dàng; những cảm xúc
phiền não là xảo quyệt.
Việc hành trì không phải là điều gì đó mà chúng ta thực
hiện trong vài tuần hay vài năm. Nó xảy ra trải qua nhiều kiếp sống, trong hàng
vô lượng kiếp và vô lượng kiếp. Như chúng ta đã thấy, một số kinh luận nói việc
Giác Ngộ được thành tựu sau khi tích lũy vô số phước đức và tuệ trí trong ba a
tăng kỳ kiếp. Nếu chúng ta xem tuyên bố này là thích đáng, thì nó có thể động
viên ta tiếp nhận một thái độ nhẫn nhục, kiên trì qua những hoàn cảnh khó khăn.
Nếu học hỏi điều này làm ta phiền muộn, thì có thể là do việc chúng ta mong muốn
thành tựu Quả Phật một cách nhanh chóng vì quá quan tâm đến người khác của
chúng ta. Đó cũng có thể là một dấu hiệu của lòng can đảm không đủ. Giác Ngộ
không thể đạt được mà không phải hành động nghiêm mật. Tin tưởng theo cách khác
có nghĩa là chúng ta đang chứa chấp một hình thức vị kỷ nào đó.
*
Đây là toàn bộ tiến trình của con đường tu tập. Mặc dù
người ta có thể không giàu có vốn có thể giữ trong một chiếc bóp, nhưng họ có
thể có sự giàu có này giữ trong tâm. Những tuyên bố hảo ý của các tôn giáo khác
nhau thì không đủ; chúng ta phải khai triển thực hiện chúng trong đời sống hàng
ngày trong xã hội. Sau đó chúng ta mới có thể biết giá trị thật sự những giáo
lý của chúng. Thí dụ, nếu một Phật tử hành thiền trong chùa viện nhưng bên
ngoài chùa viện thì họ không sống với những lý tưởng quán chiếu ấy, như vậy là
không tốt. Chúng ta phải thực hành trong đời sống hàng ngày.
Giá trị thật sự của việc thực hành được thấy khi chúng ta
đối diện một thời điểm khó khăn. Khi chúng ta vui sướng và mọi thứ diễn ra suông
sẻ, thế thì sự thực hành dường như không khẩn thiết, nhưng khi chúng ta đối diện
những vấn nạn không thể tránh chẳng hạn như bệnh tật, tuổi già, chết chóc, hay
những hoàn cảnh chán chường khác, thì thật cần thiết để kiểm soát sự sân hận của
ta, kiểm soát những cảm giác của chúng ta, và để sử dụng tâm tư tốt đẹp của con
người chúng ta để quyết định phải đối diện với vấn nạn đó như thế nào với sự nhẫn
nhục và điềm tĩnh.
Nếu chúng ta thực hành cách này, hy vọng trước nhất của
chúng ta là chúng ta có thể chiến thắng vấn nạn, nếu không, tối thiểu vấn nạn
không thể quấy rầy sự an bình tinh thần chúng ta. Như vậy là tốt, có phải
không? Chúng ta đang đối diện với hoàn cảnh và duy trì được sự bình an của tâm
hồn – không cần uống thuốc an thần hay cố gắng để đẩy tư tưởng của chúng ta khỏi
nó. Đó là tại sao chúng ta vô cùng thích thú trong những ngày cuối tuần và các
kỳ nghĩ dưỡng! Năm ngày trong tuần chúng ta vô cùng bận rộn, làm việc cật lực để
kiếm tiền, rồi thì vào cuối tuần chúng ta đi đến một nơi nào xa xôi với số tiền
ấy và có một thời gian dễ thương! Điều này có nghĩa là chúng ta cố gắng để đưa
tâm thức chúng ta khỏi vấn nạn của chúng ta. Nhưng vấn nạn vẫn ở đấy.
Tuy nhiên, nếu chúng ta có một thái độ tinh thần tốt, thì
không cần tiêu khiển. Khi chúng ta có thể đối diện với hoàn cảnh và phân tích vấn
nạn, thế thì, giống như một cục nước đá trong nước, nó sẽ dần dần tan đi. Nếu
chúng ta thực hành một cách chân thành, thì chúng ta sẽ trải nghiệm giá trị thật
sự của nó.
Theo lời của chính Đức Phật, giáo huấn của Ngài sẽ tồn tại
ở thế gian này trong năm nghìn năm. Vào lúc kết thúc năm nghìn năm ấy, nó cuối
cùng sẽ bị hủy diệt bởi một người nào đó là chính sự tái sanh của Đức Phật, vì
khi ngày ấy đến giáo lý của Ngài sẽ không còn giá trị nữa. Tuy nhiên, có cả tỉ
hệ thống thế giới như chúng ta, với hàng tỉ giáo lý vô tận như vậy. Một số
trong chúng, giáo lý sẽ được làm mới lại; một số sẽ tàn tạ. Giáo lý tiếp tục
duy trì ở một nơi nào đó vào mọi thời gian. Chư Phật không bao giờ biến mất, và
giáo lý sẽ không bao giờ tan biến.
*
TOÁT YẾU THỰC HÀNH
HÀNG NGÀY
Đây là một nơi những tóm tắt cho sự thực hành tập họp lại
khắp cả quyển sách. Hãy tập trung trên những thứ phù hợp với trình độ của bạn
vào điểm này. Hay, chúng ta có thể thay đổi trong chúng trong phạm vi một tuần.
Hãy cải thiện một cách nhẫn nại qua thời gian, những sự thực hành sẽ trở thành
ngày càng quen thuộc hơn và đời sống của chúng ta sẽ trở thành đầy đủ ý nghĩa
hơn.
Đạo đức
của sự giải thoát cá nhân
1- Hãy
thẩm tra động cơ của chúng ta thường xuyên như có thể. Thậm chí trước khi rời
khỏi giường vào buổi sáng, hãy thiết lập một quan điểm bất bạo động, không lạm
dụng, không ngược đãi cho một ngày của chúng ta. Vào ban đêm thẩm tra lại những
gì chúng ta đã làm trong ngày.
2- Hãy
chú ý có bao nhiêu đau khổ trong chính cuộc sống của ta:
·
Có những đau khổ thể xác và tinh thần nào tư
nhiên chúng ta muốn tránh, chẳng hạn như bệnh tật, tuổi già, và sự chết.
·
Có những kinh nghiệm tạm thời nào, như ăn uống
thực phẩm ngon, dường như có thể vừa lòng trong chúng và tự chính chúng, nhưng,
nếu tiếp tục ăn uống có thể hóa thành bệnh – đây là đau khổ vì thay đổi. Khi
hoàn cảnh biến từ sung sướng thành đau khổ, hãy quán chiếu trên sự kiện rằng bản
chất sâu thẩm của niềm vui ban đầu đang tự hiển lộ. Việc dính mắc vào những niềm
vui nông cạn như vậy sẽ chỉ mang đến khổ đau hơn.
·
Hãy quán chiếu vấn đề chúng ta bị vướng trong một
tiến trình của điều kiện, vốn, đúng hơn là ở dưới sự kiểm soát của chúng ta,
chính là ở dưới sự ảnh hưởng của nghiệp và những cảm xúc phiền não.
3- Hãy
phát triển một cách từ từ một quan điểm thực tiển của thân thể qua việc thẩm
tra những thành phần của nó – da, máu, thịt, xương, và v.v…
4- Hãy
phân tích đời sống của chúng ta một cách cặn kẻ. Cuối cùng chúng ta sẽ thấy khó
khăn để lạm dụng nó bằng việc trở thành như máy móc hay chỉ bằng việc tìm ra tiền
như kẻ đại diện cho hạnh phúc.
5- Hãy
chấp nhận một thái độ tích cực khi đối mặt với khó khăn. Hãy tưởng tượng rằng bằng
việc chịu đựng một hoàn cảnh khó khăn thì chúng ta cũng làm tiêu mòn những hậu
quả tệ hại từ những nghiệp chướng khác mà khác đi chúng ta có thể trải nghiệm
trong tương lai. Như một sự luyện tập tinh thần, hãy tự đảm nhận gánh nặng đau
khổ của những kẻ khác giống như thế.
6- Hãy
đánh giá những hệ quả có thể tiêu cực và tích cực về những cảm giác chẳng hạn
như tham muốn, sân hận, ganh tỵ, và thù oán. Khi nó trở thành rõ ràng rằng hậu
quả của chúng là tai hại, thì chúng ta đi đến kết luận rằng không có các kết quả
tích cực của sân hận, … Hãy phân tích nhiều hơn nữa, và dần dần sự tự tin của
chúng ta sẽ được làm mạnh lên; sự phản chiếu được lập lại về những bất lợi của
sân hận sẽ làm chúng ta nhận ra rằng nó vô nghĩa, và đáng thương. Quyết định
này sẽ làm cho sự sân hận của chúng ta từ từ hao mòn.
7- Đã
nhận ra phạm vi của đau khổ, hãy nghiên cứu nguyên nhân của nó, và xác định cội
nguồn của đau khổ là si mê về bản chất chân thật của con người và mọi vật, và rằng
tham muốn, thù hận, và v.v… căn cứ trên sự si mê này. Hãy nhận ra rằng đau khổ
có thể loại trừ được, có thể triệt tiêu được trong không gian của thực tại. Hãy
quán chiếu rằng sự chấm dứt chân thật (diệt đế) đạt được qua sự thực hành đạo đức,
thiền định, và tuệ trí – những con đường chân thật (đạo đế).
8- Hãy
chú ý rằng những sự dính mắc của chúng ta về thực phẩm, áo quần, và nơi cư trú,
và hãy thích ứng với những thực tập của tu sĩ về toại nguyện cho đời sống của một
cư sĩ. Hãy hài lòng với thực phẩm, áo quần, và chỗ cư trú tương xứng. Hãy sử dụng
những thời gian rỗi rảnh cho thiền tập vì thế chúng ta có thể vượt thắng nhiều
vấn nạn khác nữa.
9- Hãy
phát triển một nguyện ước mạnh mẽ để tránh làm tổn hại người khác, cho dù là bằng
hành động hay lời nói, bất chấp chúng ta bị hổ thẹn, bị xúc phạm, bị mắng chưởi,
hay bị đánh.
Đạo Đức
Quan Tâm Đến Người Khác
Tiến hành quán tưởng năm bước cho việc phát triển từ bi:
1- Hãy
duy trì điềm tĩnh và có lý trí.
2- Trước
mặt ta bên phải, hãy tưởng tượng một phiên bản khác của chính ta, tự cao và vị
kỷ.
3- Trước
mặt ta bên trái, hãy tưởng tượng một nhóm người nghèo khó, đau khổ, những người
không thân thuộc với ta, cũng không phải là bạn bè hay kẻ thù.
4- Hãy
quán chiếu hai phía này từ quan điểm thuận lợi và điềm tĩnh. Bây giờ hãy nghĩ,
“Cả hai đều muốn hạnh phúc. Cả hai đều muốn thoát khỏi khổ đau. Cả hai đều có
quyền để hoàn thành những mục tiêu này.”
5- Hãy
xem xét điều này: Giống như thường lệ chúng ta sẳn sàng để thực hiện những điều
hài lòng tạm thời cho một điều tốt đẹp lâu dài, cho nên lợi lạc của nhiều người
đau khổ bên trái ta thì quan trọng hơn nhiều so với một người vị kỷ đơn lẻ bên
phải ta. Hãy chú ý tâm thức ta tự nhiên quay về phía số lượng lớn hơn những con
người.
Hãy thực hiện nghi thức cho sự ngưỡng mộ Giác Ngộ. Trước
tiên thi hành bảy bước chuẩn bị sơ bộ:
1- Tôn
kính: Hãy tưởng tượng Đức Phật Thích Ca được vây quanh bởi vô số Bồ
tát, đầy trên bầu trời trước mặt ta.
2- Hãy cúng
dường tất cả những thứ tuyệt vời – cho dù chúng ta có sở chúng hay
không – kể cả thân thể, tài sản, và đạo đức của chính ta, đến chư Phật và chư Bồ
tát.
3- Hãy bày
tỏ vô số hành vi lỗi lầm cua thân thể, lời nói, và tâm ý mà ta đã gây
ra với một mục tiêu làm tổn hại người khác. Hãy sám hối vì đã làm những thứ ấy,
và có ý muốn kiêng tránh khỏi chúng trong tương lai.
4- Hãy ngưỡng
mộ từ trong chiều sâu của trái tim đạo đức của chính ta và của những
người khác. Tỏ lòng hoan hỉ trong những việc làm tốt lành mà ta đã thực hiện
trong kiếp này và những kiếp trước, hãy nghĩ, “Tôi thật sự đã làm điều gì đó tốt đẹp.” Hãy hoan hỉ trong đạo đức
của những kẻ khác, kể cả của chư Phật và chư Bồ tát.
5- Hãy
thỉnh cầu chư Phật những bậc đã Giác Ngộ tròn vẹn nhưng chưa dấn thân
trong việc giảng dạy giáo lý tâm linh, làm như thế nhân danh của tất cả chúng
sanh đau khổ.
6- Hãy cầu
xin chư Phật không nhập niết bàn.
7- Hãy hồi
hướng sáu sự thực hành này để thành tựu Giác Ngộ vô thượng.
Sau đó bắt đầu thực hiện phần trung tâm của nghi thức ngưỡng
mộ Giác Ngộ:
1- Với
một quyết định mạnh mẽ để đạt được Quả Phật nhằm để phục vụ những chúng sanh
khác, hãy tưởng tượng một Đức Phật trước mặt ta, hay vị thầy tâm linh của ta
như đại diện cho Đức Phật.
2- Hãy
trì tụng ba lần giống như ta đang lập lại sau vị ấy:
Cho đến khi tôi đạt được Giác Ngộ, tôi tìm quy y trong Đức Phật, giáo
lý, và cộng đồng tâm linh cao thượng.
Qua sự tích lũy của phước đức của bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định, và tuệ trí, nguyện cho tôi thành tựu Quả Phật để phụng sự tất cả
chúng sanh.
Để duy trì và tăng cường lòng vị tha sâu xa này trong kiếp
sống này hãy thực hiện những điều sau:
1- Hãy
nhắc lại luôn luôn những lợi lạc của việc phát triển một mục tiêu để trở thành
Giác Ngộ vì lợi ích của những kẻ khác.
2- Phân
chia một ngày thành ba thời và đêm thành ba thời, và trong mỗi thời dành một ít
thời gian hay thức dậy từ giấc ngủ và thực tập năm bước quán tưởng đã nói trước
đây. Cũng đầy đủ để quán tưởng năm bước ba lần trong một buổi tu tập vào sáng sớm
khoảng mười lăm phút, và ba lần trong buổi tối khoảng mười lăm phút.
3- Tránh
sự quên lãng tinh thần lợi ích của ngay cả một chúng sanh.
4- Tối
đa như có thể, hãy dấn thân trong những hành vi đạo đức với một thái độ thiện
lương, và phát triển một sự hiểu biết sơ bộ về bản chất của thực tại, hay duy
trì một nguyện ước để làm như thế và hành động với nó.
Để duy trì và tăng cường lòng vị tha thậm thâm này trong
những kiếp sống tương lai:
1- Hoàn
toàn không nói dối với bất cứ ai, ngoại trừ ta có thể giúp đở người khác một
cách lớn lao qua việc nói dối.
2- Hãy
trực tiếp hay gián tiếp giúp đở người khác để tiến tời Giác Ngộ.
3- Hãy
đối xử với tất cả mọi người với sự tôn trọng.
4- Không
bao giờ lừa dối với bất cứ người nào, và luôn luôn trung thực.
Trong thâm tâm, hãy nghĩ đi nghĩ lại, “Nguyện cho tôi trở
thành có thể giúp đở tất cả chúng sanh.”
Thiền
Tập Trung
1- Hãy
chọn một đối tượng của thiền tập và tập trung tâm ý ta vào nó, và cố gắng đạt
được và duy trì sự ổn định, trong sáng, và cường độ. Tránh sự giải đải và trạo
cử.
2- Thay
phiên, xác định thể trạng nền tảng của tâm không bị tì vết bởi tư tưởng, giống
như trong trạng thái của chính nó – chỉ thuần sáng suốt, bản chất hiểu biết của
tâm. Với chánh niệm và nội quán duy trì trong thể trạng ấy. Nếu một tư tưởng
sinh khởi, chỉ hãy nhìn vào chính bản chất của tư tưởng ấy; điều này làm nó bị
mất sức mạnh và tan biến tương ứng với nó.
Tuệ
Trí
Như một thực hành của việc xác định các đối tượng và
chúng sanh xuất hiện một cách sai lầm trong nhận thức như thế nào, hãy cố gắng
theo sau:
1- Hãy
quán sát một vật chẳng hạn như một chiếc đồng hồ đeo tay xuất hiện trong cửa
hàng như thế nào khi ta lần đầu thấy nó, sau đó hiện tướng của nó thay đổi thế
nào và trở thành cụ thể hơn thế nào khi sự thích thú của ta lớn mạnh, và cuối
cùng nó xuất hiện thế nào khi ta đã mua nó và xem nó như của ta.
2- Hãy
chú ý trong những thời điểm khác nhau vấn đề tự ta xuất hiện trong tâm ta như
thế nào giống như nó tồn tại trong và tự ta, không lệ thuộc vào tâm thức và
thân thể.
3- Sau
đó, thường xuyên quán chiếu vấn đề các hiện tượng sinh khởi trong sự lệ thuộc với
những nguyên nhân và điều kiện như thế nào, và quán sát vấn đề điều này mâu thuẩn
với cách mà con người và sự vật xuất hiện và tồn tại trong chính bản chất của
chúng như thế nào, để tồn tại một cách cố hữu. Nếu ta xoay về hướng chủ nghĩa
hư vô, hãy quán chiếu hơn về sự lệ thuộc duyên khởi. Nếu, bằng việc tập trung
trên các nguyên nhân và điều kiện, ta có xu hướng tái củng cố sự tồn tại cố hữu
của các hiện tượng, thì hãy đặt hơn sự nhấn mạnh về vấn đề sự lệ thuộc mâu thuẩn
với hiện tướng quá cụ thể này như thế nào. Chúng ta chắc chắn sẽ được kéo ra khỏi
việc bám víu vào một bên; con đường trung đạo cần thời gian để thấy.
Cũng thế:
1- Hãy
xác định bản chất sáng suốt và hiểu biết của tâm, không bị che mờ bởi các tư tưởng
và không có bất cứ khái niệm nào che phủ.
2- Hãy
thẩm tra bản chất sâu thẩm của tâm lập đi lập lại để khơi mở việc vắng bóng sự tồn
tại cố hữu của nó, tánh không của nó. Hãy quán chiếu trên sự lệ thuộc của tâm thức
vào các nguyên nhân, điều kiện, và những thành phần của nó. Đối với tâm, bất cứ
chiều dài nào của thời gian đối với tâm – cho dù là một phút hay một sát na ngắn
ngủi nhất – lệ thuộc vào những thành phần trước đó và sau đó của thời khắc đó.
3- Hãy
cố gắng để nhận ra khả năng tương thích của tâm với tánh không của nó của sự tồn
tại cố hữu; hãy thấy sự hổ trợ hổ tương của hai thứ này với nhau như thế nào.
Mật Tông
Vì sự thực hành Mật tông chính yếu là để chuyển hóa vấn đề
ta thấy tự ta, những người khác, và môi trường như thế nào, cho nên nó có thể rất
lợi ích để quán tưởng chính ta như có một động cơ từ bi, thân thể tinh khiết, và
những hành vi làm lợi ích cho những người khác.
*
Mặc dù kiến thức của tôi là giới hạn và kinh nghiệm của tôi
là rất nghèo nàn, nhưng tôi đã cố gắng tối đa để giúp các bạn thấu hiểu toàn bộ
chiều rộng giáo huấn của Đức Phật. Xin hãy triển khai thực hiện bất cứ điều gì trong
những trang này xuất hiện cho có lợi ích. Nếu bạn theo những tôn giáo khác, xin
hãy đón nhận bất cứ điều gì có thể hổ trợ bạn. Nếu bạn không nghĩ nó có lợi ích
gì, thì hãy cứ quên đi.
*
Ẩn Tâm Lộ, Thursday, May 9, 2019
[1]
Noãn, đảnh, nhẫn, thế đệ nhất.
[2]
Tri thức tập nhiễm: Tân huân chủng tử
[3]
Tri thức bẩm sinh: Bản hữu chủng tử - câu sanh chủng tử
[4]
Phiền não chướng
[5] Sở
tri chướng
[6]
Báo thân
[7]
Hóa thân
[8]
Maitreya’s Ornament for Clear Realization
[9]
Three phases of the moon
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét