Nguyên bản: Mind
and the Deep Nature of Mind
Tác giả: Đức Đạt
Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey
Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
*
Trong một kinh về tuệ trí hoàn thiện (bát nhã), Đức Phật
đã đưa ra tuyên bố thậm thâm như sau:
Trong tâm, tâm không tìm thấy được, bản chất của tâm là linh quang.
Để thấu hiểu những trình độ ý nghĩa của trong tuyên bố
này, chúng ta phải xác định tâm là gì, hãy phản tích bản chất sâu xa của nó, và
khảo sát vấn đề những ảnh hưởng tốt và xấu của nó xảy ra như thế nào? Chúng ta
hãy thẩm tra những thành phần khác nhau của tuyên bố này.
1- Cụm
từ “trong tâm” được quan tâm với tâm là gì – bản chất rực sáng và hiểu biết của
nó. Trong chương Bảy, về thiền tập trung, chúng ta đã nói về bản chất rực sáng
và hiểu biết của tâm và vấn đề, mặc dù nó tồn tại khắp mỗi thời khắc của tâm,
nhưng nhất thiết phải đặt một bên những tư tưởng trước đó và không bắt đầu những
thứ mới nhằm để xác định nó.
2- Khi
Đức Phật nói “tâm không thể tìm thấy,” điều này biểu thị rằng bản chất rực sáng
và hiểu biết không phải là tính chất sâu xa nhất và cuối cùng của tâm. Đúng
hơn, bản chất tận cùng của tâm là “linh quang”, tánh không của sự tồn tại cố hữu
của nó.
Chúng ta có thể nghĩ là Đức Phật đang nói rằng tâm không
tồn tại, nhưng không phải như vậy. Tôi, như người giải thích, đang giải thích
tuyên bố này qua những việc làm của chính tâm thức tôi, và bạn, những người đọc,
đang đọc bằng những việc làm của tâm thức bạn. Chúng ta luôn luôn đang sử dụng
tâm thức, và nó luôn luôn bên cạnh chúng ta, nhưng chúng ta không biết nó nhiều.
Vì vậy, mặc dù thật khó để nhận ra tâm, nhưng nó tồn tại và đang được phân tích
về phần bản chất sâu thẩm của chính nó.
Rõ ràng là tâm tồn tại, nhưng vì nó không được thiết lập
như bản chất rốt cùng và xu hướng căn bản của nó, vậy thì mô hình hiện hữu của
nó là gì? Bản chất sâu xa của nó chỉ là tánh không đơn thuần của chính sự tồn tại
cố hữu của nó. Điều này có nghĩa là những phiền não làm nhiễm ô tâm thức – chẳng
hạn như sân hận, tham muốn và thù oán – là tạm thời, và do vậy có thể tách rời
khỏi tâm. Một khi những phiền não này được thấu hiểu là cạn cợt và không ở
trong bản chất cốt lõi của tâm, thì chúng ta sẽ thấy rằng bản chất sâu thẩm của
tâm là linh quang, tánh không.
PHIỀN NÃO LÀ NÔNG CẠN, BẢN CHẤT CỦA TÂM LÀ LINH QUANG
Kinh điển Phật giáo giải thích những cách khác nhau về
tuyên bố, “Phiền não là nông cạn, bản chất của tâm là linh quang.” Tuy thế, đây
không phải là một vấn đề mà lời của Đức Phật nói về điều gì đó mơ hồ để ai muốn
diễn dịch thế nào cũng được. Đúng hơn, nó có nhiều ý nghĩa rõ ràng và ẩn tàng.
Trong Tantra Yoga Tối Thượng có nhiều cách để rút ra ý nghĩa của một tuyên bố
khó hiểu. Chúng ta có thể giải thích nghĩa đen của nó, ý nghĩa tổng quát của
nó, ý nghĩa ẩn tàng của nó, và ý nghĩa tối hậu của nó.
Để làm minh bạch lời tuyên bố của Đức Phật, “Phiền não là
nông cạn, bản chất của tâm là linh quang,” trong việc phối hợp với mật thừa
Tantra, tôi sẽ trích dẫn Danh Sách Huyền
Thuật Mật Tông[1]
vốn có một đoạn trong Trì Tụng Những Danh
Tự Của Văn Thù Sư Lợi Mật Tông[2]:
Những Đức Phật hoàn thiện sinh khởi từ A.
A là tuyệt đỉnh của những mẫu tự.
Từ trong bốn ý nghĩa được liệt kê ở trên, tôi sẽ cho một
sự giải thích tổng quát về tuyên bố này. Mẫu tự A là một từ phủ định[3]
trong Sanskrit. Nó biểu thị tánh không, vốn là sự vắng mặt, hay phủ định, của sự
tồn tại cố hữu. Khi Danh Sách Huyền Thuật
Mật Tông nói rằng “Những Đức Phật hoàn thiện sinh khởi từ A”, điều này có
nghĩa rằng hiện ra từ trong không gian tự thể[4] của
tánh không; hay; đặt vào một cách khác, chư Phật hiện ra từ thiền na tánh không
của sự tồn tại cố hữu. Qua việc hành thiền, các phiền não được tiêu trừ trong
không gian tự thể của thực tại (tánh không của sự tồn tại cố hữu). Tánh không,
biểu tượng bằng A, là chủ đề tối thượng và do thế Danh Sách Huyền Thuật Mật Tông nói, “A là tuyệt đỉnh của những mẫu
tự.”
Cũng thế, từ quan điểm của Tantra Yoga Tối Thượng, mẫu tự
A liên hệ hạt không thể phá hoại trong
thân Phật thành tựu. Trong Tantra Yoga Tối Thượng, Quả Phật sinh khởi bởi tập
trung nhất tâm trên hạt không thể phá hoại tại trung tâm của tim. Thân tối hậu
của một Đức Phật có bản chất của hạt không thể phá hoại. Điều này bổ sung cho sự
thấu hiểu của chúng ta về tuyên bố rằng chư Phật hoàn thiện sinh khởi từ mẫu tự
A.
Hạt không thế phá
hoại[5] là
gì? Nó là sự phối hợp của gió rất vi tế
và tâm rất vi tế. Tâm biết những đối tượng, trái lại gió, hay năng lượng nội tại,
làm thức liên kết các đối tượng. Vì
đây là trường hợp, với một phối hợp của gió và tâm cho nên có những sự thay đổi
trong thức.
TÂM VÔ THỈ
Thức là phi vật
chất. Nó không màu sắc hay hình thể hay phẩm chất chướng ngại những thứ vật chất.
Thực thể của nó chỉ là rực sáng và tri giác, và khi nó gặp gở những điều kiện
nào đó (chẳng hạn như khi một đối tượng hiện diện và một năng lực cảm giác đang
thể hiện một cách thích đáng), nó phản chiếu đối tượng đó. Rằng tâm thay đổi từng thời khắc, và xuất hiện
trong những khía cạnh khác nhau, cho thấy rằng tâm hoạt động dưới ảnh hưởng khác của các nguyên nhân và điều kiện.
Một tâm sinh khởi trong sự lệ thuộc trên một
tâm trước của một loại tương tự, vốn
đòi hỏi rằng có một sự tương tự không có bắt đầu trước của tâm. Nếu sự sản sinh
một tâm không cần lệ thuộc trên những
thời khắc trước của tâm nhưng có thể đúng
là được sản sinh một cách không có nguyên nhân, thế thì một tâm có thể được sản sinh bất cứ nơi đâu
và bất cứ lúc nào, điều đó là vô lý. Tương tự thế, nếu thức không được sản sinh như một sự tương tục của một thực thể thức trước và thay vì thế được sản sinh
từ điều gì đó vật chất, hoặc là nó luôn luôn, một cách vô lý, được sản sinh hay
nó sẽ không bao giờ được sản sinh, vốn cũng là vô lý. Điều này cho thấy rằng thức là một sự tương tục của một thực thể
thức trước.
Bởi vì thức được
căn cứ trong một thời khắc trước của thức,
thì không thể có một sự bắt đầu đối với sự tương tục của nó. Không có sự bắt đầu
của thức, và không có sự chấm dứt của
nó, vô thỉ và vô chung. Sự tương tục này làm cho có thể có một sự chuyển hóa
tâm trong những thể trạng được cải thiện. Khi sự tương tục tinh thần được phối
hợp trong những trạng thái bất tịnh, thì trải nghiệm của chúng ta bị giới hạn
trong thế giới luân hồi. Khi sự tương tục tinh thần thoát khỏi những trạng thái
bất tịnh, thì chúng ta có thể thành tựu niết bàn. Trong cách này, tất cả mọi hiện
tượng bất tịnh của luân hồi là biến dị của tâm bất tịnh, những hiện tượng thanh
tịnh của niết bàn là biến dị của tâm thanh tịnh.
NHỮNG TRẠNG THÁI SAI LẦM CỦA TÂM TÙY THUỘC TRÊN SI MÊ
Vì như được nói rằng “Trong tâm, không thể tìm thấy được tâm,
bản chất của tâm là linh quang,” những
trạng thái bất tịnh chẳng hạn như tham muốn và thù oán không phải là một bộ phận
của tâm bản nhiên và phải được sản
sinh bởi si mê – một thức hiểu sai sự
tồn tại cố hữu – hoặc là trong thời khắc hiện tại hay từ một nguồn gốc trước
đó. Tất cả những trạng thái sai lầm của tâm
có thức sai lầm như gốc rể của chúng.
Si mê là một mô hình của thức vốn sai
lầm tương ứng với đối tượng mà nó chú ý; nó sai về nó; nó không có tri giác có
căn cứ như gốc rể của nó.
Một sự tỉnh thức sai lầm và một sự tỉnh thức với một nền
tảng vững chắc có những cung cách mâu thuẩn với nhau trong việc thấy rõ các hiện tượng, cho nên thứ
này làm tổn hại thứ kia. Khi, trong sự thực hành của chúng ta, chung ta trở nên
quen thuộc với những thái độ đúng đắn, thì những trạng thái sai lầm của tâm tự
nhiên giảm thiểu cho đến cuối cùng thì chúng bị triệt tiêu.
Chính hệ thống của giáo huấn nhà Phật được căn cứ trên sự
mâu thuẩn tự nhiên. Chúng ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Đau khổ mà
chúng ta muốn tránh xuất phát chính yếu từ những thái độ tinh thần, và vì nguồn
gốc của nỗi khổ tinh thần là những cảm xúc phiền não hoặc là trực tiếp hay gián
tiếp, cho nên chúng ta phải xem xét có bất cứ năng lực nào đối kháng với chúng.
Thí dụ, nếu sân hận làm đau khổ, thế thì chúng ta phải tìm ra một năng lực đối
trị. Đối với sân hận là từ ái và bi mẫn. Mặc dù và từ ái/ bi mẫn đều là ý thức,
cho nên chúng có những cung cách lãnh hội đối kháng với cùng đối tượng. Tương tự
thế, nếu một căn phòng là quá nóng, thì không có cách nào làm giảm thiểu sức
nóng ngoài việc làm sinh ra hơi lạnh. Giống như nóng và lạnh đối lập nhau, cũng
làm như thế với những trạng thái tinh thần, thanh tịnh và bất tịnh. Đối với phạm
vi ta phát triển thứ này thì thứ kia giảm thiểu. Do vậy, chúng ta có thể loại
trừ những trạng thái sai lầm của tâm. Những sự đối trị tồn tại.
SỰ PHỐI HỢP CỦA
QUY ƯỚC VÀ CỨU KÍNH
Tâm tự nó là một chân lý quy ước (thế đế); thực tại của
tâm, tánh không sự tồn tại cố hữu của nó, là chân lý cứu kính (chân đế). Hai
chân lý này được chứa đựng trong một thực thể không thể tách rời. Giống như có
một hợp thể của hai chân lý, quy ước và cứu kính, với sự tương ứng với tâm, cho
nên có một hợp thể của hai chân lý với sự tương ứng với mỗi thứ và mỗi đối tượng.
Hiện tướng của nó là chân lý quy ước, và tánh không sự tồn tại cố hữu của nó là
chân lý cứu kính.
Thực tại cuối cùng được biết qua lý luận của duyên sanh.
Thí dụ, vì tâm là một thực thể duyên sanh; cho nên tâm là trống rỗng sự tồn tại
cố hữu. Khi chúng ta thấu hiểu tánh không qua lý luận duyên sanh, thì chúng ta
nhận ra rằng tất cả mọi hiện tượng là những hợp thể duyên sanh và tánh không;
hiện tướng và tánh không được nhận thức như hòa hiệp.
Những hiện tướng duyên khởi của các hiện tượng quy ước
cung ứng một phạm trù cho giáo huấn từ bi – được gọi là “con đường rộng lớn,”
khi có những hiện tướng vô cùng đa dạng. Tánh không của sự tồn tại cố hữu của
các hiện tướng cung ứng căn bản cho giáo lý được biết như “con đường thâm sâu”,
vì tánh không được biết như bản chất cứu kính của các hiện tượng – hòa bình,
thoát khỏi những khái niệm, và của một vị. Qua hành thiền trau dồi hai con đường
này – khía cạnh rộng lớn của từ bi và tuệ trí thâm sâu của tánh không – trong một
cung cách không thể tách rời, những trạng thái sai lầm của tâm trong sự tương tục
của chúng ta trải qua sự chuyển hóa dần dần. Chúng dần dần được tiêu trừ, và những
cống hiến tuyệt vời của một tâm thức và thân thể của một Đức Phật hiện ra.
Quả Phật được thành tựu qua sự trau dồi phối hợp của cả động
cơ và tuệ trí. Tuy nhiên, động cơ và tuệ trí có những dấu ấn tương ứng của
chúng trong Quả Phật. Kết quả của việc trau dồi động cơ là Những Thân Thể Sắc Tướng[6] của
một Đức Phật, vốn tồn tại vì lợi ích cát
tường của chúng sanh. Dấu ấn của việc trau dồi tuệ trí là Thân Thể Chân Thật [7]của
một Đức Phật, vốn là hoàn thành sự phát triển của chính ta. Hình thức chính của
động cơ và tuệ trí là gì? Động cơ chính yếu là một mục tiêu chỉ đạo để trở thành
Giác Ngộ, được truyền cảm hứng bởi từ ái và bi mẫn và truyền cảm hứng cho việc
thực hiện các hành động từ bi chẳng hạn như bố thí, đạo đức, và nhẫn nhục. Mô
thức chính của tuệ trí là một thức thông minh nhận ra tánh không của sự tồn tại
cố hữu.
*
Nền tảng của Phật giáo có ba phương diện. Căn bản là hai chân
lý, quy ước và cứu kính. Từ hai chân lý này con đường [tu tập] hiện ra với nhân
tố kép của động cơ và tuệ trí, mỗi thứ liên hệ với chân lý tương ứng của nó. Quả
phẩm, hay kết quả của việc du hành trên con đường, là việc thực chứng hai thân –
Thân Sắc Tướng và Thân Chân Thật của một Đức Phật. Để mang điều này cùng với nhau
trên căn bản của hai chân lý – quy ước và cứu kính – chúng ta thực hành hai phẩm
chất của con đường – động cơ và tuệ trí – vốn đưa chúng ta thành tựu quả phẩm, Thân
Thể Sắc tướng và Chân Thật của một Đức Phật.
TOÁT YẾU THỰC HÀNH
HÀNG NGÀY
1- Hãy
xác định bản chất rực sáng và hiểu biết của tâm, không bị mây mờ bởi các tư tưởng.
2- Thăm
dò bản chất thâm sâu của tâm liên tục để khám phá việc vắng mặt của sự tồn tại cố
hữu của nó, tánh không của nó, bằng việc phản chiếu trên sự lệ thuộc của tâm vào
các nguyên nhân và điều kiện và lệ thuộc trên những thành phần – kể cả sự kiện rằng
bất cứ chiều dài nào của thời gian trải qua trong tâm lệ thuộc vào những thành phần
trước đó và sau đó của thời điểm đó.
3- Hãy
cố gắng nhận ra tính tương thích của sự xuất hiện của tâm với tánh không của sự
tồn tại cố hữu của nó; hãy thấy vấn đề hai điều hổ tương này sự hổ trợ nhau như
thế nào.
*
Ẩn Tâm Lộ, Wednesday, May 1, 2019
[1]
Magical Array Tantra
[2]
Repetition of the Names of Manjushri Tantra
[3]
Negative particle
[4]
Noumenal sphere
[5]
Indestructible drop
[6]
Báo thân và hóa thân
[7]
Pháp thân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét