Nguyên bản: Deity Yoga
Tác giả:
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch:
Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / Thursday, March 7, 2019
-*-
Trong Phật giáo có hai loại thực tập căn bản Hiển Giáo và
Mật Giáo. Cho đến giờ, chúng ta đang thảo luận về sự thực hành Hiền Giáo. Mục
tiêu đặc biệt của Mật Giáo là để cung ứng một con đường nhanh hơn vì thế những
hành giả đủ điều kiện có thể phục vụ người khác một cách nhanh chóng hơn. Trong
Mật Giáo năng lực của quán tưởng được khai thác để hành thiền trong một sự thực
hành gọi là bổn tôn du già. Trong sự thực hành này ta tưởng tượng:
1- Thay
thế tâm thức ta như nó xuất hiện một cách thông thường, đầy những cảm xúc rắc rối,
với một tâm thức tuệ trí tinh khiết được động viên bởi từ bi;
2- Thay
thế thân thể ta như thông thường nó hiện hữu (được cấu thành bởi thịt, máu, và
xương) với một thân thể được cấu thành từ bi mẫn được thúc đẩy bởi tuệ trí.
3- Phát
triển cảm nhận của một tự ngã tinh khiết vốn phụ thuộc trên tâm thứcvà thân thể
hiện hữu một cách thuần khiết trong một môi trường lý tưởng, hoàn toàn dấn thân
trong việc giúp đở người khác.
Sự thực hành đặc biệt này của Mật Tông yêu cầu quán tưởng
tự thân ta với một thân thể, hành vi, năng lực và môi trường chung quanh của một
Đức Phật, nó được gọi là “lấy sự quán tưởng làm con đường tâm linh.”
Chúng ta hãy xem xét một dự tưởng về sự thực hành này. Ta
xem tự thân ta có những phẩm chất của một Đức Phật vốn hiện tại ta chưa có. Thế
thì, đây có phải một loại tâm thức thiền quán đúng đắn không? Vâng. Tâm thức ta
được liên hệ trong một sự thấu hiểu thực tại từ việc ta đang hiện hữu như một bổn
tôn. Do thế, tâm thức ta, từ quan điểm này, là đúng đắn. Cũng thế, ta đang cố
tình tưởng tượng tự ta như có một thân thể siêu phàm ngay cả hiện tại ta chưa sở
hữu. Đây là sự hành thiền quán tưởng, chúng ta không tự tin từ thâm tâm rằng ta
thật sự có tâm thức, thân thể, và cá tính thuần khiết. Đúng hơn, căn cứ trên việc
quán tưởng trọn vẹn về thân thể và tâm
thức lý tưởng, chúng ta đang trau dồi cảm nhận hiện hữu của một bổn tôn hổ trợ
người khác một cách từ bi.
Để là một giáo thọ Mật Giáo đặc biệt – như đã nói, loại
giáo thọ mà với người ấy Đức Phật đặc biệt trình bày sự thực hành Mật Tông – một
hành giả phải có năng lực sắc bén và đã đạt đến tuệ trí vững vàng thực chứng
tánh không, hay đã sẳn sàng kích hoạt nhanh chóng tuệ trí này. Những đòi hỏi
cho chỉ việc thực hành Mật Tông là ít nghiêm nhặt hơn; tuy thế, việc dấn thân
trong Mật Giáo ở bất cứ trình độ nào cũng đòi hỏi một ý chí mạnh mẽ để đạt được
Giác Ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sanh, và một cảm nhận rằng việc này cần được
hoàn thành một cách thật nhanh chóng.
Vào lúc bắt đầu của việc thực hành Mật Tông, cách căn bản
để phát triển sự tĩnh lặng (tam muội) là hành thiền trên thân thể của chính ta
giống như nó đã là một bổn tôn. Khi chúng ta hành thiền trên một thân thể siêu
phàm, trước tiên ta hành thiền về tánh không, hãy gặt hái sự tỉnh thức tối
đa như có thể về tánh không của sự tồn tại
cố hữu. Khi chúng ta đã thích nghi với thể trạng này, thì ta sử dụng chính tự
tâm thức ấy như căn bản mà từ đó bổn tôn xuất hiện. Tâm thức, thực chứng tánh
không, xuất hiện như bổn tôn và môi trường chung quanh của vị ấy. Trước tiên ta
thiền quán về tánh không, từ đó bổn tôn xuất hiện; sau đó tập trung vào bổn
tôn.
Trong cách này, bồn tôn du già kết hợp tuệ trí và động cơ
từ bi, một tâm thức đơn độc thực chứng tánh không và xuất hiện một cách từ bi
trong hình thức của một bổn tôn vị tha. Trong hệ thống Hiển Giáo, mặc dù có một
sự phối hợp của tuệ trí và động cơ từ bi, nhưng sự thực hành tuệ trí chỉ tác động
bằng năng lực của sự thực hành động cơ, và sự thực hành động cơ chỉ tác động bằng
năng lực của sự thực hành tuệ trí; chúng không được bao hàm trong một ý thức. Một
tính năng phân biệt của Mật Giáo là chúng là như vậy. Sự bao hàm của động cơ và
tuệ trí trong một ý thức là những gì làm cho tiến trình của Mật Tông thật nhanh
chóng.
Khi tôi còn là một thiếu niên, Mật Tông chỉ là một vấn đề
của sự tin tưởng mù quáng. Vào tuổi hai mươi bốn, tôi mất quê hương và rồi thì
sau đó đến Ấn Độ thật sự bắt đầu đọc những giải thích của Tông Khách Ba về tánh
không. Rồi thì, sau khi chuyển đến Dharamsala, tôi đã dành nhiều nổ lực trong sự
học tập và thực hành những giai tầng của con đường tu tập, tánh không, và Mật
Tông. Thế nên, chỉ vào cuối những năm hai mươi tuổi của tôi sau khi đạt được một
kinh nghiệm nào đó về tánh không thì bổn tôn du già mới có lý.
Một lần nọ ở chùa chính ở Dharamsala, tôi đang tiến hành
nghi thức quán tưởng tôi như một bổn tôn của Tantra Yoga Tối Thượng, được gọi
là Phật Bí Mật Tập Hội. Tâm tư tôi liên tục duy trì trong việc trì tụng nghi thức,
và khi cụm chữ “tự chính tôi” đến, thì tôi hoàn toàn quên về tự thân thông thường
của tôi trong mối quan hệ với sự phối hợp của tâm thức và thân thể. Thay vì thế,
tôi có một cảm nhận rất rõ ràng về “tôi” trong mối quan hệ với sự kết hợp mới mẻ
thuần khiết của tâm và thân của Phật Bí Mật Tập Hội (Phật Guhyasamaja), mà tôi
đang quán tưởng. Vì đây là loại tự xác định vốn là trọng tâm của Du già Mật
tông, cho nên kinh nghiệm xác nhận với tôi rằng với đầy đủ thời gian thì tôi chắc
chắn sẽ đạt được những thể trạng sâu xa ngoại hạng đã được đề cập trong các
kinh điển.
QUÁN ĐẢNH
Để thực hành Mật Thừa, thì đặc biệt quan trọng là được
tham gia vào lễ truyền pháp gia hộ từ những bậc đại nhân trước đó. Những sự gia
hộ không có trong sự thực hành của Kinh Thừa Hiển Giáo, nhưng chúng là thiết yếu
trong Mật Tông. Phương tiện trước tiên của việc đi vào những sự gia hộ này là
qua cánh cửa quán đảnh. Có bốn lớp Mật Tông – Hoạt Động, Thực Hiện, Du Già và
Vô Thượng Du Già (Tantra Yoga Tối Thượng) – mỗi lớp với những sự quán đảnh của
nó để làm chín muồi tâm thức cho sự thực tập, và mỗi lớp Mật Tông với những sự
hành thiền của chính nó.
Chúng ta tiếp nhận sự quán đảnh ở đâu? Trong một mạn đà
la, bao hàm những môi trường lý tưởng và cư dân siêu phàm tất cả vốn là những sự
biểu hiện của từ bi và tuệ trí. Có những mạn đà la với mức độ phức tạp khác
nhau cho tất cả bốn lớp Mật Tông. Một số được vẽ. Những thứ khác được tạo thành
từ cát màu, và tuy thế những thứ khác nữa được tạo thành từ một loại mạn đà la
thiền định đặc biệt.
Để tiếp nhận sự quán đảnh và phát nguyện trong một mạn đà
la của Mật Tông Du Già hay Vô Thượng Du Già, vị lạt ma tiến hành buổi lễ phải
có những phẩm chất hoàn hảo. Tất cả bốn bộ Mật Tông nhấn mạnh đặc biệt vào đức tính
của vị lạt ma, trong việc giữ gìn những sự diễn tả chi tiết của Đức Phật cho những
giai tầng khác nhau của con đường tu tập. Cũng hãy nhớ lời Đức Phật dạy bảo rằng
không chỉ nương tựa vào người ấy mà cũng phải nương tựa vào giáo lý (y pháp bất
y nhân). Ta không nên bị choáng ngợp bởi danh tiếng của một vị thầy. Điều quan
trọng nhất là, vị thầy phải biết giáo lý, những thực hành, trọn vẹn.
CAM KẾT VÀ THỆ
NGUYỆN
Trong hai bộ Mật Tông thấp – Hành Động và Thực Hiện –
không có sự chỉ bảo rõ ràng rằng những thệ nguyện Mật Tông phải được tiếp nhận
cho lễ quán đảnh; tuy thế, có nhiều sự cam kết phải được giữ. Trong hai bộ Mật
Tông cao – Du Già và Vô Thượng Du Già – sau khi nhận lễ quán đảnh với tất cả những
khía cạnh của nó, ta phải tiếp nhận những thệ nguyện Mật Tông ngoài những cam kết.
Mật Tông Du Già và Vô Thượng Du Già có mười bốn (14) giới nguyện căn bản cũng
như danh sách của những vi phạm để bảo vệ chống lại, nhưng như chúng khác nhau
trong những con đường tu tập tương ứng, thậm chí những giới nguyện căn bản cũng
hơi khác nhau. Vì sự thực hành Mật Tông quan tâm chính yếu với việc vượt thắng hiện
tướng của chính ta và môi trường của ta khi bình thường (nhằm để khắc phục nhận
thức những thứ này như bình thường), cho nên ta quán tưởng tự ta có một thân thể,
các hành vi từ bi, tiềm lực, và nơi ở của một Đức Phật. Do vậy, hầu hết các sự
cam kết quan tâm đến việc thay thế lý tưởng cho những hiện tướng thông thường,
và kiềm chế sự đánh giá của chính ta về ta, những bạn đồng hành của ta, môi trường
của ta, và những hành vi của ta như thông thường.
Loại thứ nhất được mệnh danh là đạo đức giải thoát cá
nhân, sau đó là đạo đức Bồ tát, và cuối cùng là đạo đức Mật thừa. Những người
thọ giới Bồ tát và Mật tông giữ lối giải thích của riêng họ về giới giải thoát
cá nhân. Mật pháp Thời Luân, vốn rộ nở vào thế kỷ 11 ở Ấn Độ và đã trở thành
Kim Cương tông chính yếu của những trường phái Tân dịch ở Tây Tạng, tuyên bố rằng
nếu có ba vị thầy Mật tông, một với giới giải thoát cá nhân, một với giới sa
di, và người thứ ba với đại giới cụ túc, thì người thọ giới cụ túc nên được xem
là cao hơn những người kia. Điều này cho thấy rằng sự kính mến cao mà ngay cả
trong hệ thống Mật thừa cũng đặt vào đạo đức xuất gia. Mật điển Bí Mật Tập Hội
nói rằng bề ngoài ta nên giữ những khuôn phép của sự thực hành giải thoát cá
nhân, và bên trong hãy duy trì một mối thân thuộc cho sự thực hành Mật Tông.
Trong những cách này sự thực hành của Hiển Giáo và Mật Giáo hoạt động chung với
nhau.
PHƯƠNG TIỆN CỦA MẬT
TÔNG TRONG CON ĐƯỜNG TU TẬP
Chúng ta hãy xem vai của tình dục trong con đường tu tập
của Mật tong bằng cách nhìn vào cấm đoán tà dâm trong đạo đức giải thoát cá
nhân, vốn hoàn toàn căn cứ trên nguyên tắc của việc tránh làm tổn hại. Tà dâm
được chi tiết hóa trong A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận của Thế Thân. Đối với một người
nam không được có quan hệ với vợ người khác, hay với người vị thành niên. Đối với
người nữ cũng vậy; cũng không được quan hệ với chồng người khác, hay người vị
thành niên. Một số người cho rằng, thực tức cười, vì tác phẩm của Thế Thân giải
thích mười điều bất thiện từ quan điểm của nam giới, cho nên nếu người nữ làm
mười điều bất thiện thì không sao – và vì vậy không có việc cấm đoán đối với
người nữ.
Đối với những Phật tử, việc giao hợp có thể được sử dụng
trong con đường tâm linh vì nó tạo ra một sự tập trung mạnh mẽ của tâm thức nếu
hành giả đã có lòng từ bi và trí tuệ vững vàng. Nếu mục tiêu của nó là để biểu
hiện và kéo dài những trình độ sâu sắc hơn của tâm (được diễn tả trước đây với
tương ứng của tiến trình lâm chung), nhằm để đặt năng lực của họ để sử dụng
trong việc làm mạnh mẽ sự thực chứng tánh không. Trái lại, chỉ giao hợp đơn thuần
thì không có tác dụng vì với con đường tâm linh. Khi một hành giả đã đạt được
trình độ cao cấp của thực hành trong động cơ và trí tuệ, thế thì ngay cả khi
giao hợp, không làm xao lãng với việc duy trì thái độ thuần khiết của người ấy.
Các hành giả du già đã đạt được trình độ cao trên con đường tu tập và đầy đủ phẩm
chất thì có thể dấn thân trong hành vi như vậy, và một tu sĩ với năng lực này
có thể duy trì toàn bộ giới nguyện.
Một hành giả du già Tây Tạng tinh tường, khi bị người
khác bình phẩm nói rằng ông đã ăn thịt và uống bia khi dâng cúng đến bổn tôn mạn
đà la. Những hành giả Mật tong như vậy quán tưởng họ như những bổn tôn trong một
mạn đà la hoàn chỉnh, trong sự quán tưởng rằng bổn tôn tối thượng là đại lạc tối
thượng – sự phối hợp của đại lạc và tánh không. Người ấy cũng nói rằng sự thực
hành tình dục với một phối ngẫu cam kết vì lợi ích của việc phát triển một tri
thức chân thật. Và rằng việc làm ấy là mục tiêu. Một hành giả như vậy có thể
làm cho việc sử dụng tâm linh không chỉ thực phẩm và thức uống thơm ngon, mà
ngay cả phân và nước tiểu. Một thiền giả du già chuyển hóa những thứ này thành
thực phẩm của thần thánh thật sự. Tuy thế, đối với những người như chúng ta, thì
việc này ngoài tầm tay. Cho đến khi nào chúng ta không thể chuyển hóa phân và
nước tiểu, thì những thứ khác không nên làm!
Đức Phật đã đưa ra một chuỗi những giai tầng của con đường
một cách chính xác vì lý do này. Giai đoạn sơ bộ là tu tập trong những giới
nguyện của giải thoát cá nhân. Nếu chúng ta sống như một tu sĩ nam hay nữ, thì
đức hạnh của ta phải căn bản hơn – hơi nguy hiểm nếu quá đáng. Ngay cả nếu ta
không hoàn toàn thi hành những giới nguyện như vậy, thì cũng không có gì tai hại
nhiều. Rồi thì cứ thực hành, thực hành, thực hành. Một khi chúng ta đã phát triển
được sức mạnh nội tại, ta có thể kiểm soát bốn yếu tố nội tại – đất, nước, lửa,
gió ( hay năm đại nếu thêm của không đại). Một khi ta có thể hoàn toàn kiểm
soát bốn yếu tố nội tại, thế thì ta có thể kiểm soát năm yếu tố bên ngoài. Sau
đó ta có thể sử dụng bất cứ thứ gì.
Việc giao hợp giúp gì trong con đường tu tập? Có nhiều
trình độ khác nhau của tâm thức. Khả năng của những trình độ thô rất hạn chế,
nhưng những trình độ sâu xa vi tế là mạnh mẽ hơn nhiều. Chúng ta cần thâm nhập
những trình độ vi tế hơn của tâm thức. Nhưng nhằm để làm được như vậy, chúng ta
cần làm yếu đi và tạm thời dừng lại tâm thức thô. Để làm điều này thì cần thiết
phải mang đến một sự thay đổi sâu sắc trong dòng chảy của những năng lượng nội
tại. Mặc dù những hình thái của những trình độ tâm thức sâu sắc hơn xảy ra
trong khi nhảy mũi và ngáp, nhưng rõ ràng là chúng không thể kéo dài. Cũng thế,
kinh nghiệm trước đây với việc biểu hiện những trình độ sâu sắc hơn đòi hỏi việc
sử dụng việc xảy ra của chúng trong giấc ngủ sâu. Đây là nơi mà chúng xảy ra.
Qua những kỷ năng đặc biệt của việc thiền định trong giấc ngủ, các hành giả
thành thạo có thể kéo dài những thể trạng
vi tế và đầy năng lực và đặt chúng vào việc sử dụng để thực chứng tánh không.
Tuy nhiên, nếu là những người thong thường thì không có tác dụng gì.
Một Đức Phật không cần sự giao hợp. Các bổn tôn trong một
mạn đà la thì thường trong sự kết hợp với một phối ngẫu, nhưng điều này không
phải nói rằng chư Phật phải cần đến sự giao hợp cho đại lạc của các ngài. Chư
Phật đã có đầy đủ đại lạc trong chính các ngài. Chư bổn tôn trong sự kết hợp tự
nhiên xuất hiện trong mạn đà la vì lợi ích của chúng sanh với những năng lực sắc
bén có thể sử dụng phối ngẫu với đại lạc của việc kết hợp trong việc thực hành con
đường nhanh chóng của Mật tong. Trong cùng cách rất giống như vậy, Đức Phật Mật
tông Kim Cương Trì xuất hiện trong những
khía cạnh hòa bình và những khía cạnh hung tợn, nhưng đó không có nghĩa là Đức
Phật Kim Cương Trì có hai khía cạnh này
với tính chất của ngài là luôn luôn hoàn toàn từ bi. Đúng hơn, sự xuất hiện tự
nhiên trong những cung cách khác nhau là vì lợi ích của những hành giả tu tập.
Đức Phật Kim Cương Trì xuất hiện đúng trong một cung cách mà hành giả nên thiền
quán khi sử dụng những cảm xúc phiền não, chẳng hạn như tham dục hay thù hận
trong tiến trình của con đường tu tập. Để nắm lấy những cảm xúc mạnh mẽ như vậy
trong con đường tâm linh thì hành giả không thể tưởng tượng rằng họ có một thân
thể hòa bình của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Bổn tôn du già đòi hỏi. Vì trong
trường hợp của thù hận, thí dụ thế, thì cần phải thiền quán trên thân thể của
chính mình trong một hình thức hung dữ. Đức Phật Kim Cương Trì xuất hiện một
cách tự động trong một hình thức hung tợn tương ứng để chỉ cho hành giả thiền
quán như thế nào. Cũng giống như thế với du già tình dục; các hành giả, những
người có thể sử dụng đại lạc phát sinh trong tình cảm liên hệ trong khi nhìn chằm
chằm, mĩm cười, nắm tay nhau, hay phối hợp phải biểu hiện với bổn tôn du già
tương ứng, họ không thể tưởng tượng chính họ như Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, một
tu sĩ. Mục tiêu của những hiện tướng khác nhau của Đức Phật Kim Cương Trì không
phải làm cho hành giả sợ hãi cũng không phải kích thích tham muốn trong họ,
nhưng để chỉ họ thiền quán như thế nào trong những hình thể ấy nhằm để cuối
cùng họ chiến thắng những cảm xúc phiền não.
Một Đức Phật có thể xuất hiện một cách tự nhiên mà không
cần sự cố gắng trong bất cứ cách nào là thích hợp. hình thể của những hiện tướng
này được hình thành qua nhu cầu của những người khác, không phải vì lợi ích của
Đức Phật ấy. Từ quan điểm của Phật đà, thì Đức Phật ấy có chân thân tự đầy đủ
(Pháp thân), mà các ngài tồn tại mãi mãi.
Hãy nhớ rằng đạo đức Mật tông được xây dựng trên đạo đức
của giải thoát cá nhân và trên đạo đức của từ bi. Mục tiêu của Mật tông là để đạt
được Quả Phật trên một con đường nhanh hơn nhằm để phục vụ những người khác mau
lẹ hơn.
TOÁT YẾU THỰC HÀNH
Vì sự thực hành Mật tông chính yếu là chuyển hóa vấn đề
chúng ta thấy tự thân ta, người khác, môi trường, và các hành vi của ta như thế
nào, cho nên có thể hữu ích để quán tưởng tự thân như có một động cơ từ bi, một
thân thể và đức hạnh tinh khiết, làm lợi ích cho những người khác.
-*-
Ẩn Tâm Lộ, Thursday, March 21, 2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét