Nguyên bản:
Practicing Caml Abiding
Tác giả:
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Biên tập: Rajiv Mehrotra
Việt dịch: Quảng Cơ
Hiệu đính: Tuệ Uyển
***
“Trước tiên, cần đạt được định an trụ. Định an
trụ là tâm đã chế ngự được sự xao lãng bởi các đối tượng bên ngoài, và tự
nhiên, liên tục hướng về đối tượng thiền tập với sự hỷ lạc và nhu hoạt.”
Sau khi hoàn thành đúng đắn các thực hành chuẩn
bị, bạn nên bước vào thiền tập thật sự, bao gồm định an trụ và tuệ giác đặc
biệt. Định an trụ là gì? Đó là trạng thái tâm tự nhiên chú tâm vào đối tượng
thiền tập nhờ việc làm lắng dịu sự xao lãng bởi các đối tượng bên ngoài.
Ngoài ra, nó dần dần loại bỏ các khuyết điểm của
thân và tâm nhờ thoát khỏi sự trì trệ và kích động của tâm. "Với hỷ lạc và
nhu hoạt" ám chỉ những phẩm chất thể chất và tinh thần mà một thiền sinh
phát triển. Trong quá trình thiền tập, sự nhu hoạt của tâm được phát triển
trước tiên và tiếp theo là sự nhu hoạt của thân thể. Điều thú vị là, sự hỷ lạc
của thân thể được tạo ra sau đó, tiếp theo là sự hỷ lạc của tâm. Khi tâm hợp
nhất với hỷ lạc, nó được gọi là thiền định tĩnh lặng hay định an trụ. Tuệ giác
đặc biệt là gì?
“Thứ mà quán sát chân như một cách đúng đắn từ
trong trạng thái tĩnh lặng của định an trụ là tuệ giác đặc biệt. Kinh Bảo Vân
nói: "Thiền định an trụ là sự tập trung tâm trí vào một điểm duy nhất; Tuệ
giác đặc biệt tạo ra sự phân tích cụ thể về chân lý tối hậu."
Sau khi phát triển khả năng tham gia thiền định
an trụ, thiền giả không đặt tâm trí nhất niệm vào đối tượng, mà bắt đầu quán
sát nó. Đối tượng thiền tập ở đây chủ yếu là chân lý tối hậu, nhưng những hiện
tượng quy ước không bao gồm. Sự tập trung
tạo ra hạnh phúc thân thể và tinh thần bằng năng
lực của việc phân tích đối tượng là tuệ giác đặc biệt. Sau đó, một sự hợp nhất
của định an trụ và tuệ giác đặc biệt được đạt đến.
Định an trụ và tuệ giác đặc biệt không được khu
biệt theo đối tượng tập trung của chúng. Cả hai đều có thể lấy chân lý quy ước
và chân lý tối hậu làm đối tượng. Có thiền định an trụ tập trung vào chân lý
tối hậu, và có tuệ giác đặc biệt thiền tập về chân lý quy ước. Ví dụ, có thiền
định an trụ trong đó tâm được đặt nhất niệm vào tính không. Tuệ giác đặc biệt
cũng thiền tập về các hiện tượng thông thường, chẳng hạn như các khía cạnh vi
tế và thô thiển hơn của con đường thiền tập.
Nhìn chung, sự khác biệt giữa hai loại thiền này
là thiền định an trụ là thiền tập trung và tuệ giác đặc biệt, một sự phân tích.
Hoàn Thiện Thừa và ba lớp tantra đầu tiên đều có chung khái niệm này. Theo
tantra cao nhất, tuệ giác đặc biệt là thiền định tập trung. Đây là một phương
thức thấu hiểu độc đáo, trong đó tuệ giác đặc biệt hoạt động trọn vẹn như thiền
định tập trung. Mặt khác, Đại Thủ Ấn thuộc truyền thống Kagyu và Đại Thành Tựu,
hay Dzogchen, thuộc truyền thống Nyingma, chỉ đề cập đến thiền phân tích. Cũng
vậy, từ Kinh Giải Thoát Tư Tưởng:
“Đức Di Lặc hỏi: "Thưa Đức Phật, làm thế
nào [mọi người] nên tìm kiếm thiền định an trụ và đạt được sự tinh thông về tuệ
giác đặc biệt?" Đức Phật trả lời: "Này Di Lặc, ta đã ban cho những
lời dạy sau đây-đối với Bồ Tát: Kinh điển, những lời tán thán du dương, giáo lý
tiên tri, kệ tụng, lời khuyên từ những trải nghiệm cụ thể, những biểu hiện của
sự chứng ngộ, truyền thuyết, truyện tiền thân, giáo lý sâu rộng, giáo lý được
ghi chép lại, và những chỉ dẫn.
"Bồ Tát nên lắng nghe kỹ những giáo lý này,
ghi nhớ nội dung, tu tập trì tụng, và quán chiếu kỹ lưỡng trong tâm.
Với sự hiểu biết hoàn hảo, họ nên đi một mình
đến những nơi xa xôi và suy ngẫm về những giáo lý này và tiếp tục tập trung tâm
trí vào chúng. Họ nên tập trung tâm trí vào những chủ đề mà họ đã quán chiếu và
duy trì điều này liên tục. Đó được gọi là sự nhập tâm."
Trong thiền định an trụ, bạn tập trung tâm một
cách nhất niệm vào những điểm cốt lõi và tóm tắt của giáo lý. Giáo lý của Đức
Phật, được mô tả trong mười hai phạm trù này, rất rộng lớn và bao gồm những chủ
đề rộng lớn như những chủ đề liên quan đến các uẩn tinh thần và vật lý, các
đại, các nguồn nhận thức, v.v. Trong bối cảnh thiền định an trụ, bạn không cần
phải giải thích chi tiết, mà phải chú tâm vào bản chất cốt lõi hay điểm chính
của giáo lý, dù đó là tính Không hay vô thường, và quán chiếu bản chất của nó.
Mặt khác, thiền định về tuệ giác đặc biệt là
phân tích. Thiền giả giải thích chi tiết về bản chất, nguồn gốc và các đặc tính
khác của đối tượng thiền quán, chẳng hạn như các uẩn, các đại, nguồn gốc của
nhận thức, v.v.
“Khi tâm được tác động liên tục theo cách này và
sự nhu hoạt của thân và tâm đã đạt được, tâm đó được gọi là an trụ. Đây là cách
các vị Bồ Tát tìm kiếm tâm an trụ một cách đúng đắn.”
Thông qua quá trình thiền tập, hành giả ban đầu
thực hiện được sự nhu hoạt của tinh thần. Điều này được dẫn dắt bởi một loại
trạng thái nặng nề của não bộ, thực chất là dấu hiệu của việc từ bỏ những khiếm
khuyết của tâm. Sau khi tạo ra sự nhu hoạt của tâm, sự nhu hoạt của thân được
hiện thực. Đây là đối thủ trực tiếp của những khiếm khuyết về thể chất. An Lạc
thân được sinh ra như một kết quả và từ đó sự an lạc tâm được sinh ra.
“Khi Bồ Tát đạt được sự nhu hoạt của thân và tâm
và chỉ an trú trong đó, Ngài loại trừ sự phân tâm. Hiện tượng đã được quán
chiếu như đối tượng của sự tập trung nhất tâm bên trong cần được phân tích và
được xem giống như một sự phản chiếu. Sự phản chiếu hay hình ảnh này, là đối
tượng của sự tập trung nhất tâm, cần được phân biệt thấu đáo như một đối tượng
của nhận thức. Nó nên được thẩm tra một cách hoàn toàn và thể nghiệm một cách
thấu đáo. Hãy thực hành nhẫn nhục và hoan hỷ với nó. Với sự phân tích, quan sát
và thấu hiểu thích đáng. Đây là điều được gọi là tuệ giác đặc biệt. Vì vậy, Bồ
Tát rất thành thạo trong các phương pháp của tuệ giác đặc biệt.”
Việc phát khởi động lực tích cực là rất quan
trọng. Hành giả nên tái tạo thái độ tích cực này trong suốt quá trình thực
hành. Hãy nghĩ rằng: "Tôi sẽ lắng nghe bản văn thiêng liêng này của Đức
Kamalashila (%Liên Hoa Giới) vĩ đại để đạt được Phật quả vô thượng vì lợi ích
của tất cả chúng sinh, bao la như hư không." Điều vô cùng quan trọng là
chúng ta phải nhận ra sự hiếm có và quý giá của kiếp người. Trên nền tảng này,
chúng ta có thể đạt được cả mục tiêu tạm thời lẫn mục tiêu tối hậu. Cuộc sống
này, một con người tự do và may mắn, là một cơ hội tuyệt vời và chúng ta nên
tận dụng nó.
Gốc rễ và nền tảng cho việc bước đi trên con
đường giác ngộ tối hậu là sự phát khởi tư tưởng vị tha, và điều này lại xuất
phát từ lòng từ bi. Các thực hành bổ sung thiết yếu khác trong bối cảnh này là
thực hành bố thí và các hành động công đức khác, và rèn luyện tập trung, là sự
kết hợp giữa định an trụ và tuệ giác đặc biệt.
Trước khi phát khởi lòng từ bi cho những chúng
sinh khác, hành giả phải suy ngẫm về những đau khổ của luân hồi nói chung, và
đặc biệt là những đau khổ của sáu cõi khác nhau trong vòng luân hồi. Thông qua
quá trình quán chiếu này, hành giả sẽ nhận thức được bản chất không thể chịu
đựng nổi của những đau khổ trong luân hồi. Điều này tự nhiên dẫn bạn đến việc
tìm ra cách từ bỏ chúng. Liệu có cơ hội nào để chúng ta hoàn toàn thoát khỏi
đau khổ không? Phương pháp nào cần phải áp dụng điều này để giải thoát khổ đau.
Khi bạn thật sự dấn thân vào việc an định, tìm hiểu và thẩm tra vấn đề đầy đủ,
bạn sẽ nhận ra nguyên nhân gây ra khổ đau là gì. Nguồn gốc của khổ đau nhiễm ô
tinh thần phát sinh từ hành động và cảm xúc phiền não. Điều này là tạm thời và
tâm có thể được hoàn toàn loại bỏ nó. Hành giả đi đến nhận ra rằng diệt đế của
Tứ Diệu Đế có thể thành tựu với sự bình định, hay loại trừ khổ đau và nguyên
nhân của nó. Kết quả tất yếu là cá nhân phát triển sự viễn ly, mong muốn thoát
khỏi khổ đau và những nguyên nhân của nó. Và khi bạn mong muốn chúng sinh khác
cũng đạt được sự giải thoát khỏi khổ đau và những nguyên nhân của nó, bạn đang
thực hiện một bước quan trọng đối với việc phát triển lòng từ bi.
Trước tiên, hành giả nên rèn luyện trong các
giai đoạn của con đường chung và sau đó dần dần kết hợp với những giai đoạn của
con đường lớn hơn. Đây là một phương pháp hợp lý và đúng đắn để hiện thực hóa
sự nghiệp tâm linh.
Sau khi thực hiện các thực hành chuẩn bị, bạn sẽ
thực hiện việc rèn luyện trong hai loại tâm giác ngộ hay tâm bồ đề. Hai tâm này
là tâm giác ngộ thông thường và tâm giác ngộ tối hậu. Với sự phát khởi tâm giác
ngộ thông thường, hành giả thực hành hạnh Bồ Tát, bao gồm sáu pháp Ba La Mật.
Thiền tập về tâm giác ngộ tối hậu - trí tuệ siêu việt trực nhận tâm - được thực
hiện bằng cách phát khởi tính Không. Trí tuệ này là một sự ổn định thiền tập,
là sự kết hợp giữa thiền định an trụ và tuệ giác đặc biệt. Điều này có nghĩa là
khi tập trung nhất tâm, hành giả có thể đồng thời phân tích bản chất của tính
Không.
Về việc phát triển thiền định an trụ , hành giả
có toàn quyền lựa chọn đối tượng thiền mà mình cho là phù hợp và thoải mái. Sau
đó, hành giả nên tập trung tâm vào đối tượng, không để tâm bị phân tâm bởi các
đối tượng khác, cũng không để tâm rơi vào trạng thái hôn trầm. Hành giả nên
hướng đến việc đạt được sự tập trung nhất tâm kết hợp với sự sáng suốt sắc bén.
Trạng thái hôn trầm xảy ra khi tâm trí bị chế
ngự bởi sự lười biếng và thiếu sự sự tỉnh táo và sắc bén. Trong cuộc sống hàng
ngày, chúng ta có thể mô tả tâm chúng ta như “không rõ ràng” hoặc "chậm
chạp hay trì trệ". Khi sự "uể oải" xuất hiện, hành giả không
theo sát vững vàng vào đối tượng và do đó việc thiền định không hiệu quả.
“Nếu tâm được thấy là hôn trầm qua sự buồn ngủ
và tinh thần uể oải hay nếu bạn sợ rằng sự chậm chạp đang tiếp cận, thì tâm nên
chú ý vào một đối tượng vô cùng thú vị như hình ảnh Đức Phật, hoặc một khái
niệm về ánh sáng. Trong quá trình này, sau khi xua tan sự trì trệ, tâm nên cố gắng
nhìn thấy đối tượng thật rõ ràng.”
Khi một thiền sinh bị bao vây bởi sự mơ hồ, tâm
và thân cảm thấy sự trì trệ và trì trệ xảy ra trong một mối quan hệ nhân quả
lẫn nhau. Người hành thiền mất đi sự sáng suốt, và tâm trở nên kém hiệu quả và
không năng suất. Trì trệ là một dạng trầm cảm tinh thần. Vì vậy, để chống lại
nó, hãy sử dụng các kỹ thuật có thể giúp nâng cao tinh thần. Một số cách hiệu
quả hơn là nghĩ về những đối tượng vui vẻ, chẳng hạn như những phẩm chất tuyệt
vời của một vị Phật, hoặc nghĩ về sự hiếm có của kiếp người quý giá và những cơ
hội mà nó mang lại. Bạn nên lấy cảm hứng từ những suy nghĩ này để tham gia vào
một buổi thiền định hiệu quả.
Trong quá trình phát triển định an trụ , một trở
ngại chính khác cần vượt qua là sự phấn khích tinh thần hay trạo cử. Điều này
xảy ra khi tâm ở trạng thái phấn khích, chạy theo những đối tượng ham muốn và
nhớ lại những trải nghiệm vui vẻ và hạnh phúc trong quá khứ. Những dạng kích
thích tinh thần thô thiển hơn sẽ khiến tâm trí hoàn toàn mất đi đối tượng tập
trung; ở những dạng vi tế hơn, chỉ một phần tâm trí chú ý đến đối tượng. Giải
pháp cho vấn đề này là thiền định về vô thường, đau khổ, v.v., điều này có thể
giúp tâm trí lắng đọng.
“Bạn nên nhận ra sự hiện diện của sự trì trệ khi
tâm trí không thể nhìn thấy đối tượng một cách rõ ràng, khi bạn cảm thấy như
mình bị mù, ở trong một nơi tối tăm hoặc khi bạn đã nhắm mắt. Nếu trong khi
thiền tập, tâm bạn chạy theo những đặc tính của các đối tượng bên ngoài như
hình tướng, hoặc chuyển sự chú ý sang các hiện tượng khác, hoặc bị phân tâm bởi
ham muốn một đối tượng mà bạn đã trải nghiệm trước đây, hoặc nếu bạn nghi ngờ
sự phân tâm đang đến gần, hãy quán chiếu rằng tất cả các hiện tượng phức hợp
đều vô thường. Hãy suy ngẫm về đau khổ, v.v., những chủ đề sẽ giúp làm dịu tâm.
Thuốc giải cho sự trì trệ và trạo cử phấn khích
của tâm là nội quán. Chức năng của nội quán là quán sát tâm có ở trên đối tượng
thiền tập ổn định không. Chức năng của chánh niệm là giữ tâm trên đối tượng,
một khi đạt được điều này thì sự nội quán phải xem tâm có duy trì trên đối
tượng hay không. Chánh niệm của bạn càng mạnh, nội quán của bạn càng mạnh. Ví
dụ, nếu bạn liên tục nhớ "Làm điều này không tốt", "Điều này
không có ích" v.v., thì bạn đang duy trì nội quán. Điều quan trọng là phải
chánh niệm về những khía cạnh tiêu cực trong cuộc sống hàng ngày của bạn và một
trong những điều đặc biệt là bạn nên cảnh giác với sự xuất hiện của chúng. Do
đó, đặc điểm và chức năng của nội quán là đánh giá tình trạng của tâm và cơ thể
bạn, để đánh giá xem tâm có an trụ trên đối tượng thiền định hay không.
“Trong quá trình này, sự phân tâm cần được loại
bỏ và với sợi dây chánh niệm và tỉnh giác, tâm như voi sẽ được buộc chặt vào
cây đối tượng thiền định. Khi bạn thấy tâm không còn uể oải và kích động, và nó
tự nhiên an trú trên đối tượng, bạn nên thư giãn nỗ lực của mình và giữ trạng
thái trung lập cho đến khi nó tiếp tục như vậy,/.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét