Thứ Năm, 31 tháng 7, 2025

CHƯƠNG HAI MƯƠI MỘT: Thực hành Định An trụ

 






Nguyên bản: Practicing Caml Abiding
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Biên
tập: Rajiv Mehrotra
Việt dịch: Quảng Cơ

Hiệu
đính: Tuệ Uyển
***


“Trước tiên, cần đạt được định an trụ. Định an trụ là tâm đã chế ngự được sự xao lãng bởi các đối tượng bên ngoài, và tự nhiên, liên tục hướng về đối tượng thiền tập với sự hỷ lạc và nhu hoạt.”

Sau khi hoàn thành đúng đắn các thực hành chuẩn bị, bạn nên bước vào thiền tập thật sự, bao gồm định an trụ và tuệ giác đặc biệt. Định an trụ là gì? Đó là trạng thái tâm tự nhiên chú tâm vào đối tượng thiền tập nhờ việc làm lắng dịu sự xao lãng bởi các đối tượng bên ngoài.

Ngoài ra, nó dần dần loại bỏ các khuyết điểm của thân và tâm nhờ thoát khỏi sự trì trệ và kích động của tâm. "Với hỷ lạc và nhu hoạt" ám chỉ những phẩm chất thể chất và tinh thần mà một thiền sinh phát triển. Trong quá trình thiền tập, sự nhu hoạt của tâm được phát triển trước tiên và tiếp theo là sự nhu hoạt của thân thể. Điều thú vị là, sự hỷ lạc của thân thể được tạo ra sau đó, tiếp theo là sự hỷ lạc của tâm. Khi tâm hợp nhất với hỷ lạc, nó được gọi là thiền định tĩnh lặng hay định an trụ. Tuệ giác đặc biệt là gì?

“Thứ mà quán sát chân như một cách đúng đắn từ trong trạng thái tĩnh lặng của định an trụ là tuệ giác đặc biệt. Kinh Bảo Vân nói: "Thiền định an trụ là sự tập trung tâm trí vào một điểm duy nhất; Tuệ giác đặc biệt tạo ra sự phân tích cụ thể về chân lý tối hậu."

Sau khi phát triển khả năng tham gia thiền định an trụ, thiền giả không đặt tâm trí nhất niệm vào đối tượng, mà bắt đầu quán sát nó. Đối tượng thiền tập ở đây chủ yếu là chân lý tối hậu, nhưng những hiện tượng quy ước không bao gồm. Sự tập trung
tạo ra hạnh phúc thân thể và tinh thần bằng năng lực của việc phân tích đối tượng là tuệ giác đặc biệt. Sau đó, một sự hợp nhất của định an trụ và tuệ giác đặc biệt được đạt đến.

Định an trụ và tuệ giác đặc biệt không được khu biệt theo đối tượng tập trung của chúng. Cả hai đều có thể lấy chân lý quy ước và chân lý tối hậu làm đối tượng. Có thiền định an trụ tập trung vào chân lý tối hậu, và có tuệ giác đặc biệt thiền tập về chân lý quy ước. Ví dụ, có thiền định an trụ trong đó tâm được đặt nhất niệm vào tính không. Tuệ giác đặc biệt cũng thiền tập về các hiện tượng thông thường, chẳng hạn như các khía cạnh vi tế và thô thiển hơn của con đường thiền tập.

Nhìn chung, sự khác biệt giữa hai loại thiền này là thiền định an trụ là thiền tập trung và tuệ giác đặc biệt, một sự phân tích. Hoàn Thiện Thừa và ba lớp tantra đầu tiên đều có chung khái niệm này. Theo tantra cao nhất, tuệ giác đặc biệt là thiền định tập trung. Đây là một phương thức thấu hiểu độc đáo, trong đó tuệ giác đặc biệt hoạt động trọn vẹn như thiền định tập trung. Mặt khác, Đại Thủ Ấn thuộc truyền thống Kagyu và Đại Thành Tựu, hay Dzogchen, thuộc truyền thống Nyingma, chỉ đề cập đến thiền phân tích. Cũng vậy, từ Kinh Giải Thoát Tư Tưởng:

“Đức Di Lặc hỏi: "Thưa Đức Phật, làm thế nào [mọi người] nên tìm kiếm thiền định an trụ và đạt được sự tinh thông về tuệ giác đặc biệt?" Đức Phật trả lời: "Này Di Lặc, ta đã ban cho những lời dạy sau đây-đối với Bồ Tát: Kinh điển, những lời tán thán du dương, giáo lý tiên tri, kệ tụng, lời khuyên từ những trải nghiệm cụ thể, những biểu hiện của sự chứng ngộ, truyền thuyết, truyện tiền thân, giáo lý sâu rộng, giáo lý được ghi chép lại, và những chỉ dẫn.

"Bồ Tát nên lắng nghe kỹ những giáo lý này, ghi nhớ nội dung, tu tập trì tụng, và quán chiếu kỹ lưỡng trong tâm.
Với sự hiểu biết hoàn hảo, họ nên đi một mình đến những nơi xa xôi và suy ngẫm về những giáo lý này và tiếp tục tập trung tâm trí vào chúng. Họ nên tập trung tâm trí vào những chủ đề mà họ đã quán chiếu và duy trì điều này liên tục. Đó được gọi là sự nhập tâm."

Trong thiền định an trụ, bạn tập trung tâm một cách nhất niệm vào những điểm cốt lõi và tóm tắt của giáo lý. Giáo lý của Đức Phật, được mô tả trong mười hai phạm trù này, rất rộng lớn và bao gồm những chủ đề rộng lớn như những chủ đề liên quan đến các uẩn tinh thần và vật lý, các đại, các nguồn nhận thức, v.v. Trong bối cảnh thiền định an trụ, bạn không cần phải giải thích chi tiết, mà phải chú tâm vào bản chất cốt lõi hay điểm chính của giáo lý, dù đó là tính Không hay vô thường, và quán chiếu bản chất của nó.
Mặt khác, thiền định về tuệ giác đặc biệt là phân tích. Thiền giả giải thích chi tiết về bản chất, nguồn gốc và các đặc tính khác của đối tượng thiền quán, chẳng hạn như các uẩn, các đại, nguồn gốc của nhận thức, v.v.

“Khi tâm được tác động liên tục theo cách này và sự nhu hoạt của thân và tâm đã đạt được, tâm đó được gọi là an trụ. Đây là cách các vị Bồ Tát tìm kiếm tâm an trụ một cách đúng đắn.”

Thông qua quá trình thiền tập, hành giả ban đầu thực hiện được sự nhu hoạt của tinh thần. Điều này được dẫn dắt bởi một loại trạng thái nặng nề của não bộ, thực chất là dấu hiệu của việc từ bỏ những khiếm khuyết của tâm. Sau khi tạo ra sự nhu hoạt của tâm, sự nhu hoạt của thân được hiện thực. Đây là đối thủ trực tiếp của những khiếm khuyết về thể chất. An Lạc thân được sinh ra như một kết quả và từ đó sự an lạc tâm được sinh ra.

“Khi Bồ Tát đạt được sự nhu hoạt của thân và tâm và chỉ an trú trong đó, Ngài loại trừ sự phân tâm. Hiện tượng đã được quán chiếu như đối tượng của sự tập trung nhất tâm bên trong cần được phân tích và được xem giống như một sự phản chiếu. Sự phản chiếu hay hình ảnh này, là đối tượng của sự tập trung nhất tâm, cần được phân biệt thấu đáo như một đối tượng của nhận thức. Nó nên được thẩm tra một cách hoàn toàn và thể nghiệm một cách thấu đáo. Hãy thực hành nhẫn nhục và hoan hỷ với nó. Với sự phân tích, quan sát và thấu hiểu thích đáng. Đây là điều được gọi là tuệ giác đặc biệt. Vì vậy, Bồ Tát rất thành thạo trong các phương pháp của tuệ giác đặc biệt.”

Việc phát khởi động lực tích cực là rất quan trọng. Hành giả nên tái tạo thái độ tích cực này trong suốt quá trình thực hành. Hãy nghĩ rằng: "Tôi sẽ lắng nghe bản văn thiêng liêng này của Đức Kamalashila (%Liên Hoa Giới) vĩ đại để đạt được Phật quả vô thượng vì lợi ích của tất cả chúng sinh, bao la như hư không." Điều vô cùng quan trọng là chúng ta phải nhận ra sự hiếm có và quý giá của kiếp người. Trên nền tảng này, chúng ta có thể đạt được cả mục tiêu tạm thời lẫn mục tiêu tối hậu. Cuộc sống này, một con người tự do và may mắn, là một cơ hội tuyệt vời và chúng ta nên tận dụng nó.
Gốc rễ và nền tảng cho việc bước đi trên con đường giác ngộ tối hậu là sự phát khởi tư tưởng vị tha, và điều này lại xuất phát từ lòng từ bi. Các thực hành bổ sung thiết yếu khác trong bối cảnh này là thực hành bố thí và các hành động công đức khác, và rèn luyện tập trung, là sự kết hợp giữa định an trụ và tuệ giác đặc biệt.

Trước khi phát khởi lòng từ bi cho những chúng sinh khác, hành giả phải suy ngẫm về những đau khổ của luân hồi nói chung, và đặc biệt là những đau khổ của sáu cõi khác nhau trong vòng luân hồi. Thông qua quá trình quán chiếu này, hành giả sẽ nhận thức được bản chất không thể chịu đựng nổi của những đau khổ trong luân hồi. Điều này tự nhiên dẫn bạn đến việc tìm ra cách từ bỏ chúng. Liệu có cơ hội nào để chúng ta hoàn toàn thoát khỏi đau khổ không? Phương pháp nào cần phải áp dụng điều này để giải thoát khổ đau. Khi bạn thật sự dấn thân vào việc an định, tìm hiểu và thẩm tra vấn đề đầy đủ, bạn sẽ nhận ra nguyên nhân gây ra khổ đau là gì. Nguồn gốc của khổ đau nhiễm ô tinh thần phát sinh từ hành động và cảm xúc phiền não. Điều này là tạm thời và tâm có thể được hoàn toàn loại bỏ nó. Hành giả đi đến nhận ra rằng diệt đế của Tứ Diệu Đế có thể thành tựu với sự bình định, hay loại trừ khổ đau và nguyên nhân của nó. Kết quả tất yếu là cá nhân phát triển sự viễn ly, mong muốn thoát khỏi khổ đau và những nguyên nhân của nó. Và khi bạn mong muốn chúng sinh khác cũng đạt được sự giải thoát khỏi khổ đau và những nguyên nhân của nó, bạn đang thực hiện một bước quan trọng đối với việc phát triển lòng từ bi.

Trước tiên, hành giả nên rèn luyện trong các giai đoạn của con đường chung và sau đó dần dần kết hợp với những giai đoạn của con đường lớn hơn. Đây là một phương pháp hợp lý và đúng đắn để hiện thực hóa sự nghiệp tâm linh.

Sau khi thực hiện các thực hành chuẩn bị, bạn sẽ thực hiện việc rèn luyện trong hai loại tâm giác ngộ hay tâm bồ đề. Hai tâm này là tâm giác ngộ thông thường và tâm giác ngộ tối hậu. Với sự phát khởi tâm giác ngộ thông thường, hành giả thực hành hạnh Bồ Tát, bao gồm sáu pháp Ba La Mật. Thiền tập về tâm giác ngộ tối hậu - trí tuệ siêu việt trực nhận tâm - được thực hiện bằng cách phát khởi tính Không. Trí tuệ này là một sự ổn định thiền tập, là sự kết hợp giữa thiền định an trụ và tuệ giác đặc biệt. Điều này có nghĩa là khi tập trung nhất tâm, hành giả có thể đồng thời phân tích bản chất của tính Không.

Về việc phát triển thiền định an trụ , hành giả có toàn quyền lựa chọn đối tượng thiền mà mình cho là phù hợp và thoải mái. Sau đó, hành giả nên tập trung tâm vào đối tượng, không để tâm bị phân tâm bởi các đối tượng khác, cũng không để tâm rơi vào trạng thái hôn trầm. Hành giả nên hướng đến việc đạt được sự tập trung nhất tâm kết hợp với sự sáng suốt sắc bén.

Trạng thái hôn trầm xảy ra khi tâm trí bị chế ngự bởi sự lười biếng và thiếu sự sự tỉnh táo và sắc bén. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể mô tả tâm chúng ta như “không rõ ràng” hoặc "chậm chạp hay trì trệ". Khi sự "uể oải" xuất hiện, hành giả không theo sát vững vàng vào đối tượng và do đó việc thiền định không hiệu quả.

“Nếu tâm được thấy là hôn trầm qua sự buồn ngủ và tinh thần uể oải hay nếu bạn sợ rằng sự chậm chạp đang tiếp cận, thì tâm nên chú ý vào một đối tượng vô cùng thú vị như hình ảnh Đức Phật, hoặc một khái niệm về ánh sáng. Trong quá trình này, sau khi xua tan sự trì trệ, tâm nên cố gắng nhìn thấy đối tượng thật rõ ràng.”

Khi một thiền sinh bị bao vây bởi sự mơ hồ, tâm và thân cảm thấy sự trì trệ và trì trệ xảy ra trong một mối quan hệ nhân quả lẫn nhau. Người hành thiền mất đi sự sáng suốt, và tâm trở nên kém hiệu quả và không năng suất. Trì trệ là một dạng trầm cảm tinh thần. Vì vậy, để chống lại nó, hãy sử dụng các kỹ thuật có thể giúp nâng cao tinh thần. Một số cách hiệu quả hơn là nghĩ về những đối tượng vui vẻ, chẳng hạn như những phẩm chất tuyệt vời của một vị Phật, hoặc nghĩ về sự hiếm có của kiếp người quý giá và những cơ hội mà nó mang lại. Bạn nên lấy cảm hứng từ những suy nghĩ này để tham gia vào một buổi thiền định hiệu quả.

Trong quá trình phát triển định an trụ , một trở ngại chính khác cần vượt qua là sự phấn khích tinh thần hay trạo cử. Điều này xảy ra khi tâm ở trạng thái phấn khích, chạy theo những đối tượng ham muốn và nhớ lại những trải nghiệm vui vẻ và hạnh phúc trong quá khứ. Những dạng kích thích tinh thần thô thiển hơn sẽ khiến tâm trí hoàn toàn mất đi đối tượng tập trung; ở những dạng vi tế hơn, chỉ một phần tâm trí chú ý đến đối tượng. Giải pháp cho vấn đề này là thiền định về vô thường, đau khổ, v.v., điều này có thể giúp tâm trí lắng đọng.

“Bạn nên nhận ra sự hiện diện của sự trì trệ khi tâm trí không thể nhìn thấy đối tượng một cách rõ ràng, khi bạn cảm thấy như mình bị mù, ở trong một nơi tối tăm hoặc khi bạn đã nhắm mắt. Nếu trong khi thiền tập, tâm bạn chạy theo những đặc tính của các đối tượng bên ngoài như hình tướng, hoặc chuyển sự chú ý sang các hiện tượng khác, hoặc bị phân tâm bởi ham muốn một đối tượng mà bạn đã trải nghiệm trước đây, hoặc nếu bạn nghi ngờ sự phân tâm đang đến gần, hãy quán chiếu rằng tất cả các hiện tượng phức hợp đều vô thường. Hãy suy ngẫm về đau khổ, v.v., những chủ đề sẽ giúp làm dịu tâm.

Thuốc giải cho sự trì trệ và trạo cử phấn khích của tâm là nội quán. Chức năng của nội quán là quán sát tâm có ở trên đối tượng thiền tập ổn định không. Chức năng của chánh niệm là giữ tâm trên đối tượng, một khi đạt được điều này thì sự nội quán phải xem tâm có duy trì trên đối tượng hay không. Chánh niệm của bạn càng mạnh, nội quán của bạn càng mạnh. Ví dụ, nếu bạn liên tục nhớ "Làm điều này không tốt", "Điều này không có ích" v.v., thì bạn đang duy trì nội quán. Điều quan trọng là phải chánh niệm về những khía cạnh tiêu cực trong cuộc sống hàng ngày của bạn và một trong những điều đặc biệt là bạn nên cảnh giác với sự xuất hiện của chúng. Do đó, đặc điểm và chức năng của nội quán là đánh giá tình trạng của tâm và cơ thể bạn, để đánh giá xem tâm có an trụ trên đối tượng thiền định hay không.

“Trong quá trình này, sự phân tâm cần được loại bỏ và với sợi dây chánh niệm và tỉnh giác, tâm như voi sẽ được buộc chặt vào cây đối tượng thiền định. Khi bạn thấy tâm không còn uể oải và kích động, và nó tự nhiên an trú trên đối tượng, bạn nên thư giãn nỗ lực của mình và giữ trạng thái trung lập cho đến khi nó tiếp tục như vậy,/.

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét