Từ quyển: The Science of Meditation
Nguyên
tác: 4. The Best We Have
Tác
giả: Daniel Goleman và Richard J. Davidson
Chuyển
ngữ: Quảng Cơ / Tuệ Uyển nhuận sắc
***
Bối cảnh: Một xưởng mộc, và hai người bạn—chúng ta sẽ gọi họ là Al và Frank—đang
vui vẻ trò chuyện trong khi Al đẩy một tấm ván ép lớn vào lưỡi cưa lởm chởm của
một chiếc cưa tròn khổng lồ. Bỗng nhiên, bạn nhận ra rằng Al đã không sử dụng
tấm chắn bảo vệ cho lưỡi cưa đó—và tim bạn đập nhanh hơn khi bạn thấy ngón cái
của anh ấy đang tiến thẳng về phía vòng tròn thép sắc nhọn, đầy răng đáng sợ
kia.
Al và Frank mải mê trò chuyện, cả hai đều không hề hay biết về mối nguy hiểm
cận kề, ngay cả khi ngón cái đó tiến gần hơn đến lưỡi cưa đang rít lên. Tim bạn
đập loạn xạ và những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán. Bạn có một mong muốn cháy
bỏng là phải cảnh báo Al—nhưng anh ấy chỉ là một diễn viên trong bộ phim bạn
đang xem.
Bộ phim "It Didn’t Have to Happen" (Đáng lẽ nó đã không xảy ra), do
Ủy ban Điện ảnh Canada sản xuất nhằm cảnh báo các thợ mộc phải sử dụng thiết bị
an toàn trên máy móc, đã miêu tả ba vụ tai nạn trong xưởng mộc chỉ trong 12
phút ngắn ngủi của mình. Giống như ngón tay cái đang tiến thẳng một cách không
thể tránh khỏi vào lưỡi cưa, mỗi cảnh quay đều xây dựng sự gay cấn cho đến
khoảnh khắc va chạm: Al mất ngón cái vì lưỡi cưa tròn; một công nhân khác bị
rách ngón tay, và một tấm ván bay thẳng vào bụng của một người đứng xem.
Bộ phim có một cuộc đời hoàn toàn khác so với mục đích cảnh báo ban đầu dành
cho thợ mộc. Richard Lazarus, một nhà tâm lý học tại Đại học California tại
Berkeley, đã sử dụng những cảnh tượng tai nạn kinh hoàng đó như một tác nhân
gây căng thẳng cảm xúc đáng tin cậy trong hơn một thập kỷ nghiên cứu đột phá
của mình.1 Ông đã hào phóng tặng Danmột bản sao của bộ phim để sử dụng trong
nghiên cứu tại Harvard.
Dan đã cho khoảng sáu mươi người xem bộ phim, một nửa trong số họ là tình
nguyện viên (sinh viên Harvard đang học các khóa tâm lý học) chưa từng có kinh
nghiệm hành thiền, nửa còn lại là các giáo thọ thiền tập với ít nhất hai năm
thực hành. Một nửa số người trong mỗi nhóm hành thiền ngay trước khi xem phim;
ông đã dạy những người mới ở Harvard cách hành thiền ngay tại phòng thí nghiệm.
Dan bảo những người được chỉ định vào nhóm kiểm chứng (được chọn ngẫu nhiên)
chỉ cần ngồi và thư giãn đơn thuần.
Khi nhịp tim và phản ứng đổ mồ hôi của những người tham gia tăng vọt rồi lại
giảm xuống theo các vụ tai nạn trong xưởng mộc, Dan ngồi trong phòng điều khiển
bên cạnh. Những người hành thiền có kinh nghiệm có xu hướng phục hồi sau căng
thẳng do xem những sự kiện đáng lo ngại đó nhanh hơn so với những người mới tập
thiền.2 (Ít nhất) đó là điều dường như đã xảy ra.
Nghiên cứu này đủ vững chắc để mang về cho Dan tấm bằng Tiến sĩ Harvard và được
xuất bản trên một trong những tạp chí hàng đầu trong lĩnh vực của ông ta. Mặc
dù vậy, khi nhìn lại với sự xem xét kỹ lưỡng hơn, chúng ta thấy có vô số vấn đề
và điểm còn thiếu sót. Những người đánh giá các khoản tài trợ và bài báo khoa
học có những tiêu chuẩn nghiêm ngặtvề thiết kế nghiên cứu nào là tốt nhất—tức
là cho kết quả đáng tin cậy nhất. Xét từ quan điểm đó, nghiên cứu của Dan—và
phần lớn các nghiên cứu về thiền tập ngay cả cho đến ngày nay—vẫn còn những
thiếu sót.
Chẳng hạn, Dan chính là người đã dạy các tình nguyện viên hành thiền hoặc bảo
họ chỉ cần thư giãn. Nhưng Dan biết trước kết quả mong muốn, đó là hành thiền
có lợi hơn—và điều đó rất có thể đã ảnh hưởng tốt đến cách ông nói chuyện với
hai nhóm, có lẽ theo cách khuyến khích kết quả tốt từ việc hành thiền và kết
quả kém từ nhóm kiểm chứng chỉ thư giãn.
Một điểm nữa là: trong số các tác giả 313 bài báo khoa học đã trích dẫn những
phát hiện của Dan, không một ai cố gắng làm lại nghiên cứu đó để xem liệu họ có
đạt được kết quả tương tự hay không. Những tác giả này chỉ đơn giản là mặc định
rằng các kết quả đó đủ vững chắc để sử dụng làm cơ sở cho kết luận của riêng
họ.
Nghiên cứu của Dan không phải là trường hợp cá biệt; thái độ này vẫn còn phổ
biến cho đến ngày nay. Tính tái lập(Replicability), như thuật ngữ này được biết
đến trong giới chuyên môn, là một sức mạnh của phương pháp khoa học; bất kỳ nhà
khoa học nào khác cũng phải có khả năng tái hiện một thí nghiệm đã làm và thu
được kết quả tương tự—hoặc tiết lộ thất bại trong việc tái hiện chúng. Nhưng
rất, rất ít người thật sự cố gắng làm điều đó.
Sự thiếu vắng việc tái lập này nổi lên như một vấn đề nhức nhối và phổ biến
trong khoa học, đặc biệt là khi nói đến các nghiên cứu về hành vi con người.
Mặc dù các nhà tâm lý học đã đưa ra đề xuất để làm cho các nghiên cứu tâm lý dễ
tái lập hơn, nhưng hiện tại, người ta biết rất ít về việc ngay cả những nghiên
cứu được trích dẫn phổ biến nhất sẽ còn vững chắc đến đâu, mặc dù có lẽ hầu hết
vẫn sẽ giữ nguyên.3 Và chỉ một phần rất nhỏ các nghiên cứu trong tâm lý học
từng được nhắm đến để tái lập; những biệt đãi của ngành này ưu tiên công trình
gốc, chứ không phải sự trùng lặp. Hơn nữa, tâm lý học, giống như tất cả các
ngành khoa học, có một thiên vị xuất bản mạnh mẽ ăn sâu vào bên trong: các nhà
khoa học hiếm khi cố gắng xuất bản các nghiên cứu khi họ không nhận được kết
quả đáng kể. Thế nhưng, chính cái kết quả không đáng kể ấy (null finding) đó
lại có ý nghĩa riêng của nó.
Sau đó, có một sự khác biệt quan trọng giữa các thước đo "mềm" và
"cứng". Nếu bạn yêu cầu mọi người tự báo cáo về hành vi, cảm xúc, và
những thứ tương tự của họ—đây là các thước đo mềm—các yếu tố tâm lý như tâm
trạng nhất thờicủa một người và mong muốn thể hiện tốt hoặc làm hài lòng người
điều tra có thể ảnh hưởng rất lớn đến cách họ trả lời. Mặt khác, những thiên vị
như vậy ít (hoặc hoàn toàn không) có khả năng ảnh hưởng đến các quá trình sinh
lý như nhịp tim hoặc hoạt động não, điều này làm cho chúng trở thành các thước
đo cứng.
Lấy nghiên cứu của Dan làm ví dụ: ông đã dựa ở một mức độ nào đó vào các thước
đo mềm—nơi mọi người tự đánh giá các phản ứng của chính mình. Ông đã sử dụng
một bài đánh giá lo âu phổ biến (trong giới tâm lý học) yêu cầu mọi người tự
xếp hạng các mục như "Tôi cảm thấy lo lắng," từ "hoàn toàn
không" đến "rất nhiều," và từ "hầu như không bao giờ"
đến "hầu như luôn luôn." Phương pháp này cho thấy họ cảm thấy ít căng
thẳng hơn sau lần đầu tiên thử hành thiền—một phát hiện khá phổ biến trong các
nghiên cứu về thiền tập suốt những năm sau đó. Nhưng những báo cáo tự thân (self-reports)
như vậy nổi tiếng là dễ bị ảnh hưởng bởi "nhu cầu kỳ vọng"
(expectation demand), tức là những tín hiệu ngầm thúc đẩy người tham gia báo
cáo một kết quả tích cực.
Ngay cả những người mới bắt đầu hành thiền cũng báo cáo rằng họ cảm thấy thư
giãn hơn và ít căng thẳng hơn ngay khi họ bắt đầu. Những báo cáo tự thân về
việc kiểm soát căng thẳng tốt hơn này xuất hiện trong dữ liệu của người hành
thiền sớm hơn nhiều so với các thước đo cứng như hoạt động não. Điều này có thể
có nghĩa là cảm giác giảm lo âu mà người hành thiền trải nghiệm xảy ra trước
những thay đổi có thể nhận thấy trong các thước đo cứng—hoặc là kỳ vọng vào
những tác dụng đó đã làm sai lệch những gì người hành thiền báo cáo.
Nhưng trái tim không biết nói dối. Nghiên cứu của Dan đã triển khai các thước
đo sinh lý như nhịp tim và phản ứng đổ mồ hôi, những thứ mà con người thường
không thể cố ý kiểm soát được, và do đó mang lại một bức chân dung chính xác
hơn về phản ứng thật sự của một người—đặc biệt là khi so sánh với những thước
đo tự báo cáo (self-report) mang tính chủ quan cao và dễ bị thiên vị hơn.
Đối với luận án tiến sĩ của mình, thước đo sinh lý chính mà Dan sử dụng là phản
ứng điện ngoài da (GSR) (galvanic skin response), tức là những đợt hoạt động
điện báo hiệu một lượng mồ hôi được tiết ra. GSR báo hiệu sự kích thích căng
thẳng của cơ thể. Theo một số giả thuyết, trong quá trình tiến hóa sơ khai,
việc tiết mồ hôi có thể đã làm cho da bớt giòn, giúp bảo vệ con người trong các
cuộc chiến đấu tay đôi.5
Các thước đo não thậm chí còn đáng tin cậy hơn các thước đo sinh lý "ngoại
vi" như nhịp tim. Nhưng chúng tôi đã quá sớm so với thời điểm ra đời của
những phương pháp đó, vốn là những phương pháp ít thiên vị nhất và thuyết phục
nhất. Vào những năm 1970, các hệ thống hình ảnh não bộ như fMRI, SPECT và các
phân tích vi tính tinh vi của EEGvẫn chưa được phát minh.6 Các thước đo về
những phản ứng xa não bộ—nhịp tim, nhịp thở, mồ hôi—là những gì tốt nhất mà Dan
có được. Bởi vì những phản ứng sinh lý đó phản ánh sự pha trộn phức tạp của
nhiều yếu tố, nên chúng hơi khó khăn để diễn giải.8
Một điểm yếu khác của nghiên cứu bắt nguồn từ công nghệ ghi chép thời đó, rất
lâu trước khi dữ liệu được số hóa. Tỷ lệ tiết mồ hôi được theo dõi bằng chuyển
động của một cây kim trên một cuộn giấy liên tục. Bản nguệch ngoạc thu được
chính là thứ mà Dan đã phải nghiên cứu hàng giờ liền, chuyển những chấm mực báo
hiệu sự tiết mồ hôi thành các con số để phân tích dữ liệu. Điều này có nghĩa là
phải đếm thủ công những vết bẩn (chấm mực) báo hiệu một đợt mồ hôi trước và sau
mỗi vụ tai nạn trong xưởng mộc.
Câu hỏi then chốt là: Liệu có sự khác biệt có ý nghĩa nào giữa bốn điều
kiện—người hành thiền có kinh nghiệm so với người mới tập, được yêu cầu hành
thiền hay chỉ ngồi yên lặng—trong tốc độ phục hồi của họ từ trạng thái kích thích
tột độ trong các vụ tai nạn hay không? Kết quả, theo ghi nhận của Dan, cho thấy
rằng việc thiền định đã làm tăng tốc độ phục hồi, và những người thiền lâu năm
đã phục hồi nhanh nhất.9
Cụm từ "theo ghi nhận của Dan" nói lên một vấn đề tiềm ẩn khác: chính
Dan là người thực hiện việc chấm điểm, và toàn bộ nỗ lực này nhằm mục đích ủng
hộ một giả thuyết mà ông tán thành. Tình huống này tạo điều kiện cho thiên vị
của người thực hiện thí nghiệm (experimenter bias), trong đó người thiết kế
nghiên cứu và phân tích dữ liệu có thể bóp méo kết quả theo hướng kết quả mong
muốn.
Sự hồi tưởng mờ nhạt (được rồi, là rất mờ nhạt) của Dan sau gần năm mươi năm
là: đối với những người hành thiền, khi có một phản ứng GSR không rõ ràng—một
phản ứng có thể xảy ra ở đỉnh điểm của sự căng thẳng do tai nạn, hoặc ngay sau
đó—ông ấy đã chấm điểm nó ở đỉnh điểm thay vì ở khởi đầu của đường dốc phục
hồi. Tác động ròng của sự thiên vị như vậy sẽ là làm cho phản ứng mồ hôi của
người hành thiền dường như phản ứng mạnh hơn với tai nạn, đồng thời phục hồi
nhanh hơn (tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy, điều này lại chính xác là mô hình
được tìm thấy ở những người hành thiền cao cấp nhất được nghiên cứu cho đến
nay).
Nghiên cứu về thiên vị (bias) đã tìm ra hai cấp độ: những khuynh hướng có ý thức
của chúng ta, và, khó chống lại hơn, những khuynh hướng vô thức. Cho đến tận
ngày nay, Dan không thể thề rằng việc ông ấy chấm điểm những vết mực đó là hoàn
toàn không thiên vị. Cũng theo hướng đó, Dan đã chia sẻ tình huống khó xử của
hầu hết các nhà khoa học làm nghiên cứu về việc hành thiền: bản thân họ cũng là
những thiền giả, điều này có thể khuyến khích sự thiên vị như vậy, ngay cả khi
nó diễn ra một cách vô thức.
KHOA HỌC KHÁCH QUAN (UNBIASING SCIENCE)
Đó có thể là một cảnh quay bước ra thẳng từ phiên bản Bollywood của loạt phim
Bố Già: một chiếc limo Cadillac màu đen đỗ lại đúng thời gian và địa điểm đã
định, cửa sau mở ra, và Dan bước vào. Ngồi cạnh anh là ông trùm—không phải
Marlon Brando/Don Corleone, mà là một vị yogi (hành giả yoga) râu ria, nhỏ
nhắn, khoác trên mình bộ quần áo dhotimàu trắng.
Yogi Z đã từ phương Đông đến Mỹ vào những năm 1960 và nhanh chóng thu hút sự
chú ý của báo chí bằng cách giao du với những người nổi tiếng. Ông đã thu hút
một lượng lớn người theo dõi và tuyển mộ hàng trăm thanh niên Mỹ trở thành giáo
thọ giảng dạy phương pháp của mình. Năm 1971, ngay trước chuyến đi đầu tiên đến
Ấn Độ, Dan đã tham dự một trại hè huấn luyện giáo viên do vị yogi này tổ chức.
Bằng cách nào đó, Yogi Z đã nghe nói rằng Dan là một sinh viên tốt nghiệp
Harvard sắp đi du lịch tới Ấn Độ bằng học bổng nghiên cứu sinh tiền tiến sĩ. Vị
yogi này đã có một kế hoạch cho nghiên cứu sinh này. Đưa cho Dan một danh sách
tên và địa chỉ của những món đồ của ông ở Ấn Độ, Yogi Z chỉ thị Dan phải tìm
gặp từng người, phỏng vấn họ, và sau đó viết một luận án tiến sĩ với luận điểm
và kết luận rằng phương pháp của riêng vị yogi này là con đường duy nhất để đạt
đến "sự giác ngộ" trong thời đại ngày nay.
Đối với Dan, ý tưởng này là đáng ghê tởm. Việc công khai thao túng nghiên cứu
như vậy để quảng bá một thương hiệu thiền tập cụ thể là điển hình cho sự lừa
gạt, đáng tiếc, đã gắn liền với một kiểu "giáo viên tâm linh" nhất
định (hãy nhớ đến Swami X). Khi một giáo viên như vậy tham gia vào việc tự
quảng cáo điển hình của một số thương hiệu thương mại, điều đó báo hiệu rằng ai
đó đang hy vọng sử dụng vẻ ngoài của sự tiến bộ nội tâm để phục vụ cho mục đích
tiếp thị. Và khi các nhà nghiên cứu trung thành với một thương hiệu thiền cụ
thể báo cáo các phát hiện tích cực, sự thiên vị đáng nghi ngờ tương tự lại nảy
sinh, cùng với một câu hỏi khác: Liệu có những kết quả tiêu cực nào đã không
được báo cáo hay không?
Chẳng hạn, các giáo viên thiền trong nghiên cứu của Dan đã dạy Thiền Siêu Việt
(Transcendental Meditation - TM). Nghiên cứu về TM đã có một lịch sử khá phức
tạp một phần vì hầu hết các nghiên cứu đó đã được thực hiện bởi nhân viên tại
Đại học Quản lý Maharishi (trước đây là Đại học Quốc tế Maharishi), vốn là một
phần của tổ chức quảng bá TM. Điều này làm dấy lên mối lo ngại về xung đột lợi
ích, ngay cả khi nghiên cứu được thực hiện tốt.
Vì lý do này, phòng thí nghiệm của Richie đã cố tình tuyển dụng một số nhà khoa
học hoài nghi về tác dụng của thiền, những người này thường nêu ra một lượng
lớn các vấn đề và câu hỏi hợp lý mà những "tín đồ chân chính" của
thiền có thể bỏ qua hoặc che đậy. Một kết quả: phòng thí nghiệm của Richie đã
công bố nhiều kết quả không đáng kể(nonfindings), tức là những nghiên cứu kiểm
tra một giả thuyết cụ thể về tác dụng của thiền nhưng không quan sát thấy hiệu
ứng mong đợi. Phòng thí nghiệm cũng công bố những thất bại trong việc tái lập
(failures to replicate)—những nghiên cứu không thu được kết quả tương tự khi
sao chép phương pháp của các bài báo đã công bố trước đó tìm thấy thiền có lợi
ích. Những thất bại trong việc tái lập các phát hiện trước đó đã đặt chúng vào
vòng nghi vấn.
Việc đưa những người hoài nghi vào đội ngũ chỉ là một trong nhiều cách để giảm
thiểu sự thiên vị của người thực hiện thí nghiệm (experimenter bias). Một cách
khác là nghiên cứu một nhóm được thông báo về các phương pháp thiền và lợi ích
của chúng nhưng lại không được hướng dẫn thực hành. Tốt hơn nữa là một
"nhóm đối chứng tích cực" (active control), nơi một nhóm tham gia vào
một hoạt động khác với thiền, một hoạt động mà họ tin rằng sẽ có lợi cho họ,
chẳng hạn như tập thể dục.
Một tình thế tiến thoái lưỡng nan khác trong nghiên cứu của chúng tôi ở
Harvard, cũng là một vấn đề còn phổ biến trong tâm lý học ngày nay, đó là các
sinh viên đại học có sẵn để nghiên cứu trong phòng thí nghiệm của chúng tôi
không đại diện cho toàn bộ nhân loại. Các thí nghiệm của chúng tôi được thực
hiện với những đối tượng được biết đến trong ngành là WEIRD: Western (Phương
Tây), Educated (có giáo dục), Industrialized (công nghiệp hóa), Rich (giàu có),
và từ các nền văn hóa Democratic (dân chủ). Và việc sử dụng sinh viên Harvard,
một nhóm đặc biệt hơn cả trong nhóm WEIRD, càng làm cho dữ liệu trở nên ít giá
trị hơn trong việc tìm kiếm các quy luật phổ quát trong bản chất con người.
CÁC BIẾN THỂ CỦA TRẢI NGHIỆM THIỀN TẬP
Trong nghiên cứu luận án tiến sĩ của mình, Richie là một trong những nhà khoa
học thần kinh đầu tiên đặt câu hỏi liệu chúng ta có thể xác định được một dấu
hiệu thần kinh (neural signature) của kỹ năng chú ý hay không. Câu hỏi cơ bản
đó, vào thời kỳ đó, là một câu hỏi khá được tôn trọng (có giá trị học thuật).
Nhưng nghiên cứu tiến sĩ của Richie lại mang tinh thần của cuộc khám phá tâm
linh thầm kín trong công trình đại học của ông. Chương trình nghị sự được ngầm
cài đặt (sub rosa) trong nghiên cứu là: khám phá xem các dấu hiệu của kỹ năng
chú ý có khác biệt ở những người hành thiền và người không tập thiền hay không.
Liệu người hành thiền có tập trung tốt hơn không? Vào thời đó, đấy không phải
là một câu hỏi được chấp nhận rộng rãi trong giới khoa học thời bấy giờ (tức là
không được giới khoa học chính thống đánh giá cao).
Richie đã đo tín hiệu điện não từ da đầu của những người hành thiền khi họ nghe
các âm thanh hoặc nhìn thấy đèn LED (Light-Emitting Diode) nhấp nháy, đồng thời
ông hướng dẫn họ tập trung vào âm thanh và bỏ qua ánh sáng, hoặc ngược lại.
Richie đã phân tích các tín hiệu điện để tìm "điện thế liên quan đến sự
kiện" (ERP) (event-related potential), được biểu thị bằng các xung điện cụ
thể để phản ứng với ánh sáng và/hoặc âm thanh. ERP, vốn bị lẫn trong một
"dàn hợp xướng" nhiễu loạn, là một tín hiệu quá nhỏ đến mức được đo
bằng microvolt—một phần triệu volt. Những tín hiệu nhỏ bé này cung cấp một cái
nhìn về cách chúng ta phân bổ sự chú ý của mình.
Richie phát hiện ra rằng kích thước của những tín hiệu nhỏ bé này bị giảm bớt
khi phản ứng với âm thanh lúc người hành thiền trung vào ánh sáng, trong khi
các tín hiệu được kích hoạt bởi ánh sáng lại bị giảm kích thước khi người hành
thiền trung sự chú ý vào âm thanh. Riêng phát hiện này thì sẽ không có gì đáng
nói; chúng ta vốn đã dự đoán điều đó. Nhưng mô hình chặn lại phương thức không
mong muốn này lại mạnh hơn rất nhiều ở những người hành thiền so với nhóm đối
chứng—đây là một trong những bằng chứng đầu tiên cho thấy người hành thiền có
khả năng tập trung sự chú ý tốt hơn người không hành thiền.
Vì việc chọn một mục tiêu để tập trung và bỏ qua các yếu tố gây xao lãng đánh
dấu một kỹ năng chú ý quan trọng, Richie kết luận rằng các bản ghi điện não—EEG
(Electroencephalogram)—có thể được sử dụng cho việc đánh giá này (điều này là
bình thường ngày nay, nhưng là một bước tiến trong khoa học thời bấy giờ). Tuy
nhiên, bằng chứng cho thấy người hành thiền tốt hơn nhóm đối chứng, những người
chưa bao giờ thiền, ở khả năng này vẫn còn khá yếu.
Nhìn lại, chúng ta có thể thấy một lý do tại sao bằng chứng này tự thân
nó lại đáng ngờ: Richie đã tuyển chọn một hỗn hợp các thiền giả, những người sử
dụng nhiều phương pháp thiền khác nhau. Trở lại năm 1975, chúng tôi khá ngây
thơ về tầm quan trọng của những sự khác biệt về kỹ thuật này. Ngày nay, chúng
ta biết rằng có nhiều khía cạnh của sự chú ý, và các loại thiền khác nhau rèn
luyện những thói quen tinh thần đa dạng, và do đó, tác động đến các kỹ năng
tinh thần theo những cách thức khác nhau.
Ví dụ, các nhà nghiên cứu tại Viện Max Planck về Khoa học Nhận thức và Não bộ
Con người ở Leipzig, Đức, đã yêu cầu những người mới bắt đầu thực hành hàng
ngày trong vài tháng ba loại thiền khác nhau: tập trung vào hơi thở; phát triển
lòng từ bi (loving-kindness); và theo dõi suy nghĩ mà không bị cuốn theo chúng.
Họ phát hiện ra rằng việc tập trung vào hơi thở có tác dụng làm dịu—dường như
xác nhận một giả định phổ biến về tính hữu ích của thiền như một phương tiện để
thư giãn.
Nhưng trái ngược với khuôn mẫu đó, cả việc thực hành lòng từ bi lẫn việc theo
dõi suy nghĩ đều không làm cơ thể thư giãn hơn, rõ ràng là vì mỗi loại đều đòi
hỏi nỗ lực tinh thần: ví dụ, trong khi theo dõi suy nghĩ, bạn liên tục bị cuốn
vào chúng—và sau đó, khi nhận ra điều này, bạn cần phải tạo ra một nỗ lực có ý
thức để chỉ đơn thuần quan sát lại. Ngoài ra, việc thực hành lòng từ bi, nơi
bạn mong muốn những điều tốt đẹp cho bản thân và người khác, một cách dễ hiểu
đã tạo ra một tâm trạng tích cực, trong khi hai phương pháp kia thì không.
Vì vậy, các loại thiền khác nhau tạo ra những kết quả riêng biệt—một sự thật
đáng lẽ phải khiến việc xác định loại thiền cụ thể đang được nghiên cứu trở
thành một động thái thường quy. Tuy nhiên, sự nhầm lẫn về các chi tiết cụ thể
vẫn còn quá phổ biến. Ví dụ, một nhóm nghiên cứu đã thu thập dữ liệu tiên tiến
về giải phẫu não ở năm mươi thiền giả, tạo ra một bộ dữ liệu vô giá. Ngoại trừ
việc tên của các phương pháp thực hành thiền được nghiên cứu lại cho thấy một
sự trộn lẫn các loại hình—một mớ hổ lốn. Nếu việc rèn luyện tinh thần cụ thể đi
kèm với từng loại thiền được ghi chép có hệ thống, bộ dữ liệu đó có thể mang
lại những phát hiện còn giá trị hơn nhiều. (Mặc dù vậy, vẫn cần phải khen ngợi
vì đã tiết lộ thông tin này, điều mà thường xuyên bị bỏ qua.)
Khi chúng ta đọc qua kho tàng nghiên cứu khổng lồ về thiền hiện nay, đôi khi
chúng ta phải nhăn mặt khi bắt gặp sự nhầm lẫn và ngây thơ của một số nhà khoa
học về các chi tiết cụ thể. Họ thường xuyên mắc sai lầm một cách đơn giản,
chẳng hạn như bài báo khoa học tuyên bố rằng trong cả thiền Thiền tông (Zen) và
thiền quán-vipassana theo phong cách Goenka, thiền giả đều mở mắt (điều sai ở
đây là: Goenka yêu cầu mọi người nhắm mắt).
Một số ít nghiên cứu đã sử dụng phương pháp "chống thiền" (antimeditation)
như một nhóm đối chứng tích cực. Trong một phiên bản của cái gọi là "chống
thiền" này, các tình nguyện viên được yêu cầu tập trung vào càng nhiều suy
nghĩ tích cực càng tốt—điều này trên thực tế lại tương đồng với một số phương
pháp quán chiếu, chẳng hạn như thiền lòng từ bi (loving-kindness meditation) mà
chúng ta sẽ xem xét trong chương sáu. Việc những người thực hiện thí nghiệm đó
nghĩ rằng đây là hoạt động khác với thiền đã cho thấy sự nhầm lẫn của họ về
chính xác điều mà họ đang nghiên cứu.
Quy tắc chung là—cái gì được thực hành thì cái đó được cải thiện—nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc kết hợp một chiến lược tinh thần cụ thể trong thiền với kết
quả mà nó mang lại. Điều này đúng với cả những người nghiên cứu về thiền và
những người thực hành thiền: người ta phải nhận thức được những kết quả có khả
năng xảy ra từ một phương pháp thiền cụ thể. Chúng không hề giống nhau, trái
ngược với sự hiểu lầm của một số nhà nghiên cứu, và thậm chí cả một số người
thực hành.
Trong lĩnh vực tâm trí (cũng như mọi nơi khác), những gì bạn làm sẽ quyết định
những gì bạn nhận được. Tóm lại, "thiền" không phải là một hoạt động
duy nhất mà là một phạm vi thực hành rộng lớn, tất cả đều tác động theo những
cách riêng biệt lên tâm trí và não bộ.
Lạc lối ở Xứ sở thần tiên, Alice hỏi Mèo Cheshire: "Tôi nên đi lối
nào?"
Nó trả lời: "Điều đó tùy thuộc vào nơi bạn muốn đến."
Lời khuyên của Mèo Cheshire dành cho Alice cũng hoàn toàn đúng với thiền tập.
ĐẾM SỐ GIỜ
Mỗi người trong số các thiền giả "có kinh nghiệm" của Dan, tất cả đều
là giáo thọ của Thiền Siêu Việt (TM), đã thực hành TM ít nhất hai năm. Nhưng
Dan không có cách nào để biết tổng cộng họ đã bỏ ra bao nhiêu giờ trong suốt
những năm đó. Dan cũng không biết chất lượng thực tế của những giờ thiền đó là
như thế nào.
Ngay cả ngày nay, rất ít nhà nghiên cứu có được mẩu dữ liệu quan trọng này.
Nhưng, như chúng ta sẽ thấy chi tiết hơn trong chương mười ba, "Thay đổi
đặc tính", mô hình thay đổi của chúng tôi theo dõi tổng số giờ thực hành
trọn đời mà một thiền giả đã thực hiện, và liệu đó là thực hành hàng ngày hay
trong các khóa nhập thất (retreat). Tổng số giờ này sau đó được kết nối với
những thay đổi trong các phẩm chất hiện hữu và những khác biệt tiềm ẩn trong
não bộ làm phát sinh những phẩm chất đó.
Rất thường xuyên, các thiền giả bị gộp vào các nhóm kinh nghiệm chung chung như
"người mới bắt đầu" và "chuyên gia" mà không có bất kỳ chi
tiết cụ thể nào khác. Một nhóm nghiên cứu đã báo cáo thời gian hàng ngày mà
những người họ nghiên cứu dành cho thiền—dao động từ mười phút vài lần một tuần
đến 240 phút mỗi ngày—nhưng lại không báo cáo họ đã thực hành trong bao nhiêu
tháng hoặc năm, điều này là thiết yếu để tính toán tổng số giờ thực hành trọn
đời.
Tuy nhiên, phép tính này lại thiếu vắng trong đại đa số các nghiên cứu về
thiền. Ví dụ, nghiên cứu Zen-Thiền tông kinh điển từ những năm 1960 cho thấy sự
thất bại trong việc làm quen (failure to habituate) với các âm thanh lặp đi lặp
lại—là một trong số ít các nghiên cứu tồn tại thời bấy giờ và là nghiên cứu
khiến chúng tôi quan tâm ngay từ đầu—thực chất đã cung cấp dữ liệu rất thưa
thớt về kinh nghiệm thiền của các nhà sư Zen. Liệu đó là một giờ mỗi ngày, mười
phút, không có ngày nào, hay sáu giờ mỗi ngày? Họ đã tham gia bao nhiêu khóa
nhập thất (sesshins) với việc thực hành chuyên sâu hơn, và mỗi khóa bao gồm bao
nhiêu giờ thiền? Chúng tôi không hề có ý niệm gì.
Cho đến ngày nay, danh sách các nghiên cứu mắc phải sự không chắc chắn này vẫn
có thể kéo dài mãi. Nhưng việc thu thập thông tin chi tiết về tổng số giờ thực
hành trọn đời của một thiền giả đã trở thành quy trình vận hành tiêu chuẩn
(standard operating procedure) trong phòng thí nghiệm của Richie. Mỗi thiền giả
mà họ nghiên cứu đều báo cáo về loại thiền mà họ thực hành, thường xuyên thế
nào và thời lượng họ thực hành trong một tuần cụ thể, và liệu họ có tham gia
các khóa nhập thất hay không.
Nếu có tham gia nhập thất, họ ghi lại họ thực hành bao nhiêu giờ mỗi ngày trong
khóa nhập thất, khóa nhập thất đó kéo dài bao lâu, và họ đã tham gia bao nhiêu
khóa như vậy. Thậm chí hơn thế nữa, các thiền giả xem xét kỹ lưỡng từng khóa
nhập thất và ước tính thời gian dành cho các phong cách thiền khác nhau. Phép
tính này cho phép nhóm nghiên cứu của Davidson phân tích dữ liệu của họ dựa
trên tổng số giờ thực hành và tách biệt thời gian dành cho các phong cách khác
nhau và thời gian nhập thất so với thời gian thực hành tại nhà.
Như chúng ta sẽ thấy, đôi khi có một mối quan hệ liều lượng-phản ứng
(dose-response relationship) khi nói đến lợi ích hành vi và não bộ từ thiền
tập: bạn thực hành càng nhiều, lợi ích thu được càng lớn. Điều đó có nghĩa là
khi các nhà nghiên cứu không báo cáo tổng số giờ thực hành trọn đời của những
thiền giả họ đang nghiên cứu, một thông tin quan trọng đã bị thiếu sót. Tương
tự, quá nhiều nghiên cứu về thiền bao gồm một nhóm "chuyên gia"
(thiền tập) lại cho thấy sự khác biệt lớn trong ý nghĩa của thuật ngữ đó—và
không sử dụng một thước đo chính xác về số giờ mà những "chuyên gia"
này đã thực hành.
Nếu những người được nghiên cứu đang hành thiền lần đầu tiên—chẳng hạn, được
huấn luyện về chánh niệm (mindfulness)—thì số giờ thực hành của họ là dễ xác
định (số giờ hướng dẫn cộng thêm số giờ họ tự thực hành tại nhà). Tuy nhiên,
nhiều nghiên cứu thú vị hơn lại xem xét các thiền giả lâu năm mà không tính
toán tổng số giờ trọn đời của mỗi người, con số này có thể khác biệt rất lớn.
Chẳng hạn, một nghiên cứu đã gộp chung những thiền giả có kinh nghiệm từ một
năm đến hai mươi chín năm!
Sau đó còn có vấn đề về kinh nghiệm chuyên môn giữa những người hướng dẫn
thiền. Một số ít nghiên cứu trong số rất nhiều nghiên cứu chúng tôi đã xem xét
có đề cập đến số năm kinh nghiệm thiền của các giáo thọ, mặc dù không có nghiên
cứu nào tính toán tổng số giờ thực hành trọn đời của họ. Trong một nghiên cứu,
con số cao nhất là khoảng mười lăm năm; con số thấp nhất là không (zero).
VƯỢT RA NGOÀI HIỆU ỨNG HAWTHORNE
Quay trở lại những năm 1920, tại Hawthorne Works, một nhà máy sản xuất thiết bị
điện gần Chicago, những người làm thí nghiệm chỉ đơn giản là cải thiện ánh sáng
trong nhà máy đó và điều chỉnh nhẹ lịch làm việc. Nhưng, ngay cả với những thay
đổi nhỏ tốt hơn đó, mọi người đã làm việc chăm chỉ hơn—ít nhất là trong một
thời gian. (“Hiệu
ứng Hawthorne"—một hiện tượng tâm lý nổi tiếng. Nó mô tả
thí nghiệm ban đầu, trong đó ngay cả những cải tiến nhỏ về điều kiện làm việc
cũng dẫn đến sự gia tăng năng suất của nhân viên.)
Bài học rút ra là: bất kỳ sự can thiệp tích cực nào (và có lẽ, chỉ đơn giản là
có người quan sát hành vi của bạn) cũng sẽ thúc đẩy mọi người nói rằng họ cảm
thấy tốt hơn hoặc cải thiện theo một cách nào đó. Tuy nhiên, những "Hiệu
ứng Hawthorne" như vậy không có nghĩa là có bất kỳ yếu tố giá trị gia tăng
độc đáo nào đến từ một sự can thiệp cụ thể; sự cải thiện tương tự sẽ xảy ra từ
bất kỳ thay đổi nào mà mọi người coi là tích cực.
Phòng thí nghiệm của Richie, vốn đã nhạy cảm với các vấn đề như Hiệu ứng
Hawthorne, đã dành nhiều suy nghĩ và nỗ lực đáng kể để sử dụng các điều kiện so
sánh phù hợp trong các nghiên cứu về thiền của họ. Sự nhiệt tình của người
hướng dẫn đối với một phương pháp cụ thể có thể "lây lan" sang những
người học nó—và vì vậy, phương pháp "đối chứng" cũng nên được giảng
dạy với mức độ tích cực tương đương như đối với phương pháp thiền.
Để loại bỏ những tác động ngoại lai (extraneous effects) như thế này khỏi những
tác động thực tế của thiền, Richie và các đồng nghiệp của ông đã phát triển
Chương trình Nâng cao Sức khỏe (HEP) (Health Enhancement Program) như một điều
kiện so sánh (nhóm đối chứng) cho các nghiên cứu về giảm căng thẳng dựa trên
chánh niệm (mindfulness-based stress reduction). HEP bao gồm liệu pháp âm nhạc
với thư giãn; giáo dục dinh dưỡng; và các bài tập vận độngnhư cải thiện tư thế,
thăng bằng, tăng cường cơ lõi, kéo căng cơ, và đi bộ hoặc chạy bộ.
Trong các nghiên cứu của phòng thí nghiệm (Richie), những người hướng dẫn dạy
HEP đều tin rằng chương trình sẽ có ích, giống hệt như niềm tin của những người
dạy thiền. Một "nhóm đối chứng tích cực" như vậy có thể trung hòa các
yếu tố như sự nhiệt tình, và do đó xác định tốt hơn những lợi ích độc đáo của
bất kỳ sự can thiệp nào—trong trường hợp này là thiền—để xem nó mang lại điều
gì vượt trên cả lợi thế của Hiệu ứng Hawthorne.
Nhóm nghiên cứu của Richie đã phân bổ ngẫu nhiên các tình nguyện viên vào một
trong hai nhóm: Chương trình Nâng cao Sức khỏe (HEP) hoặc Giảm căng thẳng dựa
trên Chánh niệm (MBSR). Sau đó, trước và sau khóa huấn luyện, họ yêu cầu các
tình nguyện viên điền vào các bảng câu hỏi vốn đã phản ánh sự cải thiện từ
thiền trong các nghiên cứu trước đây.
Nhưng trong nghiên cứu này, cả hai nhóm đều báo cáo sự cải thiện tương đương
trên các thước đo chủ quan về căng thẳng nói chung, lo âu và các triệu chứng y
tế. Điều này khiến nhóm của Richie kết luận rằng phần lớn những cải thiện về
giảm căng thẳng mà những người mới bắt đầu gán cho thiền dường như không phải
là độc nhất (tức là không phải chỉ có thiền mới mang lại).13
Hơn nữa, trên một bảng câu hỏi được phát triển đặc biệt để đo lường chánh niệm,
tuyệt đối không tìm thấy sự khác biệt nào về mức độ cải thiện giữa MBSR và
HEP.14
Điều này đã dẫn đến việc phòng thí nghiệm của Richie kết luận rằng đối với loại
hình chánh niệm này, và có khả năng là đối với bất kỳ loại thiền nào khác,
nhiều lợi ích được báo cáo trong giai đoạn đầu của việc thực hành có thể được
quy cho kỳ vọng, sự gắn kết xã hội trong nhóm, sự nhiệt tình của người hướng
dẫn, hoặc các "đặc điểm nhu cầu"(demand characteristics) khác. Thay
vì đến từ bản thân thiền (meditation per se), bất kỳ lợi ích nào được báo cáo
có thể chỉ đơn giản là dấu hiệu cho thấy mọi người có những hy vọng và kỳ vọng
tích cực.
Dữ liệu như vậy là lời cảnh báo cho bất kỳ ai đang tìm kiếm một phương pháp
thiền để cảnh giác với những tuyên bố thổi phồng về lợi ích của nó. Và cũng là
hồi chuông cảnh tỉnh cho cộng đồng khoa học để nghiêm ngặt hơn trong việc thiết
kế các nghiên cứu về thiền. Việc chỉ tìm thấy rằng những người thực hành loại
thiền này hay loại thiền khác báo cáo sự cải thiện so với những người trong
nhóm đối chứng không làm gì cả không có nghĩa là những lợi ích đó là do bản
thân thiền. Tuy nhiên, đây có lẽ là mô hình phổ biến nhất vẫn được sử dụng
trong nghiên cứu về lợi ích của thiền—và nó làm che mờ bức tranh về những lợi
thế thực sự của việc thực hành thiền.
Chúng ta có thể mong đợi những báo cáo nhiệt tình tương tự từ một người kỳ vọng
tăng cường sức khỏe bằng cách tập Pilates, chơi bowling, hoặc áp dụng Chế độ ăn
kiêng Paleo.
CHÁNH NIỆM CHÍNH XÁC LÀ GÌ?
Sau đó còn có sự nhầm lẫn về điều chúng ta muốn nói đến khi nhắc đến chánh niệm
(mindfulness), có lẽ là phương pháp phổ biến nhất hiện nay (du jour) trong giới
nghiên cứu. Một số nhà khoa học sử dụng thuật ngữ này như một từ đại diện cho
bất kỳ và tất cả các loại thiền. Và trong cách sử dụng phổ biến, chánh niệm có
thể đề cập đến thiền nói chung, mặc dù sự thật là chánh niệm chỉ là một trong
nhiều phương pháp đa dạng.
Để đi sâu hơn một chút, chánh niệm (mindfulness) đã trở thành bản dịch tiếng
Anh phổ biến nhất của từ sati trong tiếng Pali. Tuy nhiên, các học giả lại dịch
sati theo nhiều cách khác nhau—"nhận biết" (awareness), "chú ý"
(attention), "ghi nhớ" (retention), thậm chí là "sự sáng
suốt/phân biệt" (discernment).15 Tóm lại, không có một từ tiếng Anh tương
đương duy nhất cho sati mà tất cả các chuyên gia đều đồng ý.16
Một số truyền thống thiền định dành từ “chánh niệm” (mindfulness) để chỉ việc
nhận thấy khi tâm trí bị xao lãng (mind wanders). Theo nghĩa này, chánh niệm
trở thành một phần của một chuỗi trình tự lớn hơn bắt đầu bằng việc tập trung
vào một thứ, sau đó tâm trí đi lang thang sang thứ khác, và rồi đến khoảnh khắc
chánh niệm: nhận ra tâm trí đã đi lang thang. Chuỗi trình tự kết thúc bằng việc
đưa sự chú ý trở lại điểm tập trung.
Trình tự đó—quen thuộc với bất kỳ thiền giả nào—cũng có thể được gọi là “tập
trung” (concentration), nơi chánh niệm đóng một vai trò hỗ trợ trong nỗ lực tập
trung vào một thứ. Chẳng hạn, trong việc tập trung nhất tâm vào một mật ngôn
(mantra), đôi khi lời hướng dẫn là: “Bất cứ khi nào bạn nhận thấy tâm trí mình
đi lang thang, hãy nhẹ nhàng bắt đầu lại mật ngôn.” Trong cơ chế của thiền,
việc tập trung vào một thứ duy nhất cũng có nghĩa là nhận thấy khi tâm trí bạn
đi lang thang để bạn có thể đưa nó quay lại—và vì thế, sự tập trung và chánh
niệm đi đôi với nhau.
Một ý nghĩa phổ biến khác của chánh niệm (mindfulness) đề cập đến một trạng
thái nhận biết trôi nổi (floating awareness) chứng kiến bất cứ điều gì xảy ra
trong trải nghiệm của chúng ta mà không phán xét hoặc phản ứng theo cách khác.
Có lẽ định nghĩa được trích dẫn rộng rãi nhất đến từ Jon Kabat-Zinn: "Sự
nhận biết nảy sinh thông qua việc cố ý chú tâm, trong khoảnh khắc hiện tại, và
không phán xét đối với sự diễn ra của kinh nghiệm."17
Từ quan điểm của khoa học nhận thức, lại có một sự phức tạp khác khi nói đến
các phương pháp chính xác được sử dụng: thứ được cả các nhà khoa học và người thực
hành gọi là "chánh niệm" (mindfulness) có thể đề cập đến những cách
thức triển khai sự chú ý rất khác nhau. Ví dụ, cách chánh niệm được định nghĩa
trong bối cảnh Thiền tông (Zen)hoặc Theravada trông không giống lắm với cách
hiểu thuật ngữ này trong một số truyền thống Tây Tạng.
Mỗi cách hiểu đều đề cập đến những thái độ chú ý khác nhau (đôi khi chỉ khác
biệt vi tế)—và rất có thể liên quan đến những tương quan não bộ không đồng nhất
(disparate brain correlates). Vì vậy, điều cốt yếu là các nhà nghiên cứu phải
hiểu được loại chánh niệm nào họ đang thật sự nghiên cứu—hoặc liệu, trên thực
tế, một loại thiền cụ thể có thật sự là chánh niệm hay không.
Ý nghĩa của thuật ngữ chánh niệm (mindfulness) trong nghiên cứu khoa học đã có
một bước ngoặt kỳ lạ. Một trong những thước đo chánh niệm được sử dụng phổ biến
nhất lại không được phát triển dựa trên những gì xảy ra trong quá trình thiền
chánh niệm thực tế, mà bằng cách thử nghiệm trên hàng trăm sinh viên đại học
với một bảng câu hỏi mà các nhà nghiên cứu nghĩ rằng sẽ nắm bắt được các khía
cạnh khác nhau của chánh niệm. Ví dụ, bạn được hỏi liệu những câu phát biểu như
thế này có đúng với mình không: "Tôi quan sát cảm xúc của mình mà không bị
chúng cuốn đi" hoặc "Tôi thấy khó khăn để duy trì sự tập trung vào
những gì đang xảy ra trong khoảnh khắc hiện tại."
Bài kiểm tra bao gồm các phẩm chất như không tự phán xét bản thân—ví dụ, khi
bạn có một cảm xúc không phù hợp. Thoạt nhìn, điều này có vẻ ổn. Thước đo chánh
niệm như vậy nên và thật sự có tương quan với sự tiến bộ của mọi người trong
các chương trình huấn luyện như MBSR, và điểm số của bài kiểm tra tương quan
với số lượng và chất lượng của việc thực hành chánh niệm.19 Từ quan điểm kỹ
thuật, điều đó rất tốt—nó được gọi là "tính hợp lệ cấu trúc"(construct
validity) trong ngành đo lường.
Nhưng khi nhóm của Richie đưa thước đo đó vào một bài kiểm tra kỹ thuật khác,
họ đã tìm thấy vấn đề về "tính hợp lệ phân biệt" (discriminant
validity), tức là khả năng của một thước đo không chỉ tương quan với những gì
nó nên tương quan—như MBSR—mà còn không tương quan với những gì nó không nên
tương quan. Trong trường hợp này, bài kiểm tra đó không nên phản ánh sự thay
đổi ở những người trong nhóm đối chứng tích cực HEP, vốn được thiết kế có chủ
đích là không nhằm mục đích nâng cao chánh niệm dưới bất kỳ hình thức nào.
Nhưng kết quả từ những người tham gia HEP (Health Enhancement Program) lại gần
như giống hệt với kết quả từ MBSR—một sự tăng vọt trong chánh niệm theo đánh
giá của bài kiểm tra tự báo cáo. Nói một cách chính xác hơn về mặt hình thức,
không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy thước đo này có tính hợp lệ phân biệt
(discriminant validity). Chà!
Một thước đo tự báo cáo về chánh niệm được sử dụng rộng rãi khác, trong một
nghiên cứu, lại cho thấy mối tương quan thuận giữa việc uống rượu vô độ (binge
drinking) và chánh niệm—càng uống rượu nhiều, mức độ chánh niệm càng cao. Có vẻ
như có điều gì đó sai lệch nghiêm trọng ở đây!20 Và một nghiên cứu nhỏ với mười
hai thiền giả lâu năm (trung bình 5.800 giờ thực hành) và mười hai thiền giả
chuyên gia hơn (trung bình 11.000 giờ thực hành) cho thấy họ khác biệt so với
nhóm không thiền ở hai thước đo chánh niệm bằng bảng câu hỏi rất phổ biến, có
lẽ bởi vì họ ý thức rõ hơn về sự xao lãng của tâm trí so với hầu hết mọi
người.21
Bất kỳ bảng câu hỏi nào yêu cầu mọi người tự báo cáo về bản thân đều có thể dễ
bị sai lệch. Một nhà nghiên cứu đã nói thẳng thắn hơn: "Những thứ này có
thể bị gian lận." Vì lý do đó, nhóm nghiên cứu của Davidson đã đưa ra một
thước đo hành vi mạnh mẽ hơn mà họ tin tưởng: khả năng duy trì sự tập trung khi
bạn đếm hơi thở của mình, từng hơi một.
Điều này không đơn giản như nghe có vẻ hợp lý. Trong bài kiểm tra, bạn nhấn
phím mũi tên xuống trên bàn phím mỗi khi thở ra. Và để tăng độ khó, cứ đến lần
thở ra thứ chín, bạn lại phải nhấn một phím khác, đó là mũi tên phải. Sau đó,
bạn bắt đầu đếm hơi thở của mình từ một đến chín lại.22 Điểm mạnh của bài kiểm
tra này: sự khác biệt giữa số lần bạn đếm và số hơi thở thực tế mà bạn đã hít
vào/thở ra tạo ra một thước đo khách quan ít bị ảnh hưởng bởi thiên vị tâm lý
hơn. Khi tâm trí bạn bị xao lãng, độ chính xác khi đếm của bạn sẽ giảm sút.
Đúng như dự đoán, các thiền giả chuyên gia thực hiện bài kiểm tra tốt hơn đáng
kể so với người không thiền, và điểm số của bài kiểm tra này được cải thiện khi
được huấn luyện chánh niệm.23
Tất cả những đánh giá mang tính cảnh báo này—những rắc rối trong các nỗ lực
nghiên cứu thiền ban đầu của chúng ta, lợi thế của việc sử dụng nhóm đối chứng
tích cực, nhu cầu về sự nghiêm ngặt và chính xác hơn trong việc đo lường tác
động của thiền—dường như là một lời mở đầu thích hợp cho việc chúng ta sắp dấn
thân vào biển nghiên cứu đang gia tăng về thiền.
Trong việc tóm tắt các kết quả này, chúng tôi đã cố gắng áp dụng các tiêu chuẩn
thực nghiệm nghiêm ngặt nhất, điều này cho phép chúng tôi tập trung vào những
phát hiện mạnh mẽ nhất. Điều này đồng nghĩa với việc gạt sang một bên phần lớn
các nghiên cứu về thiền—bao gồm cả những kết quả mà các nhà khoa học coi là
đáng ngờ, không có kết luận rõ ràng, hoặc bị sai sót theo một cách nào đó.
Như chúng ta đã thấy, các phương pháp nghiên cứu có phần sai sót của chúng tôi
trong thời kỳ học cao học ở Harvard đã phản ánh chất lượng chung—hay sự thiếu
chất lượng—trong những thập kỷ đầu của nghiên cứu về thiền, những năm 1970 và
1980. Ngày nay, những nỗ lực nghiên cứu ban đầu của chúng tôi sẽ không đáp ứng
được tiêu chuẩn của chính chúng tôi để được đưa vào đây. Thật vậy, một tỷ lệ
lớn các nghiên cứu về thiền bằng cách này hay cách khác thất bại trong việc đáp
ứng tiêu chuẩn vàng về phương pháp nghiên cứu, vốn là điều cần thiết để được
công bố trên các tạp chí khoa học hàng đầu, cấp độ "A".
Chắc chắn, qua nhiều năm, mức độ tinh vi của nghiên cứu đã tăng lên khi
số lượng các nghiên cứu về thiền đã bùng nổ lên hơn một ngàn nghiên cứu mỗi
năm. Làn sóng nghiên cứu khổng lồ (tsunami) này tạo ra một bức tranh mơ hồ, với
một mớ kết quả lộn xộn và khó hiểu. Ngoài việc tập trung vào những phát hiện
mạnh mẽ nhất, chúng tôi cố gắng làm nổi bật những mô hình có ý nghĩa bên trong
sự hỗn loạn đó.
Chúng tôi đã chia khối lượng lớn các phát hiện này theo các thay đổi về đặc
tính (trait changes) được mô tả trong văn học kinh điển của nhiều truyền thống
tâm linh vĩ đại. Chúng tôi xem những văn bản đó như là việc đưa ra các giả
thuyết làm việc (working hypotheses) từ thời cổ đại cho nghiên cứu ngày nay.
Chúng tôi cũng đã liên kết những thay đổi về đặc tính này với các hệ thống não
bộ có liên quan, bất cứ khi nào dữ liệu cho phép. Bốn con đường thần kinh chính
mà thiền chuyển hóa là:
⁃ Thứ nhất, những con
đường dành cho việc phản ứng với các sự kiện gây xáo trộn—căng thẳng và sự phục
hồi của chúng ta từ nó (điều mà Dan đã cố gắng ghi lại nhưng không mấy thành
công).
⁃ Như chúng ta sẽ thấy,
hệ thống não bộ thứ hai, dành cho lòng từ bi và sự đồng cảm, hóa ra lại rất sẵn
sàng để được nâng cấp (remarkably ready for an upgrade).
⁃ Thứ ba, mạch thần
kinh dành cho sự chú ý—mối quan tâm ban đầu của Richie—cũng cải thiện theo
nhiều cách—điều này không có gì ngạc nhiên, vì thiền về cốt lõi là việc tái rèn
luyện thói quen tập trung của chúng ta.
⁃ Hệ thống thần kinh
thứ tư, dành cho chính cảm giác về bản thân (sense of self) của chúng ta, ít
được nhắc đến trong các cuộc thảo luận hiện đại về thiền, mặc dù theo truyền
thống, nó là một mục tiêu chính để thay đổi.
Khi những sợi dây thay đổi này được cuộn lại với nhau (kết nối lại với
nhau), có hai cách chính mà bất kỳ ai cũng được hưởng lợi từ nỗ lực quán chiếu:
có một cơ thể khỏe mạnh và một tâm trí khỏe mạnh. Chúng tôi dành các chương
riêng để nghiên cứu về từng khía cạnh này.
Trong quá trình sàng lọc các tác động chính về đặc tính (trait effects)
của thiền, chúng tôi phải đối mặt với một nhiệm vụ khổng lồ (gargantuan
task)—một nhiệm vụ mà chúng tôi đã đơn giản hóa bằng cách giới hạn kết luận của
mình chỉ ở những nghiên cứu tốt nhất (nghiêm ngặt nhất). Cách tiếp cận chặt chẽ
này tương phản với thông lệ quá phổ biến là chấp nhận các phát hiện—và tán
dương chúng—chỉ đơn giản vì chúng được công bố trên một tạp chí "đã được
bình duyệt"(peer-reviewed).
Thứ nhất, bản thân các tạp chí học thuật cũng khác nhau về tiêu chuẩn mà đồng
nghiệp sử dụng để xem xét các bài báo; chúng tôi đã ưu tiên các tạp chí cấp độ
A (A-level journals), những tạp chí có tiêu chuẩn cao nhất. Thứ hai, chúng tôi
đã xem xét cẩn thận các phương pháp được sử dụng, thay vì bỏ qua nhiều hạn chế
và thiếu sót trong các nghiên cứu đã công bố này, những điều vốn được liệt kê
một cách có trách nhiệm ở cuối các bài báo đó.
Để bắt đầu, nhóm nghiên cứu của Richie đã thu thập một bộ sưu tập toàn diện cho
một chủ đề cụ thể, chẳng hạn như lòng từ bi (compassion), từ tất cả các bài báo
tạp chí đã xuất bản về tác động của thiền. Sau đó, họ đã sàng lọc (winnowed
them) để chọn ra những bài báo đáp ứng tiêu chuẩn cao nhất về thiết kế thực
nghiệm.
Ví dụ, trong số 231 báo cáo ban đầu về việc nuôi dưỡng lòng từ bi
(loving-kindness) hoặc lòng trắc ẩn, chỉ 37 báo cáo đáp ứng các tiêu chuẩn
thiết kế hàng đầu. Và khi Richie xem xét chúng qua lăng kính của độ vững chắc
của thiết kế và tầm quan trọng, loại bỏ sự trùng lặp, và tinh lọc chúng, sự xem
xét kỹ lưỡng này đã làm giảm con số đó xuống chỉ còn khoảng 8 nghiên cứu, những
phát hiện mà chúng tôi sẽ thảo luận trong chương sáu, "Sẵn sàng cho tình
yêu" (Primed for Love), cùng với một vài nghiên cứu khác đặt ra những vấn
đề thuyết phục.
Các đồng nghiệp khoa học của chúng tôi có thể mong đợi một bản thống kê
chi tiết hơn nhiều—được rồi, ám ảnh (obsessive)—về tất cả các nghiên cứu liên
quan, nhưng đó không phải là chương trình nghị sự của chúng tôi ở đây. Tuy
nhiên, chúng tôi nên bày tỏ sự cảm kích sâu sắc đối với nhiều nỗ lực nghiên cứu
mà chúng tôi đã không đưa vào, những nghiên cứu có phát hiện đồng tình với lời
giải thích của chúng tôi (hoặc không đồng tình, hoặc thêm một góc nhìn mới),
một số là xuất sắc và một số thì không.
Nhưng hãy giữ mọi thứ đơn giản./.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét