Thứ Bảy, 27 tháng 12, 2025

LONGCHENPA VỀ PHẬT TÁNH


Nguyên tác: Longchenpa on Buddha-Nature
Việt dịch: Quảng Cơ 
Biên tập: Tuệ Uyển 

***

“Các kinh thuộc nghĩa quyết định (kinh liễu nghĩa)của lần chuyển pháp luân cuối cùng đã hiển bày rõ ràng đại bí mật của chư Phật đúng như thực. Những kinh này gồm có: 
Kinh Đà-la-ni Tự-tại-vương Sở Vấn (Dhāraṇīśvararājaparipṛcchā), 
Kinh Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng (Śrīmālādevīsiṃhanādaparipṛcchā), 
Kinh Bảo Nữ Sở Vấn (Ratnadārikāparipṛcchā), 
Kinh Vô Cấu Thí Nữ Sở Vấn (Vimaladevīparipṛcchā), 
Kinh Ương Quật Ma La (Aṅgulimālīya), 
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinirvāṇa), 
Kinh Di Lặc Sở Vấn (Maitreya-paripṛcchā), và 
Kinh Như Lai Tạng (Tathāgaâtgarbha).

Những kinh này dạy rằng pháp giới (dharmadhātu), tức là bản tánh vốn thanh tịnh của tâm hay Phật chủng (khams), bản thể của chư Như Lai (tathāgatagarbha), vốn hiện hữu một cách nguyên sơ trong tất cả chúng sinh. Nó hiện hữu ngay từ khởi thủy và không hề biến đổi.

Tự nhiên và ngay từ ban đầu, phương diện hiển lộ của nó là nguồn gốc của các tướng hảo lớn và nhỏ của sắc thân (rūpakāya – thân hình tướng); còn phương diện tánh không của nó chính là pháp thân (dharmakāya – thân của thực tại tối hậu), vượt ngoài mọi cực đoan khái niệm.

Vì tất cả các phẩm tính giác ngộ đều tự nhiên hiện diện nơi đó, nên nó giống như một viên ngọc; vì nó không thay đổi, nên nó giống như hư không; và vì nó thấm khắp tất cả chúng sinh, như thể làm ướt nhuần họ, nên nó giống như nước.

Bằng tất cả những ẩn dụ như vậy, Như Lai Tạng (tathāgatagarbha’ được trình bày. Như được nói trong Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tánh Luận (Uttaratantra-śāstra), …”

“Như ngọc, như hư không, như nước đều vốn thanh tịnh,
Tự tánh của nó trong mọi lúc đều không hề nhiễm ô.”

Vì dù bị che lấp bởi các cấu nhiễm, Như Lai Tạng tự nó vẫn không hề nhiễm ô. Bản tánh của tâm vốn sáng tỏ từ vô thủy. Như được nói trong Bát Thiên Tụng Bát-nhã Ba-la-mật-đa: ‘Xét về tâm thì tâm không tồn tại; bản tánh của tâm là quang minh.’ Đó chính là Phật giới (khams) hay chủng tánh / tiềm năng (rigs) hiện diện nơi tất cả chúng sinh. Bảo Tánh Luận (Uttaratantra) tuyên thuyết rằng, 

Vì Phật thân viên mãn bao trùm khắp tất cả,
Vì trong chân như không hề có sai biệt,
Vì hết thảy đều có khả năng thành giác ngộ,
Nên mọi chúng sinh luôn luôn có Phật tánh.

Phật tính này được nói là “phạm vi thanh tịnh vô thủy của thực tại tối hậu” (thog ma med pa’i chos khams dge ba). Đó là vị Phật nguyên sơ hiện diện trong nền tảng. Như được nói trong Văn-thù Danh Hiệu Tán Ca (Mañjuśrīnāmasaṃgīti): “Không có chư Phật nào là đầu tiên hay cuối cùng. Phật Nguyên Sơ không nghiêng về bên nào.” Và Hevajra Tantra (Mật điểnKim Cang) bản Hai Phần nói rằng,

Chúng sinh thật sự là chư Phật,
Nhưng bị che lấp bởi những cấu nhiễm ngẫu nhiên.
Khi những che chướng ấy được loại trừ,
Thì quả thật họ chính là chư Phật.

Khi còn là một phàm phu, bản tính của tâm, xét từ phương diện hiển hiện, thì đầy đủ trọn vẹn các phẩm tính của sắc thân (rūpakāya); còn xét từ phương diện tánh không, thì hội đủ tất cả các phẩm tính của pháp thân (dharmakāya). Tuy nhiên, do bản tính của tâm bị che lấp bởi các cấu nhiễm nên chưa thực sự hiển lộ, vì thế nó được gọi là “giới” (khams) hay “chủng tính / tiềm năng” (rigs). Khi giác ngộ (sangs rgyas), tâm được giải thoát khỏi mọi cấu nhiễm và được gọi là “Bồ-đề” hay “Giác ngộ” (byang chub). Sự khác biệt duy nhất giữa hai trạng thái này chỉ nằm ở chỗ bản tính của tâm có được hiển lộ hoàn toàn hay không. Không hề nói rằng các phẩm tính của giác ngộ vốn không tồn tại trong trạng thái phàm phu rồi sau này mới được sinh ra. Bởi lẽ, những phẩm tính ấy vượt ngoài mọi vận động và biến đổi. Như được nói trong Kinh Hiển Bày Trọn Vẹn Bản Chất (Cứu Cánh Hiển Thị Bản Chất Kinh - Complete Revelation of the Essence Sūtra), rằng:

Phạm vi tối hậu vô thủy
Là chỗ an trụ của hết thảy các pháp.
Vì mọi hữu tình đều sẵn có điều ấy,
Nên tất cả đều có cảnh giới vượt ngoài mọi khổ đau.
Xưa kia thế nào, về sau cũng như vậy;
Đó là chân như bất biến.

Tính chất quang minh của bản tính tâm không bị nhiễm ô bởi các cấu uế. Như được nói trong Uttaratantra (Bảo Tánh Luận), rằng:

Bản tính của tâm này, sự quang minh này,
Tựa như hư không, không hề biến đổi.
Tham ái và các thứ khác chỉ là những cấu nhiễm ngẫu nhiên,
Phát sinh từ vọng tưởng, và không thể làm ô nhiễm nó.

Phật chủng (buddha-potential) có thể được phân loại thành hai: chủng tính tự nhiên hiện hữu (rang bzhin gnas rigs), vốn tồn tại ngay từ vô thủy, và chủng tính được thành tựu (bsgrub pa’i rigs), phát sinh trên cơ sở các pháp tu nhằm loại trừ những cấu nhiễm mang tính hoàn cảnh. Chủng tính tự nhiên hiện hữu lại có thể phân thành hai loại.

Thứ nhất là chủng tính tự nhiên hiện hữu chính là bản tính tối hậu của các pháp — tức tánh không của tâm, lìa mọi cực đoan của khái niệm (chos nyid rang bzhin du gnas pa’i rigs). Đây là nhân của sự đoạn trừ hay tách lìa (bral rgyu) các cấu chướng khỏi tự tính thân (svābhāvikakāya).

Thứ hai là chủng tính tự nhiên hiện hữu với tư cách là sự hiển hiện hiện tượng của bản tính tối hậu (chos can rang bzhin du gnas pa’i rigs). Đây là nhân của sự đoạn trừ hay tách lìa các cấu chướng khỏi sắc thân tối thượng (rūpakāya).

Ngay từ vô thủy, phương diện hiển hiện của các pháp đã dự phần nơi bản tính tối hậu. Như Kinh Đại Bát Niết-bàn (Parinirvāṇa-sūtra) nói rằng: Này người con của dòng tộc ta, bản tính của tâm tự nhiên là quang minh, tự nhiên không có tự tính, và tự nhiên thanh tịnh. Sự hiển hiện của nó được trang nghiêm bằng những phẩm tính rực rỡ của các tướng hảo lớn và nhỏ, vốn không tách rời khỏi chính nó. Tuy nhiên, xét từ phương diện hiển hiện và tánh không, chúng được phân biệt. 

Chủng tính đã thành tựu ám chỉ chủng tính được thanh tịnh nhờ tu dưỡng Bồ-đề tâm và những pháp tu khác—tức là thông qua các pháp tu trên đường học tập, liên quan đến phương tiện thiện xảo và trí tuệ, cũng như tích lũy công đức và trí tuệ. Như Kinh Nhập Pháp Giới (Gaṇḍavyūha) nói: “À, các con của Đấng Chinh Phục! Chủng tính giác ngộ (byang chub kyi rigs) nằm trong việc tìm kiếm một cách chân thành pháp giới (dharmadhātu). Những ai đã thấy chủng tính này — tự nhiên quang minh, rộng lớn như hư không — là những người đã tu tập tích lũy trí tuệ và công đức.” Và như Bảo Tánh Luận (Uttaratantra) cũng nói rằng:

Giống như một kho báu hay một cái cây được lớn lên từ hạt giống,
tiềm năng này cần được hiểu là có hai phương diện:
sự hiện hữu tự nhiên vốn luôn tồn tại
từ thời vô thủy,
và sự viên mãn đạt được nhờ sự tu tập đúng đắn.

Từ hai phương diện của tiềm năng ấy, người ta nói rằng
Tam thân của chư Phật được thành tựu.
Từ phương diện thứ nhất sinh ra thân thứ nhất;
từ phương diện thứ hai hình thành hai thân còn lại.

Tự tánh thân (Svābhāvikakāya), thanh tịnh và viên mỹ —
cần được hiểu — giống như một pho tượng quý báu.
Bởi vì thân này hiện hữu do tự tánh của nó: không do tạo tác,
và là kho tàng của các phẩm chất quý báu.

Báo thân (Sambhogakāya) ví như một vị Chuyển Luân Thánh Vương:
là bậc tối thượng, làm chủ vương quốc hùng mạnh của giáo Pháp.
Ứng thân (Nirmāṇakāya) thì giống như một hình tướng bằng vàng:
vì thế mang đặc tính của một sự phản chiếu.

Svābhāvikakāya (Tự Tánh Thân), tức là bản tánh của tâm, là tiềm năng hiện hữu một cách tự nhiên, chính là bản tánh tối hậu của các pháp, được ví như một viên ngọc quý. Trong trạng thái tự nhiên, tự phát hiện hữu ấy, tiềm năng hiện hữu một cách tự nhiên biểu hiện thành sự hiển lộ của các hiện tượng như là sự xuất hiện của bản tánh tối hậu. Điều này chính là Báo thân (Saṃbhogakāya), được ví như một bậc Chuyển Luân Thánh Vương, và đồng thời cũng là Ứng thân (Nirmāṇakāya), tức là sự phản chiếu của Báo thân, đóng vai trò làm nền tảng cho sự hiển lộ của Ứng thân tối thượng, vốn xuất hiện vì mục đích dẫn dắt và hóa độ chúng sinh.

Đối với phàm phu, các thân này bị che phủ bởi những nhiễm ô nên không thể nhận biết được. Tuy nhiên, sự tích lũy công đức (phát sinh từ việc tu tập Bồ-đề tâm và các hạnh khác) sẽ loại bỏ những màn che che khuất Sắc thân (Rūpakāya), trong khi sự tích lũy trí tuệ (được thành tựu qua thiền quán về tính Không) sẽ tiêu trừ những màn che che khuất thực tại tối hậu, tức là Svābhāvikakāya hay tự tánh thân.

SƠ ĐỒ TAM THÂN - TỰ TÁNH THÂN 

                SVĀBHĀVIKAKĀYA
                  自性身
                (TỰ TÁNH THÂN)
        ─────────────────────────
        Bản tánh của tâm
        Thực tại tối hậu (Chân như)
        Tự nhiên hiện hữu, vô vi
        Ví dụ: Viên ngọc
        ─────────────────────────
                     │
          ┌──────────┴──────────┐
          │                     │
   SAṂBHOGAKĀYA               NIRMĀṆAKĀYA
     報身                       化身
   (BÁO THÂN)                (ỨNG / HÓA THÂN)
──────────────────        ──────────────────
• Hiển lộ từ Tự tánh      • Phản chiếu của
  thân                     Báo than
• Thân thọ dụng           • Thân phương tiện
• Chỉ Bồ-tát cao cấp      • Xuất hiện trong
  mới thấy                 thế gian
• Ví dụ: Chuyển Luân      • Ví dụ: Hình ảnh
  Thánh Vương               phản chiếu
──────────────────        ──────────────────
TÍCH LŨY CÔNG ĐỨC  →  HIỂN LỘ SẮC THÂN
   (Bồ-đề tâm)       (Báo + Ứng thân)
TÍCH LŨY TRÍ TUỆ   →  HIỂN LỘ TỰ TÁNH THÂN

   (Quán Tánh Không)

Tiềm năng hiện hữu một cách tự nhiên và tiềm năng được phát triển vốn gắn bó với nhau từ vô thủy theo mối quan hệ giữa cái nâng đỡ và cái được nâng đỡ. Tiềm năng thứ nhất giống như sự nâng đỡ của làn nước trong suốt, còn tiềm năng thứ hai giống như những hình ảnh phản chiếu đa dạng hiện ra trong nước.

Tiềm năng an trụ nơi nền tảng ấy giống như đối tượng cần được nhận biết, trong khi tiềm năng được phát triển, hiện hữu trong hoàn cảnh hiện tại, thì giống như tâm năng nhận biết. Một lần nữa, hai loại tiềm năng này lại được liên kết với nhau theo quan hệ nâng đỡ và được nâng đỡ.

Tiềm năng tự nhiên — bao gồm cả bản tánh tối hậu (chos nyid) lẫn sự hiển lộ hiện tượng của nó (chos can) — theo một cách nói nào đó, chính là nguyên nhân làm cho việc loại bỏ [các chướng ngại] trở nên khả hữu; nhưng tự nó không phải là kết quả của sự loại bỏ ấy.

Tiềm năng được phát triển thì giống như một pháp đối trị, có khả năng làm tan biến các màn che, nhưng nó không phải là nguyên nhân trực tiếp tạo ra hai thân (hai kāya) theo nghĩa của một tiến trình nhân quả, trong đó có tác nhân và đối tượng được tạo thành.

Chính tiềm năng này làm phát sinh một kho tàng phong phú các phẩm tính viên mãn, những phẩm tính ấy được chứng ngộ trên con đường tu học; rồi nó giải phóng chúng và làm cho chúng chín muồi trọn vẹn ở quả vị Phật.

Như đã được nói trong Trang Nghiêm Kinh Luận (Sūtrālaṃkāra):

Tiềm năng tự nhiên và tiềm năng được phát triển,
cái nâng đỡ và cái được nâng đỡ —
[tiềm năng thứ nhất] tồn tại với tư cách là nguyên nhân,
nhưng không tồn tại như là kết quả.
[Tiềm năng thứ hai] cần được hiểu là sự khai mở
và giải phóng các phẩm tính.

Tất cả chúng sinh đều tràn đầy Phật tánh (Tathāgatagarbha). Chín hình ảnh hay ví dụ được sử dụng để minh họa cách mà Phật tánh an trụ giữa các ô nhiễm. Như đã nói trong Bão Tánh Luận (Uttaratantra):

Giống như một vị Phật trong đóa sen úa, mật ong giữa bầy ong,
Giống như hạt trong vỏ và vàng trong đất bẩn,
Giống như kho báu trong lòng đất, mầm cây mọc trong hạt nhỏ,
Hay như hình ảnh của Đấng Chinh Phục được quấn trong áo rách tả tơi.

Giống như một bậc chúa tể loài người nằm trong tử cung của một phụ nữ ăn mày,
Hoặc như một pho tượng quý ẩn trong đất sét —
Bị che giấu bởi những màn che phụ sinh của các ô nhiễm,
Yếu tố Phật (Phật tánh) vẫn tồn tại nơi chúng sinh.[7]

Chín ẩn dụ này đều ám chỉ yếu tố Phật (Phật tánh), vốn bị che khuất trong phàm phu, trong các A-la-hán là Thinh văn và Duyên giác, cũng như trong các Bồ-tát đang trên các bậc đạo của Thị kiến và Thiền định. Có bốn ẩn dụ minh họa cách Tathāgatagarbha an trụ trong tâm của những chúng sinh phàm phu chưa vào đạo, cũng như những người đã bước vào đạo nhưng đang ở các bậc Đạo Tích lũy và Đạo Hội. Nó hiện hữu trong tâm họ nhưng bị che khuất bởi bốn ô nhiễm.

1-
Ẩn dụ thứ nhất là về Phật tánh (Tathāgatagarbha) an trụ trong dục vọng tiềm ẩn. Như đã nói trong Bảo Tánh Luận (Uttaratantra):

Như được bao bọc trong một đóa sen phai màu,
Như Lai, rạng ngời với ngàn tướng hảo của bậc Phật,
Được những ai có thiên nhãn thanh tịnh chiêm ngưỡng,
Và được nâng ra từ những cánh hoa ấy, sinh khởi từ nước.

Cũng y như vậy, những bậc “đi vào an lạc” chiêm ngưỡng bằng đôi mắt giác ngộ và thanh tịnh của mình
Rằng tự tánh của chính họ vẫn an trụ trong những kẻ đang bị giam cầm nơi Địa ngục Khổ não Không gì hơn;
Và, với tư cách là những bậc vương giả của lòng bi mẫn, các ngài lưu lại cho đến khi luân hồi chấm dứt,
Hành động để giải thoát các chúng sinh ấy khỏi mọi che chướng.

2- Hình ảnh thứ hai là hình ảnh Như Lai tạng an trú trong trạng thái phẫn nộ tiềm ẩn. Như đã được nói trong Bảo Tánh Luận,

Như mật ong ở giữa đàn ong vây kín,
Được một người thiện xảo tìm kiếm,
Người ấy nhìn thấy nó và bằng nghệ thuật khéo léo,
Rút lấy mật ong ra khỏi đàn ong.

Cũng vậy, bậc Đại Thánh với đôi mắt toàn tri
Quán thấy trí tuệ — Phật tánh — tựa như mật ngọt,
Và hành động để giải thoát nó trọn vẹn, vĩnh viễn,
Khỏi những màn che như đàn ong đang bao phủ.

3- Hình ảnh thứ ba là hình ảnh Như Lai tạng an trú trong vô minh tiềm ẩn.

Như hạt gạo ở bên trong lớp vỏ trấu
Chưa thể thích hợp cho con người sử dụng,
Và những ai muốn ăn đến nó
Trước hết phải tách nó ra khỏi lớp vỏ bao bọc,

Cũng vậy, bản tánh của Đấng Chiến Thắng
Bị trộn lẫn với cặn bã của các phiền não.
Khi nó chưa được giải thoát khỏi những thứ ấy,
Thì các hạnh nguyện giác ngộ trong ba cõi vẫn chưa thể hiển lộ.

4- Hình ảnh thứ tư là hình ảnh Như Lai tạng an trú giữa các phiền não đang hiện hành và hoạt động mạnh mẽ của tham, sân và si.

Cũng giống như trong một thời kỳ hỗn loạn lớn,
Vàng của một người đã rơi vào nơi hôi hám và dơ dáy,
Nó vẫn giữ nguyên như trước
Trong nhiều thế kỷ, bởi bản chất không thể bị phá hủy,

Cho đến khi một vị thần, được ban cho đôi mắt trong sáng và thần thánh,
Nhận ra nó ở đó và nói với một người rằng,
“Vàng ẩn giấu nơi đây có giá trị lớn.
Hãy làm sạch nó và biến thành vật quý báu,”

Nhà Hiền Triết, nhìn thấy như vậy
Sự tuyệt vời của chúng sinh,
Đắm chìm trong những ô nhiễm của họ như nơi hôi hám và bẩn thỉu ấy,
Rót xuống họ những cơn mưa của lời dạy trong sáng,
Để bùn lầy của những ô nhiễm ấy được rửa sạch.

Cũng giống như dưới mảnh đất bên dưới căn nhà của một người nghèo,
Đã từng có một kho báu vô tận,
Mà người ấy chẳng hề hay biết
(Bởi kho báu không hề tự nói rằng nó tồn tại ở đó),

Trong tâm trí tồn tại một kho báu quý giá.
Bản chất của nó hoàn hảo, không gì cần thêm, không gì cần bớt.
Vì không biết điều này, chúng sinh
Luôn phải chịu đựng vô số khốn khó của nghèo khổ.

Hai hình ảnh minh họa cách bản chất Phật hiện diện giữa những phiền não cần được loại trừ bằng con đường kiến đạo (con đường thấy biết). Hình ảnh thứ nhất như sau.

Cũng như khuynh hướng luôn hiện hữu để nảy mầm từ một hạt giống,
Ẩn chứa trong quả xoài và trái của các loài cây khác,
Được khơi dậy nhờ nước và sự cày xới của đất,
Để rồi từ đó, dần dần một cây lớn vươn lên như bậc vương giả,

Cũng vậy, cõi thuần tịnh của thực tại tối hậu bị bao bọc bên trong lớp vỏ —
Tức vô minh của chúng sinh và tất cả những thứ còn lại —
Dựa trên nền tảng của các công đức,
Sẽ dần dần nảy nở thành bậc vua của các bậc hiền thánh.

Ví dụ thứ hai trong hai ví dụ được trình bày như sau.

Cũng như một vị thần linh, khi phát hiện bên vệ đường
Một pho tượng Đấng Chiến Thắng được tạo tác từ châu báu quý giá,
Nhưng lại bị quấn trong những mảnh giẻ rách nát, nhơ bẩn và hôi hám, liền chỉ bày —
Để pho tượng ấy có thể được hiển lộ — rằng: “Nó ở ngay bên lề đường kia.”

Cũng y như vậy, những bậc có tuệ nhãn không chướng ngại nhìn thấy
Đức Phật an lạc chân thật ngay cả trong trạng thái của những loài súc sinh thấp kém,
Dù Ngài bị bao phủ bởi các phiền não với muôn hình muôn vẻ,
Và cũng chỉ bày những phương tiện để nó có thể được giải thoát.

Tiếp theo, có hai hình ảnh minh họa cách cõi thuần tịnh của thực tại tối hậu an trụ giữa những phiền não che chướng được đoạn trừ trên con đường tu tập (thiền đạo). Hình ảnh thứ nhất trong hai hình ảnh này như sau:

Cũng như một người phụ nữ dung mạo xấu xí, không nơi nương tựa,
Sống trong chốn trú ngụ của kẻ bần cùng,
Lại có thể mang trong bụng vinh quang của một bậc vua,
Mà không hề biết rằng mình đang mang thai một đấng chúa tể của loài người,

Sự sinh khởi trong cõi hiện hữu cũng giống như một nơi cư ngụ của kẻ bần cùng;
Và những chúng sinh ô nhiễm thì giống như người phụ nữ đang mang thai.
Nhờ yếu tố thanh tịnh, không cấu nhiễm mà họ mang trong mình,
Họ được che chở — giống như người phụ nữ mang một vị vua trong bụng.

Ví dụ thứ hai như sau:

Khi vàng nóng chảy được rót vào khuôn và hình dạng được định hình, yên tĩnh,
Nó chỉ có bề ngoài của khuôn đất mà thôi.
Những ai nhìn thấy và hiểu biết — rằng họ có thể giải phóng vàng bên trong —
Sẽ dọn bỏ lớp vỏ bên ngoài, nơi vàng bị che giấu.

Cũng vậy, khi nhận thấy rằng cái vốn sáng tỏ theo tự tánh
Chỉ có thể bị che phủ bởi những thứ ngoại lai bên ngoài,
Những bậc giác ngộ cao thượng sẽ hành động để gột rửa các màn che phiền não,
Cho những chúng sinh giống như các mỏ kho báu quý giá.

Chín thứ ô nhiễm liên quan đến những hình ảnh này được trình bày trong Bảo Tánh Luận.

Tham, sân, vô minh
(dù ở trạng thái hiển lộ hay chỉ còn là khuynh hướng tiềm ẩn),
Tất cả đều được loại bỏ trên con đường kiến đạo và thiền định,
Những ô nhiễm này tồn tại trên cả nền tảng thanh tịnh lẫn bất tịnh,

Chín thứ này được minh họa bằng các ẩn dụ,
Như việc bị che giấu bên trong một bông hoa sen.
Nếu những phiền não thứ cấp hạn chế được phân biệt ra,
Chúng sẽ được đếm đến hàng triệu.

Về những chúng sinh mang những vết nhơ này, Bảo Tánh Luận nói:

Những chúng sinh trẻ con, A-la-hán, những người tu tập,
và những kẻ sở hữu tuệ giác, theo thứ tự tương ứng,
bị vấy bẩn bởi những ô nhiễm này:
Bị bốn, bị một, bị hai, rồi lại bị hai.

Những hình ảnh này và các ô nhiễm mà chúng minh họa được trình bày trong Bảo Tánh Luận như sau:

Cũng như một bông sen mọc lên từ bùn,
Làm vui thích tâm khi lần đầu nhìn thấy,
Nhưng về sau không còn đem lại niềm vui,
Cũng vậy, niềm vui phát sinh từ tham ái.

Những con ong khi bị kích thích mạnh
Sẽ dùng ngòi đốt của chúng.
Cũng vậy, khi cơn sân nổi lên,
Nó khởi sinh nỗi khổ trong tâm.

Cũng như phần lõi của hạt gạo và các loại ngũ cốc khác
Bị bao bọc bởi lớp vỏ ngoài,
Tương tự, sự hiểu biết về bản chất
Bị cản trở bởi lớp vỏ của vô minh.

Cũng như sự nhơ bẩn là điều khó chịu,
Thì ô nhiễm khi sinh khởi trọn vẹn cũng vậy;
Nó khiến những chúng sinh trong cõi dục
Chạy theo những ham muốn của mình, như nhơ bẩn.

Cũng như của cải khi bị che giấu hoàn toàn
Thì vẫn không ai hay biết, kho báu không thể đạt được,
Yếu tố tự sinh khởi nơi chúng sinh
Cũng bị che lấp bởi nền tảng của khuynh hướng vô minh.

Cũng như mầm non lớn dần từng bước
Xuyên qua những lớp vỏ bên ngoài của hạt giống,
Cũng vậy, khi chân như được nhận thấy,
Mọi thứ bị loại bỏ bởi cái thấy ấy đều được vượt qua.

Nhờ sự nối kết với con đường thánh,

Tập hợp tạm bợ — điểm cốt yếu — được lắng dịu.
Tất cả những gì bị loại bỏ trên con đường thiền tập —
Những gì trí tuệ nguyên sơ gạt bỏ —
Đều được chỉ ra là giống như những mảnh giẻ rách.

Sự bất tịnh được nâng đỡ bởi bảy địa (Bồ Tát)
Giống như sự bất tịnh của việc bị giam cầm trong bào thai.
Trí tuệ nguyên sơ vô niệm thì giống như sự giải thoát
Khỏi sự giam cầm ấy, như một sự sinh ra không đau đớn.

Các cấu uế liên hệ với ba tầng bậc kế tiếp,
Cần được hiểu là giống như những vết tích do bùn đất để lại.
Định kim cang
Của các bậc đại nhân sẽ loại trừ chúng.

Dục và các thứ khác — toàn bộ chín loại cấu uế —
Do đó đều giống như hoa sen và những ví dụ còn lại.

Hơn nữa, như đã được thuật lại trong các giáo pháp của Kinh Đại Bát Niết-bàn (Mahāparinirvāṇa-sūtra), Đấng Thế Tôn đã nói với ngài Ca Diếp (Kāśyapa) rằng:

“Đúng là như vậy, này thiện nam tử. Thuở xưa có một vị vua, trong triều có một người khổng lồ hầu cận, trên trán có gắn một viên kim cương báu. Một lần kia, khi người khổng lồ ấy giao đấu với một dũng sĩ khác cũng to lớn như vậy, đối thủ đã dùng đầu mình húc vào đầu ông ta, khiến viên ngọc trên trán lún sâu vào trong thịt mà chính ông ta không hay biết. Vì bị thương, ông liền gọi thầy thuốc đến và nhờ chữa trị. Nhưng vị thầy thuốc ấy rất trí tuệ; bởi vết thương được gây ra do chính viên ngọc khi nó lún vào trong da thịt, nên ông đã không bôi hay dùng bất cứ thứ thuốc men nào.”

“Này lực sĩ! Viên ngọc trên trán của ngươi đâu rồi?” Nghe thấy vậy, gã khổng lồ bắt đầu sợ hãi và thưa với vị thầy thuốc rằng, theo những gì hắn biết, viên ngọc vẫn còn nằm trên trán và chưa hề biến mất. Nghĩ rằng nếu viên ngọc không còn ở đó thì hẳn nó chỉ là một ảo ảnh, hắn trở nên cực kỳ buồn rầu. Để an ủi gã khổng lồ, vị thầy thuốc nói: “Đừng buồn! Khi ngươi đang tranh đấu, viên ngọc trên trán đã lún sâu vào trong thịt, bên ngoài không để lại dấu vết gì ngoài một vết hằn cho thấy sự hiện diện của nó. Trong lúc ngươi chiến đấu, máu nóng bốc lên và viên ngọc đã chìm sâu vào da thịt. Thế nhưng, chính nhờ sức mạnh của viên ngọc ấy mà ngươi đã không cảm thấy đau đớn gì.”

“Thế nhưng, gã khổng lồ không tin lời ông và nói: ‘Này vị thầy thuốc, chớ có nói dối. Nếu viên ngọc thực sự đã lún sâu vào da thịt ta, hẳn phải có máu mủ dơ bẩn tiết ra, và bên ngoài sẽ chẳng còn dấu vết gì của nó nữa cả.’”

“Ngay lúc đó, vị thầy thuốc đặt một tấm gương trước vết thương, và viên ngọc hiện ra rõ mồn một trong gương. Khi nhìn thấy cảnh tượng này, gã khổng lồ vô cùng kinh ngạc.”

“Này thiện nam tử, cảnh ngộ của chúng sinh cũng chính là như vậy! Bởi vì họ không phụng sự và đi theo một bậc minh sư, nên họ không thể nhận thấy rằng bản thân vốn sẵn có Phật tính. Bản tính này bị che lấp; nó bị bủa vây bởi tham, sân và si. Và vì thế, chúng sinh cứ mãi luân hồi trong cõi sinh tử, giữa những khổ đau cùng cực của muôn vàn kiếp sống khác nhau.”

Câu chuyện này, từ điểm vừa được chỉ ra trong văn bản cho đến những lời: ‘Này thiện nam tử! Trong thân xác của tất cả chúng sinh đều có Thập lực, Ba mươi hai tướng tốt và Tám mươi vẻ đẹp tùy hình’, đã giải thích về Phật tính theo nhiều cách khác nhau. Trong tantra Hevajra (Hô Kim Cang), chúng ta tìm thấy [viết rằng]:

Đại trí tuệ nguyên sơ trú ngụ trong thân,
Hoàn toàn lìa xa mọi ý niệm phân biệt.
Trí tuệ ấy bao trùm và thẩm thấu vạn vật.
Trú ngụ trong thân, nhưng chẳng phải từ thân sinh ra.

Trong kinh Bảo Man có chép:
Hết thảy chúng sinh, từ ta đến mọi người,
Vốn dĩ đã giác ngộ tự thuở sơ khai,
Nhưng vì sức mạnh của vọng tưởng mà phải luân hồi trong cõi sinh tử.

Để giải thoát tất cả, tôi phát nguyện hướng tâm đến sự giác ngộ vô thượng.

Kinh Trí Tuệ Lúc Lâm Chung dạy rằng: ‘Khi tâm được thấu suốt, đó chính là Phật quả. Hãy nỗ lực tu tập tâm niệm này: Chớ nên tìm kiếm Phật quả ở bất kỳ nơi nào khác.’

Trong bài Tán Dương Tâm Kim Cang (Praises of the Mind Vajra) có chép rằng:

Cũng như dòng nước vẫn luôn thanh khiết
Giữa lòng đất sâu thẳm,
Trí tuệ nguyên sơ cũng trú ngụ
Chẳng chút nhiễm ô giữa những cấu uế của chúng ta.

“Và trong mật điển Bí Mật Tập Hội (Guhyagarbha) có chép:
Dẫu tìm trong bốn thời(1) hay mười phương,
Cũng chẳng thể tìm thấy một vị Phật toàn giác nào khác.
Tâm này chính là vị Phật toàn giác ấy.
Thế nên đừng tìm cầu Phật quả ở nơi nào khác—
Nơi mà ngay cả các đấng giác ngộ cũng không thể tìm ra.”(2)

Như vậy, điều này đã được trình bày rõ trong các kinh điển thánh triết kể trên và những bản văn khác. Nói tóm lại, chúng ta nên hiểu thông qua các hình ảnh ẩn dụ—chẳng hạn như tấm lụa khổng lồ rộng lớn bằng tam thiên đại thiên thế giới—rằng các Thân (Kayas) và Trí tuệ của Phật quả vốn dĩ đã trú ngụ sẵn trong mọi chúng sinh, một cách không thể tách rời như ánh sáng mặt trời nằm trong chính mặt trời vậy. Phật tính này luôn luôn thanh tịnh tự nhiên và bất biến. Những vết ô nhiễm bám trên đó chỉ là tạm thời và do ảo tưởng mà thành. Như bản Luận giải về Tối Thượng Thừa hay Bảo Tánh (Uttaratantra) đã tuyên bố:

“Thưa bậc Đại Thánh! Phiền não là bóng tối, còn sự thanh tịnh hoàn hảo là ánh sáng. Phiền não thì yếu ớt, còn tuệ giác sâu xa (vipaśyanā) lại có sức mạnh lớn lao. Phiền não chỉ là tạm thời, còn sự thanh tịnh tự nhiên mới là gốc rễ căn bản.”

Vì vốn dĩ chẳng chút nhiễm ô, nên Phật tính là thanh TỊNH; vì bất biến và bất động, nên đó là NGÃ tối thượng (bdag dam pa); vì luôn hiện hữu trong mọi thời, nên đó là THƯỜNG hằng; và dù có rơi vào trạng thái luân hồi với muôn vàn khổ đau, nó cũng không bị khuất phục hay lấn át. Thế nên, đó chính là LẠC tối thượng. Như luận Bảo Tánh có chép:

“Các quả đức của nó là những phẩm tính siêu việt:
Thanh tịnh, Ngã, An lạc và Thường hằng.

Như Lai Tạng (tathāgatagarbha) bao trùm khắp thảy chúng sinh. Trong kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận (Sūtrālaṃkāra) có chép:

Như người ta vẫn nói hư không luôn ở khắp mọi nơi,
Cũng vậy, nó (Phật tính) được nói là luôn hiện hữu trong mọi thời.
Giống như hư không bao trùm khắp mọi sắc tướng,
Nó cũng bao trùm khắp muôn vàn chúng sinh...”(3)

     

Phụ Thích:
(1)"Bốn thời" bao gồm Quá khứ, Hiện tại, Vị lai và Thời điểm phi thời gian (vĩnh hằng). "Mười phương" là toàn bộ không gian.
(2) Điều này nhấn mạnh rằng Phật quả "không tồn tại" như một vật thể bên ngoài để mà tìm kiếm.
(3) Đến đây, văn bản đã nâng tầm từ việc Phật tính nằm trong thân (viên ngọc trong thịt) lên thành Phật tính bao trùm tất cả (như hư không). Điều này khẳng định rằng sự giác ngộ không phải là việc "co cụm" lại bên trong, mà là sự "mở rộng" ra để nhận diện bản chất đồng nhất với vũ trụ.
* Đây là bản dịch thông tin về đại sư Longchenpa (Klong chen rab 'byams), tác giả hoặc nhân vật trung tâm liên quan đến những tư tưởng triết học sâu sắc mà bạn đã chia sẻ ở trên:
Đại sư Longchenpa (Klong chen rab 'byams)
“Còn được biết đến với tên gọi Klong chen pa (Longchenpa). Ông là một bậc thầy và học giả đáng kính của tông phái Nyingma (Ninh Mã) thuộc Phật giáo Tây Tạng, nổi tiếng nhất với việc truyền bá giáo pháp Dzogchen (Đại Viên Mãn).
Longchenpa được tin là hậu thân trực tiếp của Padma las 'brel rtsal – người đã khai hiển bộ Rdzogs chen snying thig (Đại Viên Mãn Tâm Yếu), và cũng là hậu thân của công chúa Padma gsal – người đầu tiên nhận được những giáo pháp này từ bậc thầy Ấn Độ Liên Hoa Sinh (Padmasambhava).
• Hành trình tu học: Sinh ra tại vùng trung tâm Yoru, ông thọ giới năm 12 tuổi. Năm 19 tuổi, ông gia nhập tu viện Gsang phu ne'u thog, nơi ông tham gia nghiên cứu sâu rộng về triết học, các hệ thống Kinh điển (Sūtra) và Mật điển (Tantra), cùng các bộ môn khoa học Phật giáo truyền thống như ngữ pháp và thi ca.
• Sự nghiệp học thuật: Sau khi tu học với nhiều bậc thầy đa dạng, từ các vị trụ trì của tu viện Gsang phu ne'u thog đến vị Karmapa thứ ba – Rang 'byung rdo rje, ông đã đạt được sự tinh thông học thuật vĩ đại trong nhiều truyền thống khác nhau bao gồm các tông phái Nyingma, Sakya và Kagyu.
• Đời sống ẩn sĩ: Tuy nhiên, Longchenpa sớm cảm thấy thất vọng trước sự kiêu ngạo và phù phiếm của nhiều học giả đương thời. Ở tuổi ngoài 20, ông rời bỏ tu viện để theo đuổi cuộc đời của một hành giả khổ hạnh du phương. Năm 29 tuổi, ông gặp hành giả vĩ đại Kumārarāja tại tu viện Samye; vị này đã nhận ông làm đệ tử và truyền dạy ba bộ Đại Viên Mãn (rdzogs chen sde gsum) – một kho tàng giáo lý sau này trở thành nền tảng quan trọng trong các tác phẩm và sự nghiệp hoằng pháp của ông.
• Các tác phẩm tiêu cực: Trong số những tác phẩm đồ sộ nhất của Longchenpa, quan trọng và nổi tiếng nhất là việc hiệu đính các bản hướng dẫn hành trì và nghi lễ về Tâm Yếu (Snying thig), chủ yếu được biên soạn tại ẩn thất Gangs ri thod dkar. Các tác phẩm quan trọng khác bao gồm các bản chú giải về lý thuyết và thực hành Dzogchen, tiêu biểu là bộ Mdzod bdun (Thất Bảo Tạng) và bộ Ngal gso skor gsum (Tam Bảo Nghỉ Ngơi).”
(Nguồn: “Klong chen rab 'byams.” Trong Từ điển Phật giáo Princeton, 439. Nhà xuất bản Đại học Princeton, 2014.)
Tại sao thông tin này quan trọng?
Việc hiểu về cuộc đời của Longchenpa giúp chúng ta hiểu tại sao những đoạn văn trước đó lại nhấn mạnh vào việc "Phật tại tâm" và "Phật tính vốn sẵn có":
1. Tư tưởng Dzogchen: Đây là giáo lý cốt lõi của ông, dạy rằng bản chất của tâm là thanh tịnh tự nhiên, không cần phải rèn đúc mà chỉ cần nhận diện.
2. Sự kết hợp giữa Học và Hành: Ông không chỉ là một học giả uyên bác (biết rõ kinh điển) mà còn là một ẩn sĩ thực hành (trực nhận bản chất tâm), điều này lý giải cho văn phong vừa giàu tính triết học vừa mang tính chứng ngộ trong các đoạn văn bạn đã cung cấp.
Bạn có muốn tôi giúp tìm hiểu thêm về một trong "Bảy kho báu" (Thất Bảo Tạng) nổi tiếng của ông không?
~ from Longchenpa on Buddha-Nature in the Great Chariot, a Commentary on Finding Rest in the Nature of Mind

Source:

https://buddhanature.tsadra.org/index.php/Books/Finding_Rest_in_the_Nature_of_the_Mind/Longchenpa_on_Buddha-Nature_in_the_%27%27Great_Chariot%27%27,_a_commentary_on_%27%27Finding_Rest_in_the_Nature_of_Mind%27%27#:~:text=The%20nature%20of%20the%20mind%20is%20primordially,the%20mind%2C%20the%20mind%20does%20not%20exist.

 http://www.jstor.org/stable/j.ctt46n41q.27.)

https://buddhanature.tsadra.org/index.php/People/Klong_chen_pa#gallery-1

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10237017205067959&set=a.2011589847529&type=3


 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét