Nguyên bản: Encounter with Science (the Universe in a
Single Atom)
Tác giả: Đức Đat Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
Tôi được sinh ra trong một gia
đình nông dân giản dị, những người dùng trâu bò kéo cày, và khi lúa mạch được
thu hoạch, họ lại dùng trâu bò đạp và xay lúa. Có lẻ những đối tượng duy nhất
có thể được diễn tả như kỷ thuật trên thế giới trong thời thơ ấu của tôi là các
cây súng trường của những người lính du mục địa phương, chắc chắn là đã mua từ Ấn
Độ, Nga, hay Trung Hoa. Vào lúc sáu tuổi, tôi được đăng quang với tư cách là Đức
Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 ở thủ đô của Tây Tạng, Lhasa, và dấn thân vào sự học vấn
trong tất cả những khía cạnh của Phật giáo. Tôi có những vị giáo thọ riêng, những
người cho tôi các bài học hàng ngày trong đọc, viết, giáo lý căn bản của Đạo Phật,
và học thuộc lòng những kinh điển và nghi lễ. Tôi cũng được cho vài tsenshap,
có nghĩa đen là “những trợ lý triết học”. Công việc chính của các vị là tham
gia với tôi trong việc tranh luận về những vấn đề của tư tưởng Phật giáo. Thêm
nữa, tôi sẽ tham dự những buổi cầu nguyện dài hàng giờ và hành thiền quán chiếu.
Tôi đã dành những thời gian trong tu học với các vị giáo thọ của tôi và ngồi
thường thường hai giờ mỗi lần, bốn lần trong một ngày trong một thời khóa hành
thiền. Đây là một sự rèn luyện điển hình hoàn toàn cho một lạt ma cao cấp trong
truyền thống Tây Tạng. Nhưng tôi không được dạy toán, địa chất, hóa học, sinh học
hay vật lý. Tôi đã ngay cả không biết đến sự tồn tại của chúng.
Điện Potala là nơi ở chính thức
vào mùa đông của tôi. Đó là một công trình xây dựng khổng lồ, chiếm toàn bộ một
ngọn núi, và được cho là có một nghìn phòng – tôi không bao giờ tự đếm chúng.
Trong thời gian rảnh rổi như một cậu bé, tôi đã tự tiêu khiển bằng việc khám
phá một số phòng ấy. Việc đó giống như một cuộc săn tìm kho báu bất tận. Có đủ
mọi thứ, chính yếu là thuộc về những Đức Đạt Lai Lạt Ma quá cố và đặc biệt là vị
tiền nhiệm trước tôi, được bảo tồn ở đấy. Trong những thứ được chứa đựng ở cung
điện mà tôi ấn tượng nhất là những tháp mộ chôn cất nhục thân của những Đức Đạt
Lai Lạt Ma tiền nhiệm, đi ngược lại đến vị Thứ Năm, người sống vào thế kỷ 17 và
mở rộng Điện Potala như hình thể hiện tại. Giữa những thứ kỳ lạ được sắp xếp
lung tung, tôi đã thấy ở đó là một số đồ vật cơ khí của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ
13. Đáng chú ý nhất là kính viễn vọng xếp lại được, làm bằng đồng, có thể đặt
trên một giá ba chân, một chiếc đồng hồ lên giây thiều với quả địa cầu xoay trên
giá khiến tôi có thể biết giờ trong những vùng thời gian khác nhau. Cũng có kho
lưu trử lớn những sách minh họa Anh ngữ kể lại câu chuyện về Thế Chiến Thứ Nhất.
Một số những tặng phẩm này do
Huân tước Charles Bell tặng cho Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Huân tước Bell là đại
diện chính trị Anh quốc nói tiếng Tây Tạng ở Sikkim. Ông đã từng là chủ nhà của
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 trong chuyến lưu trú ngắn ngủi ở Ấn Độ thuộc Anh khi
ngài đào thoát năm 1930 dưới hiểm họa xâm lăng bởi quân đội của chế độ quân chủ
cuối cùng ở Trung Hoa. Thật kỳ lạ khi lưu vong ở Ấn Độ và việc khám phá văn hóa
khoa học là những thứ được truyền lại cho tôi bởi vị tiền nhiệm trực tiếp trước
tôi. Vì Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, như tôi sau này được biết, lần ở lại Ấn Độ
này là một kinh nghiệm tuyệt vời, vốn đưa đến một sự nhìn nhận về nhu cầu cho một
sự cải cách xã hội và chính trị quan trọng ở Tây Tạng. Khi trở lại Lhasa, ngài
đã giới thiệu điện tín, thiết lập một cơ quan bưu điện, xây dựng một nhà máy
phát điện nhỏ đầu tiên ở Tây Tạng, thành lập một sở đúc tiền xu và in tiền giấy
của quốc gia. Ngài cũng đã đi đến hiểu đươc tầm quan trọng của nền giáo dục thế
tục hiện đại và đã gửi một nhóm thiếu niên Tây Tạng chọn lọc đến học tập tại Trường
Rugby ở Anh Quốc. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, đã để lại một di chúc hiếm có vào
giờ phút cuối cùng của cuộc đời, vốn tiên đoán nhiều về thảm họa chính trị sắp
đến và là điều mà chính quyền kế tục ngài không hiểu hoàn toàn hay không lưu ý.
Trong những món cơ khí khác mà
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 thích thú và có được là một chiếc đồng hồ bỏ túi, hai
máy chiếu phim, và ba chiếc xe hơi – hai chiếc Baby Austin từ năm 1927 và một
chiếc xe Mỹ Dodge 1931. Vì không có đường xe chạy xuyên Himalaya hay ở chính
Tây Tạng, cho nên những chiếc xe này phải được tháo rời ra ở Ấn Độ và đem qua
núi bởi những người khuân vác, la, và lừa trước khi được lắp ráp lại cho Đức Đạt
Lai Lạt Ma thứ 13. Trong một thời gian dài, đây là ba chiếc xe hơi duy nhất ở
toàn Tây Tạng – và rõ ràng chúng là vô dụng, vì không có đường xá nào ngoài
Lhasa có thể lái xe được. Những vật phẩm đa dạng này, những dấu hiệu nổi bật của
văn hóa kỷ thuật, gây nên sự quyến rũ vô cùng đối với một cậu bé mà bản chất là
tò mò và hiếu động thế nào ấy. Có một lúc, tôi nhớ rất rõ ràng, khi tôi thích vớ
vẫn với những thứ này hơn là học tập giáo lý hay học thuộc lòng bài vở. Ngày
nay tôi có thể thấy rằng những thứ này tự chính chúng không hơn gì những đồ
chơi, nhưng chúng gợi ra toàn thể thế giới của kinh nghiệm và tri thức mà tôi vốn
không có cơ hội đến gần và sự hiện hữu của chúng là một niềm mê hoặc không bao
giờ dứt. Trong một chừng mực, quyển sách này nói về con đường để khám phá thế
giới ấy và những thứ kỳ diệu mà nó dâng hiến.
Tôi không thấy kính viễn vọng có
vấn đề gì. Thế nào đấy, đối với tôi rất rõ ràng nó để làm gì, và tôi sẽ nhanh
chóng sử dụng nó để quán sát đời sống nhộn nhịp của thành phố Lhasa, đặc biệt
là những khu chợ. Với cảm giác bị ruồng bỏ, tôi đã ghen tị với những đứa trẻ
cùng lứa tuổi có thể chạy rông trên đường trong khi tôi phải học tập. Sau này,
tôi đã sử dụng kính viễn vọng để nhìn chăm chú vào bầu trời xuất hiện ở bên
trên cung điện Potala, trên đỉnh cao của Tây Tạng, một trong những khung cảnh đẹp
mắt nhất của những vì sao. Tôi đã hỏi những thị giả của tôi về tên của những vì
sao và những chòm sao.
Tôi biết đồng hồ bỏ túi để làm
gì nhưng nó hoạt động như thế nào thì khêu gợi tính tò mò của tôi hơn. Thỉnh
thoảng tôi suy nghĩ cặn kẻ về điều này, cho đến khi sự hiếu kỳ thắng tôi và tôi
đã mở nó ra để xem bên trong. Chẳng bao lâu tôi đã tháo dở hết món đồ ra, và thử
thách là làm sao lắp ráp lại như thế nào mà nó vẫn hoạt động chính xác. Như thế
đã bắt đầu điều đã trở thành sở thích suốt đời của việc tháo ra và lắp ráp lại
những món đồ cơ khí. Tôi thông thạo tiến trình này khéo léo đủ để trở thành người
sửa chửa chính cho một số người mà tôi biết có đồng hồ đeo tay hay treo tường ở
Lhasa. Sau này ở Ấn Độ, tôi không có may mắn nhiều với đồng hồ điểm giờ cuckoo
của tôi, khi con cuckoo tội nghiệp của nó bị con mèo của tôi tấn công và không
bao giờ khôi phục lại được. Khi đồng hồ tự động chạy pin đã trở thành thông dụng,
sở thích của tôi ít hấp dẫn hơn nhiều – nếu tháo một đồng hồ loại này ra, ta
khó có thể tìm thấy bất cứ kết cấu cơ khí nào.
Tìm ra cách sử dụng hai máy chiếu
phim quay tay của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 thì phức tạp hơn nhiều. Một trong
những thị giả của tôi, một người Hoa, suy tính làm sao để cho một chiếc máy hoạt
động, tôi đã yêu cầu ông ta tìm cách để tôi có thể xem một trong những bộ phim
hiếm hoi mà chúng tôi có. Sau đó chúng tôi đã có thể điều khiển một máy chiếu điện
16 mili mét, nhưng nó cứ hư mãi, phần vì máy phát điện không đúng. Khoảng thời
gian ấy, tôi nghĩ là năm 1945, Heinrich Harrer và Peter Aufschnaiter, người Áo,
đã đào thoát khỏi trại giam tù nhân chiến tranh ở Bắc Ấn và đến Lhasa. Harrer
đã trở thành một người bạn của tôi, và thỉnh thoảng tôi nhờ ông giúp sửa chửa
máy chiếu phim. Chúng tôi không thể có nhiều phim, nhưng nhiều phim thời sự về
những sự kiện lớn của Thế Chiến Thứ Hai được mang đến từ Ấn Độ, truyền đạt những
câu chuyện từ quan điểm của phe Đồng Minh. Cũng có những phim về Ngày VE[1], lễ
đăng quang của Vua George VI của Anh quốc và phim của Laurence Oliver về Vua Henry
V của Shakespeare, cũng như một số phim
câm của Charlie Chaplin.
Sự hấp dẫn của tôi cho khoa học
bắt đầu với kỷ thuật và thật sự tôi không thấy gì khác biệt giữa hai thứ này. Khi
tôi gặp Harrer, người thành thạo với những thứ cơ khí hơn bất cứ người nào mà
tôi biết ở Lhasa, tôi cho là sự lão luyện của ông trong khoa học cũng sâu xa
như lời bình luận của ông đối với một số ít máy móc mà chúng tôi có ở điện
Potala. Tức cười là những năm sau này, tôi khám phá ra rằng ông ta vốn không có
kinh nghiệm chuyên môn về khoa học – nhưng vào lúc ấy, tôi đã nghĩ rằng tất cả
những người da trắng đều có những kiến thức khoa học sâu xa.
Hứng thú với thành công trong
việc lắp ráp thành công đồng hồ đeo tay và sửa máy chiếu phim, tôi có nhiều
tham vọng hơn. Chương trình tiếp theo của tôi là việc thấu hiểu những cơ cấu của
xe hơi. Người chịu trách nhiệm lái xe và chăm sóc xe cộ tên là Lhakpa Tsering;
ông thuộc nhóm người hói đầu và chứng bệnh nóng giận của ông là một huyền thoại.
Nếu ông bị va đầu trong khi đang sửa chửa bên dưới xe, thì ông sẽ rất nóng giận
đến nổi có thể đập đầu và va đầu một lần nữa. Tôi kết bạn với ông để ông có thể
cho phép tôi xem xét máy móc trong khi ông sửa chửa nó và cuối cùng chỉ cho tôi
lái xe như thế nào.
Một ngày nọ tôi lẻn đưa một chiếc
xe Austin ra ngoài để tự lái một mình nhưng có một tai nạn nhỏ và làm bể đèn
trước bên trái. Tôi khiếp sợ về những gì Babu Tashi, là một người khác chịu
trách nhiệm về những chiếc xe hơi, có thể nói. Tôi xoay sở tìm cách thay chiếc
đèn bị hư, nhưng kính nó trong suốt, trái lại chiếc đèn trước kính mờ sương.
Sau một suy nghĩ nào đó, tôi tìm ra một giải pháp. Tôi đã tái sản xuất chiếc
đèn kính mờ sương hiện hữu bằng cách phủ lên nó với đường nấu chảy. Tôi không
biết Babu Tashi có khám phá ra không. Nếu mà như vậy đi nữa, thì tối thiểu ông
cũng không bao giờ trừng phạt tôi.
Trong một lãnh vực cốt yếu của
khoa học hiện đại, Harrer hữu ích nhất đối với tôi; đó là địa lý thế giới.
Trong thư viện cá nhân của tôi là một bộ sưu tập những sách vở tiếng Anh về Thế
Chiến Thứ Hai, vốn cho tôi những giải thích chi tiết về sự tham gia trong chiến
tranh bởi nhiều quốc gia lớn, kể cả Nhật Bản. Những phiêu lưu của tôi với máy
chiếu phim; sửa chửa đồng hồ, và cố gắng để lái xe đã cho tôi một ý niệm mơ hồ
về một thế giới của khoa học và kỷ thuật có thể như thế nào. Ở một trình độ
nghiêm trọng hơn, sau khi tôi đã nhậm chức lãnh tụ của Tây Tạng vào tuổi mười
sáu, tôi tham dự vào việc viếng thăm cấp nhà
nước đến Trung Hoa vào năm 1954 và Ấn Độ năm 1956, vốn để lại một ấn tượng
mạnh mẽ. Quân đội Trung Cộng đã xâm lăng xứ sở tôi, và tôi đã dấn thân trong một
cuộc đàm phán lâu dài và mong manh để tìm ra một sự thích nghi với chính quyền
Trung Cộng.
Chuyến du hành ngoại quốc đầu
tiên, khi tôi ở vào cuối tuổi thanh thiếu niên, đã đưa tôi đến Bắc Kinh, nơi
tôi đã gặp chủ tịch Mao, Chu Ân Lai, và những lãnh tụ khác của chế độ. Việc viếng
thăm cấp nhà nước này bao gồm một loạt những cuộc tham quan đến những hợp tác
xã nông nghiệp và những tiện ích quan trọng chẳng hạn như những đập thủy điện.
Đây không chỉ là lần đầu tiên tôi ở trong một thành phố hiện đại với những con
đường tráng nhựa và xe cộ nhưng cũng là lần đầu tiên tôi đã gặp gở với những
nhà khoa học thật sự.
Năm 1956 tôi đã đến Ấn Độ để
tham dự lễ kỷ niệm 2,500 năm Đức Phật nhập niết bàn, mà lễ chính đã diễn ra ở
Delhi. Sau này, Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru trở thành điều gì đó đối với
tôi như cố vấn và một người bạn, cũng như người chủ nhà khi tôi lưu vong. Nehru
là một người có đầu óc khoa học; ông đã thấy tương lai của Ấn Độ rõ ràng với sự
phát triển của kỷ thuật và công kỷ nghệ và đã có một viễn kiến sâu xa về sự tiến
bộ. Sau buổi lễ chính thức Đức Phật nhập niết bàn, tôi đã thăm phiều nơi của Ấn
Độ - không chỉ những Phật tích như Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Đức Phật đạt đến toàn
giác, mà cùng với những thành phố quan trọng, những tổ hợp công nghiệp, và những
trường đại học.
Sau đó tôi đã có những cuộc gặp
gở đầu tiên với các vị thầy tâm linh, những người đang tìm kiếm một sự hợp nhất
giữa khoa học và tâm linh, chẳng hạn như những thành viên của Hội Thông Thiên Học
ở Madras. Thông Thiên Học là một phong trào tâm linh quan trọng của thế kỷ 19
và đầu thế kỷ 20 đã tầm cầu để triển khai một sự tổng hợp tri thức loài người, phương
Đông và Tây, tôn giáo và khoa học. Những vị sáng lập, Nữ sĩ Blavatsky và Annie
Besant là những người phương Tây nhưng đã dành nhiều thời gian ở Ấn Độ.
Thậm chí trước những cuộc du
hành chính thức này tôi đã đi đến nhận ra rằng kỷ thuật trong thực tế là hệ quả,
hay sự diễn đạt, về một cung cách đặc thù để thông hiểu thế giới. Khoa học là
căn bản của những sự diễn đạt này. Tuy nhiên, khoa học là hình thức đặc trưng của
sự thẩm tra và là thân thể của tri thức xuất phát từ nó và làm phát sinh sự
thông hiểu này về thế giới. Thế nên mặc dù sự quyến rủ ban đầu của tôi là với
những sản phẩm kỷ thuật, nhưng nó là điều này – hình thức đặc trưng của sự thẩm
tra khoa học thay vì bất cứ công nghiệp đặc thù nào hay món đồ cơ khí nào – đã khêu
gợi tôi một cách sâu xa nhất.
Như một kết quả của việc nói
chuyện với mọi người, đặc biệt là những nhà khoa học chuyên môn, tôi đã chú ý đến
những tương tự nào đó trong tâm linh của sự thẩm tra giữa khoa học và tư tưởng
Phật giáo – những sự tương tự mà tôi vẫn thấy hấp dẫn. Phương pháp khoa học,
như tôi hiểu nó, tiếp tục từ việc quán chiếu một khía cạnh nào đó trong thế giới
vật chất, đưa đến một sự khái quát hóa lý thuyết, vốn tiên đoán những sự kiện
và kết quả phát sinh nếu ta xử lý hiện tượng trong một cách đặc thù, và sau đó
kiểm tra sự tiên đoán với một cuộc thí nghiệm. Kết quả được chấp nhận như một
phần thân thể của tri thức khoa học rộng lớn hơn nếu cuộc thí nghiệm được tiến
hành một cách đúng đắn và có thể lập lại. Tuy nhiên, nếu cuộc thí nghiệm mâu
thuẩn với lý thuyết, thế thì nó là học thuyết cần điều chỉnh – vì sự quán sát
hiện tượng dựa theo kinh nghiệm có quyền ưu tiên. Thực tế là, khoa khọc di chuyển
từ kinh nghiệm thực nghiệm tiến tới một tiến trình nhận thức tư tưởng vốn bao gồm
nổ lực hợp lý và đưa đến kết quả trong kinh nghiệm thực nghiệm xa hơn để thẩm
tra sự hiểu biết được cung ứng bởi lý trí. Tôi đã bị thu hút chú ý với một sự quyến
rũ vì sự song hành giữa hình thức của sự khảo sát thực nghiệm này và những thứ
mà tôi đã học hỏi trong sự tu học triết lý Phật giáo và sự thực tập quán chiếu.
Mặc dù Phật giáo đã tiến triển
như một tôn giáo với một cơ thể đặc trưng của những kinh điển và nghi lễ, nhưng
nói một cách nghiêm túc, trong Đạo Phật thẩm quyền của kinh điển không thể có
trọng lượng hơn sự thông hiểu căn cứ trên lý trí và kinh nghiệm. Thực tế, chính
Đức Phật trong một tuyên bố nổi tiếng, phá vở thẩm quyền của kinh điển bằng
chính lời của Ngài khi Ngài cổ vũ đệ tử của Ngài không chấp nhận giá trị lời dạy
của Ngài chỉ đơn giản trên căn bản của sự tôn trọng Ngài. Giống như một thợ kim
hoàn dày dặn sẽ thử sự nguyên chất của vàng qua một tiến trình thẩm tra tỉ mỉ, Đức Phật khuyên mọi người nên kiểm tra sự
thật của những gì Ngài đã nói qua sự thẩm
tra hợp lý và kinh nghiệm của cá nhân. Do thế, khi đi đến đánh giá sự thật của
một luận điểm, Phật giáo nhất trí với thẩm quyền lớn nhất của kinh nghiệm, với
lý trí thứ hai, và kinh điển cuối cùng. Những đại sư ở trường Nalanda của Phật
giáo Ấn Độ, nơi Phật giáo Tây Tạng xuất thân, tiếp tục áp dụng tinh thần của lời Phật dạy trong sự thẩm
tra nghiêm ngặt và sinh động những lời dạy của chính Đức Phật.
Trong một chiều hướng thì những
phương pháp của khoa học và Đạo Phật là khác nhau: sự khảo sát của khoa học tiến
hành bằng thí nghiệm, sử dụng những khí cụ phân tích hiện tượng bên ngoài, trái
lại sự khảo sát bằng quán chiếu tiến hành bởi việc phát triển sự chú tâm tinh tế
hay thiền quán, là cách sau đó được sử dụng trong sự thẩm tra nội quán kinh
nghiệm nội tại. Nhưng cả hai cùng chia sẻ một căn bản thực nghiệm mạnh mẽ: nếu
khoa học cho thấy điều gì đó tồn tại hay là không tồn tại (vốn không giống như
không tìm ra nó), thế thì chúng ta phải công nhận nó. Giống như thế, Phật giáo
phải chấp nhận những sự thật – cho dù được tìm thấy bởi khoa học hay được tìm
thấy bởi tuệ giác quán chiếu. Nếu khi chúng ta điều tra nghiên cứu điều gì đó,
chúng ta thấy có lý lẽ và chứng cứ cho nó, thì chúng ta phải thừa nhận điều đó
như thật sự - ngay cả nếu nó mâu thuẩn với sự giải thích từ chương của kinh điển
đã giữ sự thống trị trong nhiều thế kỷ hay với một ý kiến, một quan điểm sâu sắc.
Cho nên một thái độ căn bản được chia sẻ bởi Đạo Phật và khoa học là chí nguyện
để gìn giữ sự tìm kiếm cho một thực tại bằng những phương tiện thực nghiệm và sẳn
sàng loại bỏ những vị thế được chấp nhận hay đã có từ lâu nếu sự tìm kiếm của
chúng ta thấy rằng sự thật là khác.
Bằng sự tương phản với tôn
giáo, một đặc trưng nổi bật của khoa học là sự vắng mặt của một lời thỉnh cầu tới
thẩm quyền của kinh điển như nguồn gốc của những lời tuyên bố chân thật giá trị.
Tất cả những sự thật trong khoa học phải được chứng minh hoặc là qua thực nghiệm
hay qua chứng cứ toán học. Ý kiến rằng điều gì đó phải là như vậy vì Newton hay
Einstein đã nói như vậy đơn giản không phải là khoa học. Do vậy, một sự thẩm
tra phải được tiến hành từ một tình trạng cởi mở với sự tôn trọng đến câu hỏi của
vấn đề và đến những gì mà câu trả lời có thể là, một tình trạng của tâm thức mà
vốn tôi nghĩ như một thái độ nghi ngờ lành mạnh. Loại cởi mở này có thể làm cho
mọi cá nhân dễ tiếp thu những tuệ giác mới và những khám phá mới; và khi được
phối hợp với yêu cầu tự nhiên của con người cho việc thấu hiểu, thì thái độ này
có thể đưa đến một sự mở rộng tầm nhận thức uyên thâm của chúng ta. Dĩ nhiên,
điều này không có nghĩa là tất cả mọi hành giả khoa học đều sống theo lý tưởng
này. Một số có thể bị mắc kẹt vào những mô hình trước đó.
Với việc quan tâm đến những
truyền thống khảo sát của Phật giáo, những người Tây Tạng chúng tôi hàm ơn Ấn Độ
cổ đại một món nợ to lớn, nơi phát sinh tư tưởng triết lý và giáo lý tâm linh
Phật giáo. Những người Tây Tạng luôn luôn xem Ấn Độ như “Miền Đất của những Bậc
Tôn Quý”. Đây là xứ sở đã sinh ra Đức Phật, và một loạt những đại sư Ấn Độ mà
những tác phẩm của các ngài một cách căn bản đã hình thành tư tưởng triết lý và
truyền thống tâm linh của dân tộc Tây Tạng – thế kỷ thứ hai là Long Thọ đại sĩ
triết gia, thế kỷ thứ tư là những ngôi sao sáng Vô Trước và em của ngài là Thế
Thân, đại sư đạo đức Tịch Thiên, và thế kỷ thứ bảy là đại luận sư Pháp Xứng.
Từ lúc đào thoát khỏi Tây Tạng
tháng Ba năm 1959, số lớn những người tị nạn Tây Tạng và tôi đã vô cùng may mắn
tìm được ngôi nhà thứ hai ở Ấn Độ. Tổng thống Ấn Độ trong những năm đầu tôi tị
nạn là Tiến sĩ Rajendra Prasad, một nhà tâm linh sâu thẩm và một học giả được
tôn kính. Phó tổng thống, người sau này trở thành tổng thống, là Tiến sĩ
Sarvepalli Radhakrisnan, người mà những quan tâm chuyên môn và cá nhân trong
triết học đã được biết đến một cách rộng rãi. Tôi nhớ một cách sống động một
trường hợp, khi giữa một buổi thảo luận về một vấn đề nào đó của triết học,
Radhakrisnan đã đọc thuộc lòng một cách tự nhiên một bài kệ từ Căn Bản Tuệ Giác Trung Quán Luận của
Long Thọ. Đáng chú ý nhất là từ khi độc lập năm 1947, Ấn Độ đã duy trì truyền
thống cao quý trong việc ủy thác đến những tư tưởng gia và khoa học gia danh tiếng
chức vụ tổng thống của đất nước.
Sau một thập niên khó khăn của
việc điều chỉnh, giúp đở sự cư trú của cộng đồng khoảng tám chục nghìn người
Tây Tạng tị nạn trong nhiều nơi khác nhau của Ấn Độ, thành lập những trường học
cho giới trẻ, và cố gắng để bảo tồn những tổ chức văn hóa bị đe dọa, thì tôi bắt
đầu du hành khắp thế giới cuối những năm 1960. Ngoài ra để chia sẻ sự thấu hiểu
của tôi về tầm quan trọng của những giá trị nhân loại căn bản, ủng hộ sự thông
hiểu và hòa hiệp liên tôn giáo, thúc đẩy nhân quyền và tự do cho dân tộc Tây Tạng.
Tôi lợi dụng cơ hội trong những lúc du hành để gặp gở những nhà khoa học xuất sắc
để thảo luận những sự quan tâm của tôi, phát triển kiến thức của tôi, đào sâu
hơn vào sự thấu hiểu của tôi về khoa học và những phương pháp của nó. Thậm chí vào
đầu những năm 1960, tôi đã thảo luận những khía cạnh chung giữa tôn giáo và
khoa học với một số khách quý viếng thăm nơi thường trú của tôi ở Dharamsala,
miền bắc Ấn. Hai cuộc gặp gở đáng ghi nhớ nhất trong thời gian này là với tu sĩ
dòng khổ tu Thiên Chúa giáo Thomas Merton, là người có một sự thích thú sâu xa
với Đạo Phật và mở mắt tôi với Ki tô giáo, và học giả về tôn giáo Huston Smith
***
Một trong những vị thầy đầu
tiên của tôi về khoa học – và một trong những người bạn khoa học thân cận nhất
của tôi – là nhà vật lý và triết học Carl von Weizsacker, anh em của tổng thống
Tây Đức. Mặc dù ông tự diễn tả mình như một giáo sư chính trị triết học hoạt động
vốn đã được huấn luyện như một nhà vật lý, trong những năm 1930 von Weizsacker
làm việc như một trợ lý cho nhà vật lý lượng tử Werner Heisenberg. Tôi sẽ không
bao giờ quên tấm gương tình người và truyền cảm của von Weizsacker như một người
luôn luôn lo lắng đến những tác động – đặc biệt là những hậu quả đạo đức và
chính trị - của khoa học. Ông đã tìm tòi không ngừng để áp dụng những yêu cầu
triết học sâu sắc vào hoạt động của khoa học, nhằm để thử thách nó một cách
liên tục.
Ngoài ra để kéo dài những buổi
thảo luận bình thường trong những dịp khác nhau, tôi đã may mắn có các buổi hướng
dẫn chính thức về những đề tài khoa học với von Weizsacker. Những việc này được
tiến hành trong một khuôn mẫu không khác gì lắm với những buổi truyền dạy kiến
thức một thầy một trò vốn là một hình thức giảng dạy quen thuộc của truyền thống
Phật giáo Tây Tạng của tôi. Hơn một lần, chúng tôi có thể ngồi bên nhau trọn
hai ngày cho một khóa học khi von Weizsacker cho tôi một buổi hướng dẫn chuyên
sâu về vật lý lượng tử và ẩn ý triết học của nó. Tôi cảm kích một cách sâu xa sự
ân cần vô hạn của ông trong việc ban cho tôi quá nhiều thời gian quý báo của
ông và cũng như sự nhẫn nại thâm trầm của ông, đặc biệt khi tôi thấy vật vả với
một khái niệm khó mà tôi phải thừa nhận là hiếm khi xảy ra.
Von Weizsacker thường nhấn mạnh
về tầm quan trọng của chủ nghĩa thực nghiệm trong khoa học. Vấn đề , ông nói,
có thể được biết trong hai cách – nó có thể được nhận thức bằng giác quan hay
nó có thể được nhận ra bằng suy luận. Thí dụ, một điểm nâu trên một trái táo có
thể được thấy với mắt; nó được nhận thức bằng giác quan. Nhưng có một con sâu
trong trái táo là điều gì đó chúng ta có thể suy ra từ vết nâu ấy và từ kiến thức
phổ quát về trái táo và con sâu.
Trong triết lỳ Phật giáo, có
nguyên tắc là phương tiện mà qua đó một đề xuất đặc thù được kiểm nghiệm nên
phù hợp với bản chất của chủ đề dưới sự phân tích. Thí dụ, nếu đề xuất có liên
quan đến những sự kiện về thế giới có thể quán sát được, kể cả sự hiện hữu của
một người, thế thì bằng kinh nghiệm thực nghiệm mà đề xuất ấy có thể được được
xác quyết hay phủ nhận. Do vậy, Phật giáo đặt phương pháp thực nghiệm của sự
quán sát trực tiếp lên hàng đầu. Nếu, trái lại, sự đề xuất liên hệ đến sự tổng
quát hóa được kết luận từ kinh nghiệm của chúng ta về thế giới (thí dụ, bản chất
nhất thời của sự sống hay mối quan hệ tương liên, bất tận của thực tại), thế
thì, bằng lý trí, một cách chính yếu qua hình thức của suy luận, mà sự đề xuất
có thể được chấp nhận hay phủ nhận. Vì vậy, Phật giáo chấp nhận phương pháp suy
luận hợp lý – liên hệ rất nhiều với mô hình được trình bày bởi von Weizsacker.
Cuối cùng, theo quan điểm của
Phật giáo, có một trình độ xa hơn của thực tại, là thứ vốn có thể duy trì sự
che khuất đối với tâm chưa Giác Ngộ. Theo truyền thống, một loại vọng tưởng điển
hình về điều này sẽ là sự hoạt động vi tế nhất của luật nghiệp báo nhân quả, và
câu hỏi tại sao có quá nhiều chủng loại chúng sanh trên thế giới. Chỉ trong thể
loại này của sự đề xuất mới được trích dẫn kinh điển như một nguồn gốc có thẩm
quyền có khả năng đúng đắn, trên căn bản đặc thù cho các Phật tử, sự chứng thật
của Đức Phật được chứng tỏ là đáng tin cậy trong sự thẩm tra về bản chất của sự
tồn tại và con đường giải thoát. Mặc dù nguyên tắc này của ba phương pháp xác
minh – kinh nghiệm, suy luận, và một thẩm
quyền đáng tin cậy – là bao hàm trong những sự phát triển sớm nhất của
tư tưởng Phật giáo, nhưng chính đại luận sư Ấn Độ Trần Na (Dignaga – thế kỷ thứ
5) và Pháp Xứng (Dharmakirti – thế kỷ thứ 7) là những người đầu tiên đã xây dựng
nó như một hệ thống phương pháp luận triết học.
Trong thí dụ sau cùng này, Phật
giáo và khoa học rõ ràng là những bộ phận của một tập thể, vì khoa học, tối thiểu
trong nguyên tắc, không thừa nhận bất cứ hình thức nào của thẩm quyền tâm linh.
Nhưng trong hai lãnh vực đầu tiên – việc áp dụng kinh nghiệm thực nghiệm và lý
trí – có một sự hội tụ phương pháp luận lớn giữa hai truyền thống khảo sát. Tuy
nhiên, trong đời sống hàng ngày của chúng ta, chúng ta có thói quen và thường sử
dụng phương pháp thứ ba cho việc thử nghiệm những luận điểm về thực tại. Thí dụ,
chúng ta thường chấp nhận ngày tháng năm sinh của chúng ta trên sự chứng thật bằng
lời nói của thân nhân chúng ta và trong mối liên hệ với những chứng cứ được viết
trong giấy khai sinh. Ngay cả trong khoa học, chúng ta chấp nhận những kết quả được
xuất bản bởi những người thử nghiệm trong các tạp chí chuyên nghiệp mà chính
chúng ta không lập lại những thí nghiệm của họ.
Sự dấn thân của tôi với khoa học
không nghi ngờ gì nữa được làm cho sâu sắc hơn qua việc gặp gở của tôi với nhà
vật lý học nổi tiếng David Bohm, người có tri thức rộng sâu nhất và tâm trí cởi
mở nhất mà tôi đã từng biết đến. Tôi gặp gở với ông lần đầu tiên ở Anh quốc năm
1979, trong chuyến viếng thăm châu Âu lần thứ hai của tôi, và chúng tôi đã cảm
thấy thân thiết tức thời với nhau – thực tế, sau này tôi biết rằng Bohm cũng là
một người lưu vong, đã bị buộc phải rời Mỹ trong thời kỳ bức hại McCarthy.
Chúng tôi đã bắt đầu một tình bạn suốt đời và một sự khám phá tuệ trí hổ tương.
David Bohm đã hướng dẫn sự thông hiểu của tôi về những khía cạnh vi tế nhất của
tư tưởng khoa học, đặc biệt trong vật lý học, và bộc lộ cho tôi thế giới quan
khoa học một cách hoàn hảo nhất. Trong khi lắng nghe một cách thật cẩn thận một
cuộc nói chuyện chi tiết với một nhà vật lý học như David Bohm hay von
Weizsacker, tôi cảm thấy rằng tôi có thể nắm bắt những phức tạp của toàn bộ chủ
đề; đáng tiếc thay, khi xong buổi bàn thảo, thường thì không còn lại gì nhiều! Cuộc
thảo luận dài của tôi với Bohm hơn hai thập niên nạp năng lượng cho tư duy của
tôi về những phương diện của các phương pháp Phật giáo thẩm tra có thể liên hệ
đến những người quen thuộc với khoa học hiện đại.
Tôi đặc biệt ngưỡng mộ sự cởi mở
phi thường của Bohm đối với mọi lãnh vực kinh nghiệm của con người, không chỉ ở
thế giới vật chất thuộc chủ đề chuyên môn của ông nhưng trong tất cả mọi phương
diện có tính chất chủ quan, kể cả vấn đề ý
thức. Trong những cuộc đàm luận của chúng tôi, tôi cảm thấy sự hiện diện
của một tâm thức khoa học vĩ đại, vốn sẳn sàng cho việc chấp nhận những giá trị
quán sát và tuệ giác từ những mô hình tri thức khác hơn là khoa học khách quan.
Một trong những phẩm chất đặc
thù mà Bohm đã minh họa là phương pháp triết học hấp dẫn và cần thiết của việc
tiến hành một sự thẩm tra khoa học bằng phương tiện của những thí nghiệm tư tưởng.
Đơn giản là đặt sự thực tập liên hệ với sự viện dẫn một kịch bản tưởng tượng
bên trong mà vốn một giả thuyết đặc thù được thử nghiệm bằng việc thẩm tra những
hậu quả của nó là gì mà nó có thể giữ cho những sự thừa nhận tư duy thông thường
là không thể chối cải. Một thí dụ nổi tiếng là công trình về tính tương đối của
không gian và thời gian của Einstein được tiến hành bằng phương tiện của những
thí nghiệm tư tưởng như vậy, là điều được kiểm tra sự thông hiểu về vật lý vốn
thịnh hành trong thời đại của ông. Một thí dụ nổi tiếng là cặp song sinh nghịch
lý, trong ấy một người vẫn ở trên trái đất trong khi người kia du hành trên một
phi thuyền với tốc độ tiến tới của ánh sáng. Đối với người trên phi thuyền, thời
gian chậm lại. Nếu người ấy trở lại sau mười năm; sẽ thấy rằng người ở trên
trái đất sẽ già đi đáng kể hơn là người đi trên phi thuyền nhiều. Việc đánh giá
toàn bộ nghịch lý này đòi hỏi một sự thông hiểu phương trình toán học phức tạp,
là thứ đáng tiếc là vốn ngoài sự hiểu biết của tôi.
Trong việc dấn thân của tôi với
khoa học, tôi luôn luôn bị kích thích vô cùng với phương pháp phân tích này do
bởi nó gần như song hành với tư duy triết lý Phật giáo. Trước khi chúng tôi gặp
nhau, Bohm đã có nhiều thời gian với nhà tư tưởng tâm linh Ấn Độ Jiddu
Krishnamurti, và thậm chí tham dự trong một số buổi thảo luận với ông. Trong
nhiều dịp Bohm và tôi đã nghiên cứu những cung cách của phương pháp khoa học
khách quan có thể liên hệ đến sự hành thiền, là thứ, mà theo quan điểm của Phật
giáo, là như nhau về kinh nghiệm.
Mặc dù những nhấn mạnh cơ bản về
chủ nghĩa thực nghiệm và lý trí là tương tự trong Phật học và khoa học, nhưng
có những khác biệt sâu sắc liên hệ đến những gì cấu thành kinh nghiệm thực nghiệm
và các hình thức lý luận được sử dụng bởi hai hệ thống. Khi Phật giáo nói về
kinh nghiệm thực nghiệm, thì có một sự thông hiểu rộng rãi hơn về chủ nghĩa thực
nghiệm, vốn bao gồm những thể trạng thiền tập cũng như chứng cứ của những tri
giác. Do bởi việc phát triển kỷ thuật trong hai trăm năm qua, khoa học đã có thể
mở rộng năng lực của những giác quan đến những mức độ không thể tưởng tượng nổi
so với thời gian trước. Vì lý do đó, các nhà khoa học có thể sử dụng mắt thường,
phải thừa nhận là với sự hổ trợ của những khí cụ đầy năng lực như kính hiển vi
và kính viễn vọng, để quán sát cả hiện tượng vi tế đáng chú ý, như tế bào và những
cấu trúc phức tạp của nguyên tử, và những cấu trúc mênh mang của vũ trụ. Trên
căn bản của việc mở rộng những tầm nhìn của giác quan, khoa học đã có thể đẩy
những giới hạn của sự suy luận xa hơn chưa từng có về kiến thức mà con người có
được trước đây. Bây giờ, trong sự đáp ứng với những vết tích còn sót lại trong
những phòng bong bóng, các nhà vật lý học có thể suy ra về sự tồn tại của những
hạt cấu trúc nguyên tử, thậm chí kể cả những yếu tố trong neutron (hạt hạ nguyên tử hay trung hòa tử), chẳng hạn như
những hạt quack (hạt cơ bản sơ cấp) và hạt gluon (boson vectơ).
Khi tôi là một thiếu niên thí
nghiệm với kính viễn vọng của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, tôi đã có một kinh
nghiệm sống động về năng lực của sự suy luận căn cứ trên sự quán sát thực nghiệm.
Trong văn học dân gian Tây Tạng, chúng tôi nói về con thỏ trên mặt trăng – tôi
tin là người châu Âu thấy một con người thay vì một con thỏ. Thế nào đi nữa, một
đêm trăng tròn vào mùa thu, khi mặt trăng trong sáng một cách đặc biệt, tôi đã
quyết định xem xét con thỏ với kính viễn vọng của tôi. Với sự ngạc nhiên của
tôi, tôi đã thấy bóng tối trông giống gì. Tôi thật là hào hứng đến nổi nài nỉ
hai vị giáo thọ của tôi đến và nhìn chăm chú qua kính viễn vọng. Tôi cải rằng sự
hiện diện của bóng tối trên mặt trăng chứng tỏ rằng mặt trăng được chiếu sáng bởi
ánh sáng của mặt trời cũng giống như trái đất. Các vị trông bối rối nhưng đồng
ý với nhận thức về bóng tối trên mặt trăng. Sau này, khi xem các hình ảnh của những miệng núi lửa trên mặt
trăng trên một tạp chí, tôi chú ý ảnh hưởng tương tự - rằng trong miệng núi lửa
có một bóng tối ở một phía mà không có ở phía kia. Từ điều này tôi suy luận rằng
phải có một nguồn ánh sáng để tạo ra bóng tối, giống như trên trái đất. Tôi kết
luận rằng mặt trời phải là nguồn ánh sáng đã tạo ra bóng tối trên những miệng
núi lửa ở mặt trăng. Tôi rất kích động khi sau này tôi khám phá ra rằng thực tế
nó là như vậy.
Nói một cách nghiêm túc, tiến
trình này của lý luận không phải đặc biệt của Phật giáo cũng không phải đặc
trưng của khoa học; đúng hơn nó phản chiếu một hoạt động căn bản của tâm thức vốn
tự động áp dụng một cách tự nhiên trong cơ sở hàng ngày. Sự giới thiệu chính thức
đến suy luận như một nguyên tắc logic cho những tăng sĩ trẻ tuổi liên hệ sự biện
giải vấn đề người ta có thể liên hệ đến sự hiện diện của lửa từ một khoảng cách
như thế nào bằng việc thấy một cột khói bay lên từ đèo núi, và từ lửa thông thường
đối với người Tây Tạng là liên hệ đến nơi cư trú của con người. Người ta có thể
dễ dàng tưởng tượng đến một người lữ khách, khát nước sau một ngày dài đi bộ, cảm
thấy cần một cốc trà. Người ấy thấy khói và vì vậy suy ra lửa và một nơi cư
trú, nơi mà người ấy có thể có được chỗ nghỉ ngơi qua đêm. Trên căn bản của sự
suy luận này, người lữ khách có thể thỏa mãn sự khao khát uống trà của người ấy.
Từ hiện tượng được quán sát, hiển nhiên một cách trực tiếp đến các giác quan,
người ta có thể suy ra điều gì còn bị che dấu. Hình thức lý luận này là thông
thường với Phật giáo và khoa học.
***
Trong chuyến viếng thăm châu Âu
lần thứ nhất của tôi năm 1973, tôi có danh dự được gặp gở một tâm hồn lớn của
thế kỷ 20, triết gia Sir Karl Popper. Giống như tôi, Popper đã một lần là người
tị nạn – từ quê hương Vienna (thủ đô Áo quốc) trong thời kỳ Quốc xã – và trở
thành một trong những người chỉ trích khúc chiết nhất chủ nghĩa độc tài toàn trị.
Vì vậy chúng tôi tìm thấy nhiều điểm chung. Popper đã là một ông già khi tôi gặp
ông, hơn bảy mươi tuổi, với đôi mắt sáng và tuệ trí sắc bén tuyệt vời. Tôi có
thể đoán ông mạnh mẽ thế nào trong thời trai trẻ từ niềm đam mê mà ông ta cho
tôi thấy khi chúng tôi thảo luận vấn đề về những chế độ độc đoán. Trong cuộc gặp
gở này, Popper đã lo lắng hơn về mối đe dọa lớn mạnh của chủ nghĩa cộng sản, hiểm
họa của những hệ thống chính trị độc tài, những thử thách trong việc bảo vệ tự
do cá nhân, và biện pháp duy trì một xã hội cởi mở hơn mà ông quan tâm trong việc
khám phá những vấn đề gắn liền với những mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo.
Nhưng chúng tôi đã thật sự thảo luận về những vấn đề liên quan đến tính logic của
khoa học.
Tiếng Anh của tôi lúc ấy không
khá như bây giờ, và thông dịch viên của
tôi thì cũng không thiện nghệ lắm. Không giống như khoa học thực nghiệm, triết
học và tính logic đòi hỏi thảo luận nhiều hơn nhiều. Như một kết quả, có lẽ tôi
lợi lạc ít hơn từ cơ hội gặp gở với Popper hơn là tôi đã có được như những cuộc
gặp gở với những nhân vật nổi tiếng như David Bohm và Carl von Weizsacker.
Nhưng chúng tôi đã bắt đầu một tình bạn, và tôi đã lại gặp ông bất cứ khi nào
tôi đến Anh quốc, kể cả một cuộc thăm viếng đáng nhớ vào năm 1987 để uống trà ở
nhà ông tại Kenley thuộc Surrey. Tôi có một sự yêu mến đặc biệt với bông hoa và
vườn tược, đặc biệt là hoa lan, và Huân tước Karl rất tự hào trong việc dẫn tôi
đi thăm một vòng trong khu vườn và ngôi nhà xanh đáng yêu của ông. Qua lần này,
tôi đã khám phá sự ảnh hưởng của ông trong triết học khoa học lớn như thế nào,
và đặc biệt về vấn đề tính logic của khoa học.
Một trong những đóng góp chính
của Popper là việc làm sáng tỏ vai trò tương đối của lý luận về quy nạp và suy
luận trong giả thiết và chứng minh những giả thuyết khoa học. Bằng phương pháp
quy nạp, chúng ta muốn xây dựng một sự khái quát hóa từ một loạt những thí dụ quan sát thực
nghiệm. Nhiều kiến thức hàng ngày của chúng ta về những mối quan hệ nhân và quả
là quy nạp; thí dụ, trên căn bản của việc quán sát lập đi lập lại về sự tương
giao giữa khói và lửa, chúng ta thực hiện một sự khái quát hóa rằng nơi nào có
khói thì nơi ấy lửa. Suy luận là một tiến trình ngược lại, thực hiện từ tri thức
của những sự thật tổng quát đến những quán sát đặc thù. Thí dụ, nếu biết rằng tất
cả những xe hơi sản xuất ở châu Âu sau 1995 chỉ sử dụng xăng không chì, khi
nghe rằng một chiếc xe nào đó được làm năm 2000, thì có thể suy ra rằng nó phải sử dụng xăng không chì. Dĩ nhiên, trong
khoa học những hình thức này phức tạp hơn nhiều, đặc biệt là suy luận, vì nó
liên hệ đến việc sử dụng những phép toán học hiện đại.
Một trong những lãnh vực lý luận
nơi mà Phật giáo và khoa học khác nhau là ở vai trò của suy luận. Những gì phân
biệt khoa học với Phật học hầu hết ở trong sự áp dụng lý trí là việc sử dụng những
lý luận toán học phức tạp thâm sâu phát triển cao độ. Phật giáo, giống như tất
cả những triết lý cổ truyền khác của Ấn Độ, một cách lịch sử vẫn rất cụ thể
trong việc sử dụng logic của nó, bởi đó mà luận lý không bao giờ được tách khỏi
một phạm vi đặc thù. Trái lại, lý luận toán học của khoa học cho phép một trình
độ trừu tượng rộng lớn, vì rằng tính hiệu lực hoặc vô hiệu của một tranh luận
có thể được quyết định hoàn toàn trên căn bản sự chính xác của một phương
trình. Vì vậy, trong một ý nghĩa thì sự khái quát hóa có thể đạt được qua toán
học ở một trình độ khả dĩ cao hơn nhiều so với những hình thức logic truyền thống.
Đưa ra sự thành công đáng kinh ngạc của toán học như vậy nên không cần hỏi tại
sao một số người tin rằng những quy luật của toán học là tuyệt đối và rằng toán
học là ngôn ngữ thật sự của thực tại, thuộc bản chất của chính tự nhiên.
Một khác biệt nữa giữa khoa học
và Phật giáo như tôi thấy chúng nằm trong những gì cấu thành một giả thuyết có
giá trị. Ở đây cũng vậy sự phác họa của Popper về phạm vi của một vấn đề khoa học
nghiêm túc tiêu biểu cho một tuệ giác lớn. Đây là luận thuyết khả chứng ngụy tính của Popper[2]
vốn tuyên bố rằng bất cứ luận thuyết khoa học nào phải chứa đựng trong nó
những điều kiện trong điều mà nó có thể được thấy là sai. Thí dụ, luận thuyết
cho rằng Thượng Đế tạo ra thế giới có thể không bao giờ là một vấn đề khoa học
bởi vì nó không chứa đựng một sự giải thích về những điều kiện mà trong nó luận
thuyết có thể được chứng minh là sai. Nếu chúng ta lấy tiêu chuẩn này một cách
nghiêm túc, thế thì nhiều vấn đề gắn liền với sự tồn tại của con người chúng
ta, chẳng hạn như đạo đức, thẩm mỹ, và tâm linh, vốn ở bên ngoài phạm vi của
khoa học. Ngược lại, lãnh vực của thẩm tra trong Phật giáo là không giới hạn mục
tiêu. Nó cũng bao gồm thế giới kinh nghiệm chủ quan cũng như vấn đề của những
giá trị. Nói cách khác, khoa học đối diện với những sự kiện thực nghiệm nhưng
không với siêu hình học và đạo đức, trái lại với Phật giáo, việc thẩm tra bình
phẩm cả ba thứ này là thiết yếu.
Luận thuyết khả chứng ngụy tính của Popper âm hưởng với một nguyên
tắc phương pháp luận quan trọng trong truyền thống triết học Phật giáo Tây Tạng
của tôi. Chúng ta có thể gọi đây là “nguyên tắc phạm vi phủ định.” Nguyên tắc
này tuyên bố rằng có một sự khác biệt căn bản giữa điều “không tìm ra” và điều
“thấy là không tồn tại”. Nếu tôi tìm kiếm điều gì đó và thất bại trong việc tìm
ra nó, điều này không có nghĩa là thứ tôi đang tìm không tồn tại. Không thấy một
thứ gì đó không giống như việc thấy sự không tồn tại của nó. Nhằm để có sự
trùng khớp nhau giữa việc không thấy một
thứ gì đó và việc thấy sự không tồn tại của nó, thì phương pháp của việc tìm kiếm
và hiện tượng được tìm kiếm phải tương xứng. Thí dụ, không thấy một con bò cạp
trên trang sách ta đang đọc là chứng cứ đầy đủ rằng không có con bò cạp trên
trang giấy. Vì nếu đã có con bò cạp trên trang giấy, thì nó phải thấy được với
mắt thường. Tuy nhiên, không thấy a xít trên trang giấy được in thì không giống
như việc thấy rằng trang giấy là không có a xít, bởi vì để thấy a xít trong
trang giấy ta đòi hỏi phải có những khí cụ khác hơn là cặp mắt thường mà thôi.
Thêm nữa, triết gia thế kỷ 14 Tsongkhapa tranh luận rằng có một sự phân biệt
tương tự giữa thứ bị phủ định bởi lý luận và thứ không được khẳng định bởi lý luận,
cũng như giữa thứ không thể đứng vững với sự phân tích phê bình và thứ bị đánh
đổ bởi một sự phân tích như vậy.
Những sự phân biệt phương pháp
luận này có thể dường như khó hiểu, nhưng chúng có thể có những sự gia tăng
đáng kể cho sự thông hiểu của ta về phạm vi phân tích của khoa học. Thí dụ, sự
kiện khoa học không từng chứng minh sự tồn tại của Thượng Đế không có nghĩa là
Thượng Đế không tồn tại đối với những người thực hành trong một truyền thống hữu
thần. Giống như thế, chỉ vì khoa học không từng chứng minh bên kia bóng tối của
sự nghi ngờ về sự tái sanh không có nghĩa luân hồi là không thể có. Trong khoa
học, sự kiện rằng cho đến nay chúng ta không tìm thấy sự sống ở bất cứ hành
tinh nào nhưng chính chúng ta không chứng minh rằng sự sống không tồn tại ở nơi
nào khác.
Thế nên đến giữa những năm
1980, trong vô số cuộc du hành của tôi từ Ấn Độ, tôi đã gặp gở nhiều nhà khoa học
và triết gia về khoa học và đã tham dự trong nhiều cuộc thảo luận khác nhau với
họ, cả công cộng và riêng tư. Một số này, đặc biệt vào lúc đầu, không có kết quả
lắm. Ở Moscow một lần, vào lúc cao trào của Chiến Tranh Lạnh, tôi đã có một cuộc
gặp gở với một số nhà khoa học nơi mà sự thảo luận của tôi về thức đã gặp sự tấn
công tức thời về khái niệm của tôn giáo về linh hồn, thứ mà họ nghĩ là tôi ủng
hộ. Ở Úc Đại Lợi, một nhà khoa học đã mở màn sự trình bày của ông với một tuyên
bố không thân thiện thế nào ấy về vấn đề ông đã hiện diện ở đấy để bảo vệ cho
khoa học như thế nào nếu có bất cứ sự tấn công về nó từ tôn giáo. Tuy nhiên,
năm 1987 được đánh dấu một thời kỳ quan trọng trong sự dấn thân của tôi với
khoa học. Đây là năm mà hội nghị về Tâm Thức và Đời Sống lần thứ nhất xảy ra tại
nơi thường trú của tôi ở Dharamsala.
Cuộc gặp gở được nhà thần kinh
học người Chi Lê, Francisco Varela, một giáo sư ở Paris, và thương gia Hoa Kỳ
Adam Engle tổ chức. Varela và Engle đến với tôi và đề nghị rằng họ sẽ tập họp một
nhóm những nhà khoa học từ những môn khoa học khác nhau, những người đồng cảm với
tinh thần của đối thoại và chúng tôi dấn thân trong một cuộc thảo luận mở và
riêng tư không chính thức, sẽ kéo dài một tuần. Tôi đã nắm ngay lấy ý tưởng ấy.
Đó là một cơ hội tuyệt vời để học hỏi rất nhiều về khoa học và để tìm ra những
khám phá và tiến trình mới nhất trong tư duy khoa học.Tất cả những người tham dự
từ cuộc gặp gở lần đầu tiên vô cùng hào hứng vì tiến trình đã được tiếp tục cho
đến ngày nay, với một cuộc gặp gở một tuần mỗi năm.
Tôi đã gặp Varela ở tại một hội
nghị ở Áo quốc. Trong cùng năm, tôi đã có cơ hội để gặp riêng ông với tôi, và
chúng tôi đã bắt đầu một tình bạn tức thời. Varela là một người mảnh khảnh với
đôi kính và nói năng rất dịu dàng. Ông phối hợp một tâm tư tế nhị và logic với
biểu lộ cực kỳ trong sáng, vốn làm cho ông là một vị thầy xuất chúng. Ông đã tiếp
nhận triết lý Phật giáo và truyền thống quán chiếu Phật giáo rất nghiêm túc,
nhưng trong những trình bày của ông thì ông phát biểu tư duy hiện hành trong xu
thế chủ đạo của khoa học, không cầu kỳ và trong một cung cách không thành kiến.
Tôi không thể nói thế nào cho hết lòng tri ân của tôi đối với Varela và Engle
và cũng như với Barry Hershey, người vô cùng hào phóng đã cung cấp phương tiện
để đưa các nhà khoa học đến Dharamsala. Tôi đã được giúp đở trong những cuộc thảo
luận này bởi hai thông dịch viên năng lực, học giả Phật giáo Hoa Kỳ Alan
Wallace và người phiên dịch của tôi là Thupten Jinpa.
Trong hội nghị Tâm Thức và Đời
Sống lần mở màn này, tôi đã được phơi bày lần đầu tiên một giá trị lịch sử trọn
vẹn của việc phát triển tính logic khoa học ở phương Tây.Với phần quan tâm đặc
thù của tôi là ý tưởng chuyển đổi mô hình – đó là, những thay đổi nền tảng
trong thế giới quan của một nền văn hóa và những tác động của nó trên tất cả những
khía cạnh của sự thấu hiểu khoa học. Một thí dụ cổ điển đã xảy ra vào đầu thế kỷ
20 từ vật lý cổ điển của Newton đến tính tương đối và cơ học lượng tử. Khởi đầu,
ý tưởng chuyển đổi mô hình xảy ra như một cú sốc với tôi. Tôi từng thấy khoa học
như một cuộc tìm kiếm nhẫn tâm cho sự thật tối hậu của thực tại, mà trong ấy những
khám phá mới thể hiện những bước tiến trong kiến thức lớn mạnh của tập thể con
người trên thế giới. Mục tiêu lý tưởng của tiến trình này sẽ là chúng ta có thể
đạt đến giai đoạn cuối cùng của kiến thức toàn diện và hoàn thiện. Bây giờ tôi
đã nghe rằng có những yếu tố chủ quan liên hệ trong sự xuất hiện của bất cứ mô
hình đặc thù nào và rằng vì thế có những cơ sở cho sự thận trọng trong việc nói
về một thực tại khách quan trọn vẹn mà nhờ nó khoa học cho chúng ta lối vào.
Khi tôi nói chuyện với những
nhà khoa học và triết học cởi mở của khoa học, rõ ràng rằng họ có một sự thấu
hiểu sâu sắc về khoa học và một sự công nhận về những giới hạn của tri thức
khoa học. Cùng lúc, có nhiều người, cả những nhà khoa học và không khoa học, những
người dường như tin rằng tất cả những khía cạnh của thực tại phải và sẽ nằm
trong phạm vi của khoa học. Sự thừa nhận đôi khi làm như thế này, như những sự
tiến triển của xã hội, khoa học sẽ tiếp tục tiết lộ những sai lầm trong những
tin tưởng của chúng ta – một cách đặc biệt là những niềm tin tôn giáo – vì thế
một xã hội thế tục được giải thoát khỏi sự mê tín cuối cùng có thể hiện ra. Đây
là một quan điểm được chia sẻ bởi những người thuộc chủ nghĩa duy vật biện chứng
Mác xít, như tôi đã khám phá trong những lần giao thiệp của tôi với những lãnh
tụ Trung Cộng trong những năm 1950 và trong những khóa học tập tư tưởng Mác xít
ở Tây Tạng. Trong quan điểm này, khoa học được nhận thức như bác bỏ nhiều tuyên
bố của tôn giáo, chẳng hạn như sự tồn tại của Thượng Đế, ân huệ của trời, và
linh hồn vĩnh cửu. Và trong phạm vi của nhận thức này bất cứ thứ gì không được
khoa học chứng minh hay khẳng định là sai lầm hay vô nghĩa thế nào ấy. Những
quan điểm như vậy là những sự giả thiết triết học phản chiếu những kẻ chấp thủ
thành kiến siêu hình của họ một cách có hiệu quả. Giống như chúng ta phải tránh
chủ nghĩa giáo điều trong khoa học, thì chúng ta phải bảo đảm rằng tâm linh là
tự do với những giới hạn như vậy.
Khoa học đối diện với khía cạnh
ấy của thực tại và kinh nghiệm con người mà nó tự góp phần với một phương pháp
đặc thù của thẩm tra chấp nhận được với sự quán sát thực nghiệm, định lượng và
đo lường, có thể lập lại, và xác minh liên đới – hơn là một người có thể phải
nói, “Vâng, tôi cũng thấy như vậy. Tôi cũng có cùng những kết quả.” Vậy nên những
nghiên cứu khoa học chính thống là giới hạn với thế giới vật chất, kể cả thân
thể con người, những thiên thể, năng lượng có thể do lường, và những cấu trúc
hoạt động như thế nào. Những khám phá thực nghiệm đã phát sinh trong cung cách
này hình thành căn bản cho những thử nghiệm xa hơn và cho những khái quát hóa vốn
có thể kết hợp vào trong cấu trúc rộng lớn hơn của kiến thức khoa học. Điều này
có hiệu quả với mô hình hiện tại của những gì cấu thành khoa học. Rõ ràng, mô
hình này không và không thể bàn hết tất cả những khía cạnh của thực tại, đặc biệt
trong bản chất tồn tại của con người. Thêm nữa trong thế giới khách quan của vật
chất, mà khoa học là bậc thầy của sự khám phá, ở đó tồn tại thế giới chủ quan của
những cảm giác, cảm xúc, tư tưởng và những giá trị và những nguyện vọng tâm
linh căn cứ trên chúng. Nếu chúng ta xử sự lãnh vực này như nó không có vai trò
cấu thành trong sự thấu hiểu của chúng ta về thực tại, thì chúng ta sẽ đánh mất
sự phong phú trong sự tồn tại của chính chúng ta và sự thấu hiểu của chúng ta
không thể toàn diện. Thực tại, kể cả sự tồn tại của chính chúng ta, là vô cùng
phức tạp hơn nhiều so với chủ nghĩa duy vật khoa học khách quan cho phép.
Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, August 8,
2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét