Tác giả: Đức Đạt
Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
Anh chị em thân mến,
tôi vô cùng vui mừng hiện diện trong hội trường này một lần nữa. Lần trước có
những con chim bồ câu bay qua bay lại đây đó,
nhưng hôm nay dường như dường như không còn bồ câu nữa …
Trước tiên vì đây
là kỷ niệm lần thứ ba mươi của Tushita, tôi phải nói với Zopa Rinpoche và tổ chức
của ngài rằng trong ba mươi năm qua ngài đã thật đã cống hiến nhiều cho Đạo Phật,
và qua đó tôi nghĩ một số người nào đó đã có được sự an bình nội tại hơn. Thế
nên, tôi rất cảm kích điều đó.
Năm tháng đã trôi
qua từ lần nói chuyện trước của tôi trong hội trường này. Thời gian không bao
giờ dừng lại; nó luôn luôn di chuyển, và không năng lực gì có thể làm nó dừng lại.
Nhưng những gì chúng ta có thể làm là sử dụng thời gian một cách thích đáng.
Trong ý nghĩa nào mà tôi nói là “thích đáng”? Tôi nghĩ rằng ngay cả những bông
hoa này cũng có một thứ quyền nào đó để lớn mạnh, để nở hoa, và cuối cùng cũng sản sinh ra một hạt giống,
bảo đảm cho một thế hệ mới. Trên tất cả của yếu tố vật lý này, chúng ta, như những
tạo vật sống động, như những chúng sanh, có yếu tố mầu nhiệm mà chúng ta gọi là
“tâm” hay “thức”, cũng như những cảm xúc. Mặc dù trình độ thô của thức và cảm
xúc là rất lệ thuộc vào những tế bào não bộ, nhưng bản chất tối hậu của thức vẫn
là điều gì đó huyền bí đối với những người bình thường.
Rõ ràng, mọi người
có một cảm giác về tự ngã – “tôi”. Trong ba nghìn năm qua hay hơn thế, con người
đã cố gắng để xác định tự ngã là gì, thế nên có những quan điểm khác nhau về tự
ngã. Cũng thế mọi người có kinh nghiệm về vui sướng và đớn đau, và mỗi con thú
cũng có một loại kinh nghiệm tương tự. Vậy thì, với tự do của tự ngã và những
kinh nghiệm của vui sướng và đớn đau, thì mỗi người khao khát nhiều vui sướng
hơn, nhiều hạnh phúc hơn, và không muốn khổ đau là tự nhiên. Cảm nhận ấy là
thông thường với tất cả chúng sanh, mặc cho những đặc trưng khác biệt về thân
thể. Rõ ràng rằng chó, mèo, và những con thú khác, kể cả côn trùng, tất cả đều
có một cảm nhận về cái tôi, về tự ngã và với một khao khát có ít khổ đau hơn.
Bây giờ, ở đây,
khi tôi sử dụng chữ “hạnh phúc”, tôi đang nói về hạnh phúc trong một ý nghĩa
chân thành, sự hài lòng sâu xa. Cũng có thể ngẫu nhiên là những thử thách gay
go hay khó khăn có thể đem đến một sự hài lòng hơn. Tôi nghĩ rằng, ở một phạm
vi nào đó, những con thú cũng có thể trải nghiệm loại hài lòng đó. Sự khác biệt
giữa con người chúng ta và những con thú khác là sự thông minh lạ thường của
con người, và do bởi điều đó mà chúng ta có những trình độ khác nhau của hài
lòng. Đối với thú vật, tôi nghĩ sự hài lòng chính yếu đến từ những kinh nghiệm
vật lý hay cảm giác. Con người chúng ta chia sẻ cùng trình độ hài lòng ấy với
những con thú, nhưng do bởi sự thông minh đặc trưng, do vì con người phức tạp
hơn nhiều, cho nên chúng ta có sự hài lòng rộng lớn hơn ở trình độ tinh thần. Mặc
dù, ở một chừng mực nào đó, thú vật trải nghiệm hài lòng cả những trình độ cảm
giác và tinh thần, nhưng con người chúng ta rõ ràng trải nghiệm sự hài lòng rộng
lớn hơn ở trình độ tinh thần.
Những người như vận
động viên đôi khi trải nghiệm thử thách cam go rất nhiều ở trình độ vật lý,
nhưng họ có một mục tiêu nào đó và khi họ đạt được mục tiêu thì
họ có sự thỏa mãn
vô cùng ở trình độ tinh thần. Do vậy, tất cả những thử thách gian khó ở trình độ
vật lý mang đến một sự thỏa mãn hơn. Tôi nghĩ ngay cả chúng ta cũng có những
kinh nghiệm như vậy. Thí dụ, có thể có hai bệnh nhân có cùng chứng bệnh thân thể
trong cùng một phòng của một bệnh viện. Một người có năng lực tinh thần có thể
nghĩ nhiều hơn về những thứ nào đó, người kia thì ít khả năng tư duy hơn chỉ
quan tâm đến những trải nghiệm thân thể vật lý. Bệnh nhân có năng lực tinh thần
nghèo nàn hơn sẽ có nhiều đau đớn hơn và chán chường hơn. Mặc dù trình độ đau đớn
thân thể là giống nhau, nhưng trình độ tinh thần, thái độ của họ khác nhau đối
với bệnh tật và đau đớn của họ, vốn đã làm nên sự khác biệt.
Dĩ nhiên, đôi khi
chúng ta nói, “Hôm nay thân thể của tôi hơi không thoải mái, hơi đau nhức,
nhưng tâm tư tôi rất hạnh phúc”. Và cũng
có những trường hợp ngược lại, không có vấn đề về thân thể nhưng tinh thần lại
khổ sở. Rõ ràng có hai trình độ. Giữa hai thứ, thứ nào nghiêm trọng hơn? Đấy là
trình độ tinh thần. Sự bệnh hoạn hay không thoải mái thân thể có thể được khuất
phục bằng hạnh phúc tinh thần. Sự thỏa mãn tinh thần có thể chinh phục sự đau đớn
thân thể. Trái lại, nếu một người sự khổ sở tinh thần, với việc lo lắng quá,
căng thẳng quá, thì sự thoải mái thân thể không thể chinh phục được nổi băn
khoăn tinh thần. Trình độ tinh thần là quan trọng hơn.
Với những trình độ
khác nhau của hạnh phúc và thỏa mãn, ở trình độ thật căn bản, tôi có thể nói rằng
tôi rất hạnh phúc. Vì tôi có một giấc ngủ rất tốt lành tối qua, theo sau đó là
một bửa điểm tâm và một bửa trưa ngon lành, tôi rất vui sướng, rất hài lòng. Loại
hạnh phúc hay hài lòng thế đó là thông thường với những thú vật khác. Khi những
con thú được cho ăn uống no đủ và không có gì nguy hiểm tức thời, chúng đúng là
rất bình yên. Tôi nghĩ là chúng cũng hành thiền trong cách ấy. Khi một con thỏ
ngồi mà không động đậy, tôi nghĩ nó đang thiền. Và cũng giống với một con bồ
câu, khi nó no đủ và không có hiểm họa gì tức thời. Dĩ nhiên, thật sự hành thiền
thì phức tạp hơn thế. Chỉ nhắm mắt lại và không động đậy không phải là thiền.
Có một trình độ
khác của hạnh phúc vốn không liên hệ với trình độ vật lý. Thí dụ, trong trường hợp
của riêng tôi, tôi cảm thấy hạnh phúc nếu trong tháng qua hay năm rồi, tôi đã
làm một việc gì đó hữu ích, chẳng hạn như tham dự những cuộc gặp gở hay tự học
hỏi hay thực hành, vốn cho tôi một loại toại nguyện nào đó, hay nếu tôi đã hoàn
thành ý nghĩa thật sự của cuộc sống bằng việc cống hiến một sự phụng sự nho nhỏ
nào đó cho những người khác. Nếu tôi có thể mang đến một niềm hạnh phúc hay một
sự thỏa mãn tạm thời nào đó cho người khác, kể cả thú vật, thì tôi cảm thấy hạnh
phúc.
Cách đây mới hai
ngày thôi, khi tôi đang từ sân bay về khách sạn và phải dừng lại khi đèn đỏ.
Tôi đã chú ý thấy một em bé nghèo trên đường phố. Em bé ấy đang xin ăn, với một
cái ly, với những người đang lái xe. May mắn thay, chiếc xe của tôi dừng lại
nơi ấy. Do vì tôi đã kinh nghiệm trước đây về những sự kiện như vậy, nên tôi
thường để một ít tiền trong túi, nhưng đó là ngày khác còn hôm nay tôi không có
gì trong túi ngoài trừ vài viên kẹo. Tôi rồi thì phải mượn tiền từ những người
cảnh sát trên xe của tôi và cho đứa bé. Một giờ trước, tôi đã nhận sửa sô cô la
từ một người bạn, và tôi cũng cho đứa bé. Vào lúc ấy đúng là tôi cảm thấy hạnh
phúc. Mẹ của đứa bé cùng đi với nó mang theo một đứa nhỏ hơn và đứa bé ấy đã
mĩm cười thật tươi với mẹ nó. Ở thời khắc ấy, ngay khi tôi thấy thái độ vui sướng
của đứa bé với mẹ nó, tôi thật sự cảm thấy một sự toại nguyện sâu xa. Cho nên,
những việc nhỏ có thể mang đến một loại vui sướng nào đó, tối thiểu một khoảng
thời gian ngắn.
Khi tôi quán chiếu
về những thứ này, tôi thấy rằng có một trình độ khác của hạnh phúc hay hài lòng
vốn không liên hệ gì đến thân thể vật lý. Dĩ nhiên, kinh nghiệm tâm linh của
tôi là rất, rất giới hạn – có thể là một ít trên số không. Khi tôi quán chiếu về
những thứ này, tôi thấy rằng có thể có sự toại nguyện sâu xa ở trình độ tinh thần
thuần khiết không cần dựa vào những giác quan – về việc thấy, nghe, nếm hay xúc
chạm vào thứ gì đó. Sự toại nguyện đó làm tôi can đảm hơn để đem những thứ thực
tập này xa hơn và cũng như ao ước chia sẻ chúng với những người khác vốn rối rắm
tinh thần.
Chúng ta có những
kinh nghiệm hàng ngày ở những trình độ khác nhau của hạnh phúc. Tôi nghĩ rằng
những người không tín ngưỡng cũng có những loại kinh nghiệm tương tự từ việc
giúp đở những người khác, hay tối thiểu từ việc không làm tổn hại họ. Việc giúp
đở người khác cho chúng ta một cảm giác hạnh phúc và qua những thái độ như vậy
chúng ta có thêm những người bạn. Bất cứ ta đi đâu, ta cũng thấy thêm những nụ
cười, thêm sự thân thiện. Nếu ta là một người vị kỷ và hẹp hòi quá mức, ta nghi
ngờ những người khác, và vì tính vị kỷ của ta, ta giữ khoảng cách với người
khác. Với những cảm giác như vậy, chúng ta không thể cảm thấy hạnh phúc khi ta
thấy thêm những người khác; chúng ta cảm thấy không thoải mái. Như vậy thật sự
là chống lại bản chất căn bản của con người. Chúng ta là những động vật xã hội.
Suốt cuộc đời của
một người, một đời sống hạnh phúc lệ thuộc vào những người khác; đó là căn bản
của một đời sống hạnh phúc, thành công.
Nếu chúng ta nghi ngờ và giữ khoảng cách với người khác, chúng ta trở thành bị
cô lập tinh thần; rồi chúng ta cảm thấy lẻ loi, sợ hãi, và một cảm giác bất an.
Thế nên, bất chấp ta là một người có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, hãy là một
người trung thực, nhiệt tình; chúng ta rồi thì sẽ là một con người hạnh phúc
hơn. Điều đó rất quan trọng. Chúng ta không nói ở đây về kiếp sống tới hay Đức
Phật hay Thượng Đế. Đơn giản là chúng ta đang thẩm tra cách tốt nhất để đạt đến
một đời sống hạnh phúc, và đây là những
thái độ nội tại, những phẩm chất nội tại này, là những nhân tố then chốt để làm
một người hạnh phúc.
Vì chúng ta là những
động vật xã hội, chúng ta là những bộ phận của một xã hội, và nhằm để sống một
cách hạnh phúc trong xã hội ấy, điều thiết yếu là chúng ta có tâm linh cộng đồng,
chúng ta chia sẻ những vấn nạn và những thứ khác, và hoàn toàn hợp tác với
nhau. Cộng đồng rồi thì sẽ hạnh phúc hơn nhiều. Nhằm để có được một sự hợp tác
chân thành, thì tình thân hữu là nhân tố chìa khóa, và sự tin tưởng là căn bản
của tình thân hữu, không phải tiền bạc, quyền lực, học vấn, hay trí thông minh.
Nếu có sự tin tưởng thật sự, thì tình thân hữu sẽ đến sau đó. Nếu chúng ta muốn
tin tưởng, thì nhiệt tình và sự quan tâm chân thành cho sự cát tường của người
khác, hãy chăm sóc người khác tối đa như làm cho chính mình, thì sẽ không có chỗ
cho việc lừa đão người khác, cho sân hận hay ganh tỵ.
Nếu người nào đó
thành công, chúng ta nên cảm thấy hạnh phúc hơn là lo lắng rằng họ đang thành
công hơn chúng ta. Không có chỗ cho ganh tỵ hay cảm giác ganh đua tiêu cực. Những
cảm giác ganh đua tích cực thì tốt, nhưng tiêu cực thì không. Miễn là chúng ta
tôn trọng những quyền của người khác, miễn là chúng ta quan tâm chân thành cho
sự cát tường của người khác, thì không có chỗ cho giết hại, trộm cắp, lừa dối,
hảm hiếp, hay bắt nạt. Tất cả phẩm hạnh, tất cả những động của thân thể, lời
nói, và tinh thần của chúng ta có thể là trong sạch.
Sự cởi mở và nhiệt
tình chân thành là căn bản của sự tự tin, hay sức mạnh nội tại. Với chúng,
chúng ta có thể đối diện với những người khác một cách trong sạch, như chúng ta
không có gì để dấu diếm. Đó là căn bản của việc phát triển sự tin tưởng. Tin tưởng
mang đến tình thân hữu, và tình thân hữu mang đến một cộng đồng hạnh phúc, hay
ngay cả một gia đình hạnh phúc. Cho dù chúng ta có chấp nhận một niềm tin tôn
giáo hay không đó là tùy vào cá nhân, đó là vấn đề của cá nhân. Nhưng những gì
tôi gọi là “đạo đức thế tục” là cần thiết bởi vì chúng ta muốn một đời sống hạnh
phúc. Chúng ta không đang nói về kiếp sau hay những thứ khác. Đơn giản là chúng
ta muốn một cuộc sống hạnh phúc.
Ở một trình độ
khác, có những người có tín ngưỡng. Tôi cảm thấy rằng đây là hai khía cạnh của
tất cả những tôn giáo truyền thống quan trọng – một khía cạnh là sự thực tập và
khía cạnh kia là triết lý hay giáo lý. Miễn là khía cạnh thực tập được quan
tâm, tất cả những tôn giáo truyền truyền thống đều giống nhau. Tất cả những
truyền thống dạy chúng ta thực tập về từ ái và bi mẫn, và với việc ấy là, tâm
linh của tha thứ và bao dung, cũng như kỷ luật tự giác.
Nhằm để đề cao những
sự thực tập này, những triết lý và những quan điểm khác nhau hình thành. Có hai
nhóm tôn giáo – hữu thần và vô thần. Nhóm tôn giáo hữu thần tin tưởng vào một đấng
tạo hóa đầy quyền năng, cho dù là Thượng Đế, Allah hay Brahma, và tận cùng, mọi
thứ lệ thuộc vào đấng tạo hóa này. Tất cả mọi sự hiện hữu và đặc biệt là loài
người là được tạo dựng bởi cùng một Thượng Đế.
Một lần ở
Jerusalem, tôi đã gặp và thảo luận với một số người Do Thái và một số người
Palestine Hồi giáo. Một giáo viên Do Thái nói đám đông của chúng tôi về một đố
điều ông ta giảng dạy cho những học sinh Palestine trong lớp. Khi những học
sinh Palestine thấy những người lính hay cảnh sát Do Thái ở những chốt kiểm
soát, họ thường cảm thấy không vui. Thế nên ông đề nghị rằng khi chúng gặp người nào đó làm chúng tức
tối, thì chúng nên nhớ rằng con người ấy là hình ảnh của Thượng Đế. Đây là điều
mà ông dạy chúng và sau này một số học sinh Palestine báo cáo rằng chúng thấy lợi
lạc vô cùng trong việc nghe theo lời khuyên của ông. Ở trình độ tinh thần, những
cảm giác không thoải mái của chúng lập tức giảm thiểu. Trong cách ấy, nếu chúng
ta có một đức tin vô hạn trong Thượng Đế, khi chúng ta đối diện với những người
làm chúng ta tức tối không thoải mái, thì chúng ta có thể nghĩ, “Con người này
hình ảnh của Thượng Đế. Người ấy cũng được Thượng Đế tạo ra.” Đó là một phương
pháp đầy năng lực.
Trong một trường
hợp ở Hoa Kỳ hoặc Canada, tôi ngồi cùng với một người Ki tô hữu và sau khi
chúng tôi đã thảo luận và trao đổi một số giá trị tâm linh, ông ấy chơi guitar
và hát một số lời ca ngợi Thượng Đế. Trong lúc ấy, những giòng lệ đã rơi từ mắt
ông vì đức tin vô hạn trong Thượng Đế. Thực tế, sự quy phục hoàn toàn trong Thượng
Đế cũng hoạt động để làm giảm thiểu tính vị kỷ. Trong sự tiếp cận của Phật
giáo, có hai loại vị tha - một, sự vị tha của đời sống quy ước thế gian và thứ
kia, trình độ cứu kính của vị tha; mục đích là để giảm thiểu tính vị kỷ cực
đoan. Do vậy, đức tin vô hạn trong Thượng Đế và quy phục Thượng Đế hoạt động
nhiều hay ít cũng giống như vậy. Thượng Đế là từ ái vô hạn, cho nên những người
có tín ngưỡng phải đi theo cách ấy. Do vậy rất tốt. Những sự thực tập này là ở
trình độ tinh thần, không ở trình độ giác quan.
Tôi nghĩ rằng quý
vị có thể sử dụng trình độ giác quan để bổ sung cho trình độ tinh thần – bằng việc lắng nghe âm nhạc tôn giáo
hay xem hình ảnh tôn giáo, thí dụ thế. Đối với tôi, tôi xem những bức tượng hay
hình ảnh Mẹ Maria bồng Giê-Su như một đứa bé sơ sinh như một biểu tượng nổi bật
của từ ái và bi mẫn. Thật là đẹp đẽ. Nhưng Giê-Su ở trên thánh giá đôi khi làm
tôi cảm thấy buồn. Mẹ Maria bồng Giê-Su hài đồng liên hệ đến từ ái, bi mẫn, và
ân cần. Một lần khi tôi hành hương đến một thánh địa Ki tô giáo, Fatima,ở Bồ
Đào Nha. Nơi có một bức tượng nhỏ của Đức Mẹ Maria. Vài người chúng tôi ở đó,
dĩ nhiên với những anh chị em Ki tô hữu địa phương. Chúng tôi ngồi lại với nhau
trong một vài phút để hành thiền trong im lặng. Khi tôi và mọi người sắp rời
đi, tôi quay lại và bức tượng nhỏ của Đức Mẹ Maria thật sự mĩm cười với tôi. Tôi
nghĩ rằng chắc có điều gì sai sót trong tâm tôi, nhưng rồi sau này khi quán chiếu
lại sự kiện, tôi chắc chắn đó là thật.
Tôi có một kinh
nghiệm tương tự một lần trong một tu viện Tây Tạng ở Nam Ấn. Tôi thật sự ngưỡng
mộ nhiều với Maria, cho nên tôi nghĩ Maria đã cảm kích về điều ấy, hay cho tôi
một loại gia hộ đặc biệt. Hay thỉnh thoảng tôi nói đùa rằng Maria không phân biệt
giữa Phật tử và không Phật tử. Thật sự Đạo Phật không có khái niệm về một đấng
tạo hóa. Nói một cách nghiêm khắc, theo quan điểm của những tôn giáo hữu thần,
thì Phật tử là những người không có đức tin.
Thế nào đi nữa, nếu
có đức tin, những giáo thuyết nào đó được tất cả những truyền thống quan trọng
giữ gìn là rất tốt vì chúng cung cấp sự hòa bình nội tại, niềm an bình ở trình
độ tinh thần. Với việc liên hệ đến những truyền thống tôn giáo vô thần, có Phật
giáo, Kỳ Na giáo, và phái Số Luận[1],
một trường phái tư tưởng cổ khác không Phật giáo của Ấn Độ vốn rất phức tạp và
đối kháng hiệu quả nhất với Phật giáo trong lãnh vực triết lý. Đó là một triết
lý rất phức tạp, rất phong phú. Trong truyền thống Số Luận, có hai nhóm: một
nhóm chấp nhận đấng tạo hóa, và nhóm khác không chấp nhận.
Những truyền thống
vô thần không tin tưởng vào một đấng tạo hóa nhưng tin luật nhân quả - rằng mọi
thứ hình thành như sự tiếp nối của những nguyên nhân và điều kiện trước đó.
Không phải là mọi thứ bổng nhiên xảy ra mà không có nguyên nhân. Không có đấng
tạo hóa; mọi thứ xảy ra thông qua những nguyên nhân và điều kiện của chính nó,
cho nên chúng ta gọi nó là luật nhân quả. Theo đó, như tôi đã đề cập trước đây,
với việc liên hệ đến bất cứ hành vi tích cực nào, “tích cực” có nghĩa là không
chỉ mang đến một sự hài lòng nào đó tạm thời cho chính ta mà về lâu về dài sự
hài lòng hay lợi ích, vốn đến qua việc phụng sự người khác. Việc đem đến một lợi
ích nào đó cho những người khác là cách tốt nhất để đạt được sự toại nguyện về
lâu về dài cho chính ta, vì đó là hành vi tích cực – nghiệp tích cực hay nghiệp
lành. Nghiệp tích cực mang đến một kết quả tích cực.
Những thí dụ của
nghiệp tiêu cực chẳng hạn như sát sanh, trộm cắp, tà dâm (chủ yếu là hiếp dâm),
vọng ngữ, làm tổn hại đến thân thể và sở hữu vật chất của người khác, nói lời
chia rẻ vốn liên hệ đến những từ ngữ chia rẻ bạn bè hay những người vốn đến với
nhau. Chúng ta thường nói rằng có mười nghiệp bất thiện, và đối lập với chúng
là nghiệp tích cực, chẳng hạn như tránh làm tổn hại đến người, tránh giết hại,
tránh trộm cắp, và v.v…Nghiệp có nghĩa là hành động. Những hành giả tin tưởng
vào luật nghiệp báo đôi khi dễ dàng quy trách nhiệm: “Ô, đấy là nghiệp! Không
thể làm gì khác hơn!” Tôi nghĩ đó là một
sai lầm. Nghiệp được chúng ta tạo ra, cho nên trong trường hợp chúng ta sắp trải
nghiệm kết quả của một nghiệp tiêu cực nào đó – nếu chúng ta thực hiện một nổ lực
– qua nổ lực của chúng ta thì chúng ta có thể tạo nên một nghiệp tích cực mạnh
mẽ hơn vốn có thể trung hòa nghiệp tiêu cực trước đó. Qua năng lực thuần túy của
nghiệp tích cực, năng lực của nghiệp tiêu cực để sản sinh những hậu quả tiêu cực
có thể được tiêu trừ.
Khi chúng ta phản
chiếu trên những hành vi đúng đắn của chúng ta – những hành vi vốn đem đến tối
thiểu một hạnh phúc nào đó, một sự hài lòng nào đó, một sự thoải mái nào đó cho
người khác, kể cả những loài vật – thì chúng ta đón nhận sự hài lòng vô hạn. Điều
này xảy ra ở trình độ tinh thần, và nó xảy ra phù hợp với luật nghiệp báo. Cho
nên, nghiệp có thể thay đổi, bởi vì nó là do chúng ta tự tạo ra. Mọi thứ tùy
thuộc vào năng lực ý chí của chúng ta – “tôi phải làm việc này, bất chấp có bao
nhiêu chướng ngại đi nữa.” Mặc dù một vài năm về trước chúng ta cảm thấy thật
không có thể thực hành những điều gì đó, khi thời gian trôi qua và chúng ta tự
cảm thấy quen thuộc với những thứ ấy, tâm thức chúng ta dần dần tiến đến gần
hơn, gần hơn, và gần hơn. Sau một vài thập niên, thì chúng ta thật sự trải nghiệm
những thứ ấy.
Trong trường hợp
của riêng tôi, một vài thập niên trước, có những thứ nào đó mà tôi cảm thấy thật
sự khó khăn để thực hành, nhưng bây giờ, sau ba mươi hay bốn mươi năm, những thứ như vậy đã trở nên dễ dàng hơn nhiều lắm. Đó
là cùng chủ đề, cùng con người, cùng tâm thức, nhưng do bởi quen với sự thực tập,
nên ngày càng gần hơn. Giống như với những phi hành gia. Họ không thể điều khiển
mọi thứ ngay lập tức, nhưng qua việc rèn luyện và trở nên quen thuộc với những
gì họ phải làm, cuối cùng họ có thể hành động mà không phải suy nghĩ nhiều. Bấm
nút thứ nhất, nút thứ hai, nút thứ ba, đến một cách tự động.
Phật học nói rằng
có một sự giới hạn đối với bất cứ sự rèn luyện thân thể vật lý nào bởi vì trình
độ vật lý thô phù, cho nên có sự giới hạn. Qua rèn luyện chúng ta có thể nhảy
qua một khoảng cách hay độ cao nào đó
đáng kể. Nhưng vì tâm không có hình thể, cho nên nếu chúng ta làm quen thuộc với
những thứ nào đó, thì không có giới hạn. Nó có thể gia tăng, vì căn bản của nó
không cứng nhắc. Với sự rèn luyện thân thể vật lý, vi căn bản của nó là cứng nhắc
cụ thể, cho nên bị giới hạn. Nhưng với một phẩm chất tinh thần, một khi ta phát
triển nó đến một trìn độ nào đó, miễn là chúng ta lưu ý đến sự phát triển, thì
cảm giác ấy đến một cách tự động. Không cần phải nổ lực trong từng trường hợp.
Nhưng với sự rèn luyện thân thể, thí dụ với những vận động viên, quý vị cần rèn
luyện liên tục. Nếu không vận động trong vài tháng, thì quý vị cần luyện tập để
đạt đến cùng trình độ vốn có. Phẩm chất tinh thần không giống như thế. Qua kinh
nghiệm của riêng ta, nếu chúng ta chú ý, thì chúng ta nhận thấy rằng có những sự
khác biệt giữa những phẩm chất của trình độ thân thể và tinh thần.
Tâm thức chúng ta
vô hình, vô tướng, và trong một cách nào đó thì rất khó để kiểm soát, trong một
cách khác thì rất dễ dàng để kiểm soát, để chuyển hóa. Kiểm soát hay chuyển hóa
ở trình độ tinh thần hình thành một cách toàn diện qua ý chí tự nguyện., qua
nhiệt tình. Không có áp lực bên ngoài có thể thay đổi tâm thức chúng ta, nó chỉ
có thể thay đổi một cách tự nguyện. Thế nên, nhằm để phát triển loại nhiệt tình
tự nguyện ấy, thì chúng ta phải thấy lợi ích của những cung cách tích cực nào
đó của tư duy, chẳng hạn như từ ái, ân cần, tôn trọng người khác và tùy hỉ
trong những hành vi tốt lành của người khác, và tính gây hại của sân hận, ganh
tỵ, và những tâm tiêu cực khác. Đó là những gì mang đến lòng tin chắc: “Tôi muốn
giảm thiểu những cảm xúc tiêu cực nay và tăng gia những thứ tích cực.” Sau đó
chúng ta tự nguyện hiện thực nổ lực trong hành động.
Một khi chúng ta
thấy nhu cầu của loại chuyển hóa như vậy, rồi thì chúng ta sẽ phát triển ý chí
để thực hiện nổ lực ngày đêm, kể cả trong những giấc mơ của chúng ta. Tâm vô
hình, vô tướng này, sẽ dần dần thay đổi. Những nguồn gốc của lo lắng, và rắc rối
tinh thần cuối cùng sẽ được giảm thiểu, và sự hòa bình của tâm sẽ gia tăng bất
chấp những thứ xảy ra chung quanh chúng ta. Không năng lực ngoại tại nào có thể
hủy hoại sự hòa bình nội tại của chúng ta. Sự hòa bình nội tại của chúng ta sẽ
bị hủy hoại tức thời bởi những kẻ thù nội tại của chúng ta – sân hận, thù oán,
ganh tỵ. Đây là những kẻ thù thật sự. Những kẻ thù ngoại tại, bất chấp mạnh mẽ
thế nào đi nữa, chỉ có thể tàn phá thân
thể vật chất của chúng ta mà thôi, chứ không thể phá hoại sự hòa bình bên trong
của chúng ta. Một khi sự sân hận , thù oán, và ganh tỵ phát triển, nó liền tức
thời phá hoại sự hòa bình nội tại của chúng ta. Cho nên, kẻ thù không phải ở
bên ngoài; kẻ thù ở bên trong đây.
Một trong những
người bạn Hồi giáo của tôi nói rằng “thánh chiến (jihad)” có nghĩa thật sự là để
chiến đấu với những cảm xúc phiền não tai hại – là thứ mà Phật giáo gọi là kẻ
thù nội tại. Đó là một ý nghĩa của thánh chiến - jihad. Cho nên tất cả những sự
thực tập này thật sự đòi hỏi khái niệm jihad. Nhưng có một số người có những ấn tượng khác về ý nghĩa của nó.
Theo quan điểm của
một hành giả Phật giáo, càng đạt được kinh nghiệm nội tại, thì tâm thức của
hành giả càng ổn định. Dĩ nhiên, như tôi đã đề cập trước đây, chính tôi là một
hành giả rất nghèo nàn, nhưng ngay cả từ một kinh nghiệm nho nhỏ của tôi thì
tôi có thể quả quyết với quý vị rằng qua rèn luyện tâm thức, thì tâm thức của
chúng ta trở nên ổn định hơn và trải nghiệm ít căng thẳng và ít sợ hãi hơn, là
điều vốn mang đến một sự tự tin hơn. Cũng thế, với một tâm tĩnh lặng thì chúng
ta có thể thấy thực tại một cách rõ ràng hơn. Khi tâm thức chúng ta bị khống chế
bởi sợ hãi, hay sân hận, thì chúng ta không thể thấy thực tại một cách chính
xác. Khi tâm chúng ta quá bị quấy rây, thì chúng ta không thể sử dụng trí thông
minh của con người một cách thích đáng. Tôi nghĩ rằng lòng nhiệt tình lập tức
mang đến sức mạnh nội tại và cũng có thể cho phép tâm thức chúng ta thể hiện chức
năng một cách bình thường hơn, một cách khách quan hơn. Trong cách ấy, chúng ta
đạt đến một trình độ khác của tâm thức hòa bình, một trình độ khác của hạnh
phúc và toại nguyện.
Nếu chúng ta rèn
luyện trong cách này, thì ngay cả khi chúng ta được sanh ra như một con người rất
bình thường, thì có khả năng vào thời điểm lâm chung, thể trạng tinh thần của
chúng ta sẽ tiến bộ hơn. Rồi thì một trăm phần trăm bảo đảm rằng kiếp sống tới
của chúng ta sẽ là một kiếp sống rất tích cực. Đời nối tiếp đời cách ấy. Người
Phật tử tin tưởng rằng trong kiếp sống vô tận sẽ ngày càng tốt đẹp hơn, tốt đẹp
hơn, tốt đẹp hơn lên, …, cho đến khi mục tiêu cuối cùng của Quả Phật được đạt đến.
Hạnh phúc tối đa là ở Quả Phật.
Trong Bát Nhã Tâm
Kinh, câu thần chú: Tadyatha Gate
Gate Paragate Parasamgate Buddhi Soha
(yết đế yết đế ba la yết đế ba la tăng yết đế bồ đề tát bà ha). Dĩ nhiên, tôi
không thể phát âm một cách chính xác. Khi những học giả thật sự của Sanskrit
tán tụng bằng Sanskrit, thì thật đặc biệt. Với ngôn ngữ Tây Tạng, thì tôi không
biết. Thế nào đi nữa, ý nghĩa của tadyatha là “nó là như vậy”, gate gate
có nghĩa là “đi, đi”, paragate nghĩa
là “vượt qua”, parasamgate nghĩa là
“vượt qua một hoàn hảo”, và bodhi
nghĩa là “xin cho hạt giống của Bồ đề, hay giác ngộ, được gieo trồng.”
Thường thường, tôi nói đùa với mọi người rằng Gate Gate Paragate Parasamgate Buddhi Soha
có hai trình độ - một là vật lý và thứ khác là tinh thần. Ở trình độ vật lý,
không cần nổ lực, chúng ta đi, đi, đi vượt qua, có nghĩa là chúng ta đi từ thiếu
niên để là thanh niên và rồi trung niên và là người lão niên. Rồi thì với bodhi svaha, chúng ta cuối cùng đi đến nghĩa trang. Trong một trường hợp,
hoặc là ở châu Âu hay châu Mỹ, chúng ta phải đi ngang qua một nghĩa trang gần đấy.
Sau đó, trong buổi nói chuyện của tôi, tôi đề cập rằng kinh nghiệm của việc đi
ngang qua một nghĩa trang, và rằng đó là nơi đến cuối cùng của chúng ta. Ở
trình độ vật lý, không cần phải nổ lực, nó xảy ra một cách tự động.
Vị trí của tôi bây giờ là parasamgate. Vì bây giờ tôi đã bảy mươi sáu tuổi, gate gate
và paragate đã qua rồi, và bây giờ nó
là parasamgate, với nghĩa trang chỉ
như điểm đến cuối cùng. Hay có lẽ thân thể tôi sẽ được đặt trong một chorten
hay tháp mộ. Tôi không biết. Nhưng thế nào đi nữa, đó là điểm đến cuối cùng ở
trình độ vật chất. Do thế, nó sẽ đi theo cách ấy không cần nổ lực.
Bây giờ, chỗ chúng ta cần sử dụng nổ lực là ở trình độ
tinh thần của Gate Gate Paragate
Parasamgate Buddhi Soha. Hai chữ đầu,
gate gate, liên hệ đến những con đường của tích lũy (tư lương đạo) và chuẩn
bị (gia hạnh đạo). Paragate có nghĩa
có nghĩa đạt đến trình độ thứ ba, con đường thấy đạo (kiến đạo). Và theo những
giai tầng của Bồ tát thừa, địa thứ nhất được đạt tới, tiếp theo là những địa
còn lại của thập địa. Sau đó đến bodhi
svaha – Quả Phật. Như tôi đề cập trước
đây, tôi là một hành giả nhỏ của Phật giáo, và tôi đang thật sự thực hiện nổ lực
của việc đi trên lối của gate gate.
Đôi khi tôi cảm thấy một số dấu hiệu của cửa thứ nhất gate, mặc dù tôi chưa đạt đến đấy, nhưng tôi đã có một số dấu hiệu
về nó. Cho nên, nếu tôi có thêm thời gian để thực hiện nổ lực, tôi hoàn toàn chắc
chắn rằng tôi sẽ đạt đến trình độ thứ nhất của gate.
Một cách căn bản thì tất cả chúng ta đều giống nhau, đều
là những con người. Tinh thần, cảm xúc và thân thể đều giống nhau. Thế rồi, từ
quan điểm của Phật giáo, mọi người đều có Phật tánh, hay Tathagatagarbha. Phật
tánh, hay hạt giống Phật là ở đấy. Miễn là linh quang ở đấy, thì hạt giống Phật
ở đấy. Linh quang là nguồn gốc căn bản, nhân căn bản của thức. Miễn là thức ở đấy,
nguồn gốc căn bản của thức phải ở đấy. Thứ ấy, nói một cách đại khái, là Phật
tánh. Đấy là năng lực để trở thành toàn tri toàn giác. Từ đấy, Giác Ngộ hình
thành. Những viên đá, vốn không có tâm thức, nên không có Phật tánh, vì vậy
chúng không có năng lực ấy. Chúng sanh, kể cả thú vật, có thức. Ngay cả thức của
một con thú là rất giới hạn, thức vẫn ở đấy. Do vậy, vì theo quan điểm của Phật
giáo, tất cả chúng sanh có Phật tánh, nên chúng sanh luôn luôn có khả năng để
thành tựu Quả Phật.
Vì thế, với việc quan tâm đến những trình độ khác nhau của
hạnh phúc, những người không tín ngưỡng đạt đến nó trên căn bản thế tục. Đấy là
một. Thứ đến, đối với những người có tín ngưỡng, thì có đức tin hữu thần và đức
tin vô thần tôn giáo. Phật giáo là một đức tin trong tôn giáo vô thần và trong
Phật giáo cũng có truyền thống Pali và Sanskrit.
Vậy thì, như tôi thường làm, tôi muốn có một vài câu hỏi.
Nhưng tôi muốn nói rõ rằng chúng phải là những câu hỏi đầy đủ ý nghĩa, chứ
không là những câu hỏi ngớ ngẫn. Những câu hỏi ngớ ngẫn làm mất thời gian. Và nếu
có quá nhiều câu hỏi ngớ ngẫn thì tôi có thể bực bội, và sau đó quý vị sẽ phải
nghe những lời gắt gỏng. Đó cũng sẽ là một minh chứng cho sự giận dỗi của Đạt
Lai Lạt Ma.
HỎI & ĐÁP
HỎI: Làm sao một đứa trẻ thấy hạnh phúc khi thấy
cha mẹ bị đau khổ vì cơn bệnh giai đoạn cuối?
ĐÁP: Tôi hoàn
toàn chia sẻ sự quan tâm của bạn. Nó làm tôi nghĩ về lúc mẹ tôi qua đời, và một
cách đặc biệt khi vị trưởng lão giáo thọ của tôi viên tịch. Khi vị trưởng lão
giáo thọ, người trao cho tôi cụ túc giới qua đời, tôi đã thật sự cảm thấy như
tôi mất đi một tảng đá vững vàng mà tôi học hỏi trên ấy. Vào lúc ngài qua đời,
tôi không còn tảng đá vững vàng ấy nữa. Nhưng rồi thì tôi đã nhớ rằng vị giáo
thọ quá cố của tôi thường đọc những vần kệ của Tịch Thiên để khuyến khích – khi
chúng ta đang đi ngang qua một số khó khăn, thì chúng ta phải nghĩ về thực tế của
những khó khăn đó. Nếu có khả năng vượt thắng chúng, thế thì không cần phải lo
lắng; và nếu không có cách để vượt thắng loại thảm họa đó, thế thì lo lắng cũng
không ích gì. Đó là sự tiếp cận rất thực tế.
Cho nên, khi bạn đang đối diện một hoàn cảnh mà cha mẹ bạn
có một cơn bệnh giai đoạn cuối – một loại bệnh tật rất nghiêm trọng hay đau đớn
– xin hảy thực hiện mọi nổ lực để vượt thắng nó, để chửa trị nó. Nếu không thể
chửa trị, thế săn sóc chính bạn nhiều hơn. Và ngay cả nếu sự kiện trở nên tệ hại
nhất diễn ra, thì quý vị nên hướng đời sống của quý vị trong một cung cách đầy
đủ ý nghĩa hơn vì thế cha mẹ quá cố của quý vị sẽ cảm thấy hạnh phúc. Nếu quý vị
lo lắng quá nhiều, và trong trường hợp tệ hại nhất có một sự suy nhược thần
kinh do quá nhiều băn khoăn, tôi nghĩ những người bạn của quý vị sẽ cảm thấy rất
buồn trong trường hợp của cha mẹ quá cố của quý vị. Sau khi vị giáo thọ của tôi
viên tịch, tôi tự nói với mình, “Bây giờ tôi phải nhận lấy toàn bộ trách nhiệm
để hoàn thành mong ước của vị giáo thọ quá cố của tôi.” Do vậy, thảm kịch ấy biến
thành việc đạt đến sức mạnh hơn, hăng hái hơn.
Nếu quý vị là người không tín ngưỡng, hãy nghĩ về việc
làm những thứ nào đấy trong kiếp sống này. Nếu là một người có tín ngưỡng, tin
vào những kiếp sống sau, thì quý vị có thể trì tụng những mật ngôn nào đó và hồi
hướng cho cha mẹ của quý vị. Và nếu quý vị là một người có tín ngưỡng trong một
tôn giáo hữu thần, hãy nhớ đến Thượng Đế và hãy nhớ rằng phải có một ý nghĩa
nào đó trong hoàn cảnh đau buồn về cha mẹ của quý vị. Chỉ có Thượng Đế mới biết
ý nghĩa ấy, quý vị thì không. Nếu quý vị tin vào luật nhân quả nghiệp báo, thì
hãy nghĩ về nghiệp quả của chính cha mẹ quý vị và về vấn đề hệ quả đặc thù này
đã đơm hoa kết trái như thế nào từ những nghiệp nhân trước đó của họ.
HỎI: Làm sao chúng ta yêu thương những người
không thương yêu chúng ta?
ĐÁP: Tình
thương của chúng ta thường là tình thương định kiến. Tình thương ấy thật sự là
dính mắc, và như thế ấy thì không lành mạnh. Dính mắc thì đồng hành sâu đậm với
thù oán và ganh tỵ. Những gì chúng ta cần là tình yêu và lòng thương mến không
thành kiến, tình yêu và lòng thương mến không điều kiện hay từ ái và bi mẫn. Nếu
lý do ta yêu một người nào đó vì người ấy yêu ta hay tốt với ta, đó là tình yêu
định kiến. Bất kể dù người nào đó có tích cực với chúng ta hay không, thì người
ấy vẫn xứng đáng với lòng thương mến bi mẫn của chúng ta, sự quan tâm của chúng
ta. Điều này kể cả kẻ thù ta. Miễn là thái độ này được quan tâm, thì người nào
đó có thể tiêu cực với ta, nhưng ta không nghĩ về điều ấy; ta nghĩ rằng kẻ thù
ta cũng là một chúng sanh và cũng muốn hạnh phúc và có mọi quyền lợi để vượt thắng
khổ đau. Trong cách này, chúng ta phát triển một cảm nhận quan tâm chân thành
cho sự cát tường của họ. Đó là lòng thương mến không định kiến, lòng bi mẫn thật
sự. Nhằm để phát triển điều này, chúng ta phải thực tập một sự buông xả căn bản,
rồi thì bình đẳng hóa chính ta với mọi chúng sanh khác, cả bạn bè và kẻ thù. Từ
việc thấy rằng mọi người đều có cùng quyền lợi để vượt thắng khổ đau, sau đó
chúng ta phát triển một cảm nhận quan tâm. Đó là tình yêu không định kiến; đó
là lòng từ ái thật sự.
Nếu chúng ta có thể thực tập được như vậy, thế thì hãy thực
tập; bằng nếu không, vậy thì hãy thực hiện một sự chuẩn bị nào đó cho việc trả
thù – Tôi không đùa! Trả thù đem đến một sự cáu kỉnh hơn, tình trạng tinh thần
rồi loạn hơn. Nếu thất bại và đáp ứng một cách mạnh mẽ, thì ta thậm chí lo lắng
hơn, lo lắng vô tận. Ngay từ lúc đầu, hãy tự cởi mở chính mình, “Bất chấp họ
làm gì.” Dĩ nhiên, nếu họ cố gắng tổn hại thân thể ta, thì hãy cẩn thận. Ta phải
thật thận trọng, bằng không thì ta sẽ nghĩ hay nói điều gì đó tiêu cực. Chỉ
nghĩ, “Không hề gì, không hề gì.”
Thí dụ, khi một số viên chức Trung Cộng diễn ta tôi như một
con quỷ, nó làm tôi bật cười. Đôi khi tôi nói đùa với một số bạn bè người Hoa của
tôi rằng họ càng lập đi lập lại sự phỉ báng ấy, thì cặp sừng của quỷ của tôi sẽ
càng mọc dài hơn. Đúng là ngớ ngẫn, có phải không? Cho nên, hãy nghĩ trong cách
ấy, xem nhẹ nó và sẽ không có gì rắc rối.
HỎI: Vai trò của nghiệp và cảm xúc trong việc
theo đuổi hạnh phúc là thế nào?
ĐÁP: Tôi nghĩ
sự khao khát quá mạnh có thể cũng là một loại cảm xúc trong cảm giác, nhưng có
một vai trò quan trọng diễn ra bởi những cảm xúc tích cực mạnh mẽ, chẳng hạn
như lòng bi mẫn rộng lớn, một cảm nhận của việc quan tâm vì sự khổ đau của người khác. Khi quý vị nghĩ về khổ
đau của người khác, nước mắt tuôn rơi vì có quá nhiều cảm giác, nhưng cảm xúc
đó là cảm xúc rất tích cực, đem đến sự nhiệt tình hơn để phụng sự người khác, để
làm việc gì đó cho mọi người. Loại cảm xúc đó mang đến quyết tâm, như được biểu
lộ trong lời cầu nguyện ưa thích của tôi – “Khi nào không gian còn tồn tại, khi
nào chúng sanh đau khổ còn hiện hữu, Tôi nguyện cũng sẽ hiện diện để phụng sự tất
cả.” Loại quyết tâm đó đầy năng lực được đem đến bởi những cảm xúc như vậy.
Thế nên, cảm xúc không nhất thiết là tiêu cực. Tôi nghĩ
có hai loại cảm xúc. Một loại cảm xúc đến một cách tự động và tổng quát là tiêu
cực. Một loại cảm xúc khác đến qua tu tập,
qua lý trí và việc làm cho quen thuộc, và thường là tích cực.
HỎI: Cha mẹ giúp cho con cái của họ hạnh phúc như
thế nào?
ĐÁP: Tôi nghĩ
tùy thuộc vào lứa tuổi của con cái. Trong kinh nghiệm của tôi, khi tôi còn rất
trẻ, tôi nhớ rằng bất cứ khi nào một người mới đến lãnh sự quán Ấn Độ thuộc Anh
ở Lhasa thì luôn luôn mang đến đồ chơi cho tôi. Khi tôi nhận tin tức rằng có một
người mới đến và muốn có một cuộc gặp gở chính thức, thì tôi luôn luôn hào hứng về loại đồ chơi nào mà người ấy
sẽ tặng tôi. Thế nên, vào lúc rất trẻ, đó là những gì quan trọng. Khi con trẻ
hơi lớn lên, tôi nghĩ là chúng cần những sự hướng dẫn hay gương mẫu đầy đủ ý
nghĩa. Ở tất cả mọi lứa tuổi, đó là tình cảm tối đa của quý vị, sự yêu thương tối
đa của quý vị cho con cái đó là rất quan trọng. Tôi nghĩ khí cụ mạnh mẽ nhất
trong việc thay đổi tâm tư người khác là tình yêu thương, chứ không phải tiền bạc.
Tình cảm chân thành và một cảm nhận quan tâm chân thành thật sự tác động vào
tâm tư và cảm xúc của con trẻ.
HỎI: Đức Thánh Thiện nói rằng người ta nên không
sợ hãi, nhưng nếu cha mẹ ngài đặt sự sợ hãi vào tâm tư ngài, thì ngài không thể
chống lại họ.
ĐÁP: Việc đó
tùy thuộc vào động cơ, và cũng như mục đích. Nếu con cái lười biếng, nếu quý vị
có một mục đích tốt lành và chân thành quan tâm đến tương lai cát tường của
chúng, thì đôi khi quý vị có thể sử dụng một chút áp lực hăm dọa. Những thứ như
vậy là tích cực. Thật không tốt nếu xem thường con cái và trêu chọc hay mĩa mai
chúng. Quý vị phải tôn trọng con cái quý vị và cho chúng tình cảm tối đa.
Ở đây tôi muốn kể cho quý vị nghe về câu chuyện của tôi.
Khi tôi 7 hoặc 8 tuổi, tôi đã bắt đầu học thuộc lòng một số kinh luận căn bản.
Vì tâm thức tôi khá sắc bén, nên tôi có thể học thuộc lòng một cách dễ dàng,
nhưng do bởi thế, tôi cũng rất lười biếng. Vào lúc đó, anh trai tôi và tôi đang
học chung với nhau, nên giáo thọ của tôi có hai cây roi, một cây màu vàng và một
cây bình thường. Cây roi bình thường để dành cho anh tôi, và cây roi vàng được
coi là cây roi thánh thiện dành cho học trò thánh thiện – Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Tôi biết là cây roi thánh thiện không sinh ra cái đau thánh thiện, chỉ là cái
đau bình thường. Vì sợ, tôi phải hơi nổ lực trong học tập. Nhưng sau này, dĩ
nhiên, giáo thọ của tôi rất ân cần. Một số nổ lực của tôi là vì sợ; nhưng nổ lực
của tôi cũng vì sự cảm kích sâu xa cảm nhận quan tâm của các ngài cho tôi và
lòng từ ái của các ngài thì vô cùng, vô cùng mạnh mẽ hơn.
Như tôi đã đề cập trước đây, khi giáo thọ của tôi qua đời,
tôi thật sự cảm thấy một sự mất mát vô tận, đó là cho chính người đã giữ cây
roi. Nên đó là thí dụ. Quý vị phải cho tình cảm tối đa và thỉnh thoảng, nếu cần
thiết, thì quý vị có thể sử dụng những phương pháp hay lời nói hơi nghiêm khắc,
nhưng quý vị làm như thế là vì cảm nhận quan tâm chân thành và vì một mục tiêu
tốt lành. Quý vị phải hành động phù hợp với những hoàn cảnh.
HỎI: Hạnh phúc có thể giảm thiểu sự thối nát
trong xã hội và quốc gia không?
ĐÁP: Vâng, hạnh
phúc chân thật trên căn bản của trung thực và sự thật. Con người cảm nhận rằng
quý vị hài lòng với tiền bạc của quý vị qua những hành động không căn cứ trên đạo
đức là sai. Điều đó rất rất là nông cạn; họ thật sự ngu ngơ và thiển cận. Những
con người – cho dù là những lãnh tụ tôn giáo, thương gia, chính trị gia, và từ
bất cứ chuyên môn khác nào – là thật sự yếu kém sâu bên trong, và cuộc sống của
họ thì đầy ảo giác hay nhận định sai lầm. Những người như vậy không thể hành động
một cách lương thiện thật sự vì họ có điều gì đấy che dấu; do bởi chính điều
đó, một cảm giác không thoải mái luôn luôn ở sâu bên trong ấy. Làm sao họ lương
thiện thật sự? Họ không thể. Như tôi đã đề cập trước đây, họ không thể xây dựng
một sự tin tưởng thật sự, và cuối cùng họ sẽ trở thành thấp hèn.
HỎI: Vai trò của âm nhạc trong việc đem hòa bình
đến thế giới là gì?
ĐÁP: Tôi phải
nói là rất giới hạn. Dĩ nhiên, như tôi đã đề cập trước đây, một sự hài lòng nào
đó đến từ trình độ giác quan. Những thứ như âm nhạc và phong cảnh xinh đẹp có
thể đem đến một sự hòa bình nào đó của tâm thức, nhưng loại hòa bình đó của tâm
thức hoàn toàn lệ thuộc vào những nhân tố bên ngoài, và khi những nhân tố đó
không còn nữa, thì quý vị thấy khó để vượt qua thời gian. Đôi khi tôi cảm thấy
hơi thương hại cho những một số nhóm du lịch. Một số người già có nhiều tiền,
nhưng vì họ đã về hưu và không có một loại việc làm đặc thù, họ thiếu một loại
năng lực suy nghĩ. Để trải nghiệm một sự hài lòng nào đó thì hoàn toàn vào
trình độ giác quan. Ngoại trừ họ có một nghề nghiệp nào đó ờ trình độ giác quan
ngoại tại, bằng không thì họ không thể vượt qua thời gian, họ chán chường. Nếu
quý vị có một số kinh nghiệm niềm hòa bình của tâm thức và toại nguyện ở trình
độ tinh thần, thì quý vị không cần lệ thuộc vào năng lực của cảm giác. Quý vị
không cần đi đây đi đó. Quý vị có thể ở trong một nơi vắng vẻ tịch mịch; quý vị
đạt được một sự hòa bình tối đa của tâm thức.
Trong một trường hợp tôi viếng thăm một đại tu viện ở
Barcelona, ở Tây Ban Nha. Một tu sĩ Thiên Chúa giáo đã đến gặp tôi và người tổ
chức đã nói với tôi rằng tu sĩ ấy đã ở một tịch mịch trong ngọn núi ở sau tu viện đó. Ông ở đấy
trong một thời gian dài như vậy, năm năm với hầu như không có thức ăn nóng. Khi
chúng tôi gặp nhau, tôi nói với ông, “Tôi được nghe rằng ông đã ở trong núi năm
năm như một ẩn sĩ. Ông đã thực tập gì trong núi?” Ông nói với tôi, “Tôi hành
thiền về yêu thương.” Khi ông đề cập đến việc đó, trong đôi mắt ông có một phản
chiếu nào đó về sự ấm áp của ông. Tôi dâng trào một sự tôn kính sâu
xa và ngưỡng mộ đối với ông.
Một điều nữa là tiếng Anh của ông ngay cả tệ hơn tôi. Tôi
nói chuyện trìu mến trong vốn tiếng Anh nghèo nàn của tôi với ông vì tiếng Anh
của tôi hơi khá hơn ông. Chúng tôi đã có một cuộc trao đổi rất ý nghĩa. Đó là một
tu sĩ tuyệt vời.
Một số hành giả Phật giáo, kể cả một số Tây Tạng, cũng
thích sống trong những nơi thật đơn độc, cô lập vì những nơi ấy cho họ cơ hội để
sử dụng những năng lực con người của họ ở trình độ tinh thần, đem đến cho họ niềm
hòa bình nội tại và sức mạnh nội tại bao la. Những người như vậy không bao giờ
dựa vào âm nhạc hay những thứ ngoại tại khác. Dĩ nhiên, việc nghe nhạc có thể bổ
sung cho sự thực tập tâm linh khác. Đôi khi chúng ta có thể chỉ nghĩ về ý nghĩa
của một sự cầu nguyện nào đó, và vào lúc khác nghe cùng lời cầu nguyện ấy với một
âm điệu nào đó có thể tác động chúng ta hơn. Tất cả mọi truyền thống tôn giáo
phối hợp những lời cầu nguyện nào đó với âm nhạc. Tôi nghĩ vấn đề chính là việc
thực tập ở trình độ tinh thần, nhưng quý vị có thể xem những thứ gì đó, nghe nhạc,
và thỉnh thoảng cũng có một miếng bánh thánh bỏ vào trong miệng quý vị. Cho nên
tất cả ba giác quan này có thể hoạt động với nhau như một sự bổ sung cho việc
thực tập tâm linh.
HỎI: Ai sẽ có được năng lực để yêu thương và tình
cảm hơn – đàn ông hay đàn bà?
ĐÁP: Tôi nghĩ
một cách tổng quát, qua những nhân tố sinh học, đàn bà có năng lực hơn với việc
liên hệ đến một ý nghĩa của việc quan tâm cho sự cát tường của người khác.
Trong một cuộc thảo luận của tôi với những nhà khoa học, họ cho rằng khi hai
người – một nam và một nữ - nhìn vào một người nào đó đang trải nghiệm đau đớn,
sự đáp ứng của người nữ là mạnh hơn người nam. Cũng thế, theo sinh học, với người
nam, một khi người ấy hưởng thụ thế là xong, nhưng người nữ phải mang đứa bé
trong nhiều tháng, và rồi sau khi sanh người ấy phải thực hiện một nổ lực vô
cùng để chăm sóc đứa trẻ.
Tôi thường kể câu chuyện về điều gì đó tôi đã đề cập trên
một chuyến bay dài cả đêm từ Nhật Bản đến Hoa Kỳ. Cùng với những hành khách,
tôi để ý một cặp vợ chồng trẻ với hai đứa bé. Một đứa thì rất nhỏ còn đứa kia
đã biết đi. Lúc khởi đầu, đứa lớn chạy tới chạy lui, gây rối một chút, nhưng chẳng
hề gì. Lúc đầu, cả cha mẹ cùng để ý đến hai đứa bé. Sau đó, khoảng nửa đêm, người
cha rơi vào giấc ngủ. Người mẹ vẫn quan tâm đến hai đứa bé đó. Bà chăm sóc
chúng, đặc biệt đứa nhỏ, cả đêm. Đến lúc chúng tôi gần đến San Francisco hay
Los Angeles, mắt của bà mẹ rất đỏ. Đó là một biểu hiện rõ ràng. Cả cha mẹ đều
yêu thương thật sự con cái họ, nhưng có một sự giới hạn nào đó với việc người
cha chăm sóc chúng, trái lại bà mẹ chăm sóc chúng cả đêm.
Và nhìn vào những con chó và chim. Con mẹ liên tục chăm
sóc những đứa con cho đến khi chúng có thể sống độc lập. Dĩ nhiên, con chó cha
chỉ thụ hưởng, thế là xong; chó cha không làm gì cả. Nhưng một số con chim ở với
nhau cho đến khi con nó có thể sống độc lập, với cả cha và mẹ chim mớm mồi cho
chúng. Và rồi thì hơn nữa, bà mẹ có những cảm xúc mạnh mẽ hơn nhiều đối với con
cái; đó là nhân tố sinh học, vì chúng ta cần điều đó. Đời sống của chúng ta bắt
đầu và chúng ta sống còn với tình cảm của bà mẹ chúng ta và sửa của bà mẹ chúng
ta. Tôi thường nói với mọi người, có vài trăm người ở trong tòa nhà này, thí dụ
thế, và trong khi chúng ta có thể giống nhau bên ngoài, thì tôi nghĩ rằng những
người nào nhận tối đa tình cảm từ bà mẹ của họ khi họ còn bé bỏng thì cảm thấy
an toàn hơn, tĩnh lặng hơn sâu bên trong. Những người nào mất mẹ, không nhận
tình cảm từ bà mẹ hay ngay cả bị họ ngược đãi, mặc dù họ bên ngoài giống nhau
và có thể có một đời sống thành công, nhưng sâu bên trong có một số niềm đau
nào đó, một dấu vết nào của kinh nghiệm đó.
Do vậy, theo sinh học thì người nữ là động lòng thương
hơn. Khi tôi có một buổi nói chuyện công cộng ở Hoa Kỳ, Âu châu, hay ở Ấn Độ,
tôi thường đề cập rằng ở thời kỳ ban sơ, loài người chúng ta không có khái niệm
về giới lãnh đạo. Mọi người bình đẳng và làm việc với nhau. Một số nhà triết học
Mác xít nói rằng chủ nghĩa Mác xít nguyên thủy – mọi người bình đẳng, làm việc
với nhau và chia sẻ bất cứ thứ gì họ có. Rồi cuối cùng khái niệm về giới lãnh đạo
hình thành. Vào lúc ấy giáo dục không có vai trò gì, vì thế sức mạnh thân thể
là nhân tố chính trong việc trở thành lãnh đạo. Vì thế là sự bắt đầu cho sự thống
trị của nam giới. Giống như thế với những thú vật khác, như loài khỉ. Vì nam giới
mạnh mẽ hơn, họ trở thành trội hơn.
Rồi cuối cùng, giáo dục đi đến đóng một vai trò quan trọng
hơn trong xã hội, vì thế làm cho bình đẳng hơn. Trong những năm gần đây, những
thế kỷ gần đây, có một số nữ lãnh đạo rất nổi tiếng, ảnh hưởng. Điều đó cũng xảy
ra trong xứ sở này, và Golda Meir ở DoThái là một lãnh đạo rất mạnh, có phải thế
không? Điều đó mang lại một chút bình đẳng hơn. Bây giờ đã đến lúc khi chỉ có
giáo dục thôi thì không đủ. Chúng ta cần có một nổ lực đặc biệt để thúc đẩy và
gia tăng lòng yêu thương của loài người. Bây giờ, ở đây, người nữ nên có một vai trò năng động hơn. Đó
là quan điểm tổng quát của tôi. Khi đi đến trình độ của gia đình cá thể. Tôi
không biết. Đôi khi, nếu người nữ có năng lực hơn, thì người cha trở thành giống
như nô lệ. Và thỉnh thoảng, bà mẹ trở thành hầu như giống nô lệ. Việc đó khác
nhau tùy từng trường hợp. Nhưng thật sự, như tôi đề cập trước đây, những mối
quan hệ nên căn cứ trên lòng từ ái chân thành, lòng bi mẫn chân thành; chúng
không nên căn cứ chỉ trên sự hấp dẫn thân thể, nhưng trên sự tôn trọng sâu xa
cho người kia. Vì vậy, khi chúng ta có những cảm giác chân thành của sự gần gũi
và quan tâm, thì trên căn bản của sự tôn trọng sâu xa, cha mẹ tự nhiên trở thành
bình đẳng. Điều này luôn luôn xảy ra.
HỎI: Khi ngài thấy người nào đó làm tổn hại hay
phá hoại môi trường của ngài, ngài tiếp cận với họ như thế nào? Ngài phản ứng
như thế nào với hoàn cảnh đó?
ĐÁP: Việc này
có liên hệ đến một gia đình hay một tổ chức nào không? Ngày nay, một số tổ chức,
kể cả chính quyền đôi khi hành động phù hợp với chương trình của họ. Điều này
có thể ứng dụng một cách đặc thù vào những quốc gia như T C, nơi không có bộ
máy tư pháp độc lập. Nhưng nó cũng áp dụng tới những cơ sở tư nhân và đến những
gia đình riêng lẻ.
Nếu có thể thì thật hợp lý để nói chuyện với người đã tạo nên vấn nạn môi
trường ấy. Chăm sóc môi trường là sự quan tâm của mỗi người, và tất cả chúng ta
cũng có thể thực hiện những sự đóng góp nho nhỏ đến sinh quyển địa cầu. Thí dụ
trong trường hợp của riêng tôi, tôi không bao giờ dùng bồn tắm trong khách sạn
trong vài thập niên trở lại đây; tôi chỉ tắm bằng vòi bông sen. Tôi xem đó như
một đóng góp nhỏ mà tôi làm để tiết kiệm nước. Dĩ nhiên, chỉ một người làm thì
không có nhiều hiệu quả. Và bất cứ khi nào tôi rời phòng, tôi luôn luôn tắt hết
mọi đèn điện. Những loại hành vi như vậy về phần của một cá nhân không có ý
nghĩa gì nhiều, nhưng tối thiểu về tinh thần tôi đã làm một đóng góp nào đó. Một
gia đình riêng có thể chăm sóc môi trường bằng việc thu nhặt rác rưởi. Trong những
cung cách nho nhỏ thì họ có thể làm một sự đóng góp, một cách gián tiếp làm giảm
thiểu sự hâm nóng địa cầu. Thế nên, trao đổi với láng giềng của quý vị, và nếu
không có kết quả gì, thì hãy mời thêm nhiều người tham gia thực hiện một nổ lực
nào đó. Nếu như vậy mà thất bại, thế thì tôi không biết – có lẽ chiến đấu!
HỎI: Chúng ta thật sự hạnh phúc như thế nào trong
những hoàn cảnh bất lợi hay thù địch?
ĐÁP: Điều này
hoàn toàn tùy thuộc vào sức mạnh nội tại của quý vị. Ở những giai đoạn đầu thì
điều này là khó khăn ngay cả cho một hành giả, nhưng chúng ta phải thực hiện một
nổ lực. Cuối cùng quý vị có năng lực bên trong mạnh mẽ hơn, và sau đó thì trở
nên dễ dàng hơn nhiều để đối phó với những rắc rối như vậy. Tự nhiên mà nói, những
sự thực hành như vậy không phải dễ dàng. Quý vị cần nổ lực liên tục, với quyết
tâm – “Tôi phải thực hành điều này. Tôi phải gia tăng lòng từ bi của tôi.” Bao
dung hay nhẫn nại, rồi thì sẽ tự động đến. Đây là một sự tiếp cận thực tiển với
nhẫn nại và lợi ích vô vàn trong việc mang nó đến. Tôi nghĩ chúng ta thường
quên lãng những yếu tố căn bản này của tâm thức và một cảm xúc phiền não nào đó
trở nên ưu thế.
Những người nào tin tưởng trong giáo Pháp hay một số truyền
thống tâm linh nào khác, như tôi đã đề cập trước đây – cho dù là tôn giáo hữu
thần hay vô thần – thì quý vị nên chân thành và nghiêm túc với tín ngưỡng của
quý vị. Điều đó là quan trọng. Đức tin không chỉ là việc làm trên đầu môi. Tín
ngưỡng phải trở thành một bộ phận trong đời sống hàng ngày của quý vị, rồi thì
giá trị chân thật của nó sẽ đến. Những người nào không tin tưởng nhiều trong những
truyền thống như vậy có thể nghĩ đơn giản, “Tôi muốn một đời sống hạnh phúc, và
việc đạt được một đời sống hạnh phúc tùy thuộc vào sức mạnh nội tại của tôi, và
điều đó tùy thuộc vào quan điểm của tôi, thái độ của tôi.”
Do vậy, trước nhất, hãy cố gắng chú ý nhiều hơn vào những
giá trị nội tại của quý vị, bên cạnh việc chỉ nghĩ. Điều đó là rất nông cạn.
Ngày nay, khi tôi nghe đài BBC hay xem truyền hình, chúng luôn nói về đô la, đô
la, kinh tế, kinh tế. Tôi nghĩ việc đó thật sự ảnh hưởng tâm thức chúng ta trở
thành ô nhiễm hơn. Từ những nền văn minh Ai Cập, Trung Hoa, và thung lũng Ấn
Hà, thì tôi nghĩ nền văn minh thung lũng Ấn Hà thì có những quan điểm triết lý
phức tạp hơn nhiều. Ấn Độ, theo truyền thống thì có một nền khoa học nội tại rất
mạnh, rất giàu. Khoa học hiện đại bây giờ đang chú ý ngày càng nhiều hơn và
khao khát có thêm những thông tin về tâm thức và vấn đề đối phó với những cảm
xúc từ di sản văn hóa truyền thống của Ấn Độ. Thật rất, rất quan trọng để nhận
ra kho tàng cổ truyền của Ấn Độ và không quên những giá trị nội tại này. Dĩ
nhiên, thật rất quan trọng để học hỏi vấn đề phát triển vật chất như thế nào
qua khoa học và kỷ thuật hiện đại, do thế giáo dục liên hệ đến những thứ này
cũng rất rất quan trọng; nhưng trong lúc đó, quý vị cũng phải biết những giá trị
truyền thống. Những người Tây Tạng chúng tôi cũng phải học hỏi về giáo dục hiện
đại, nhưng những giá trị truyền thống của chúng tôi vẫn liên hệ rất nhiều. Đó là
những gì mà tôi muốn chia sẻ cùng quý vị. Cảm ơn.
BÌNH LUẬN: Thưa Đức Thánh Thiện, có một thông điệp này kính
gửi đến ngài. Tôi trích: “Thưa Đức Thánh Thiện, tôi đến từ Lhasa, và tôi nghĩ rằng
tôi có thể đại diện cho hầu hết những học trò Tây Tạng. Tôi muốn nói là chúng tôi
yêu mến ngài, chúng tôi tôn kính ngài, chúng tôi sẽ đi theo ngài. Ngài là vị thầy
vĩ đại trong tâm chúng tôi, trong tim chúng tôi.”
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Cảm ơn.
Nguyên tác: Different Levels of Happiness, từ quyển The Big
Book of Happiness
Ẩn Tâm Lộ, Monday, August 14, 2017
[1] Kỳ
na giáo: Jainism, Sankhya: Số Luận; có thể kể thêm Lão giáo hay Đạo giáo cũng
thuộc loại này với lý thuyết: người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt
chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét