GIỚI
THIỆU: ĐỂ THÔNG HIỂU ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
Nguyên tác: Introduction/ Understanding The Dalai Lama
Tác giả: Rajiv Mehrotra
Chuyển ngữ: Quảng Cơ /Tuệ Uyển hiệu đính
***
Tenzin Gyatso là người thừa kế một truyền thống tôn giáo bắt đầu ở Ấn Độ hơn
2500 năm trước, khi ngồi dưới gốc cây, một hoàng tử Ấn Độ trẻ tuổi, từ thiền định
sâu sắc, đạt được kiến thức tuyệt đối về tình trạng con người và sự chắc chắn
không thể lay chuyển rằng ngài đã thoát khỏi đau khổ. Ngài đã trở thành Đức Phật,
Đấng Giác ngộ. Cốt lõi của con đường Phật giáo là sự thừa nhận rằng cuộc sống
là một vòng vô tận của khổ đau, bệnh tật, chết chóc và tái sinh — một chu kỳ
gây ra bởi ham muốn sinh ra từ sự si mê và một quan niệm sai lầm bẩm sinh về thực
tại.
Giải thoát hay giác ngộ xảy ra khi, thông qua sự rèn luyện của tâm thức, chính
tâm thức được siêu xuất. Sau đó, có một kinh nghiệm về bản chất bẩm sinh của thực
tại, sự thừa nhận rằng tất cả vật chất chỉ tồn tại dưới dạng vọng tưởng và
trong một sự trống rỗng bản chất tức là tánh không. Một số chúng sanh đã đạt được
giác ngộ và do đó được giải thoát khỏi sự tái sinh, đã tự nguyện lựa chọn đầu
thai vì lòng từ bi đối với người khác, để giảng dạy và phục vụ nhân loại. Họ được
gọi là những vị bồ tát. Các vị Đạt Lai Lạt Ma là những vị bồ tát, Quán Thế Âm,
một hóa thân của vị thánh bảo hộ của Tây Tạng.
Phật giáo, từ những hình thức đầu tiên của nó, đã bao gồm triết lý đạo đức tốt
nhất bao gồm sự phát triển tâm thức rộng lớn và tâm lý học tiên phong. Khi nó
đi khắp thế giới, nó đã phát triển thành tôn giáo, triết học tiến bộ, thần bí,
siêu hình học và bộ ba yogas[1] —
những con đường của lý trí, sự tận tâm và hành động. Như vậy nó chưa đủ để được
nói là luân lý và đạo đức. Phật giáo trở thành một cuộc phiêu lưu trong vấn đề
‘làm thế nào.’
Trải rộng 2000 dặm từ Trung Hoa ở phía đông, đến Afghanistan ở phía tây, với Ấn
Độ, quê hương của nhiều nền văn hóa của nó, ở phía nam, Tây Tạng là một cao
nguyên khắc nghiệt của Himalaya cao 15.000 bộ so với mực nước biển. Người Tây Tạng
đã phải đối mặt với những kỳ vĩ thiên nhiên nghiệt ngã đến mức nó mang lại một
nhận thức mãnh liệt về sự huy hoàng và kinh hoàng tương phản của Vũ trụ.
Nơi
ở của họ là một vài vùng đồng bằng dễ chịu và một nhiệm vụ tâm linh. Đó là một
Shangri-la[2] xa
xôi, bí mật, được truyền cảm hứng sâu sắc từ quan điểm vũ trụ của Phật giáo đến
mức nó theo đuổi tôn giáo của mình trong sự cô lập tuyệt vời với một lòng nhiệt
thành khác thường. Săn bắn và giết chóc chấm dứt vì điều đó có nghĩa là sự gián
đoạn tùy ý trong quá trình tiến hóa của chính sinh vật đó. Quân đội tan rã và
binh lính của họ trở thành nhà sư. Các vị vua truyền thống đã được thay thế bằng
sự cai trị của tôn giáo. Bản chất yêu chuộng hòa bình cơ bản trong tôn giáo của
họ đã khuyến khích sự giản dị và chủ nghĩa thực dụng trầm lặng trong dân chúng.
Nạn đói không rõ nguyên nhân, bệnh tật hiếm gặp.
‘Bất hạnh thay, một số tu viện, học viện,
đã trở thành những chủ đất. Sự thực tập phổ thông công cộng của Phật pháp đã
suy thoái. Mặc dù có rất nhiều sự tận tâm, nhưng chỉ có một ít thật sự có học vấn,
Đức Đạt Lai Lạt Ma biết như thế. Cấu trúc xã hội đã trở thành phong kiến. Hầu hết
người Tây Tạng là nông dân đóng thuế cho những đại tu viện và điền trang quý tộc.
Một trong bốn người Tây Tạng là tăng hay ni và cấu thành giai cấp quyền quý
trên thực tế. Có tấm lòng nhiệt thành tự nhiên, với óc trật tự và tiếu lâm bẩm
sinh, các tầng lớp khác nhau đã được định nghĩa bất biến trong nhiều thế kỷ.
Bên trong các tu viện đã phát triển một nền văn hóa và truyền thống phong phú.
Năm 1933, Đức Đạt Lai Lạt Ma vĩ đại thứ mười ba đã băng hà trong Không Gian Tôn
Kính. Hai năm sau, quan nhiếp chính của Tây Tạng đã đi đến hồ thiêng của nó để
tìm kiếm viễn tượng về người sẽ là nhà lãnh đạo mới trở lại trong một cơ thể mới.
Ở dưới nước, ngài được cho thấy một tu viện, một ngôi nhà gần đó và một đứa bé.
Những điềm báo khác hướng nhóm tìm kiếm về phía đông bắc, tới tu viện và ngôi
nhà của linh ảnh. Có một cậu bé hai tuổi rưỡi đến gần và nhận ra các Lạt ma cải
trang, gọi tên của họ. Cậu bé nói trong phương ngữ của thủ đô, Lhasa, cách xa hơn
1000 dặm. Cậu bé nhận ra tràng hạt, gậy chống và trống cầm tay của chính Đức Đạt
Lai Lạt Ma thứ mười ba. Trên cơ thể của thiếu niên là những dấu hiệu phân biệt
các vị Đạt Lai Lạt Ma, bao gồm đôi tai lớn, những vệt sọc giống hình con cọp
trên chân và hình in vỏ ốc xà cừ trên lòng bàn tay. Không còn nghi ngờ gì nữa,
đây thật sự là Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng. Nói về
sự tái sinh của mình, ngài khiêm tốn nói, ‘Các vị Đạt Lai Lạt Ma đầu tiên, đệ
nhất, đệ nhị, đệ tam, chắc chắn là những hóa thân của Quán Thế Âm. Tôi tin tôi
là một người có phước đức, nhưng trình độ tâm linh của tôi không cao. Tôi vẫn
đang thực hành.’
Vào một buổi sáng tháng 10 rạng rỡ năm 1939, cậu bé lúc này mới bốn tuổi tiến
vào thành phố Lhasa rực rỡ trong một đám rước rực rỡ, nơi hàng nghìn người xếp
hàng dọc theo con đường màu vàng và trắng reo hò và vẫy tay. Nhà vua-triết học[3]
sinh ra từ cha mẹ là nông dân đã bắt đầu quá trình huấn luyện gian khổ lâu dài
của mình trong khi một nhiếp chính nắm giữ quyền lực tạm thời. Được bao quanh bởi
các giáo thọ và những người thị giả, ngài sống trong sự cô lập lộng lẫy nhưng đầy
kỷ luật. Ngài sớm được công nhận là một học sinh xuất sắc. Như hầu hết những
người ở Lhasa đã theo dõi, Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn đã giành
được bằng Tiến sĩ Triết học Phật giáo với
những danh dự, trong các cuộc tranh luận công khai, ở tuổi hai mươi bốn.
Trong khi đó, Tàu Cộng đã bắt đầu khẳng định yêu sách đối với Tây Tạng khi cho
rằng dân tộc Tây Tạng là một phần của mẫu quốc Trung Hoa vì người Tây Tạng, hậu
duệ của người Mông Cổ, là một phần của năm chủng tộc bao gồm người Hoa. Vào
Ngày Năm Mới năm 1950, khi ngài chưa đầy mười sáu tuổi, Tenzin Gyatso bắt đầu học
về chính trị thật sự. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới tuyên bố đã tuyên bố ý định
‘giải phóng’ Tây Tạng. Khi quân đội của nó tiến quân vào một quốc gia chưa chuẩn
bị sẵn sàng cho chiến tranh, dưới sự thúc giục của tiên tri nhà nước Hộ Pháp
Nãi Quỳnh và người dân của ngài, Đức Thánh Thiện đã nắm quyền thế tục chính thức
của Tây Tạng với tư cách là Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn, để lèo lái đất nước vượt
qua thời khắc đen tối nhất.
Vào ngày 17 tháng 3 năm 1959, sau chín năm cố gắng không có kết quả trong việc
thỏa hiệp với người Tàu Cộng, khi các hành động tàn bạo chống lại người Tây Tạng
ngày càng gia tăng, trong một đêm súng nổ, pháo kích và cuộc nổi dậy cùng khắp ở
Lhasa, Đức Đạt Lai Lạt Ma, được bảo vệ bởi binh línhTây Tạng, từ từ bắt đầu cuộc
hành trình dài của mình, đào thoát nguy hiểm đến Ấn Độ. Trong vài tuần sau, ước
tính có khoảng 87.000 người Tây Tạng bị giết và 25.000 người bị cầm tù. Một
trăm ngàn người đã theo ngài lưu vong.
Báo cáo năm 1960 của Ủy ban Luật gia Quốc tế đã công nhận địa vị của Tây Tạng
là một quốc gia có chủ quyền hoàn toàn. Tàu Cộng bị kết tội diệt chủng — ‘tội
ác nghiêm trọng nhất mà bất kỳ quốc gia nào cũng có thể bị buộc tội; ý định
tiêu diệt, toàn bộ hoặc một phần, một nhóm dân tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo '.
Tuy nhiên,
Đức Đạt Lai Lạt Ma tin rằng:
Là một Phật tử,
yếu tố cơ bản hoặc nguyên nhân của tất cả những bi kịch này là nghiệp trước của
chính một người. Các yếu tố bên ngoài là các thế lực của Tàu Cộng nhưng
nguyên nhân cơ bản là do nghiệp xấu trước đây của chính ta. Mặc dù cá nhân kẻ
thù đó đang làm hại bạn, hãy quên cái gọi là kẻ thù đó đi. Hãy nhìn anh ấy là
một con người giống như bạn hay tôi, ai cũng mong muốn hạnh phúc. Với lý do
đó, bạn có thể phát triển lòng cảm thông hoặc lòng từ bi thật sự. |
Vào cuối cuộc ‘cách mạng văn hóa’, trật tự mới của Tàu Cộng tiết lộ rằng bốn
mươi lăm trong số 6000 tu viện của Tây Tạng đã tồn tại. Con số sẽ sớm được tăng
lên thứ năm mươi. Trong số hơn 500.000 tăng ni, chỉ 1.300 người sống sót ở Tây
Tạng. Những con số này có thể tăng lên; tuy nhiên, một nền giáo dục xã hội chủ
nghĩa ngày nay là điều kiện tiên quyết để được phép đi tu.
Vào chiều ngày 31 tháng 3 năm 1959, Đức Đạt Lai Lạt Ma đi lưu vong, xin tị nạn
chính trị ở Ấn Độ. Điều này ban đầu khiến chính phủ Ấn Độ lúng túng, vì mặc dù Ấn
Độ và Tây Tạng có chung một lịch sử tôn giáo và văn hóa lâu đời, nhưng Thủ tướng
Nehru buộc phải tính đến mối quan hệ hợp tác mỏng manh gần đây giữa Ấn Độ và
Tàu Cộng. Tuy
nhiên, lòng nhân đạo đã chiến thắng chính trị và được cấp quyền tị nạn. Đức Đạt
Lai Lạt Ma đã trở thành một vị khách danh dự trong vùng đất của Đức Phật đản
sinh. Nhưng mặc dù có sự thông cảm sâu sắc và hỗ trợ vật chất đáng kể cho những
người tị nạn, tuy thế, vẫn có rất ít sự ủng hộ về mặt chính trị trên toàn thế
giới. Sự cô lập của Tây Tạng khiến nước này không có kinh nghiệm về ngoại giao
quốc tế và ít bạn bè.
Đức Đạt Lai Lạt Ma tìm thấy nơi cư trú ở Dharamsala, cách thủ đô New Delhi một
ngày đường. Một khu dân cư có diện tích chưa đến 2 mẫu Anh, được chính phủ nước
ngoài ban tặng một cách ân cần, bây giờ là lãnh địa vật chất của Đạt Lai Lạt
Ma. Ngài đã rút ngắn các biểu tượng bên ngoài chứng thực quyền lực và uy quyền
của mình ở Tây Tạng. Đó
là lời kêu gọi Tenzin Gyatso xây dựng một đế chế [tâm linh] rộng lớn hơn nhiều
lấy nguồn gốc từ một vương quốc bên trong — đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma, việc
nuôi dưỡng hòa bình nội tâm và sự chính trực tinh tế là những vũ khí tối thượng
mà một cá nhân có thể sử dụng để tạo ra sự khác biệt trong thế giới dường như
điên cuồng này .
Trong hơn bốn thập niên, ngài đã sống lưu vong, trong khi sự áp bức của Tàu Cộng
ở Tây Tạng vẫn tiếp diễn, cũng như sự
suy tàn có hệ thống đối với nền văn hóa và di sản của nó. Ngài vẫn là người tạm
thời trong hộ chiếu của người tị nạn, phụ thuộc vào lòng hảo tâm của người nước
ngoài.
Giải Nobel Hòa bình được trao cho ngài vào tháng 12 năm 1989 đã trở thành sự thừa
nhận chính thức trên toàn cầu về sự phấn đấu tinh thần của cá nhân ngài và mục
tiêu mà ngài là hiện thân, là giải thoát Tây Tạng khỏi sự áp bức của Tàu Cộng. Khi
trao giải Nobel cho một nhà lãnh đạo tôn giáo, Ủy ban Nobel đã xác định ba yếu
tố cụ thể trong triết lý của ngài: bất bạo động, tính liên quan chặc chẽ của
nhân quyền xã hội và cá nhân, và nhu cầu quan trọng của thế hệ chúng ta đối với
mối đe dọa của thảm họa môi trường toàn cầu. Điều quan trọng là vấn đề sinh
thái đã được một nhà lãnh đạo tinh thần đưa vào chương trình nghị sự của Giải
Nobel Hòa bình. Ngài kết hợp tính hợp lý, chủ nghĩa nhân văn và truyền thống
tôn giáo làm nền tảng cho các phản ứng đạo đức trước những thách thức lớn của
thế kỷ chúng ta. Ủy ban Nobel cũng không né tránh việc xác định Đức Đạt Lai Lạt
Ma là ‘nhà lãnh đạo chính trị và tinh thần’
của người dân Tây Tạng và cuộc đấu tranh của ngài cho sự ‘giải thoát Tây Tạng’,
bất chấp sự phản đối mạnh mẽ của Tàu Cộng.
Tây Tạng ngày nay vừa là một thảm kịch vừa là một chiến thắng, một ví dụ rõ
ràng về chủ nghĩa toàn trị hiện đại chiến đấu để chống lại một xã hội truyền thống
miễn cưỡng. Một
số phái đoàn của Đức Đạt Lai Lạt Ma lần đầu tiên đến thăm Tây Tạng vào những
năm 1980, gợi lên những cảm xúc mạnh mẽ trong những người Tây Tạng ở khu tự trị
Tây Tạng. Sau
cái chết của Mao, vào năm 1976, các liên hệ tinh tế và có tiềm năng thực chất lần
đầu tiên được thiết lập giữa Đức Đạt Lai Lạt Ma và Bắc Kinh. Tiếp sau đó là sự
bế tắc hầu như không còn tồn tại sau cuộc biểu tình của sinh viên tại Quảng trường
Thiên An Môn vào tháng 5 năm 1989, theo lời của chính phủ Trung Quốc, là bởi những
kẻ phản cách mạng, tay sai tư bản và kẻ thù của nhân dân. Các cuộc biểu tình và
biểu tình vẫn tiếp tục ở Tây Tạng. Thiết quân luật đã có hiệu lực hơn một
năm và chỉ những nhóm khách du lịch có giám sát mới được phép vào Lhasa.
Chính phủ
Tàu Cộng nhiều lần, một cách khoa
trương, tiếp tục cáo buộc Đức Đạt Lai Lạt Ma xúi giục chống người Hoa và chống
đối tình cảm quốc gia.Tàu Cộng ngày càng
lo lắng về sự ủng hộ ngày càng tăng trên toàn cầu đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma và
áp lực quốc tế để giải quyết vấn đề Tây Tạng, ngay cả khi thường dưới chiêu bài
thu hút sự chú ý đến các vấn đề nhân quyền ở Tây Tạng.
Trong những năm gần đây,Tàu Cộng đã áp dụng một chiến lược khôn khéo hơn để vượt
qua Tây Tạng. Họ
đã sử dụng các biện pháp khuyến khích hấp dẫn để tạo ra một làn sóng ồ ạt người
Hoa vào vùng địa hình khắc nghiệt của Tây Tạng. Ví dụ như ở vùng Kokonor ở đông bắc
Tây Tạng, nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma được sinh ra, ước tính hiện có khoảng 3,5 triệu
người Hoa so với 500.000 người Tây Tạng.
Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn cởi mở đối thoại thông qua các cuộc tiếp xúc trực tiếp
và các chuyến thăm Bắc Kinh của các đại diện của Ngài. Trong khi những
điều này được mô tả là một bước xây dựng lòng tin, có vẻ như lập trường của Tây
Tạng dựa trên đề xuất hàng thập niên về Kế hoạch Hòa bình 5 điểm do Đức Đạt Lai
Lạt Ma đề ra. Ngài tin:
Vấn đề Tây Tạng là vấn đề của sáu triệu tâm linh con người, không phải của
thể chế Đạt Lai Lạt Ma. Đạt Lai Lạt Ma
không quá quan trọng, điều quan trọng là quốc gia phải còn. Trong tương lai, nó
sẽ vẫn còn. Hạnh phúc và quyền lợi của quốc gia là rất quan trọng. Thể chế của Đức Đạt Lai Lạt Ma ... sẽ đến và đi, điều
đó phụ thuộc vào hoàn cảnh thực tế. Nếu mọi người cảm thấy rằng nên có một Đạt
Lai Lạt Ma khác, thì tôi sẽ xuất hiện. Là hóa thân của chính tôi, tôi sẽ ở đó.
Khi đau khổ của chúng sinh còn có, tôi sẽ
phục vụ hết sức có thể, đây là quyết tâm của tôi. Đây không phải là điều gì đó phi thường. Đây là cách
suy nghĩ của tất cả những người thành tâm thực hành lời dạy của Đức Phật.
Tôi có thể tái sinh thành người Mỹ, người
Canada, người Tây Tạng, người Ấn Độ, tôi không biết.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đề xuất việc biến Tây Tạng thành một khu vực hòa bình,
tôn trọng các quyền cơ bản của con người, từ bỏ việc di chuyển dân số của Tàu Cộng,
bảo vệ môi trường của Tây Tạng và bắt đầu các cuộc đàm phán nghiêm túc. Tiếp theo là một
lời đề nghị, được đưa ra trước Nghị viện Châu Âu, từ bỏ nền độc lập của Tây Tạng
và bất kỳ vai trò chính trị nào cho chính mình ở Tây Tạng trong tương lai.
Nhưng Đức
Đạt Lai Lạt Ma cũng cảnh báo rằng nếu không có phản ứng cụ thể từ phía Tàu Cộng
trong tương lai gần, ngài sẽ buộc phải xem xét lại lập trường của mình.
*
Sống lưu vong ở Ấn Độ, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã lao vào các hoạt động quay cuồng với
vai trò là nhà lãnh đạo và là người giảm sốc cho những người bị chấn thương vì
phải rời bỏ khỏi môi trường sống tự nhiên của họ trước cái nóng và khói bụi của
Ấn Độ. Dựa
trên một triết lý cung cấp những hiểu biết quan trọng về bản chất vĩnh viễn về
sự thay đổi của dòng chảy, về cách ‘trở thành’ là một khía cạnh quan trọng của
‘hiện hữu’, những người tị nạn Tây Tạng không chỉ tồn tại trong thay đổi mà còn
phát triển mạnh mẽ.
Trong khi thế giới chuẩn bị đưa Tây Tạng trở lại thế giới của thần thoại và
truyền thuyết, thì Đức Đạt Lai Lạt Ma và người dân của ngài đã bị thúc đẩy bởi
một nhận thức khác về thực tế. Tôn giáo là cội nguồn tốt đẹp của họ và nó được
ưu tiên hàng đầu. Bảo tồn nó khi nó đã phát triển, và duy trì tôn giáo và văn
hóa Tây Tạng đã trở thành một chiến lược cần thiết khi lưu vong để chống lại những
nỗ lực của Tàu Cộng nhằm tiêu diệt nó. Bản sắc Tây Tạng không thể được phép chết.
Đối với mỗi tu viện lớn bị phá hủy ở Tây Tạng, một tu viện mới, cho dù nhỏ hơn,
được xây dựng ở Ấn Độ, tiếp tục truyền thừa và thực hành giống như ở Tây Tạng.
Trẻ em, niềm
hy vọng của bất kỳ người lưu vong nào, tiếp tục được xuất gia làm tu sĩ và các
lạt ma cao cấp giờ đây bắt đầu tái sanh trong cuộc sống lưu vong. Đức Thánh Thiện đã
nhận xét, ‘Bởi vì tôi ở bên ngoài Tây Tạng,
hình thức thuần túy của văn hóa Tây Tạng vẫn tồn tại. Ngày nay, thật kỳ lạ, văn
hóa hoặc cộng đồng thật sự của Tây Tạng được tìm thấy bên ngoài Tây Tạng, chứ
không phải bên trong.’
Thách thức lớn là phục hồi. Những người tị nạn đến với ít tài sản và ít khả
năng miễn dịch đối với nhiều loại bệnh chưa được biết đến trong bầu không khí
khô hạn của Tây Tạng nhưng lại phổ biến ở Ấn Độ cận nhiệt đới. Từ từ những người
sống sót bắt đầu dệt nên một phép mầu kinh tế nhỏ. Cuộc sống cũ trước đây của họ
nhanh chóng bị xóa bỏ. Vùng
đất cằn cỗi được phân phối công bằng và một tập thể tiếp thị và thu mua được
thành lập. Y
học Tây Tạng, nghệ thuật và thủ công Tây Tạng và giáo dục Tây Tạng được khuyến
khích. Những
người Tây Tạng lưu vong đã khắc họa một trong những câu chuyện thành công nhất
về sự phục hồi của một dân tộc — về việc duy trì mạnh mẽ bản sắc riêng của họ
nhưng vẫn hòa hợp với môi trường mới để được chủ nhà chào đón. Vào những năm
1990, 44 khu định cư Tây Tạng được liên kết bởi các mối quan hệ thương mại,
chính trị và tôn giáo, gần như tất cả 100.000 người lưu vong đều xem Dharamsala
như trụ sở chính của họ.
Một trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đảm nhận ở Ấn Độ là thiết
lập một hệ thống giáo dục nhằm khắc sâu các giá trị và văn hóa truyền thống của
Tây Tạng trong khi truyền đạt lại sự giảng dạy theo những cách thức hiện đại.
Các trường
học đầu tiên của Tây Tạng dành cho trẻ mồ côi, nhưng ngay sau đó một mạng lưới
các trường học đã phù hợp cho tất cả trẻ em. Nhiều người trong số họ sau đó đã
theo học các trường đại học của Ấn Độ và hiện đang phục vụ trong Chính Phủ Lưu
Vong. Mối
quan tâm cá nhân sâu sắc của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong việc hiện đại hóa hệ thống
xã hội thời trung cổ đã được đền đáp bằng sự xuất hiện của một thế hệ người Tây
Tạng mới trung thành mãnh liệt với chính nghĩa của họ, những đứa trẻ đầu tiên
nhìn thấy bản đồ thế giới và nghe về những người không phải của họ.
Đức Đạt Lai Lạt Ma, khi còn ở Tây Tạng, đã nhận ra những nhược điểm và bất công
của cung cách cũ. Luôn
hướng tới những tầng lớp thấp nhất trong xã hội, Đức Đạt Lai Lạt Ma giờ đây đã
đưa họ vào một kế hoạch chia sẻ quyền lực với những người cầm quyền cũ của họ.
Chúng tôi có một dự thảo hiến pháp dựa trên các nguyên tắc cơ bản của hệ
thống dân chủ. Sự thực hành Phật
giáo, đặc biệt là hệ thống tu sĩ, thật sự là một hệ thống dân chủ, vì vậy trong
dự thảo hiến pháp tôi đã đề cập đến ‘theo các nguyên tắc của giáo lý Phật giáo,
chúng tôi đang thực hiện một hiến pháp dân chủ". Vì vậy, chúng tôi đang cố gắng thực hiện nhiều nhất như
có thể trong khi sống lưu vong ở một đất nước khác. Bây giờ trong tương lai, như tôi thường đề cập, tôi
coi mình như một phát ngôn viên tự do của người dân Tây Tạng. . . quyết định cuối
cùng sẽ do những người bên trong Tây Tạng thực hiện.
Văn
bản của hiến pháp chủ yếu dựa trên Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền, nhưng đặc
biệt Tây Tạng; phần mở đầu đề cập đến nguyên tắc công bằng, bình đẳng và dân chủ
do Đức Phật đặt ra. Ngày
nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma là người đứng đầu chính quyền, được hỗ trợ bởi Kalon
Tripa hoặc thủ tướng trên thực tế được bầu trực tiếp và nội các của ông.
Một quốc hội
bao gồm các đại biểu được lựa chọn theo sự ủy thác phổ biến từ cộng đồng lưu
vong. Một
cuộc họp chung thường niên cho phép đặt câu hỏi công khai đối với các bộ phận
riêng lẻ. Điều
36, Mục (e) của dự thảo hiến pháp quy định việc đình chỉ các chức năng điều
hành của Đức Đạt Lai Lạt Ma bởi đa số 2/3 đại hội.
Đích thân Đạt Lai Lạt Ma đã đặt nền móng cho chính quyền của mình khi sống lưu
vong. Một
nội các, một văn phòng liên lạc với chính phủ Ấn Độ và một cơ quan dân sự được
thành lập vào đầu năm 1959. Mặc dù không có quốc gia nào công nhận Chính phủ lưu
vong của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhưng ngài có đại diện ở một số quốc gia bao gồm Mỹ,
Anh, Thụy Sĩ, Pháp, Nam Phi, Đài Loan và Nhật Bản, thường làm việc với tư cách
là trung tâm văn hóa Tây Tạng hơn là vai trò người được đề cử chính trị.
Họ đã cùng
nhau xoay sở để giữ vấn đề Tây Tạng trong chương trình nghị sự quốc tế.
Nhà sư Phật giáo, nhà lãnh đạo tinh thần, người đứng đầu chính trị, con người từ
bi — đây chỉ là một số khía cạnh trong tính cách của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Mỗi
khía cạnh này được thảo luận trong phần đóng góp trong cuốn sách này.
Đối với sáu triệu tín đồ của ngài, ngài là Đức Thánh Thiện, Bậc Cao Quý Vinh
Quang, Nhà Hùng Biện, Đấng Từ Bi, Người Ham Học Hỏi, Người Bảo Vệ Đức Tin, Đại
dương của Trí tuệ — Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng. Ngài
đại diện cho quá khứ cũng như lịch sử tương lai của Tây Tạng. Nhà Tây Tạng học
Jeffrey Hopkins từng là thông dịch viên chính thức của Đức Thánh Thiện trong
hơn một thập niên và cung cấp bản dịch theo từng âm tiết trong tiếng Anh tên đầy
đủ của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Matthieu Ricard, bản thân là một tu sĩ, đã ghi lại trong hồ sơ của mình rằng ‘ngài
[Đức Đạt Lai Lạt Ma] luôn mô tả mình là một nhà sư Phật giáo giản dị, nhưng đối
với nhiều nhà văn khác, ngài là Thánh Vương của Tây Tạng; đối với người Tàu Cộng,
là một 'kẻ ly khai; đối với hầu hết các chính trị gia, nguyên thủ thật sự của
Tây Tạng; đối với các môn đồ học giáo pháp ở khắp mọi nơi, là một vị thầy vĩ đại;
và với thế giới nói chung, là một người đoạt giải Nobel, là một chính khách vĩ
đại, người ủng hộ bất bạo động và hòa bình hàng đầu, tiếng nói của Phật giáo và
nói chung, là hy vọng tốt nhất của chúng ta cho tương lai.'
Pico Iyer gợi ý rằng không chỉ những gì ngài nói mang lại ý nghĩa cho tất cả những
gì khiến ngài trở nên độc nhất mà còn vì ‘trái tim của vị hiền nhân ấy. . . hiện
hữu trong im lặng.’ Đó không phải là một sự im lặng nghiêm khắc mà là một sự im
lặng luôn tràn ngập niềm vui và tiếng cười truyền cảm thường xuyên tràn ra, giải
trừ và đưa tất cả chúng ta tiến gần hơn đến con người thật của mình.
Nhà văn Mary Craig mô tả ngài là "một con người rất con người" nhấn mạnh
rằng ngài là một "người sáng chói độc nhất có thể khiến bạn muốn cười to
vì niềm vui tuyệt đối khi được sống ... người có thể chế giễu với niềm
vui." Trong một buổi chiều kéo dài ngoài dự kiến mà cô dành cho Đức Đạt
Lai Lạt Ma, cô nhìn thấy vài Đức Đạt Lai Lạt Ma: một trong số đó đang đạp chiếc
xe đạp tập thể dục mới tinh, được một phụ nữ Thụy Sĩ tặng cho ngài, với sự nhiệt
tình của một thiếu niên! Điều
mà nhà văn này đã học được để đánh giá cao nhất là sự khiêm tốn và từ chối thật
sự của Đức Thánh Thiện, bất chấp mọi thứ, để ghét người Hoa. Luôn luôn tìm kiếm
những thẩm thấu chiều sâu và thông hiểu, Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu nghiên cứu
chủ nghĩa Mác để tìm ra điểm chung với người Tàu Cộng.
Tôi nghĩ trong Phật giáo nhấn mạnh nhiều
đến từ ái và bi mẫn. Trong chủ nghĩa Mác, cơ sở nào đó của cuộc đấu tranh giai
cấp là lòng căm thù. Ngoài ra, tất nhiên, Phật giáo không chỉ nghĩ đến đời này
mà còn là đời sau. Nhưng cả hai đều tin rằng cá nhân có khả năng kiểm soát vận
mệnh của chính mình, không có niềm tin vào đấng tạo hóa. Tôi tin rằng cả hai có
thể cùng tồn tại.
Nhà tâm lý học và tác giả Daniel Goleman nhận xét rằng gốc rễ của sự đồng cảm
tiềm ẩn trong lòng từ bi. Ông gợi ý rằng sự đồng cảm và đạo đức có mối liên hệ
chặc chẽ với nhau và sự đồng cảm là nền tảng của nhiều khía cạnh của phán đoán
và hành động đạo đức. Triết
lý thế tục của Đức Đạt Lai Lạt Ma về Trách nhiệm Phổ quát, dựa trên một cái
nhìn sâu sắc về sự phụ thuộc lẫn nhau của chúng ta, đã có một tác động to lớn.
Goleman tiếp
tục: ‘Khoa học và kỷ thuật đã mang lại sự kiểm soát to lớn đối với tự nhiên,
nhưng sức mạnh mà không có trí tuệ thì rất nguy hiểm. Chúng ta cần cân
bằng khả năng hiện đại của mình với một trí tuệ cổ xưa... Đức Đạt Lai Lạt
Ma cũng đã nói rằng chỉ vì những thời điểm này quá thảm khốc, cho nên thật là
vinh dự lớn khi được sống ngay bây giờ, vào lúc này, trên hành tinh này.
Chính
chúng ta là người chịu trách nhiệm, người phải đối mặt với thử thách, người phải
chăm sóc hành tinh, không chỉ cho bản thân chúng ta, mà cho tương lai của con
cái chúng ta.’
Đức Đạt Lai Lạt Ma làm thế giới nhớ đến ngài như thế nào? ‘Chỉ là một con
người, có lẽ là một con người mỉm cười?’ Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với Ela Gandhi,
cháu gái của Thánh Gandhi, trong khi thảo luận về Tây Tạng với cô ấy: Mô tả
ngài như một "tu sĩ giản dị mỉm cười," cô ấy nói rằng "sức mạnh
của ngài đến từ một cuộc sống đạo đức, sức mạnh của sự thật. Bằng tiếng Tây Tạng,
ngài nói với một trình độ, chiều sâu, truyền cảm hứng, sự hài hước và chân
thành vốn gây cảm hứng cho cái nhìn sâu sắc và tích cực tận tụy.'
Đối với những người Tây Tạng mà ngài đại diện cho chính nghĩa, ngài đã lãnh đạo
cuộc đấu tranh cho một Tây Tạng tự do và sự tồn tại của di sản cổ xưa của nó.
Nhà nghiên
cứu Senthil Ram quan sát cách ‘từ khi sống lưu vong, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã theo
đuổi những cải cách mang tính bước ngoặt khác nhau: một mặt để dân chủ hóa
chính trị Tây Tạng và mặt khác để xử lý xung đột với Tàu Cộng một cách bất bạo
động.” Dalip
Mehta, một cựu quan chức ngoại giao Ấn Độ, lưu ý, "Ngài đã thành công
trong việc duy trì khát vọng và hy vọng của người dân Tây Tạng, cũng như trong
việc bảo tồn nền văn hóa độc đáo của Tây Tạng. Ngài đã đạt được nhiệm vụ phức tạp
là tuân thủ các nguyên tắc của mình, đồng thời không gây nguy hại cho lợi ích của
đất nước mà ngài đang sống lưu vong. Và ngài đã đảm bảo rằng cộng đồng người
Tây Tạng, không chỉ ở Ấn Độ, mà ở những nơi khác trên thế giới, đã phát triển
và tiến bộ trong thế giới hiện đại, ngay cả khi vẫn bám rễ vào truyền thống của
họ.
Trong hành
trình tìm kiếm "tự do khi sống lưu vong" ở Ấn Độ, Đức Đạt Lai Lạt Ma
có lẽ đã đạt được nhiều hơn những gì ngài có thể có được nếu số phận không buộc
ngài phải chạy trốn khỏi Tây Tạng." Hoàn toàn còn quá sớm để đưa ra bất kỳ
đánh giá nào về di sản trí tuệ của ngài nhưng như Thubten Jinpa, người phiên dịch
và thông dịch cho Đức Thánh Thiện, nhận xét, "Cuộc đời của ngài phản ánh bức
tranh rộng lớn hơn về cuộc gặp gỡ giữa văn hóa Tây Tạng cổ điển với hiện đại."
Sự lưu vong
bất đắc dĩ của Đức Đạt Lai Lạt Ma có ý nghĩa lớn là ngài đã vươn tới một thế giới
rộng lớn hơn nhiều, và thế giới đã rất dễ tiếp nhận tính cách và thông điệp của
ngài.
Robert Thurman, một trong những học trò phương Tây đầu tiên của Đức Đạt Lai Lạt
Ma, viết: 'Đức Đạt Lai Lạt Ma là một người khổng lồ về sự phát triển tâm linh —
một tấm gương sống về những phẩm chất tốt nhất của một tu sĩ Phật giáo, một
hành giả và bậc thầy truyền cảm hứng về các con đường đạo đức, tôn giáo và triết
học của vị Bồ Tát, và một người sử dụng quyền trượng kim cương của bậc thầy Mật
tông thanh lịch và tràn đầy năng lượng.'
Một chủ đề liên tục trong lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma là bản chất của cuộc sống
của một Phật tử nằm ở nỗ lực thanh lọc tâm trí của chính người si mê bằng nhẫn
nhục, trí tuệ và bình đẳng, để có thể đạt được hạnh phúc nội tại lâu dài, không
phụ thuộc vào các điều kiện bên ngoài.
Nếu không tập luyện, bạn không thể sử dụng
ngay cả ngón tay út của mình đúng cách. Một khi bạn rèn luyện trí óc đúng cách
thì ngay cả một ngón tay nhỏ cũng có thể làm được những việc lớn. Đôi khi dường
như rất khó, gần như là không thể, nhưng thông qua quá trình rèn luyện dần dần,
từng bước một, bạn có thể làm được những điều này. Vì vậy, đó là một trong những phẩm chất tốt đẹp của
ý thức con người; nó thường là một kẻ gây rắc rối, nhưng nếu bạn rèn luyện đúng
cách thì nó sẽ rất dễ thương, rất hữu ích, giống như một viên ngọc thật sự.
Do đó, đối với một trí óc được trau dồi, tính chính xác và logic của khoa học
và kỷ thuật hiện đại có một sức hút mạnh mẽ. Đây là niềm đam mê từ khi còn nhỏ,
khi Đức Đạt Lai Lạt Ma thời niên thiếu tháo ráp đồng hồ, máy chiếu phim và ba
chiếc xe hơi của Tây Tạng; ngày nay ngài
là một chuyên gia và thích mày mò với những thứ cơ khí. Nhà báo Swati
Chopra viết "Khoa học phát triển từ tinh thần khám phá và tôi biết rằng Phật
giáo, và chắc chắn là Đức Đạt Lai Lạt Ma, luôn quan tâm đến việc dẫn dắt các cuộc
khám phá vào lãnh vực vượt ra ngoài phạm vi của niềm tin giáo lý." Bản
thân Đức Đạt Lai Lạt Ma tin rằng:
Nghiên cứu khoa học là rất quan trọng.
Thái độ chung của Phật giáo là chúng ta phải chấp nhận lý trí. Nếu chúng ta không thể tin một điều nào đó hay điều
gì đó bằng lý trí là sự thật thì chúng ta phải chấp nhận sự thật hơn là điều nào
đó được mô tả trong kinh luận. Ví dụ, chính Đức
Phật nói rằng bạn phải chấp nhận một số điều nhất định thông qua sự khảo sát của
chính bạn, sự sử dụng của chính bạn cùng logic và lý trí, chứ không phải vì niềm
tin.
Bằng
lời nói và việc làm, Đức Đạt Lai Lạt Ma tìm cách chứng minh đạo đức và các
nguyên tắc cao quý đã bị che khuất như thế nào bởi cái bóng tư lợi, đặc biệt là
trong lĩnh vực chính trị. Các công cụ của nền văn hóa chính trị của chúng ta
đã phá hủy hơn nữa các lý tưởng và khái niệm có ý nghĩa đối với phúc lợi con
người. Ngài
đặt câu hỏi về giả định phổ biến rằng tôn giáo và đạo đức không có vị trí trong
chính trị và những người tôn giáo nên ẩn mình như những ẩn sĩ. Đạo đức cũng
quan trọng đối với một chính trị gia cũng như đối với một người thực hành tôn
giáo. Những
phẩm chất của con người như đạo đức, lòng từ bi, lễ nghĩa và trí tuệ đã là nền
tảng của tất cả các nền văn minh vĩ đại. Ngài nói:
Chúng ta [phải] cố gắng phát triển cảm
giác thật của con người. Không cần biết sự khác biệt về hệ tư tưởng hay khoảng
cách, tất cả đều là con người, tất cả đều phải sống cùng nhau trên hành tinh
này. Ở cấp độ này [cần] tiếp xúc nhiều
hơn, trao đổi nhiều hơn. Ngay cả những bất đồng cũng là con người, vì vậy [lãnh
vực] con người vẫn ở đó. Trên cơ sở đó, chúng ta nên hiểu nhau, theo cách đó bạn
có thể đạt được sự tin tưởng lẫn nhau. Sau đó, bạn có thể nói chuyện.
Vai
trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma như một tu sĩ Phật giáo lỗi lạc ngày nay hầu như được
thừa nhận rộng rãi giữa các trường phái Phật giáo khác nhau. Trong khi cuộc
chiến giữa chủ nghĩa duy vật Marxist hoặc gần đây là chủ nghĩa duy vật phương
Tây và chủ nghĩa tâm linh Phật giáo ở Trung Hoa, giữa sức mạnh của súng đạn và
sức mạnh của trí tuệ và lòng từ bi tiếp tục sôi sục, thì bản thân Đạt Lai Lạt
Ma đã vươn tới một thế giới ngày càng đáp ứng với nhân cách, lời dạy và thông
điệp của ngài, nếu không phải vì mục đích chính trị. Trong thế giới
ngày càng bị chia cắt của chúng ta, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tìm kiếm những cuộc đối
thoại với các tín ngưỡng khác. Sư huynh (Brother)
Wayne Teasdale cảm thấy ‘Sự cam kết của Đức Thánh Thiện đối với cuộc đối thoại
liên tôn, thật sự là một cuộc đối thoại của chính cuộc sống, không phải là một
hoạt động cứng nhắc, chính thức như thường thấy trong các diễn đàn học thuật.’
Ông nói
thêm, "Về cơ bản, những gì tôi nhận thấy trong tấm gương của ngài là một
chủ nghĩa nhân văn rất phát triển bắt nguồn từ việc thực hành tâm linh và được
mở rộng cho tất cả chúng sanh."
Sự nhấn mạnh của ngài về tính liên kết giữa mọi thứ đã giúp tạo ra một sự nhạy
cảm mới về tầm quan trọng của môi trường của chúng ta và tiềm năng thật sự cho
một cuộc đối thoại thế tục chân thành giữa các tôn giáo. Đức Đạt Lai Lạt
Ma đã không tìm kiếm một tôn giáo chung cho tất cả mọi người. Thay vào đó, ngài
đã vươn tới điểm chung của tất cả các tôn giáo để tìm kiếm hạnh phúc. Chính Đức
Đạt Lai Lạt Ma nói:
Các tôn giáo lớn trên thế giới ít nhiều đều
mang những giáo lý, những thông điệp giống nhau. Tôi luôn tìm kiếm mục đích thật sự của những lời dạy
khác nhau, những triết lý khác nhau này. Tôi
thấy tất cả đều dành cho toàn thể nhân loại. Tất
cả đều tập trung hoặc nhắm đến cùng một mục đích ... trong khi đó, bởi vì có
quá nhiều cách biệt về tinh thần giữa con người, nên một tôn giáo có thể không
phù hợp với tất cả mọi người. Trong hoàn cảnh
đó, một điều chúng ta nên ghi nhớ là quan hệ gần gũi hơn và thấu hiểu nhau hơn.
[Điều này] sẽ phát triển sự tôn trọng lẫn nhau.
Những khác biệt nhỏ giữa nhà thờ này hay nhà thờ kia hoặc niềm tin này hay niềm
tin kia, là rất nhỏ. Luôn là mục tiêu
chính, điều tối cao, rất quan trọng. Quên những điều nhỏ nhặt này đi; hãy cố gắng
nỗ lực chung cho mục tiêu lớn hơn.
Tôi cảm thấy mục đích cuối cùng là niết bàn của xã hội — định nghĩa của tôi là
hoàn toàn hòa bình, hòa thuận, không có thù hận lẫn nhau. Ngay cả khi có bất đồng
nào đó, hãy giải quyết nó bằng sự hiểu biết của con người. Không nên có rắc rối chủng tộc, không nên có rắc rối
hệ tư tưởng. Ý thức hệ là một chuyện cá nhân. Nếu
ai đó tin vào một hệ tư tưởng nào đó, phương tiện tốt nhất để anh ta đạt được hạnh
phúc, thì đó là quyền của anh ta để theo đuổi điều đó; những người khác có quyền
theo một hệ tư tưởng khác hoặc một đức tin khác, nếu họ nghĩ rằng điều đó là
phù hợp, họ có thể làm theo điều đó. [Mỗi
người] không nên can thiệp vào người kia, hãy hiểu rằng cả hai đều là con người,
là thành viên của gia đình nhân loại. Cả
hai đều muốn hạnh phúc, và không muốn đau khổ. Cả hai đều có quyền được hạnh phúc.
Trong hoàn cảnh đó, họ vẫn là anh chị em
của nhau. Bây giờ đó là ước mơ của tôi.
Tính
cách giải giáp của ngài thể hiện niềm vui và tiếng cười trong hành trình. Đạo
Phật * không bao giờ là một tôn giáo truyền giáo, nó được bộc lộ trên khuôn mặt
tươi cười của Đức Thánh Thiện.
Trong sự pha trộn cân bằng giữa tâm linh và chính trị, sự siêu việt và sự quán chiếu
hàng ngày, cá nhân và hành động vị tha, còn chỗ nào cho vị hiền nhân, tu sĩ?
Ngài liên
tục gây bất ngờ, đặt vấn đề hoặc lật ngược những thói quen cũ, thay đổi những
điều chắc chắn đã cố gắng. Ở giữa một bài diễn thuyết giải Nobel trang trọng, ngài
có thể dừng lại, vẫy tay chào một gương mặt quen thuộc trong khán giả và rồi tiếp
tục như không có gì xảy ra, ngài có thể rơi nước mắt khi làm việc với Baba
Amte, bùng ra tiếng cười lây lan khi anh ngài không thể diễn đạt bằng tiếng
Anh, hay thừa nhận ‘tôi không biết’ khi ngài không có một câu trả lời với vô số
câu hỏi ngài đối mặt. Đức Đạt Lai Lạt Ma mang theo sự uyên bác và hiểu biết sâu
sắc của mình một cách dễ dàng, thoải mái.
Tenzin Gyatso, khi đó, không chỉ là một tu sĩ Phật giáo đơn thuần hay nhà lãnh
đạo tinh thần và thế tục của những người dân Tây Tạng tị nạn. Thông điệp về
lòng từ bi, lòng vị tha và hòa bình của ngài đã khiến ngài trở thành một chính
khách cho thời kỳ rối rắm của chúng ta. Đức Thánh Thiện đã được đón nhận và hoan
nghênh rộng rãi tại nhiều thủ đô trên khắp thế giới bởi các chính trị gia, những
người, những người lo lắng sợ làm mất lòng Tàu Cộng, thường chào đón ngài chỉ
đơn thuần như một nhà lãnh đạo tinh thần vĩ đại, phục vụ một cách kín đáo cho sự
nghiệp chính trị của ngài.
Nhưng vấn đề Tây Tạng không bao giờ xa với suy nghĩ của những người hành hương.
Hôm nay có
hy vọng đổi mới; Giải Nobel Hòa bình phản ánh một thước đo về sự đồng thuận
trong công luận quốc tế ủng hộ cả mục tiêu của Đức Đạt Lai Lạt Ma và sách lược
mà ngài thể hiện. Bốn
mươi năm sau, Quốc hội Hoa Kỳ, Nghị viện Châu Âu và nhiều nhóm trên chính trường
đã nêu rõ mối quan tâm của họ về những vi phạm nhân quyền, mối đe dọa đối với
môi trường ở Tây Tạng và tương lai của người dân nơi đây.
Đức Đạt Lai Lạt Ma tin rằng chỉ bằng cách xây dựng công đức thiện nghiệp tập thể
thông qua việc vượt qua những ảo tưởng của mỗi cá nhân thì tình huống mới có thể
tự giải quyết một cách thuận lợi. Những lời giảng dạy mỗi ngày kết thúc bằng
những lời cầu nguyện cho anh em, cả bạn bè và kẻ áp bức của họ, những người vẫn
còn đau khổ, tiếp theo là hồi hướng công đức đạt được để nhanh chóng kết thúc
đau khổ của họ. Theo lời cầu nguyện Tây Tạng:
Bằng những hành động thô bạo của họ, hàng
loạt những kẻ độc ác đang gây ra sự hủy hoại cho chính họ và cho những người
khác. Họ say sưa với những ảo tưởng quỷ
quyệt. Hãy tạo dựng sự đoàn kết tuyệt vời
của tình bạn giữa họ, những đối tượng của lòng từ bi, và tình yêu cùng lòng
thương xót giúp họ có được Con mắt Trí tuệ để nhìn ra điều gì là đúng và điều
gì là sai.
Việc
nuôi dưỡng lòng vị tha vẫn là mục tiêu cốt yếu và then chốt của việc thực hành
Phật giáo và là bản chất thực hành của chính Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Giáo lý cốt yếu
của Phật pháp là tâm Bồ đề— quyết tâm vững chắc để đạt được Phật quả vì lợi ích
của người khác, đó là nền tảng của bi mẫn và từ ái. Tôi đang phát triển tư duy
đó trong ba mươi năm qua và thế nào đó tôi đang tích lũy được kinh nghiệm.
Điều còn lại là trí tuệ, là tánh không. Bằng cách học cách hiểu tánh không là
gì, tôi đang có được kinh nghiệm. Lời dạy của Đức Phật là lời kêu gọi tất cả mọi
người hãy dấn thân vào cuộc sống và vượt qua những tham muốn và khó khăn của ta,
không phải chạy trốn khỏi một thế giới không hoàn hảo.
Đức
Đạt Lai Lạt Ma, với nhiều tính cách khác nhau và trong thực hành hàng ngày, là
một tấm gương phi thường về việc sống một cuộc sống bình thường dựa trên lời dạy
của Đức Phật, và khi làm như vậy, Ngài đã trở thành siêu nhân hơn là phàm nhân (more
God than man).
***
Trích
từ quyển Understanding The Dalai Lama
Saturday,
July 3, 2021
[1]
(1)Karma
Yoga, (2) Bhakti Yoga, (3) Jnana
Yoga
[2] Shangri-la: một nơi tưởng tượng đẹp đẽ từ xa nơi cuộc sống tiếp cận với sự hoàn hảo. Shangri-la được cho là biến thể của Shambhala - trong Phật giáo Tây Tạng là một vương quốc huyền bí được ẩn tại một nơi nào đó ở Trung Á. Địa danh này được đề cập trong một số văn bản cổ xưa, như Pháp thời luân Kim Cang, hoặc một số tác phẩm cổ xưa của Hưng Thương, mà các Phật tử Tây Tạng ở phương Tây đang khám phá.
[3] Theo Plato, một vị vua triết học là một người cai trị sở hữu cả tình yêu khôn ngoan, cũng như trí thông minh, độ tin cậy và sẵn sàng sống một cuộc sống đơn giản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét