‘KINH MẬT NGÔN DÒNG SUỐI
CỦA SỰ GIÀU CÓ’
Kính lễ tất cả chư Phật và chư Bồ tát!
Tôi nghe như vầy: một thuở nọ Đức Thế Tôn đang ở gần Kauśāmbī trong khu rừng
lớn gọi là Kaṇṭaka, cùng với một đại chúng khoảng năm trăm tỳ kheo và một chúng
đại Bồ tát đều có tất cả những phẩm chất của các Đức Phật.
Vào lúc đó có một gia chủ tên là Sucandra (Diệu Nguyệt) sống trong thành lớn Kauśāmbī, giác
quan điềm tĩnh và tâm tư thoải mái. Ông có nhiều con trai và con gái trung thực
và tận tụy cũng như những người giúp việc.
Sucandra đến gần Đức Phật, bày tỏ lòng tôn kính bằng việc chạm đầu ông vào chân
của Đức Phật, và nhiễu quanh Đức Phật hàng trăm nghìn lần.
Cuối cùng, ông ngồi xuống một bên. Trong khi ngồi ở đấy, gia chủ Sucandra nói
với Đức Phật những lời sau đây:
“Con muốn hỏi Đức Thế Tôn, Như Lai, Ứng Cúng, Toàn Thiện Hoàn Hảo Phật một câu
hỏi, nếu Đức Thế Tôn có thời gian để trả lời nó.”
Đức Phật sau đó đã trả lời gia chủ Sucandra như sau:
“Này ông gia chủ, xin hãy cứ hỏi bất cứ điều gì ông muốn. Ta sẽ trả lời câu hỏi
của ông và làm cho sự quan tâm của ông được thư thái.”
Khi nghe những lời này của Đức Phật, ông gia chủ Sucandra trả lời, “Bạch Đức
Thế Tôn, vậy thì tốt quá,” và hỏi Đức Phật như sau:
“Bạch Đức Thế Tôn, một người con trai hay con gái của một gia đình tôn quý bị
đau khổ vì nghèo cùng thì tự giải thoát họ khỏi nghèo cùng như thế nào? Giống
như thế, nếu họ đau khổ vì bệnh tật, thì họ tự giải thoát họ khỏi bệnh tật như
thế nào?
Đức Phật hiểu như vậy, và nói với gia chủ Sucandra:
“Ông gia chủ, tại sao ông hỏi ta về nghèo cùng?”
Ông gia chủ Sucandra trả lời Đức Phật:
“Bạch Đức Thế Tôn, mặc dù con rất nghèo, nhưng con phải chăm sóc nhiều con
trai, con gái và những người thân thuộc. Do vậy, con muốn thỉnh cầu Đức Thế Tôn
ban cho một giáo pháp làm cho nghèo cùng được giàu có và phục hồi bệnh tật
thành khỏe mạnh, ban cho chúng con sự giàu có và lúa thóc và những của báu và
những dự trữ kho báu, làm cho chúng con dễ thương, duyên dáng, xinh đẹp và quý
phái, hấp dẫn những người bảo hộ mà không cần phải yêu cầu, và ban cho châu
báu, vàng, sự giàu có, những kho thóc lúa, những dự trữ kho báu, cũng như ban
cho đá quý, ngọc trai, kim cương, lưu ly, xa cừ, pha lê, san hô, vàng và bạc mà
không cần tìm kiếm hay van xin, và hoàn trả cho người cộng sự và những những
người thân thuộc ổn định và an toàn.”
Như được nói, Đức Phật sau đó đã trả lời gia chủ Sucandra:
“Này ông gia chủ, một thuở nọ, vô lượng kiếp về thuở quá khứ, Đức Thế Tôn, Như
Lai, Ứng Cúng, Hoàn Thiện Toàn Hảo Phật, ngự trị trong thế giới với tri thức
cùng hạnh kiểm đạo đức hoàn hảo . Đức Thiện Thệ, Thế Gian Giải, vô thượng sĩ,
Điều Ngự Trượng Phụ, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn này tên là Kim Cang Trì Hải Âm (Vajradhara-sāgaranirghoṣa)
Thiện nam tử, chính từ Đức Như Lai này ta đã nghe và nhớ được Vasudhārā
Dhāraṇī. Ta giữ nó, trì tụng nó, lãnh hội nó, vui hưởng trong nó, và dạy nó
rộng rãi đến những người khác.
Này thiện nam tử, bây giờ ta sẽ chia sẻ nó với ông.
Này thiện nam tử, qua năng lực của dhāraṇī này không một người nào có thể làm hại ông được. Sẽ không có dạ-xoa nào
làm hại ông. Không có la sát nào sẽ làm hại ông. Không có ngạ
quỷ nào sẽ làm hại con. Sẽ
không có tỳ xá xà nào làm hại con.
Sẽ không có phú đơn na nào làm hại ông. Không cưu
bàn trà nào có thể làm hại ông.
Không có a bạt ma la nào có thể làm hại ông. Không có ostāraka nào có thể làm
hại ông. Không kaṭapūtana nào sẽ làm hại ông. Không có chư thiên nào có thể làm
hại ông. Không có a tu la nào có thể làm hại ông. Không có quỷ thần nào, cho dù
chúng ăn phân, nước tiểu, máu, thịt, mủ, dầu mỡ, tủy, nước mũi, nước thải hoặc
hơi thở, cũng như những linh thức nào có thể chiếm hữu ông, có thể làm hại ông!
Này thiện nam tử, người con trai hay con gái nào lấy Vasudhārā Dhāraṇī và để nó
trong nhà họ, giữ nó trong tim, cầm nó trên tay họ, sao chép nó thành bản, lắng
nghe nó, lãnh hội nó, đọc nó, nhớ nó, vui hưởng trong nó, và dạy nó rộng rãi
đến những người khác, sẽ thụ hưởng những lợi ích, hạnh phúc, tinh hoa, thuận
lợi , an lạc và thu hoạch tốt đẹp lâu dài.
Bất cứ người nào lễ lạy chư Như Lai và sau đó lúc nửa đêm trì tụng Vasudhārā
Dhāraṇī hai, ba, bốn lần sẽ làm chư bổn tôn vui mừng. Họ sẽ mang niềm hoan hỉ
qua giáo huấn của Như Lai, và qua việc cống hiến đến việc phổ biến giáo pháp và
phát triển Tăng già, và mang niềm vui đến những ai giảng dạy giáo pháp. Những
tư tưởng tôn quý sẽ đến với họ và một cơn mưa thóc lúa sẽ tuôn xuống cho họ.
(Tạng âm)
namo benza dhara sagara nirghoshaya tathagataya ||
teyata | om surubé bhadré bhadra bati amgalé mamga é mamgala bati alé atsalé
atsala balé udghatini udbhédini shasya bati dhana bati dhanya bati shri mati
trabha bati amalé bimalé nimalé rurumé surupé surupa bimalé bimalé tsalé
atsanasté atanasté bitanaté bishokeshi bishonishi amkuré mamkuré trabamkuré
biramé bidhamé ririmé didimé dudumé khakhamé tataré tara tara tara tara badzré
badzré badzropamé také také thaké thaké ukké bukké thaké tharaké abartani
barashani shadani benzadhara sagara nirghosham tathagatam anusmara smara smara
sarva tathagata satyam anusmara dharma satyam anusmara sangha satyam anusmara
data data pura pura puraya puraya purani bhara bharani amalé sumamgalé shanta
mati shubha mati mamgala bhani maha mati bhadra bati trabha bati sutsandra mati
agatsa gatsa samayam anusmara soha | awaranim anusmara soha | trabhawam
anusmara soha | didim anusmara soha tédzom anusmara soha | bidzayam anusmara
soha | hridayam anusmara soha sarva sato binayam anusmara soha |
om basudharé soha | om basushriyé soha | om shribasu soha | om basu soha |
(Phạn âm)
namo vajradhara-sāgara-nirghoṣāya tathāgatāya
tadyathā | oṃ surūpe bhadre bhadravati aṅgale maṅgale maṅgalavati ale acale
acala-bale udghātini udbhedini śasyavati dhanavati dhānyavati śrīmati
prabhavati amale vimale nirmale rurume surūpe surūpavimale vimale cale
arcanaste atanaste vitanaste viśvakeśi viśvaniśi aṅkure maṅkure prabhaṅkure
virame vidhame ririme dhidhime dhudhume khakhame tatare tara tara tāra tāra
vajre vajre vajropame ṭake ṭake ṭhake ṭhake ukke bukke ṭhake ṭharake āvartani
varṣaṇi (ni)ṣ(p)ādani vajradhāra-sāgara-nirdhoṣaṃ tathāgataṃ anusmara smara
smara sarva-tathāgata-satyam-anusmara dharma-satyam-anusmara
saṅgha-satyam-anusmara data data pūra pūra pūraya pūraya pūraṇi bhara bharaṇi
amale sumaṅgale śāntamati śubhamati maṅgalabhaṇi mahāmati bhadravati prabhavati
sucandramati āgacchāgaccha samayam-anusmara svāhā | avaraṇim-anusmara svāhā |
prabhavam-anusmara svāhā | dīdim-anusmara svāhā | tejom-anusmara svāhā |
vijayam-anusmara svāhā | hṛdayam-anusmara svāhā | sarva-sattva-vijayam-anusmara
svāhā |
oṃ vasudhāre svāhā | oṃ vasuśriye svāhā | oṃ śrīvasu svāhā | oṃ vasu svāhā ||1
Thiện nam tử, đây là Vasudhārā Dhāraṇī. Đói kém, dịch bệnh, và chết yểu sẽ được
ngăn ngừa qua năng lực của dhāraṇī-mantra này.
Thiện nam tử, bất cứ ai lễ lạy chư Đức Như Lai, Ứng Cúng, Hoàn Thiện Toàn Hảo Phật,
và trì tụng những từ ngữ của mantra bí mật này, Vasudhārā Dhāraṇī,, trong khi
hướng về phương Tây sẽ đạt đến thành công.
Để giải thích chi tiết hơn: hãy thiết lập một mạn đà la trong một nơi thích hợp
- chẳng như tại nhà, một nơi sạch sẽ, hay một nhà kho - sử dụng trầm hương cúng
dường cho Đức Như Lai, Quán Thế Âm, và tất cả chư Phật, chư Bồ tát cùng những
bổn tôn mantra bí mật, và trì tụng dhāraṇī trong khi hướng về phía Tây. Thiện
nam tử, nhà của người ấy chẳng bao lâu sẽ đầy tràn với một dòng suối của châu
báu, lúa thóc, vàng, bạc, và tất cả các thứ cần dùng và tổn hại sẽ đi đến chấm
dứt.
Do vậy, này thiện nam tử, hãy giữ gìn Vasudhārā Dhāraṇī thân quý. Nhớ nó! Thuộc
lòng nó! Trì tụng nó! Dạy nó! Cũng như giải thích nó cho người khác! Việc này
sẽ mang lại cho ông lợi ích, thịnh vượng, và hạnh phúc lâu dài.”
Gia chủ Sucandra nói “ Bạch Đức Thế Tôn như vậy tốt quá!”, sau khi thọ nhận
Vasudhārā Dhāraṇī từ Đức Phật.
Sucandra vui mừng, hài lòng, hân hoan, thỏa mãn, hạnh phúc, toại nguyện và sung
sướng khi ông tỏ lòng tôn
kính bằng cách chạm vào bàn chân Đức Thế Tôn trên đầu mình. Sau đó ông nói với
Đức Thế Tôn:
“Bạch Đức Thế Tôn, bây giờ con đã thọ nhận nghi thức Vasudhārā, con sẽ giữ dhāraṇī
này trong tâm; con sẽ thuộc lòng, con sẽ
trì tụng; con sẽ quán triệt ; con sẽ vui hưởng trong nó; và con cũng sẽ giải
thích nó chi tiết với người khác!”
Ngay lúc ấy, những nhà kho của gia chủ Sucandra đã trở nên hoàn toàn đầy ấp.
Gia chủ Sucandra đã đi nhiễu quanh Đức Phật hàng trăm nghìn lần, và sau khi
chạm đầu ông vào chân Phật, ông ra về.
Đức Phật sau đó nói với tôn giả Ānanda:
“Này Ānanda:, hãy đi đến nhà gia chủ Sucandra, nhà của ông đầy ấp tất cả các
loại giàu có và lúa thóc và của báu to lớn cùng kho lẫm đầy đủ tất cả các các
thứ mà người mong muốn.”
Với những lời này của Đức Phật, tôn giả Ānanda đi vào đại thành Kausambi nơi
nhà của Sucandra toạ lạc. Lúc đến nhà ngài đi vào, và thấy nó đầy ấp những sự
giàu có và lúa thóc. Ngọc ngà quý giá dư dật, và có một nhà kho lớn đủ tất cả
các loại vật phẩm. Những kho tàng như vậy hoàn toàn đầy ấp! Vui mừng, hài lòng,
hân hoan, thỏa mãn, hạnh phúc, toại nguyện và sung sướng lúc thấy điều này,
ngài trở về với Đức Phật.
Tôn giả Ānanda đến gần Đức Phật, và trong sự ngạc nhiên, hạnh phúc và hoan hỉ,
ngài nói với Đức Phật:
Bạch Đức Thế Tôn, tại sao gia chủ Sucandra có rất nhiều của cải như vậy? Nguyên
nhân gì và những trường hợp nào mà kho tàng cùng những nhà chứa của ông ta đầy
tràn những tài sản và lúa thóc?”
Đức Phật trả lời:
“Ānanda, chính là bởi vì thiện nam tử gia chủ Sucandra đã tiếp nhận và trì tụng
Vasudhārā Dhāraṇī với sự thành tâm, hết sức tin tưởng, và động cơ trong sạch.
Ông giữ nó, trì tụng nó, quán triệt nó, vui hưởng trong nó, và cũng dẫn giải
chi tiết cho những người khác.
Ānanda, do đó, ông cũng nên nhận Vasudhārā Dhāraṇī, giữ nó trong tâm, trì tụng
nó, dạy nó, ghi nhớ nó, quán triệt nó và giải thích nó cho người khác một cách
chi tiết. Điều này sẽ mang lại lợi ích cho nhiều người. Nó sẽ mang lại hạnh
phúc cho họ. Nó sẽ mang lại từ ái và bi mẫn cho thế giới, và nó sẽ mang lại lợi
ích và hạnh phúc cho đám đông chúng sanh, chư thiên và loài người.
Ānanda, ta không thấy bất cứ ai trong thế giới của chư thiên, ma vương, bà la
môn, loài người hoặc a tu la, những người sẽ nói khác về vidyā-mantra này.
Không thể không nhận được những lợi ích của mantra sau khi trì tụng nó hai hoặc
ba lần.
Ānanda, những lời mantra bí mật của dhāraṇī này là không thể phá hủy được.
Ānanda, rõ ràng là
những lời này, khi được nghe, sẽ mang lại lợi ích ngay cả những người đã cạn
kiệt gốc rễ của công đức. Vì vậy, không cần phải đề cập đến lợi ích của việc
viết chúng thành một cuốn sách hoặc ghi nhớ chúng.
Tại sao trường hợp này? Đó là bởi vì dhāraṇī này đã được dạy bởi tất cả chư Như
lai. Dhāraṇī-mantra này đã được nói, giải thích, tôn vinh, tiết lộ, khen ngợi,
làm sáng tỏ, làm trong sáng, giải thích, gia hộ, chứng thực bởi pháp ấn, được
khen ngợi, ca hát, tuyên bố và nói với tất cả chúng sanh bởi tất cả chư Như lai
vì lợi ích của tất cả chúng sinh sống trong cảnh nghèo đói, đau khổ vì bệnh
tật, sống trong sợ hãi hoặc bị kẻ ác hãm hại.
Tôn giả Ānanda sau đó đứng dậy khỏi chỗ ngồi và chắp tay lại, ngài thốt ra lời
tán thán này trong bài kệ:
“Không thể tưởng tượng được là Đức Thế Tôn.
Pháp của Đức Phật cũng không thể tưởng tượng được.
Đối với những người có niềm tin vào điều không thể nghĩ bàn,
Không thể tưởng tượng được cũng sẽ là kết quả của họ.
Người biết yên lặng về mọi thứ và tất cả,
Pháp Vương không bị tuổi già và sự chết,
Người đã đến bến bờ của trí tuệ,
Đức Phật Anh Hùng, con kính lễ ngài! ”
Tôn giả Ānanda toại nguyện và hoan hỉ, sung sướng và vui mừng khôn xiết. Trong
niềm vui và hạnh phúc, ngài thưa với Đức Phật:
“Bạch Đức Thế Tôn, giáo pháp này tên là gì? Con sẽ nhớ nó như thế nào? "
Đức Phật đáp:
“Ānanda, hãy nhớ giáo huấn này là‘ Câu Hỏi Của Gia Chủ Sucandra.’ Hãy nhớ nó như‘
Kho Báu Của Sự Thịnh Vượng Và Lúa Thóc Cùng Tất Cả Những Gì Quý Giá.’Hãy nhớ nó
như ‘Vasudhārā Dhāraṇī Được Tất Cả Các Chư Như Lai Ca Ngợi.’”
Khi Đức Phật nói lời này, tôn giả Ānanda, các vị tỳ kheo và chư Bồ tát ma ha
tát, cùng tất cả hội chúng và thế giới của chư thiên, loài người, a tu la, càn thát
bà vui mừng và ca ngợi lời của Đức Phật.
Điều này kết luận về Vasudhārā Dhāraṇī Tôn Quý.
***
Nguyên bản: The
Noble Vasudhārā Dhāraṇī
Ấn ngữ: Vasudhārā-dhāraṇī
Tạng ngữ: nor gyün mé zung
Anh ngữ: The ‘Stream of Wealth’ Incantation
Hán ngữ: Trì
Thế Bồ tát Pháp Kinh
Anh dịch: Lhasey Lotsawa Translations (Stefan Mang and Peter Woods), 2019.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
Ẩn tâm lộ, Friday, July 2, 2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét