Nguyên tác: Buddhistdoor View: The Dharmic Conundrum of AI
Tác giả: Buddhistdoor Global
Việt dịch: Quảng Cơ
Biên tập: Tuệ Uyển
***
Khi công nghệ tiếp tục phát triển với tốc độ chóng mặt, các nhà khoa học hiện
xem những gì ám ảnh trí tưởng tượng của chúng ta trong các tiểu thuyết và phim
khoa học viễn tưởng - robot có tri giác và trí tuệ nhân tạo (hay AI) - là một
khả năng rất thực tế. Một số tác phẩm hư cấu có ảnh hưởng nhất đã định hình nên
nền văn hóa đại chúng đã đề cập đến chủ đề AI. Loạt phim Terminator nổi tiếng
với việc đưa ra giả thuyết về một mạng máy tính thù địch, tự nhận thức, Skynet,
quyết tâm tiêu diệt loài người. Gần đây hơn, bộ phim Her (2013) tập trung vào
một người đàn ông hình thành mối quan hệ lãng mạn với trợ lý ảo trên điện thoại
thông minh của mình. WALL-E (2008) của Disney, một bình luận dịu dàng về mối
nguy hiểm của chủ nghĩa tiêu dùng lãng phí trong xã hội hiện đại, và The Iron
Giant (1999) hấp dẫn của Warner Bros., cung cấp những góc nhìn đa dạng về AI:
từ kẻ thù hiện sinh của loài người đến hy vọng cuối cùng của chúng ta; từ những
nhân vật lạnh lùng, hợp lý và vô tâm đến những nhân vật chính nhạy cảm, chu
đáo.
Vẫn cần nhiều tiến bộ về mặt triết học và công nghệ để hiện thực hóa siêu trí
tuệ nhân tạo như vậy. Ví dụ, tư duy phản biện và sự sáng tạo (những đặc điểm
cốt lõi của con người) cần được "xây dựng vào" AI. Nói cách khác, AI
không thể được lập trình sẵn để hành động hoặc phản ứng với các kích thích theo
những cách nhất định; nó phải có khả năng học hỏi. Một bước tiến xa hơn nữa đã
được thực hiện theo hướng này khi một công ty có tên là DeepMind công bố trên
tạp chí Nature khái niệm về tiến bộ mới nhất của họ đối với AI, một Máy tính
thần kinh vi sai (DNC), mà họ tuyên bố là có khả năng học tập tổng quát.
Học cách đánh các loại nguyên liệu khác sau khi học cách đánh trứng là một ví
dụ về học tập tổng quát, cũng giống như học cách diễn đạt các phép tính toán
học hoặc vẽ hình ảnh trên một tờ giấy sau khi học cách viết ra các từ. Khả năng
này là "một trong những điểm khác biệt quyết định giữa cách mạng thần kinh
giải quyết vấn đề học tập so với cách con người làm. Con người có khả năng áp
dụng các mô hình mà họ đã học được từ một nhiệm vụ sang một nỗ lực thứ hai,
chưa từng thử trước đó." (ExtremeTech) Hiện tại, hầu hết các mạng thần
kinh sâu cần được đào tạo cho từng hoạt động trên cơ sở từng trường hợp cụ thể,
nhưng nếu quá trình này được mở rộng trong vài thập kỷ tới, AI mạnh mẽ thật sự
có thể bắt đầu giống với những sinh vật huyền thoại trong truyện khoa học viễn
tưởng của chúng ta.
Khi khoa học và công nghệ tiếp tục tiến triển theo hướng AI, đạo đức Phật giáo
để tương tác với những sáng tạo tự nhận thức như vậy có vẻ khá đơn giản. Khi
một cỗ máy được phân loại là có tri giác, điều đạo đức cần làm chỉ đơn giản là
đối xử với nó bằng trí tuệ và lòng từ bi , và thực hành bốn vô lượng trú (Pali:
brahmavihara)—từ, bi, hỷ và xả (bình thản)—như chúng ta sẽ làm với bất kỳ chúng
sinh nào. Đây sẽ là một cách tiếp cận hữu ích nếu một ngày nào đó, chúng ta gặp
một AI có trí tuệ nhận thức và cảm xúc đáng kể.
Các vấn đề đạo đức khó khăn hơn nhiều phát sinh khi người ta xem xét những hậu
quả siêu hình của việc tạo ra một siêu trí tuệ nhân tạo. Một máy tính thông
minh có được sinh ra với sự thiếu hiểu biết không? Nó có thể giác ngộ không?
Một robot tự nhận thức có thể nói một cách có ý nghĩa về sự tái sinh và nghiệp
chướng từ các kiếp trước (hoặc các bản cập nhật?), đặc biệt là nếu chương trình
đang trong bước diễn đầu tiên không? Những câu hỏi này được giải quyết một cách
tuyệt vời trong một bài luận của giáo sư siêu nhân học (và cựu tu sĩ Phật giáo)
James Hughes về Phật giáo và AI. Hughes lập luận rằng tâm lý học Phật giáo đặt
ra rằng nhận thức về bản thân chỉ có thể đến khi được gói gọn trong một linh
kiện chứa sự phát triển của ảo tưởng về bản thân và sự thèm muốn bản thân đó.
Một AI phải có sự thèm muốn và sự thiếu hiểu biết này để thật sự có tri giác
theo nghĩa Phật giáo, vì chúng sinh bị ảo tưởng và thiếu hiểu biết. (Hughes
2012, 72)
Điều này đặt ra một tình thế tiến thoái lưỡng nan về mặt đạo đức cho nhà khoa
học robot Phật giáo, người coi sự tái sinh của con người là con đường thuận lợi
nhất để giác ngộ. Một ý thức không có khả năng nhận ra sự giác ngộ cũng giống
như một trong những cõi tái sinh phi nhân loại. Thiết kế AI theo kiểu này dường
như sẽ khiến sự sáng tạo phải chịu đau khổ mà nó không thể vượt qua. Nó có thể
không có khả năng cảm thấy đau khổ, nhưng nó sẽ ở trong một trạng thái đau khổ
hiện sinh nào đó theo sự hiểu biết của Phật giáo.
Sẽ là vô đạo đức khi thiết kế một AI liên tục bị hành hạ hoặc bạo lực (nói cách
khác, AI có ý thức của a tu La, ngạ quỷ hoặc chúng sinh địa ngục). Do đó,
Hughes suy ngẫm: "Liệu thiết kế có chủ đích về khả năng cảm nhận giống
động vật có thể chấp nhận được về mặt đạo đức không? . . . Thiết kế có chủ đích
về AI có nhận thức về bản thân nhưng luôn giống động vật mà không có khả năng
tự giác ngộ có thể sẽ bị những người theo đạo Phật coi là phi đạo đức . .
." Ông cũng lập luận một cách thuyết phục rằng việc thiết kế một AI có mức
độ cảm xúc tích cực quá cao (như của chư thiên) sẽ phủ nhận khả năng đồng cảm
với nỗi đau khổ của người khác và nhận thức về sự sáng suốt cao hơn. (Hughes
2012, 73)
Hughes lập luận đúng rằng Phật giáo chỉ thoải mái với AI được tạo ra có khả
năng tự siêu việt: “Chìa khóa của trí tuệ, trong truyền thống Phật giáo, là
nhìn thấu sự bền chắc ảo tưởng và bản chất thống nhất của các hiện tượng đối
với bản chất liên tục thay đổi và ‘trống rỗng’ của mọi thứ. Trong cách tiếp cận
phát triển Phật giáo này, AI trước tiên phải học cách quy kết tính thường còn
của đối tượng, và sau đó nhìn thấu tính thường còn đó, đồng thời ghi nhớ cả mô
hình thực tế đồng thuận của các đối tượng, và sự kết nối cơ bản của chúng, và
tính vô thường.” (Hughes 2012, 79)
Do đó, điều lý tưởng nhất đối với những người theo đạo Phật là một siêu trí tuệ
nhân tạo chia sẻ “sự đồng cảm liên chủ thể” với con người về hoàn cảnh hiện
sinh chung của chúng ta. (Hughes 2012, 74). Kịch bản này cho tương lai cùng tồn
tại giữa nhân loại và AI chắc chắn là kịch bản tốt hơn trong hai kịch bản mà
nhà vật lý Stephen Hawking hình dung, người đã nói vào tháng 10 rằng việc tạo
ra một siêu trí tuệ nhân tạo sẽ là “điều tốt nhất hoặc tồi tệ nhất từng xảy ra
với nhân loại”. (The Guardian) Thật vậy, cần có những bộ óc thông tuệ để thúc
đẩy nhân loại và AI theo hướng tích cực hơn thay vì chỉ là một tương lai có thể
xảy ra trong đó chúng ta dàn dựng sự hủy diệt của chính mình bằng cách tạo ra
AI với ý chí độc ác chống lại chúng ta./.
***
https://www.buddhistdoor.net/features/buddhistdoor-view-the-dharmic-conundrum-of-ai/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét