Thứ Ba, 27 tháng 5, 2025

CHƯƠNG MƯỜI LĂM: Tạo ra viễn cảnh cho thực hành

 




Nguyên bản: Creating the Perspective for Practice
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Biên
tập: Rajiv Mehrotra
Việt dịch: Quảng Cơ

Hiệu
đính: Tuệ Uyển
***

Cuộc sống của một con người tự do và may mắn được coi là một điều gì đó quý giá. Cuộc sống của một con người như vậy rất hiếm, nhưng những cá nhân sở hữu nó có thể đạt được những điều tuyệt vời nhờ nó. Tuy nhiên, nó không bền vững mà mong manh và cực kỳ phù du. Điều quan trọng là chúng ta phải nhận thức được những đặc điểm này của cuộc sống và rồi thì chuẩn bị để tận dụng chúng một cách tốt nhất. Thật dễ dàng để thấy rằng tiềm năng của con người vượt xa khả năng của các sinh vật sống khác trên thế giới. Tâm thức con người có tầm nhìn xa trông rộng. Kiến thức của nó là vô hạn. Nhờ năng lực của tâm thức con người, nên những khám phá và phát minh mới xuất hiện rất nhiều trên hành tinh của chúng ta. Nhưng điều quan trọng là tất cả những đổi mới này phải thúc đẩy hạnh phúc và hòa bình trên thế giới. Trong nhiều trường hợp, điều này không đúng. Thật không may, sự khéo léo của con người thường bị sử dụng một cách sai lầm để tạo ra sự xáo trộn, mất đoàn kết và thậm chí là chiến tranh.

Những thành tựu của trí thông minh con người là hiển nhiên. Những ý tưởng và hoạt động của ngay cả một cá nhân cũng có thể mang lại lợi ích sâu rộng cho hàng triệu người và các sinh vật sống khác. Khi các kỹ năng của con người được định hướng đúng hướng, được thúc đẩy bởi thái độ đúng đắn, thì những điều tuyệt vời sẽ xảy ra. Do đó, giá trị của cuộc sống con người là vô giá. Theo quan điểm tâm linh nghiêm ngặt hơn, chính trên cơ sở cuộc sống con người, chúng ta có thể phát triển các loại hiểu biết và nhận thức khác nhau. Chỉ có tâm trí con người mới có thể tạo ra tình yêu thương và lòng từ bi vô hạn. Quan tâm nhiều hơn đến chúng sinh khác hơn là bản thân chúng ta và làm việc không mệt mỏi vì lợi ích của họ là một trong những phẩm chất cao quý của bản chất con người.

Cuộc sống của một con người vô cùng có giá trị khi nói đến việc đạt được cả mục tiêu tạm thời và mục tiêu cuối cùng của chúng ta. Trong bối cảnh này, mục tiêu tạm thời ám chỉ việc đạt được sự tái sinh cao hơn, và mục tiêu cuối cùng ám chỉ đến niết bàn và sự giác ngộ hoàn toàn. Những mục tiêu này rất quý giá và khó đạt được. Để làm được như vậy, các cá nhân phải có khả năng thực hành và tích lũy các nguyên nhân cần thiết. Chỉ có con người mới có cơ hội và sự thông minh để đạt được những mục tiêu này. Nếu chúng ta muốn được tái sinh ở các cõi cao hơn, chúng ta cần kiềm chế những hành động bất thiện và thực hành các đức tính như rộng lượng bố thí và kiên trì nhẫn nhục. Khi chúng ta tham gia vào các thực hành đúng đắn, chúng ta có tiềm năng đạt được niết bàn và Phật quả.

Khi chúng ta có được niềm tin rằng cuộc sống của một con người tự do và may mắn là hiếm có và quý giá, chúng ta nên suy ngẫm rằng nó không phải là vĩnh viễn. Mặc dù cuộc sống của một con người có tiềm năng như vậy, nhưng nó chỉ tồn tại trong thời gian ngắn và không kéo dài. Theo hướng dẫn trong văn bản kinh luận, chúng ta nên thiền quán ở đây về ba chủ đề cơ bản: sự chắc chắn của cái chết, sự không chắc chắn về thời điểm nó sẽ xảy ra và khi cái chết thật sự xảy ra, chỉ có sự nhận thức về mặt tâm linh của cá nhân mới có thể giúp ích. Những điểm này có thể dễ dàng hiểu được và không đặt ra thách thức về mặt trí tuệ. Tuy nhiên, chúng ta phải thiền tập về chúng nhiều lần cho đến khi chúng ta thật sự tin chắc. Mọi người đều đồng ý rằng sớm hay muộn thì tất cả chúng ta đều phải chết. Vì vậy, sự chắc chắn của cái chết không phải là vấn đề. Giàu hay nghèo, trẻ hay già, tất cả đều phải chết một ngày nào đó. Cái chết là đồng nhất và phổ quát, và không ai có thể phủ nhận hoặc coi thường sự thật này của cuộc sống.

Điều đánh lừa chúng ta là sự không chắc chắn về thời điểm của sự chết. Mặc dù chúng ta biết rất rõ rằng mình phải chết, nhưng chúng ta cho rằng nó sẽ xảy ra sau một thời gian. Tất cả chúng ta đều nghĩ rằng mình sẽ không chết sớm, và chúng ta bám vào niềm tin sai lầm rằng cái chết sẽ không xảy ra trong nhiều năm nữa. Quan niệm về một tương lai dài và vô định trải dài trước mắt khiến chúng ta không muốn nỗ lực tâm linh nghiêm túc. Toàn bộ mục đích của thiền quán về vô thường và sự chết thúc đẩy chúng ta dấn thân một cách năng động vào sự thực hành tâm linh.

Tôi xin đưa ra một số hướng dẫn chung có thể giúp cho việc thực hành tâm linh của chúng ta trở nên hiệu quả và sinh hoa trái. Tôi đã giải thích rằng việc theo đuổi tâm linh của chúng ta bao gồm các buổi thiền tập và giai đoạn sau thiền tập. Mọi người thường có ấn tượng rằng các hoạt động tâm linh chỉ có hiệu quả trong các buổi thiền tập; họ bỏ qua nhu cầu thực hành trong giai đoạn sau thiền tập. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng cách tiếp cận này là sai lầm, Thực hành trong giai đoạn sau thiền tập cũng quan trọng như nhau. Do đó, chúng ta cần hiểu cách hai loại thực hành bổ sung cho nhau. Sự hiểu biết về tâm linh có được trong quá trình thiền tập sẽ nâng cao sự hiểu biết của chúng ta trong giai đoạn sau thiền tập và ngược lại. Nhờ có nguồn cảm hứng có được trong các buổi thiền tập, chúng ta có thể phát triển nhiều đức tính như lòng từ bi, lòng nhân hậu, tôn trọng phẩm chất tốt của người khác, v.v. Trong suốt buổi thiền, chúng ta dễ dàng đạt được một mức độ thuần thành nhất định, nhưng thử thách thật sự là khi chúng ta đối mặt với thế giới bên ngoài. Do đó, chúng ta phải siêng năng thực hành trong giai đoạn sau thiền tập.

Khi chúng ta ngồi và cầu nguyện và thiền tập, chúng ta chắc chắn sẽ tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn. Chúng ta có thể tạo ra lòng từ bi đối với người nghèo và người thiếu thốn và cảm thấy khoan dung hơn với đối thủ của mình. Tâm trí thư giãn hơn và ít hung hăng hơn. Nhưng thật sự rất khó để duy trì động lực này khi chúng ta phải đối mặt với hoàn cảnh của cuộc sống thật. Thiền tập giống như rèn luyện bản thân cho thế giới thật. Nếu chúng ta không kết hợp hài hòa giữa những trải nghiệm của mình trong thời gian thiền tập và sau khi thiền tập, nỗ lực tâm linh của chúng ta sẽ mất đi tác dụng rất cần thiết. Chúng ta có thể tử tế và từ bi trong khi thiền định, nhưng nếu ai đó quấy rối chúng ta trên đường hoặc xúc phạm chúng ta ở nơi công cộng, rất có thể chúng ta sẽ trở nên tức giận và hung hăng. Chúng ta thậm chí có thể trả đũa ngay tại chỗ. Nếu điều đó xảy ra, tất cả lòng tốt, sự kiên nhẫn và sự hiểu biết mà chúng ta phát triển trong quá trình thiền tập sẽ ngay lập tức biến mất. Tất nhiên, rất dễ dàng để từ bi và vị tha khi chúng ta ngồi thoải mái trên ghế của mình, nhưng thử thách của việc thực hành là khi chúng ta gặp phải vấn đề. Ví dụ, khi chúng ta có cơ hội để tranh đấu và chúng ta kém chế việc đấu tranh, đó là thực hành Pháp. Khi chúng ta có sức mạnh để bất nạt ai đó và chúng ta kiềm chế không làm như vậy, đó là thực hành Pháp. Cho nên, thực hành giáo Pháp thật sự là kiểm soát bản thân trong những hoàn cảnh như vậy.

Để làm cho việc thực hành tâm linh của chúng ta ổn định và bền bỉ, chúng ta phải rèn luyện một cách phù hợp. Một hành giả thời tiết đẹp có rất ít hy vọng đạt được mục tiêu của mình. Điều cực kỳ quan trọng là thực hành các giáo lý ngày này qua tháng khác và năm này qua năm khác. Bất kỳ ai thực hành liên tục đều có thể phát triển các chứng ngộ tâm linh. Vì mọi hiện tượng vô thường đều thay đổi, một ngày nào đó tâm trí hoang dã và thô lỗ của chúng ta sẽ trở nên kỷ luật và thông tuệ , hoàn toàn thư giãn và bình yên. Những phẩm chất tinh thần tuyệt vời như vậy có thể được phát triển chỉ bằng cách nhìn thấy lợi thế của suy nghĩ cùng hành động đạo đức và những nhược điểm của ảo tưởng, Tuy nhiên, miễn là hành giả học được kỹ thuật và phương pháp thích hợp. Trong hành trình tìm kiếm sự chứng ngộ tâm linh, chúng ta không cần phải sử dụng sức mạnh thô tháo.

Khi tôi đang nhận giáo lý từ Khun-ma Lama, ngài đã kể cho tôi nghe một câu chuyện về một người ở Lhasa đang đi nhiễu. Một người khác đang thiền ở đó, và người đi nhiễu hỏi, "Bạn đang làm gì vậy?" Người kia trả lời, "Tôi đang thiền về sự kiên nhẫn." Người đi nhiễu vặn vẹo, "Ăn cứt!" và thiền giả nhảy dựng lên, hét lên trong cơn tức giận. Rõ ràng cho thấy rằng bài kiểm tra thật sự của việc thực hành là liệu chúng ta có thể áp dụng nó khi gặp phải những tình huống khó khăn hay không. Tôi cảm thấy rằng việc thực hành sau buổi thiền có lẽ quan trọng hơn việc thực hành trong buổi cộng phu. Trong buổi tu tập, chúng ta thật sự đang tiếp nhiên liệu hoặc nạp lại năng lượng để có thể thực hành sau này. Do đó, chúng ta càng có thể định hình tâm trí trong buổi tu tập, thì chúng ta càng có thể đối mặt tốt hơn với những khó khăn sau đó.

Bản văn giải thích bản chất của loại cuộc sống con người đặc biệt có quyền tự do thực hành Pháp. Những cá nhân có tự do và cơ hội thực hành Pháp không bị cản trở bởi những quan điểm sai lầm. Họ thoát khỏi những ràng buộc của việc sinh ra làm thú vật, ngạ quỷ hoặc chúng sinh địa ngục. Họ đã tránh được việc sinh ra trong một nơi không có giáo Pháp của Phật và một nơi xa xôi hẻo lánh kém văn minh. Cũng không sinh ra đã ngu ngốc hay đần độn.

Hãy tưởng tượng được sinh ra như một con chim, chỉ quan tâm đến việc tìm kiếm thức ăn. Chúng ta sẽ không có cơ hội để thực hành Pháp, May mắn thay, chúng ta không được sinh ra như chim hay động vật mà là con người. Nhưng ngay cả khi là con người, chúng ta có thể đã được sinh ra ở một vùng đất xa xôi nơi giáo lý của Đức Phật chưa từng được nghe đến. Sự giàu có và trí thông minh sẽ không tạo nên sự khác biệt; chúng ta sẽ không thể thực hành Pháp. Những người bạn phương Tây đến từ những nơi mà trước đây không có sự thực hành Phật giáo. Nhưng, vì bản năng tích cực của họ và thời đại thay đổi, chúng ta đã có thể gặp gỡ và chia sẻ những lời dạy. Vào một thời điểm nào đó, vùng đất phương Tây được gọi là vùng đất xa xôi nơi mọi người không được tự do thực hành. Chúng ta nên trân trọng không chỉ việc chúng ta được sinh ra như con người, mà còn vì tất cả chúng ta hiện có những điều kiện cần thiết để đưa Pháp vào thực hành.

Cuộc sống như một con người là nền tảng thích hợp nhất để đạt được niết bàn và Phật quả. Vì chúng ta đã tìm thấy một cơ hội tuyệt vời như vậy, không gì tệ hơn là không tận dụng nó một cách tốt đẹp. Chúng ta đã tìm thấy kiếp người quý giá này là kết quả của việc tích lũy đức hạnh lớn lao trong quá khứ. Chúng ta phải tận dụng nó ngay bây giờ bằng cách tiếp tục thực hành Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ giống như những thương gia thời xưa đã đi rất xa để vượt đại dương tìm kiếm châu báu, chỉ để trở về tay không. Cơ thể con người này được ví như một con tàu mà chúng ta có thể khám phá đại dương đau khổ của vòng luân hồi. Khi đã tìm thấy nó, chúng ta không có thời gian để ngủ và không thực hành.

Điều quan trọng là phải hiểu ý nghĩa của việc thực hành giáo lý. Có nhiều phương thức và thủ tục khác nhau nhằm mục đích trực tiếp hoặc gián tiếp để sửa đổi tâm trí hỗn loạn và rèn luyện nó, chế ngự những khía cạnh tiêu cực của tâm trí và tăng cường những khía cạnh tích cực của nó. Ví dụ, chúng ta đọc kinh và thiền tập. Những thực hành như vậy sẽ thúc đẩy lòng tốt của trái tim và nuôi dưỡng những đức tính như lòng tốt và sự kiên nhẫn. Họ nên chế ngự và loại bỏ những khía cạnh tiêu cực của tâm trí như sự thù địch, tức giận và ghen tị, vì đây là nguồn gây phiền nhiễu và bất hạnh cho bản thân và người khác. Đây là lý do tại sao việc thực hành Pháp có lợi.

Điều này tự động dẫn đến câu hỏi, Có thể thực hành giáo lý không? Câu trả lời là có. Vào thời điểm này, chúng ta đã có được cuộc sống con người này. Chúng ta may mắn gặp được những bậc thầy tâm linh phù hợp, những người từ bi và có khả năng hướng dẫn con đường đúng đắn. Chúng ta cũng có tự do và cơ hội để tham gia vào việc thực hành tâm linh của mình.

Chúng ta không nên nghĩ đến việc trì hoãn việc thực hành Pháp của mình cho đến kiếp sau. Đây là một sai lầm, vì sẽ rất khó để được sinh ra làm người trong tương lai. Chúng ta cũng không nên nghĩ rằng mình sẽ trì hoãn việc thực hành của mình cho đến năm sau hoặc thậm chí là tháng sau. Việc chúng ta sẽ chết là điều không thể tránh khỏi, nhưng chúng ta không biết khi nào sẽ xảy ra. Trong số nhiều thực hành mở ra cho chúng ta, việc phát khởi tâm giác ngộ (tâm bồ đề) là quan trọng nhất.

Điều quan trọng cần nhớ là mọi người đều có bản chất Phật và những cảm xúc phiền não chỉ là những phiền não tạm thời của tâm. Bằng cách thực hành Pháp đúng đắn, những cảm xúc phiền não này có thể được loại bỏ hoàn toàn và bản chất Phật của chúng ta sẽ được bộc lộ trong tất cả tiềm năng của nó.

Tất cả các thực hành tâm linh của chúng ta nên hướng đến việc phát triển tư tưởng vị tha của tâm giác ngộ. Để tư tưởng cao cả này phát sinh, điều cần thiết là phải hiểu được hoàn cảnh của chúng sinh.

Điều này giúp chúng ta tạo ra lòng tốt và lòng từ bi đối với người khác. Nếu chúng ta không có một số kinh nghiệm về đau khổ, lòng từ bi của chúng ta đối với người khác sẽ không có nhiều ý nghĩa. Do đó, mong muốn giải thoát bản thân khỏi đau khổ đi trước bất kỳ cảm giác từ bi nào đối với người khác. Mục tiêu của tất cả các thực hành tâm linh của chúng ta nên là tâm giác ngộ. Đây là lời dạy tối cao và quý giá nhất của Đức Phật. Để cảm giác về tâm giác ngộ của chúng ta có hiệu quả và mạnh mẽ, hãy hành thiền về cái chết và luật nhân quả.

Ngoài ra, hãy thiền về bản chất tàn nhẫn của vòng luân hồi và lợi ích của niết bàn. Tất cả những thực hành này bổ sung cho nhau vì mỗi thực hành đều giúp chúng ta phát triển tâm giác ngộ.

Bước thứ hai trong việc phát triển tâm giác ngộ là suy nghĩ về cái chết và bản chất vô thường của mọi vật cũng như những bất lợi khi không làm như vậy. Suy nghĩ về cái chết và vô thường mở ra cánh cửa để đạt được những phẩm chất tuyệt vời trong cuộc sống này và cuộc sống tiếp theo. Thiền tập về cái chết và những đau khổ của các cõi thấp là mối quan tâm chính của những hành giả đang cố gắng đảm bảo phúc lợi cho những kiếp sống tương lai của chính họ. Họ hướng đến mục tiêu đạt được mục tiêu của mình bằng cách quy y Tam Bảo và tuân theo luật nhân quả. Những hành giả như vậy chủ yếu kiêng mười hành động bất thiện.

Thông qua quá trình thiền định, những cá nhân tìm kiếm sự tái sinh hạnh phúc sẽ nhận ra rằng cơ thể là vô thường và dễ bị phân hủy. dưới sự chi phối của những cảm xúc phiền não và hành động trong quá khứ, cả hai rốt cùng đều bắt nguồn từ quan niệm vô minh về sự tồn tại thật sự. Bất cứ điều gì phát sinh do vô minh đều là đau khổ theo bản chất. Những hành giả chỉ tìm kiếm sự tái sinh hạnh phúc chủ yếu hành thiền về sự vô thường thô thiển, quan sát rằng tất cả chúng ta đều chết, bông hoa héo tàn và nhà cửa sụp đổ. Những người tìm kiếm sự bình yên của niết bàn thiền tập về vô thường vi tế, quan sát rằng mọi hiện tượng đều có thể thay đổi trong chốc lát.

Bây giờ khi chúng ta nói về việc thực hành Pháp, mọi người đôi khi hiểu sai ý nghĩa của nó. Vì vậy, hãy để tôi đưa nó vào đúng bối cảnh. Thực hành Pháp không có nghĩa là bạn phải từ bỏ nghề nghiệp hoặc vứt bỏ tài sản của mình. Có nhiều cấp độ thực hành khác nhau tùy theo khả năng và khuynh hướng tinh thần của từng cá nhân. Không phải mọi người đều có thể từ bỏ thế gian và thiền tập trên núi. Điều này không thực tế. Chúng ta có thể sống sót được bao lâu? Chúng ta sẽ sớm chết đói. Chúng ta cần những người nông dân để trồng trọt nông phẩm, và chúng ta cũng cần sự hỗ trợ của cộng đồng doanh nghiệp. Những người này cũng có thể thực hành giáo lý và hòa nhập cuộc sống của họ vào trong ranh giới của Pháp. Những người kinh doanh phải kiếm lợi nhuận để kiếm sống, nhưng lợi nhuận phải ở mức vừa phải. Tương tự như vậy, những người trong các ngành nghề và nghề khác có thể làm việc một cách trung thực và tận tâm mà không mâu thuẫn với Pháp. Theo cách này, họ có thể phục vụ cộng đồng và giúp ích cho nền kinh tế nói chung.

Tôi thường khuyên mọi người dành một nửa thời gian của mình cho các công việc của cuộc sống và một nửa thời gian của họ để thực hành giáo lý. Tôi nghĩ đây là cách tiếp cận cân bằng đối với hầu hết mọi người. Tất nhiên, chúng ta cần những người xuất gia thật sự, là những người dành toàn bộ cuộc đời để thực hành. Họ xứng đáng được chúng ta trân trọng và tôn kính. Chúng ta có thể tìm thấy họ trong tất cả các truyền thống của Phật giáo Tây Tạng. Có nhiều người thiền định ở dãy Himalaya.

Sau khi chết, chúng ta không biến mất; chúng ta tái sinh. Nhưng chúng ta không thể tự tin rằng sự tái sinh của mình sẽ không ở trong hoàn cảnh khốn khổ. Chúng ta không tự nguyện sinh ra; chúng ta buộc phải làm như vậy thông qua sức mạnh của hành động (nghiệp lực) của mình. Hành động của chúng ta có hai loại, tích cực và tiêu cực. Nếu chúng ta muốn đảm bảo hạnh phúc trong tương lai, điều quan trọng là phải vun đắp những hành động toàn vẹn. Bởi vì sự tồn tại như một con vật, một linh thức đói khát hoặc một cư dân của địa ngục là vô cùng khốn khổ, nên những người thực hành mong muốn đạt được một sự tái sinh may mắn hơn. Cách chính để thực hiện mong muốn này là kiêng mười hành động bất thiện. Mười điều bất thiện này bao gồm ba hành vi thể chất - giết người, lấy của không được cho và hành vi tình dục lạm dụng; bốn hành vi lời nói - nói dối, vu khống, nói lời cay nghiệt và nói chuyện phiếm; và ba hành vi tinh thần - tham lam, ác ý và tà kiến. Từ bỏ mười điều này là điều tối quan trọng nếu chúng ta muốn đạt được sự tái sinh may mắn.

Việc thực hành loại đạo đức này nên được hiểu trong bối cảnh của luật nhân quả hoặc hành động. Mọi hành động đều phải tạo ra kết quả. Điều này có nghĩa là bất kỳ hoạt động tích cực hay tiêu cực nào bạn làm, bạn sẽ trải qua những kết quả tích cực và tiêu cực tương tự. Bất kỳ hành động nào bạn làm sẽ theo bạn giống như bóng của một con chim bay trên bầu trời. Hành động cũng có khả năng tăng lên và nhân lên. Ngay cả khi bạn thực hiện một hành động tích cực hay tiêu cực nhỏ, kết quả cuối cùng có thể rất lớn. Bạn không nên nghĩ rằng một hành vi bất thiện cụ thể là không đáng kể và sẽ không gây hại cho bạn trong tương lai. Giống như một chiếc bình lớn được lấp đầy bởi những giọt nước, ngay cả những hành động tiêu cực nhỏ cũng sẽ gây hại cho bạn sau này. Nếu bạn chưa thực hiện một hành động, bạn sẽ không phải đối mặt với kết quả của nó, nhưng một khi một hành động đã được thực hiện, hậu quả của nó sẽ không bao giờ biến mất. Điều này có nghĩa là bạn sẽ phải đối mặt với kết quả của nó.

Bây giờ, những hoạt động tinh tế nhất của các hành động và kết quả hoặc nghiệp của chúng cực kỳ khó hiểu đối với tâm trí con người. Người bình thường giống như chúng ta không thể hiểu được những hiện tượng cực kỳ khó hiểu như vậy bằng nhận thức trực tiếp hoặc bằng lý luận. Không có lượng phân tích và kiểm tra nào có thể giúp chúng ta ở đây. Chúng ta phải phụ thuộc vào một người có kiến ​​thức và kinh nghiệm về những hiện tượng này, chẳng hạn như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chúng ta không làm như vậy chỉ bằng cách nói rằng ngài vĩ đại hay ngài quý giá. Chúng ta phụ thuộc vào lời nói của ngài. Điều này là hợp lý vì một vị Phật không nói dối; ngài sở hữu lòng từ bi lớn lao và tâm toàn tri, là kết quả của việc xóa bỏ mọi ô nhiễm và chướng ngại tinh thần. Lòng từ bi của Đức Phật là vô điều kiện và phổ quát. Sứ mệnh duy nhất của ngài là giúp đỡ chúng sinh bằng mọi cách có ích. Ngoài lòng từ bi phổ quát của mình, Đức Phật còn được ban tặng trí tuệ trực tiếp hiểu được tính không. Những phẩm chất từ ​​bi và trí tuệ này đủ điều kiện để Đức Phật trở thành một vị thầy đích thực. Ngài là người mà chúng ta có thể tin cậy khi lý trí của chính chúng ta không đủ.

Người Tàu Cộng chống lại tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. Họ lên án tôn giáo là chất độc, tuyên bố rằng nó gây hại cho tăng trưởng kinh tế và là công cụ bóc lột. Họ thậm chí còn nói rằng tôn giáo là một sự theo đuổi trống rỗng và vô nghĩa. Ngược lại, người Tây Tạng tin vào lời dạy của Đức Phật và coi đó là nguồn gốc của hòa bình và hạnh phúc. Nhìn chung, người Tây Tạng thật sự hạnh phúc, thanh thản và kiên cường trước những khó khăn. Những người phản đối tôn giáo có xu hướng lo lắng và hẹp hòi hơn. Người ta cũng thấy rằng người Tây Tạng sống tốt mà không cần phải làm việc quá sức, trong khi người Trung Quốc phải đấu tranh nhiều hơn để sinh tồn.

Hoạt động tích cực, có công đức mang lại hạnh phúc và thành công. Các lực liên quan đến luật nhân quả không phải là các thực thể vật chất, nhưng nếu chúng ta quan sát chúng một cách cẩn thận, chúng ta có thể học được cách chúng hoạt động. Khi chúng tôi, những người Tây Tạng trở thành người tị nạn, cuộc sống của chúng tôi ban đầu rất khó khăn. Chúng tôi không sở hữu một tấc đất nào và phải phụ thuộc vào sự hỗ trợ của người khác. Theo thời gian, tình hình của chúng tôi được cải thiện. Đây là nghiệp tốt của chúng tôi đang đơm hoa kết trái. Tương tự như vậy, trong cuộc sống bình thường, một số người thành công hơn những người khác mà không có lý do rõ ràng. Chúng ta chỉ nói rằng anh ấy hoặc cô ấy may mắn, nhưng đây là những trường hợp nghiệp tốt đang hoạt động./.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét