Thứ Hai, 4 tháng 12, 2017

NĂNG LỰC CỦA THA THỨ



Nguyên tác: The Power of Fogiveness
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma,Limerick 2011
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Cảm ơn, cảm ơn, cảm ơn. Tôi nghĩ , như một dấu hiệu của tôn trọng, tôi sẽ đứng để nói chuyện. Cách ấy, tôi cũng có thể thấy thêm những khuôn mặt. Tôi thường diễn tả tất cả chúng ta như những anh chị em. Chúng ta đều là những con người giống nhau ở  trình độ nền tảng. Chúng ta giống nhau từ tinh thần, cảm xúc, đến thân thể. Ở trình độ vật lý, có những khác biệt nhỏ, như độ lớn của lổ mũi. Lổ mũi của tôi được xem như là một cái mũi lớn. Tôi không nghĩ nó là một cái mũi lớn. Cho nên đó là điều quan trọng. Chúng ta phải nhận ra mỗi người khác như một con người – không có gì khác nhau. Rồi thì, ở trình độ thứ hai – vâng, có những khác biệt về tín ngưỡng, khác biệt về màu da, khác biệt về quốc gia. Tôi nghĩ, ngày nay vấn nạn mà chúng ta đang đối diện là chúng ta nhấn mạnh quá nhiều về tầm quan trọng ở trình độ thứ hai, quên lãng rằng ở trình độ thứ nhất thì chúng ta là những con người giống nhau.

Và rồi cũng thế, trong thực tế ngày nay, chúng ta phải nghĩ về toàn thể nhân loại. Tôi nghĩ khi chúng ta đối diện với một vấn nạn nào đó, chúng ta nên đối phó với chúng với cảm nhận rằng tất cả chúng ta đều là những con người giống nhau. Sự quan tâm của tôi là liên quan đến sự quan tâm của họ, sự quan tâm của họ liên hệ đến sự quan tâm của tôi. Tôi luôn  luôn  xem tôi chỉ là một trong gần bảy tỉ  người hiện nay – tôi là một bộ phận của loài người. Thế nên, sự hạnh phúc tương lai của tôi hoàn toàn lệ thuộc vào toàn thể nhân loại còn lại. Bất chấp là nếu một người đơn độc là năng lực hay giàu có như thế nào – người ấy vẫn là một bộ phận của nhân loại. Nếu loài người hạnh phúc, hòa bình và thương yêu hơn, thế thì mọi người đều lợi lạc. Và bây giờ, trong nền kinh tế hiện đại, không có biên giới thật sự - không có biên giới tôn giáo.

Thế nên, đấy là thực tế. Thời gian đã đến để nghĩ về toàn thể nhân loại và chúng ta phải nói trên trình độ của con người. Do vậy, khi quý vị thấy tôi suy nghĩ, qua phát biểu của tôi, thì quý vị có thể trong một phạm vi nào đó đọc được tâm ý tôi. Thí dụ, bây giờ mọi người có cảm nhận về tự ngã – cái “tôi”. Nhưng không có ai xác định cái “tôi” là gì. Không ai biết. Trong hàng nghìn năm, những truyền thống khác nhau đã đưa ra những sự giải thích khác nhau về tự ngã, nhưng vẫn không rõ ràng lắm. Và, theo tự nhiên, mọi người muốn hạnh phúc, sung sướng, vui tươi. Ngay cả những con thú cũng có cùng cảm nhận và cùng khát vọng như vậy. Và vì chúng ta không muốn trải nghiệm khổ đau, cho nên chúng ta muốn vượt thắng các rắc rối. Đó là căn bản của khái niệm nhân quyền. Mọi người đều có quyền để chiến thắng các vấn nạn và khổ đau.

Cội nguồn cứu kính của tâm hòa bình và hạnh phúc ở cấp độ tinh thần là ở trong chính chúng ta – không phải là tiền bạc, quyền lực, hay địa vị. Một số người bạn của tôi có thể là tỉ phú, rất giàu, nhưng ở mức độ cá nhân họ rất khổ não. Nếu quý vị lệ thuộc vào tiền bạc, thì sẽ thất bại trong việc đem đến hòa bình nội tại. Và cũng thế những người nào rất uy lực, tôi nghĩ rằng sâu thẳm bên trong, họ có rất nhiều băn khoăn, căng thẳng, sợ hãi và không tin cậy. Thế nên, giá trị vật chất sẽ không thể mang đến sự vui sướng hay hòa bình thật sự bên trong. Tình cảm hay lòng nhiệt tình là những gì thật sự mang đến sức mạnh nội tại và sự tự tin, cùng giảm thiểu sợ hãi và tăng trưởng tình bạn và sự tin cậy. Sự tin cậy mang đến tình bạn. Chúng ta là những tạo vật xã hội – sự cộng tác chân thành căn cứ trên sự tin cậy hổ tương và rất cần thiết.

Vì thế cho nên, một khi chúng ta có một tâm từ bi và nhiệt tình hơn, toàn bộ không khí trở thành tích cực và thân hữu hơn. Qua cung cách ấy, họ nói rằng, khi quý vị nhìn về phía trước, quý vị cảm thấy, ô, đó là những người bạn của tôi; nhìn về phía bên này, ô, đó là những người anh chị em của tôi, nhìn về bên nọ, người ấy cũng là thân hữu của tôi. Nếu quý vị mang sự sợ hãi, không tin cậy, và tự làm cho mình hơi có khoảng cách với những người khác, thế thì khi một người khác nhìn vào quý vị, người ấy thấy nghi ngờ, không tin tưởng, và cẩn thận hơn. Như một kết quả, sâu bên trong, quý vị có một cảm giác cô độc. Từ đó, những vấn nạn huyết áp và quá nhiều căng thẳng – tất cả những thứ này xảy ra.

Trong một lần nọ, ở New York, tại Đại học Columbia, tôi đã có một hội nghị với những nhà khoa học y tế. Một nhà khoa học y tế đề cập trong trình bày của ông ta rằng những người thường nói trong những ngôn ngữ như “tôi, tôi, của tôi, của tôi” thì có nhiều cơ hội hay hiểm họa của chứng nhồi máu cơ tim (cười). Ông không giải thích tại sao, nhưng tôi cảm thấy điều đó rất đúng. Như tôi đã đề cập trước đây, sâu bên trong, những người này có sợ hãi và không tin tưởng; và nếu quý vị tiếp tục luôn duy trì khoảng cách với những người khác, thế đó sẽ mang đến sự hiu quạnh. Rồi thì như vậy sẽ trở thành khó khăn để giao tiếp với những con người khác. Xét cho cùng, bạn là một tạo vật xã hội – bạn là một thành phần của cộng đồng và bạn phải đối diện với những người khác. Nhưng do bởi sự yếu đuối bên trong của chúng ta, chúng ta tự cô lập với người khác. Làm sao một người như vậy hạnh phúc được? Vì thế sẽ có nhiều lo lắng và căng thằng hơn nữa. Một khi chúng ta phát triển một cảm giác quan tâm cho sự cát tưởng của những người anh chị em chúng ta lớn hơn, một cánh cửa nội tại sẽ tự động mở ra và sẽ trở thành rất dễ dàng để giao tiếp với những người khác. Bất chấp ta là một người có tín ngưỡng hay không, thì phẩm chất hay tiềm năng này đã sẳn có với chúng ta từ lúc mới sinh ra.

Trước nhất, mọi người đến từ những bà mẹ của họ. Đôi khi quý vị thấy, ở Ấn Độ, có những câu chuyện về những con người hay những vị thánh rất vĩ đại được sinh ra từ hoa sen. Tôi nói đùa với mọi người rằng, vì những người như vậy có thể có những thái độ từ bi hơn đối với hoa sen hơn là đối với con người. May mắn thay chúng ta được sanh ra từ mẹ của chúng ta. Cho nên ngay sau khi chúng ta được sinh ra, bằng một nhân tố sinh học, về cả hai phía – bà mẹ và đứa bé – có một cảm nhận tức thời và bao la của thân mật và tin tưởng. Từ phía bà mẹ, cảm xúc từ ái hay tình cảm mạnh mẽ đem đến năng lượng nhằm để bảo vệ và chăm sóc đứa bé.

Đây là một nhân tố sinh học. Nó không đến từ đức tin tôn giáo – không hiến định, không sức mạnh cảnh sát. Bà mẹ con người giống như bà mẹ chó, mèo, chim – bà ấy có một tình cảm hay cảm giác vô biên quan tâm cho con cái của bà ấy. Thế nên, một cách sinh học, chúng ta được trang bị với loại tình cảm ấy. Bất cứ người nào hay bất cứ con vật nào trân trọng tình cảm của người khác thì cũng có tiềm năng để biểu lộ tình cảm đến một kẻ khác. Vì chúng ta được sinh ra trong cách ấy, chúng ta lớn lên dưới mỗi tình cảm vô vàn và sự chăm sóc của  người khác. Vậy thì xa hơn nữa, một số nhà khoa học nói rằng quá nhiều sân hận hay sợ hãi thì thật sự ăn mòn hệ thống miễn nhiễm của chúng ta. Một tâm từ bi hơn là rất hữu ích để kéo dài hệ thống miễn nhiễm của chúng ta. Do vậy, trong chính máu huyết của chúng ta, có một loại hạt giống nào đó của tình cảm. Với một tâm từ bi hơn, tình trạng thân thể của chúng ta sẽ rất tốt. Một tâm tức tối không thể đồng hành tốt với cấu thành thân thể. Vậy nên chúng ta có thể nói rằng bản chất tự nhiên của con người là tích cực và từ bi hơn.

Và xét cho cùng, chúng ta là những tạo vật xã hội. Ngay cả những con vật khác cũng có một lòng vị tha hạn chế, do bởi nhu cầu của sự tồn tại. Trong trường hợp của con người, do bởi sự thông minh, tâm vị tha của họ có thể mở rộng phạm vi. Từ bi yêu thương, vốn đến từ nhân tố sinh học, nên được mở rộng bằng việc sử dụng trí thông minh của con người – suy nghĩ và khảo sát những ưu và khuyết điểm – và sau đó quý vị có được sự tự tin và tỉnh giác. Lòng nhiệt tình cũng rất quan trọng cho cộng đồng, cho gia đình, và cho cá nhân. Nếu cá nhân có một tâm từ bi hơn, thì cá nhân được duy trì tốt đẹp nhất.

Khi tôi đang đi ngang một con đường, trong một cung cách thường khi của tôi, tôi luôn luôn mĩm cười. Đôi khi những  người hơi bảo thủ - và đặc biệt một số cô gái  trẻ - họ cảm thấy hơi nghi ngờ khi tôi mĩm cười với họ. Thay vì đón nhận hạnh phúc, họ trông như: “Ô, tại sao người này lại mĩm cười với tôi?” Cho nên có nghĩa là, khi tôi mĩm cười vào một người khác như một người anh chị em, tôi cảm thấy hạnh phúc; nhưng thái độ từ bi của tôi không nhất thiết sẽ mang đến hạnh phúc cho người khác. Nó mang lại nghi ngờ và lo lắng hơn cho họ. Do vậy, như một kết quả của sự thực tập từ bi, thì lợi lạc trước nhất là đến cho chính mình.

Tôi muốn nói rõ điều này – đôi khi người ta cảm thấy rằng sự thực tập từ bi là điều gì đó tốt lành cho người khác, chứ không nhất thiết là cho chính tự thân. Điều đó hoàn toàn sai lầm. Từ lúc sinh ra, chúng ta đã được trang bị với tiềm năng này. Vâng, nhân tố sinh học này tồn tại như một hạt giống. Sau đó chúng ta phải dùng trí thông minh con người để mở rộng nó.

Thế nên, có hai cấp độ. Thứ nhất là cấp độ của tình cảm hay từ bi, là thứ vốn chính yếu là một nhân tố sinh học. Điều đó rất giới hạn, và cũng bị định hướng bởi thái độ của người khác. Loại tình cảm đó chỉ hướng đến bạn bè của ta, những người biểu lộ một thái độ tích cực đến với ta. Cấp độ thứ hai của từ bi được thành tựu qua tu tập và sử dụng trí thông minh của ta. Như tôi đã đề cập trước đây, qua một sự phán xét ưu khuyết điểm, chúng ta xây dựng niềm tin. Thái độ cực kỳ vị kỷ là tự tàn phá. Hãy nghĩ về người khác – như vậy thật sự mang đến sức mạnh nội tại. Những niềm tin này mở rộng một cách thận trọng cảm giác quan tâm và cát tường không chỉ đến với thân hữu mà cũng cả những người trung tính, và rồi cuối cùng, ngay cả đối với kẻ thù hay những kẻ gây rắc rối cho chúng ta. Một khi chúng ta có một cảm nhận quan tâm chân thành, vốn vươn tới ngay cả với kẻ thù của ta, rồi thì lòng từ bi đó là chân thành và được rèn luyện. Nó không thành kiến, không giới hạn, và không bờ bến. Chúng ta chỉ có thể đạt được trình độ đó do bởi trí thông minh tuyệt diệu của con người.

Một thí dụ là về một tu sĩ Tây Tạng mà tôi biết rất rõ. Từ năm 1959, ông đã mất khoảng 18 hay 19 năm trong một trại tập trung của Trung Cộng. Vào đầu những năm 1980, ông có cơ hội để đến Ấn Độ và gia nhập vào tu viện trước đây của ông. Tôi thử nói chuyện với ông về kinh nghiệm của ông trong 18 hay 19 năm năm đó. Ông đã nói với tôi, trong thời gian ấy, trong vài trường hợp ấy ông đã đối diện với một hiểm họa nào đó trong đời sống của ông. Tôi đã hỏi ông, hiểm họa gì? Ông đã nói với tôi nó là hiểm họa của việc quên mất tâm từ bi, hay đánh mất lòng từ bi đối với những kẻ gây ra, như những lính canh Trung Cộng đó. Một người thực tập lòng từ bi vô hạn như vậy thì một cách tinh thần là thật an hòa và tĩnh lặng.

Trong một trường hợp, tôi đơn giản đề cập những kinh nghiệm của vị tu sĩ ấy đến một nhóm nhà khoa học. Sau đó, họ muốn thử nghiệm một vài người như vậy. Sau những sự quán sát này, các nhà khoa học thấy rằng mặc dù trải qua những thời gian rất khó khăn và có nhiều gian khổ não trong đời sống, thể trạng tinh thần của tu sĩ này là rất an hòa. Thường thường, những người trải qua loại kinh nghiệm như vậy kết thúc với chấn thương. Nhưng những nhà khoa học này thấy rằng, sau các cuộc phỏng vấn và thử nghiệm của họ, thì vị tu sĩ ấy có một tâm thức rất an hòa. Như một kết qua, con người đặc biệt này, bây giờ khoảng 93 hay 94 tuổi, sức khỏe thân thể còn rất tốt. Cho nên tôi nghĩ thái độ tinh thần là rất quan trọng cho sức khỏe của chúng ta.

Khoảng hai hay ba năm trước đây, tôi phải giải phẩu. Túi mật của tôi bị cắt bỏ. Từ lúc ấy về sau. Tôi nói đùa với mọi người – quý vị thấy khuôn mặt tôi, cũng giống vậy; nhưng trong thực tế, một cơ quan quan trọng của thân thể con người đã mất đi; cho nên thân thể của tôi không là một thân thể hoàn toàn. (Cười) Thế nào đi nữa, họ nói rằng loại giải phẩu như vậy phải mất khoảng 15 hay 20  phút; nhưng trong t, do bởi trường hợp của tôi, phải mất 3 giờ đồng hồ do bởi đủ loại phức tạp. Nhưng rồi thì, chỉ trong sáu ngày, trong một tuần, tôi đã bình phục hoàn toàn. Bác sĩ rất ngạc nhiên. Mặc dù cuộc giải phẩu tự nó là rất phức tạp, sự bình phục nhân chóng một cách bất thường. Đó là kinh nghiệm của chính tôi.

Trong khi nằm trên bàn giải phẩu, và sau đó trong một vài ngày ở nhà thương, tôi cảm thấy okay. Tôi không có nhiều băn khoăn lo lắng hay bất cứ rắc rối nào khác. Trong vài ngày ấy, tôi trở thành một người bạn rất tốt với những y tá và các thầy thuốc. Tôi đùa với họ và chọc họ. Một người thầy thuốc đã nói với tôi sau này rằng từ cuộc gặp gở của chúng tôi, toàn bộ đời sống của họ đã thay đổi. Vợ của một người thầy thuốc đã nói với tôi rằng – chính vị ấy đã không nói với tôi – “Chồng tôi thường hơi khó khăn trước đây. Nhưng từ cuộc giải phẩu ấy, ông ấy đã trở nên thoải mái hơn nhiều.”

Cho nên, sự thực tập từ bi do vì nó thật sự lợi ích không chỉ cho chính chúng ta nhưng cũng tạo nên một loại không khí tích cực. Dĩ nhiên, tôi không chỉ nói về những thứ này từ vị trí của tôi như một người nào đó đặc biệt. Tất cả chúng ta có cùng tiềm năng – cùng sự thông minh. Điều duy nhất là chúng ta phải rèn luyện ngay từ lúc ấu thơ. Qua rèn luyện và học hỏi, chúng ta chú ý nhiều hơn đến những giá trị nội tại của chúng ta. Điều cần thiết duy nhất là chú hơn đến giá trị nội tại của ta – rồi thì ta sẽ gặt hái thêm kinh nghiệm.

Thường thường thì tôi nghe BBC rất nhiều. Họ luôn luôn nói về tiền bạc, kinh tế và chính trị. Và hãy nhìn vào thái độ chung của mọi người! Ngoại trừ có điều gì đó ta có thể thấy – hay như nghe nhạc – một số người thật sự buồn tẻ. Thế nên, cả ngày, họ xem truyền hình và nghe nhạc. Điều này, tôi cảm thấy, một dấu hiệu là chúng ta thiếu kinh nghiệm về giá trị nội tại, vơi việc nhìn vào bên trong và đơn giản là nghĩ về tâm nội tại của chúng ta. Qua cách ấy, chúng ta có thể xác nhận thêm sự tự tin và hòa bình nội tại. Quý vị biết, không cần thấy hay nghe, chỉ đơn giản qua sự suy nghĩ, chúng ta có niềm hòa bình mênh mang.

Cách đó, một cách truyền thống, người ta sống nơi vắng vẻ năm này qua năm khác – vì họ có kỷ năng – đã biết mang đến hòa bình nội tại qua việc nhìn vào bên trong. Thật sự thì có hai đặc trưng của hạnh phúc và khổ đau. Một thì lệ thuộc một cách sâu đậm vào ý thức và kinh nghiệm cảm giác – nhìn vào những thứ dễ thương hay nghe những thứ dễ chịu cho ta sự hài lòng nội tại. Nhưng loại hài lòng ấy hoàn toàn lệ thuộc vào phương tiện bên ngoài và những thứ bên ngoài.

Trình độ của khổ đau và hài lòng khác không lệ thuộc vào kinh nghiệm giác quan. Bây giờ, thí dụ, khi ta nhớ về một kinh nghiệm quá khứ nào đó, ta cảm thấy sung sướng hay khổ đau. Đó là trình độ tinh thần. Do thế giữa hai thứ này – những kinh nghiệm trình độ tinh thần và vật chất – hay kinh nghiệm trình độ giác quan – trình độ tinh thần là ưu thắng hơn. Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể khám phá rằng hạnh phúc tinh thần có thể chinh phục nổi đau đớn thân thể, nhưng khổ đau tinh thần không thể bị khuất phục bởi sự thoải mái vật chất.

Có ý nghĩa chứ? Quý vị nghĩ thế nào? Okay? Thế nên trình độ tinh thần là ưu thắng, quan trọng hơn và uy lực hơn trình độ giác quan. Nền giáo dục trong xã hội hiện đại bây giờ, tôi nghĩ, nhấn mạnh quá nhiều vào kinh nghiệm trình độ giác quan. Tôi muốn chia sẻ suy nghĩ này, mà tôi nghĩ bây giờ đã đến lúc. Vì tối thiểu ba hay bốn nghìn năm, con người chúng ta lệ thuộc vào hoàn toàn vào cầu nguyện nhằm đề có hạnh phúc hay bình an của tâm thức nhiều hơn. Thế rồi, trải qua hai thế kỷ gần đây, khoa học và kỷ thuật đã phát triển – do vậy mọi thứ mà chúng ta muốn được mang đến cho chúng ta ngay tức thì qua kỷ thuật. Cho nên một cách tổng quát chúng ta chú ý nhiều đến khoa học và kỷ thuật hơn là cầu nguyện.

Năm ngoái, ở một tiểu bang của Ấn Độ, chính quyền xây dựng một ngôi chùa Phật giáo. Vì vậy vị thủ hiến đã mời tôi đến lễ khánh thành. Rồi thì vị thủ hiến – đứng đầu chính quyền tiểu bang – đề cập trong bài diễn văn của ông rằng qua sự gia hộ của Đức Phật, tiểu bang của ông sẽ thịnh vượng một cách nhanh chóng. Rồi thì đến phiên tôi nói, và tôi biết ông rất rõ, cho nên tôi phát biểu, “Nếu tiểu bang của ngài có thể thịnh vượng một cách nhanh chóng qua sự gia hộ của Đức Phật, thế thì tiểu bang của ngài đã phải phát triển sớm hơn rất nhiều; bởi vì sự gia hộ của Đức Phật đã sẳn ở đó trong 2,500 năm qua. Nhưng sự gia hộ của Đức Phật hoàn toàn lệ thuộc vào sự làm việc của một vị thủ hiến có năng lực.”

Do thế, chính là hành động mới thật sự tạo nên sự thay đổi hiện hữu; việc cầu nguyện sẽ không thay đổi được điều gì. Vì vậy, sự quan tâm của con người trong khoa học và kỷ thuật là tự nhiên. Như tôi đã đề cập trước đây, những báo cáo của đài BBC luôn luôn nói về tiền bạc. Vào phần cuối thế kỷ 20, có hai nhân tố quan trọng – điều thứ nhất liên hệ đến những người thật sự giảu có, những người tạo nên một xã hội giàu có, vật chất. Bây giờ, họ đã bắt đầu cảm thấy chỉ đơn thuần giá trị vật chất thì không đủ. Điều gì đó thiếu vắng như một vài thí dụ mà tôi đã đề cập. Điều kia là trong khoa học, việc khám phá hệ thống thần kinh trong não bộ con người đã đến một trình độ rất sâu và phức tạp. Rồi thì người ta đã bắt đầu phát triển sự quan tâm về cảm xúc và tâm thức. Do vậy, con người chúng ta không chỉ là thân thể này mà cũng có cảm xúc.

Giá trị vật chất cung cấp sự thoải mái cho trình độ vật chất thân thể của con người, nhưng không cho trình độ cảm xúc. Thế nên, bây giờ, ngày càng nhiều những nhà khoa học nổi tiếng và được kính trọng đã tiến hành những cuộc khảo sát về cảm xúc của chúng ta, và giải quyết chúng như thế nào. Do vậy, vào cuối thế kỷ 20, đã có một sự quan tâm chân thành về giá trị nội tại của chúng ta. Cùng lúc, trong hệ thống giáo dục – đương nhiên hàng nghìn năm của lục địa châu Âu – những việc giáo dục riêng biệt đã bắt đầu. Trước thời gian này, nhà thờ chịu trách nhiệm dạy dỗ con người về đạo đức luân lý. Nó cũng chịu trách nhiệm cho gia đình, đến một mức độ nào đó. Nhưng thời gian đó bây giờ đã qua, và sự ảnh hưởng của nhà thờ và thể chế gia đình đã hơi bị suy sụp. Do vậy, trong thể chế giáo dục độc lập thôi nên mang trách nhiệm đạo đức của giáo dục con người về cả những bộ môn tri thức và đạo đức luân lý hay nhiệt tình.

Quý vị thấy đấy, có nhiều người bây giờ đang tiến hành việc nghiên cứu nghiêm túc về vấn đề làm thế nào để triền khai thực hiện một số giáo dục đạo đức về nhiệt tình trong chương trình giáo dục hiện đại. Chúng ta, những con người, qua những kinh nghiệm của chính chúng ta, bây giờ đã trở thành trường thành hơn. Vì vậy, chúng ta không chỉ chú ý hơn đến giá trị vật chất mà cũng với giá trị nội tại. Ở đây, trong sự quan tâm ấy, những truyền thống tôn giáo khác nhau có các quy tắc đặc biệt của họ. Trong lãnh vực triết lý, có hai đặc trưng chính – tôn giáo hữu thần và tôn giáo vô thần. Có những khác biệt lớn giữa hai truyền thống này. Nhưng tất cả những giáo huấn và tất cả những nhấn mạnh của các niềm tin là tầm quan trọng về từ ái, bi mẫn, tha thứ, bao dung, kỷ luật tự giác, và toại nguyện. Tôi có nhiều người bạn thuộc Ki tô giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, và Do Thái giáo – là những hành giả chân thành. Cho nên, chúng ta có cùng sự thực tập, cùng tiềm năng để chuyển hóa con người, và để biến một tâm tiêu cực thành một tâm tích cực hơn.
                                 
Khi chúng ta nói về giá trị nội tại hay đạo đứcluân lý, thì những truyền thống tôn giáo khác nhau có những quy tắc đặc biệt khác nhau. Ở đây, tôi muốn chia sẻ một việc – tín ngưỡng hay đức tin tôn giáo cá nhân của quý vị là rất quan trọng; nhưng quý vị phải thực hiện một sự phân biệt trong đức tin giữa “một chân lý, một tôn giáo” và vài chân lý và vài tôn giáo. Trong hình thức cá nhân, ý tưởng “một chân lý, một tôn giáo” là rất thích hợp. Nhưng trong quan điểm của xã hội, vài sự thật và vài tôn giáo là rất thích đáng. Cho nên, bây giờ làm thế nào để vượt thắng sự mâu thuẩn này?

Một lần nọ ở Argentina, tôi đã có một cuộc gặp gở với một số nhà khoa học và lãnh tụ tôn giáo. Một người, ông đề cập ông là một nhà vật lý, nhưng ông tin rằng ông không nên dính mắc quá với lãnh vực khoa học của riêng ông. Tôi nghĩ như vậy thật là tuyệt diệu. Tôi là một Phật tử, nhưng tôi cũng không nên quá dính mắc với Phật giáo; bởi vì quý vị thấy, nếu quý vị quá dính mắc với đức tin của quý vị, rồi thì tâm của quý vị trở thành thành kiến. Sau đó quý vị không thể thấy giá trị của những truyền thống khác. Quý vị phải trung thành với truyền thống của quý vị, nhưng quý vị cũng phải nên có một tâm cởi mở với những truyền thống khác? Quý vị nên nhìn vào những tôn giáo khác một cách cởi mở và khách quan, và rồi thì quý vị sẽ có thể thấy được giá trị. Ngày nay, nhân danh tôn giáo đôi khi có sự phân hóa và xung đột. Đó không phải là có điều gì đó sai quấy với tôn giáo, nhưng đó là bởi vì hành giả theo tôn giáo bị vướng bẩy trong dính mắc.

Tôn giáo và hòa hợp là những chí nguyện của cả đời tôi và tôi rất hạnh phúc để thấy những anh chị em tâm linh khác ở đây. Do vậy, mặc dù triết lý và truyền thống khác nhau, nhưng tất cả những hành giả chúng ta là cùng nhiệt tình giống nhau. Thế nên, xin hãy vui lòng, tiếp nhận một vai trò hiệu quả hơn về việc thúc đẩy những giá trị nội tại. Trong gần bảy tỉ con người, tôi nghĩ thật rất khó cho mọi người đều trở thành một người có đức tin tôn giáo. Đó cũng là một sự thật. Ở Ái Nhĩ Lan này, dĩ nhiên đại đa số là người Ki tô giáo La Mã, có phải không? Nhưng họ cũng có những người không tín ngưỡng. Do vậy, tôi muốn nói với những người có tín ngưỡng, là nếu quý vị tin theo tôn giáo của quý vị một cách chân thành và nghiêm túc, thì nó có mọi khả năng để cung ứng cho quý vị sự an bình nội tại. Nhưng rồi thì có những người không tín ngưỡng, những người hoàn toàn không quan tâm về tôn giáo.

Bây giờ, tôi nghĩ có ba cách để thúc đẩy những giá trị nội tại. Thứ nhất – tôn giáo hữu thần, tin tưởng Thượng Đế, hoàn toàn thần phục với Thượng Đế. Loại đức tin ấy giảm thiểu thái độ vị kỷ cực đoan. Nó thật là hữu dụng. Tôi trước nhất nêu lên cung cách của tôn giáo hữu thần để thúc đẩy những giá trị nội tại này. Thứ đến, những tôn giáo vô thần – như Phật giáo, Kỳ Na giáo, và một số những truyền thống cổ truyền của Ấn Độ[1]. Những tín đồ của các niềm tin vô thần này tin vào luật nhân quả, vốn cũng là một cung cách để thúc đẩy những giá trị nội tại này. Sau đó, có một cách thứ ba, mà tôi thường gọi là cung cách thế tục. Ở đây tôi phải nói rõ rằng khi tôi sử dụng chữ chủ nghĩa thế tục, không có nghĩa là tôi không tôn trọng tất cả các tôn giáo, thay vì thế là tôi tôn trọng tất cả mọi tôn giáo. Theo khái niệm của Ấn Độ, chủ nghĩa thế tục có nghĩa là tôn trọng mọi tôn giáo – không có quyền ưu tiên cho tôn giáo giáo này hay tôn giáo nọ, bởi vì tất cả bình đẳng. Và chúng ta phải tôn trọng những người không tôn giáo. Chúng ta phải tin rằng chúng ta cùng là những con người và nói về những giá trị nhân bản. Tôi nghĩ rằng điều đó là quan trọng. Bằng trái lại, có những người không quan tâm đến tôn giáo, thì thật sai lầm khi cho rằng họ cũng không quan tâm đến lòng từ bi yêu thương, bởi vì họ cảm thấy rằng đây là những vấn đề của tôn giáo. Điều đó hoàn toàn sai lầm. Cho dù quý vị có chấp nhận tôn giáo hay không, điều đó là tùy vào cá nhân, nhưng để chú ý hơn vào những giá trị nội tại là sự quan tâm riêng của quý vị.

Đôi  khi tôi nói đùa với mọi người rằng, “Chúng ta vị kỷ về mặt sinh học. Con người là vị kỷ. Do bởi cảm nhận vị kỷ chúng ta tồn tại. Nhưng cảm nhận vị kỷ ấy nên là vị kỷ thông tuệ thay vì vị kỷ ngờ nghệch. Chăm sóc đến sự cát tường của người khác là cách tốt nhất để thành tựu sự hạnh phúc của chính quý vị và một đời sống thành công. Vì lòng vị kỷ, nếu chúng ta chỉ nghĩ về chính mình và có một thái độ vị kỷ cực đoan, thì quý vị sẽ gặp phải rắc rối về đường máu, huyết áp, và căng thẳng, và cuối cùng bị đau tim.” (Cười)

Do vậy, trong hai chí nguyện cả đời của tôi, thứ nhất là thúc đẩy những giá trị nhân bản, và thứ hai là thúc đẩy sự hòa hợp tôn giáo. Tôi thật sự cảm kích sự hiện diện của quý vị ở đây. Cảm ơn tất cả rất nhiều. Với những điều tôi đã đề cập, nếu quý vị cảm thấy có quan tâm đến điều nào đó, thế thì, tự quý vị phải trải nghiệm và khám phá. Và rồi thì nếu quý vị cảm thấy điều gì đó đáng giá để nghĩ đến, thì quý vị phải thực hiện những thứ ấy trong cuộc sống đời thường của quý vị. Nếu quý vị cảm thấy những điều này không liên can gì nhiều đến đời sống của quý vị, vậy thì hãy quên chúng đi – không có vấn đề gì. Cảm ơn!

Ẩn Tâm Lộ
Monday, November 20, 2017



[1] Lão giáo cũng thuộc tôn giáo vô thần (tức là không có đấng tạo hóa).

Thứ Bảy, 2 tháng 12, 2017

NHỮNG TRÌNH ĐỘ KHÁC NHAU CỦA HẠNH PHÚC






Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển


Anh chị em thân mến, tôi vô cùng vui mừng hiện diện trong hội trường này một lần nữa. Lần trước có những con chim bồ câu bay qua bay lại đây đó,  nhưng hôm nay dường như dường như không còn bồ câu nữa …

Trước tiên vì đây là kỷ niệm lần thứ ba mươi của Tushita, tôi phải nói với Zopa Rinpoche và tổ chức của ngài rằng trong ba mươi năm qua ngài đã thật đã cống hiến nhiều cho Đạo Phật, và qua đó tôi nghĩ một số người nào đó đã có được sự an bình nội tại hơn. Thế nên, tôi rất cảm kích điều đó.

Năm tháng đã trôi qua từ lần nói chuyện trước của tôi trong hội trường này. Thời gian không bao giờ dừng lại; nó luôn luôn di chuyển, và không năng lực gì có thể làm nó dừng lại. Nhưng những gì chúng ta có thể làm là sử dụng thời gian một cách thích đáng. Trong ý nghĩa nào mà tôi nói là “thích đáng”? Tôi nghĩ rằng ngay cả những bông hoa này cũng có một thứ quyền nào đó để lớn mạnh, để nở  hoa, và cuối cùng cũng sản sinh ra một hạt giống, bảo đảm cho một thế hệ mới. Trên tất cả của yếu tố vật lý này, chúng ta, như những tạo vật sống động, như những chúng sanh, có yếu tố mầu nhiệm mà chúng ta gọi là “tâm” hay “thức”, cũng như những cảm xúc. Mặc dù trình độ thô của thức và cảm xúc là rất lệ thuộc vào những tế bào não bộ, nhưng bản chất tối hậu của thức vẫn là điều gì đó huyền bí đối với những người bình thường.

Rõ ràng, mọi người có một cảm giác về tự ngã – “tôi”. Trong ba nghìn năm qua hay hơn thế, con người đã cố gắng để xác định tự ngã là gì, thế nên có những quan điểm khác nhau về tự ngã. Cũng thế mọi người có kinh nghiệm về vui sướng và đớn đau, và mỗi con thú cũng có một loại kinh nghiệm tương tự. Vậy thì, với tự do của tự ngã và những kinh nghiệm của vui sướng và đớn đau, thì mỗi người khao khát nhiều vui sướng hơn, nhiều hạnh phúc hơn, và không muốn khổ đau là tự nhiên. Cảm nhận ấy là thông thường với tất cả chúng sanh, mặc cho những đặc trưng khác biệt về thân thể. Rõ ràng rằng chó, mèo, và những con thú khác, kể cả côn trùng, tất cả đều có một cảm nhận về cái tôi, về tự ngã và với một khao khát có ít khổ đau hơn.

Bây giờ, ở đây, khi tôi sử dụng chữ “hạnh phúc”, tôi đang nói về hạnh phúc trong một ý nghĩa chân thành, sự hài lòng sâu xa. Cũng có thể ngẫu nhiên là những thử thách gay go hay khó khăn có thể đem đến một sự hài lòng hơn. Tôi nghĩ rằng, ở một phạm vi nào đó, những con thú cũng có thể trải nghiệm loại hài lòng đó. Sự khác biệt giữa con người chúng ta và những con thú khác là sự thông minh lạ thường của con người, và do bởi điều đó mà chúng ta có những trình độ khác nhau của hài lòng. Đối với thú vật, tôi nghĩ sự hài lòng chính yếu đến từ những kinh nghiệm vật lý hay cảm giác. Con người chúng ta chia sẻ cùng trình độ hài lòng ấy với những con thú, nhưng do bởi sự thông minh đặc trưng, do vì con người phức tạp hơn nhiều, cho nên chúng ta có sự hài lòng rộng lớn hơn ở trình độ tinh thần. Mặc dù, ở một chừng mực nào đó, thú vật trải nghiệm hài lòng cả những trình độ cảm giác và tinh thần, nhưng con người chúng ta rõ ràng trải nghiệm sự hài lòng rộng lớn hơn ở trình độ tinh thần.

Những người như vận động viên đôi khi trải nghiệm thử thách cam go rất nhiều ở trình độ vật lý, nhưng họ có một mục tiêu nào đó và khi họ đạt được mục tiêu thì
họ có sự thỏa mãn vô cùng ở trình độ tinh thần. Do vậy, tất cả những thử thách gian khó ở trình độ vật lý mang đến một sự thỏa mãn hơn. Tôi nghĩ ngay cả chúng ta cũng có những kinh nghiệm như vậy. Thí dụ, có thể có hai bệnh nhân có cùng chứng bệnh thân thể trong cùng một phòng của một bệnh viện. Một người có năng lực tinh thần có thể nghĩ nhiều hơn về những thứ nào đó, người kia thì ít khả năng tư duy hơn chỉ quan tâm đến những trải nghiệm thân thể vật lý. Bệnh nhân có năng lực tinh thần nghèo nàn hơn sẽ có nhiều đau đớn hơn và chán chường hơn. Mặc dù trình độ đau đớn thân thể là giống nhau, nhưng trình độ tinh thần, thái độ của họ khác nhau đối với bệnh tật và đau đớn của họ, vốn đã làm nên sự khác biệt.

Dĩ nhiên, đôi khi chúng ta nói, “Hôm nay thân thể của tôi hơi không thoải mái, hơi đau nhức, nhưng tâm tư tôi rất hạnh phúc”.  Và cũng có những trường hợp ngược lại, không có vấn đề về thân thể nhưng tinh thần lại khổ sở. Rõ ràng có hai trình độ. Giữa hai thứ, thứ nào nghiêm trọng hơn? Đấy là trình độ tinh thần. Sự bệnh hoạn hay không thoải mái thân thể có thể được khuất phục bằng hạnh phúc tinh thần. Sự thỏa mãn tinh thần có thể chinh phục sự đau đớn thân thể. Trái lại, nếu một người sự khổ sở tinh thần, với việc lo lắng quá, căng thẳng quá, thì sự thoải mái thân thể không thể chinh phục được nổi băn khoăn tinh thần. Trình độ tinh thần là quan trọng hơn.

Với những trình độ khác nhau của hạnh phúc và thỏa mãn, ở trình độ thật căn bản, tôi có thể nói rằng tôi rất hạnh phúc. Vì tôi có một giấc ngủ rất tốt lành tối qua, theo sau đó là một bửa điểm tâm và một bửa trưa ngon lành, tôi rất vui sướng, rất hài lòng. Loại hạnh phúc hay hài lòng thế đó là thông thường với những thú vật khác. Khi những con thú được cho ăn uống no đủ và không có gì nguy hiểm tức thời, chúng đúng là rất bình yên. Tôi nghĩ là chúng cũng hành thiền trong cách ấy. Khi một con thỏ ngồi mà không động đậy, tôi nghĩ nó đang thiền. Và cũng giống với một con bồ câu, khi nó no đủ và không có hiểm họa gì tức thời. Dĩ nhiên, thật sự hành thiền thì phức tạp hơn thế. Chỉ nhắm mắt lại và không động đậy không phải là thiền.

Có một trình độ khác của hạnh phúc vốn không liên hệ với trình độ vật lý. Thí dụ, trong trường hợp của riêng tôi, tôi cảm thấy hạnh phúc nếu trong tháng qua hay năm rồi, tôi đã làm một việc gì đó hữu ích, chẳng hạn như tham dự những cuộc gặp gở hay tự học hỏi hay thực hành, vốn cho tôi một loại toại nguyện nào đó, hay nếu tôi đã hoàn thành ý nghĩa thật sự của cuộc sống bằng việc cống hiến một sự phụng sự nho nhỏ nào đó cho những người khác. Nếu tôi có thể mang đến một niềm hạnh phúc hay một sự thỏa mãn tạm thời nào đó cho người khác, kể cả thú vật, thì tôi cảm thấy hạnh phúc.

Cách đây mới hai ngày thôi, khi tôi đang từ sân bay về khách sạn và phải dừng lại khi đèn đỏ. Tôi đã chú ý thấy một em bé nghèo trên đường phố. Em bé ấy đang xin ăn, với một cái ly, với những người đang lái xe. May mắn thay, chiếc xe của tôi dừng lại nơi ấy. Do vì tôi đã kinh nghiệm trước đây về những sự kiện như vậy, nên tôi thường để một ít tiền trong túi, nhưng đó là ngày khác còn hôm nay tôi không có gì trong túi ngoài trừ vài viên kẹo. Tôi rồi thì phải mượn tiền từ những người cảnh sát trên xe của tôi và cho đứa bé. Một giờ trước, tôi đã nhận sửa sô cô la từ một người bạn, và tôi cũng cho đứa bé. Vào lúc ấy đúng là tôi cảm thấy hạnh phúc. Mẹ của đứa bé cùng đi với nó mang theo một đứa nhỏ hơn và đứa bé ấy đã mĩm cười thật tươi với mẹ nó. Ở thời khắc ấy, ngay khi tôi thấy thái độ vui sướng của đứa bé với mẹ nó, tôi thật sự cảm thấy một sự toại nguyện sâu xa. Cho nên, những việc nhỏ có thể mang đến một loại vui sướng nào đó, tối thiểu một khoảng thời gian ngắn.

Khi tôi quán chiếu về những thứ này, tôi thấy rằng có một trình độ khác của hạnh phúc hay hài lòng vốn không liên hệ gì đến thân thể vật lý. Dĩ nhiên, kinh nghiệm tâm linh của tôi là rất, rất giới hạn – có thể là một ít trên số không. Khi tôi quán chiếu về những thứ này, tôi thấy rằng có thể có sự toại nguyện sâu xa ở trình độ tinh thần thuần khiết không cần dựa vào những giác quan – về việc thấy, nghe, nếm hay xúc chạm vào thứ gì đó. Sự toại nguyện đó làm tôi can đảm hơn để đem những thứ thực tập này xa hơn và cũng như ao ước chia sẻ chúng với những người khác vốn rối rắm tinh thần.

Chúng ta có những kinh nghiệm hàng ngày ở những trình độ khác nhau của hạnh phúc. Tôi nghĩ rằng những người không tín ngưỡng cũng có những loại kinh nghiệm tương tự từ việc giúp đở những người khác, hay tối thiểu từ việc không làm tổn hại họ. Việc giúp đở người khác cho chúng ta một cảm giác hạnh phúc và qua những thái độ như vậy chúng ta có thêm những người bạn. Bất cứ ta đi đâu, ta cũng thấy thêm những nụ cười, thêm sự thân thiện. Nếu ta là một người vị kỷ và hẹp hòi quá mức, ta nghi ngờ những người khác, và vì tính vị kỷ của ta, ta giữ khoảng cách với người khác. Với những cảm giác như vậy, chúng ta không thể cảm thấy hạnh phúc khi ta thấy thêm những người khác; chúng ta cảm thấy không thoải mái. Như vậy thật sự là chống lại bản chất căn bản của con người. Chúng ta là những động vật xã hội.

Suốt cuộc đời của một người, một đời sống hạnh phúc lệ thuộc vào những người khác; đó là căn bản của một  đời sống hạnh phúc, thành công. Nếu chúng ta nghi ngờ và giữ khoảng cách với người khác, chúng ta trở thành bị cô lập tinh thần; rồi chúng ta cảm thấy lẻ loi, sợ hãi, và một cảm giác bất an. Thế nên, bất chấp ta là một người có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, hãy là một người trung thực, nhiệt tình; chúng ta rồi thì sẽ là một con người hạnh phúc hơn. Điều đó rất quan trọng. Chúng ta không nói ở đây về kiếp sống tới hay Đức Phật hay Thượng Đế. Đơn giản là chúng ta đang thẩm tra cách tốt nhất để đạt đến một đời sống hạnh phúc, và đây  là những thái độ nội tại, những phẩm chất nội tại này, là những nhân tố then chốt để làm một người hạnh phúc.

Vì chúng ta là những động vật xã hội, chúng ta là những bộ phận của một xã hội, và nhằm để sống một cách hạnh phúc trong xã hội ấy, điều thiết yếu là chúng ta có tâm linh cộng đồng, chúng ta chia sẻ những vấn nạn và những thứ khác, và hoàn toàn hợp tác với nhau. Cộng đồng rồi thì sẽ hạnh phúc hơn nhiều. Nhằm để có được một sự hợp tác chân thành, thì tình thân hữu là nhân tố chìa khóa, và sự tin tưởng là căn bản của tình thân hữu, không phải tiền bạc, quyền lực, học vấn, hay trí thông minh. Nếu có sự tin tưởng thật sự, thì tình thân hữu sẽ đến sau đó. Nếu chúng ta muốn tin tưởng, thì nhiệt tình và sự quan tâm chân thành cho sự cát tường của người khác, hãy chăm sóc người khác tối đa như làm cho chính mình, thì sẽ không có chỗ cho việc lừa đão người khác, cho sân hận hay ganh tỵ.

Nếu người nào đó thành công, chúng ta nên cảm thấy hạnh phúc hơn là lo lắng rằng họ đang thành công hơn chúng ta. Không có chỗ cho ganh tỵ hay cảm giác ganh đua tiêu cực. Những cảm giác ganh đua tích cực thì tốt, nhưng tiêu cực thì không. Miễn là chúng ta tôn trọng những quyền của người khác, miễn là chúng ta quan tâm chân thành cho sự cát tường của người khác, thì không có chỗ cho giết hại, trộm cắp, lừa dối, hảm hiếp, hay bắt nạt. Tất cả phẩm hạnh, tất cả những động của thân thể, lời nói, và tinh thần của chúng ta có thể là trong sạch.

Sự cởi mở và nhiệt tình chân thành là căn bản của sự tự tin, hay sức mạnh nội tại. Với chúng, chúng ta có thể đối diện với những người khác một cách trong sạch, như chúng ta không có gì để dấu diếm. Đó là căn bản của việc phát triển sự tin tưởng. Tin tưởng mang đến tình thân hữu, và tình thân hữu mang đến một cộng đồng hạnh phúc, hay ngay cả một gia đình hạnh phúc. Cho dù chúng ta có chấp nhận một niềm tin tôn giáo hay không đó là tùy vào cá nhân, đó là vấn đề của cá nhân. Nhưng những gì tôi gọi là “đạo đức thế tục” là cần thiết bởi vì chúng ta muốn một đời sống hạnh phúc. Chúng ta không đang nói về kiếp sau hay những thứ khác. Đơn giản là chúng ta muốn một cuộc sống hạnh phúc.

Ở một trình độ khác, có những người có tín ngưỡng. Tôi cảm thấy rằng đây là hai khía cạnh của tất cả những tôn giáo truyền thống quan trọng – một khía cạnh là sự thực tập và khía cạnh kia là triết lý hay giáo lý. Miễn là khía cạnh thực tập được quan tâm, tất cả những tôn giáo truyền truyền thống đều giống nhau. Tất cả những truyền thống dạy chúng ta thực tập về từ ái và bi mẫn, và với việc ấy là, tâm linh của tha thứ và bao dung, cũng như kỷ luật tự giác.

Nhằm để đề cao những sự thực tập này, những triết lý và những quan điểm khác nhau hình thành. Có hai nhóm tôn giáo – hữu thần và vô thần. Nhóm tôn giáo hữu thần tin tưởng vào một đấng tạo hóa đầy quyền năng, cho dù là Thượng Đế, Allah hay Brahma, và tận cùng, mọi thứ lệ thuộc vào đấng tạo hóa này. Tất cả mọi sự hiện hữu và đặc biệt là loài người là được tạo dựng bởi cùng một Thượng Đế.

Một lần ở Jerusalem, tôi đã gặp và thảo luận với một số người Do Thái và một số người Palestine Hồi giáo. Một giáo viên Do Thái nói đám đông của chúng tôi về một đố điều ông ta giảng dạy cho những học sinh Palestine trong lớp. Khi những học sinh Palestine thấy những người lính hay cảnh sát Do Thái ở những chốt kiểm soát, họ thường cảm thấy không vui. Thế nên ông đề nghị  rằng khi chúng gặp người nào đó làm chúng tức tối, thì chúng nên nhớ rằng con người ấy là hình ảnh của Thượng Đế. Đây là điều mà ông dạy chúng và sau này một số học sinh Palestine báo cáo rằng chúng thấy lợi lạc vô cùng trong việc nghe theo lời khuyên của ông. Ở trình độ tinh thần, những cảm giác không thoải mái của chúng lập tức giảm thiểu. Trong cách ấy, nếu chúng ta có một đức tin vô hạn trong Thượng Đế, khi chúng ta đối diện với những người làm chúng ta tức tối không thoải mái, thì chúng ta có thể nghĩ, “Con người này hình ảnh của Thượng Đế. Người ấy cũng được Thượng Đế tạo ra.” Đó là một phương pháp đầy năng lực.

Trong một trường hợp ở Hoa Kỳ hoặc Canada, tôi ngồi cùng với một người Ki tô hữu và sau khi chúng tôi đã thảo luận và trao đổi một số giá trị tâm linh, ông ấy chơi guitar và hát một số lời ca ngợi Thượng Đế. Trong lúc ấy, những giòng lệ đã rơi từ mắt ông vì đức tin vô hạn trong Thượng Đế. Thực tế, sự quy phục hoàn toàn trong Thượng Đế cũng hoạt động để làm giảm thiểu tính vị kỷ. Trong sự tiếp cận của Phật giáo, có hai loại vị tha - một, sự vị tha của đời sống quy ước thế gian và thứ kia, trình độ cứu kính của vị tha; mục đích là để giảm thiểu tính vị kỷ cực đoan. Do vậy, đức tin vô hạn trong Thượng Đế và quy phục Thượng Đế hoạt động nhiều hay ít cũng giống như vậy. Thượng Đế là từ ái vô hạn, cho nên những người có tín ngưỡng phải đi theo cách ấy. Do vậy rất tốt. Những sự thực tập này là ở trình độ tinh thần, không ở trình độ giác quan.

Tôi nghĩ rằng quý vị có thể sử dụng trình độ giác quan để bổ sung cho trình độ tinh  thần – bằng việc lắng nghe âm nhạc tôn giáo hay xem hình ảnh tôn giáo, thí dụ thế. Đối với tôi, tôi xem những bức tượng hay hình ảnh Mẹ Maria bồng Giê-Su như một đứa bé sơ sinh như một biểu tượng nổi bật của từ ái và bi mẫn. Thật là đẹp đẽ. Nhưng Giê-Su ở trên thánh giá đôi khi làm tôi cảm thấy buồn. Mẹ Maria bồng Giê-Su hài đồng liên hệ đến từ ái, bi mẫn, và ân cần. Một lần khi tôi hành hương đến một thánh địa Ki tô giáo, Fatima,ở Bồ Đào Nha. Nơi có một bức tượng nhỏ của Đức Mẹ Maria. Vài người chúng tôi ở đó, dĩ nhiên với những anh chị em Ki tô hữu địa phương. Chúng tôi ngồi lại với nhau trong một vài phút để hành thiền trong im lặng. Khi tôi và mọi người sắp rời đi, tôi quay lại và bức tượng nhỏ của Đức Mẹ Maria thật sự mĩm cười với tôi. Tôi nghĩ rằng chắc có điều gì sai sót trong tâm tôi, nhưng rồi sau này khi quán chiếu lại sự kiện, tôi chắc chắn đó là thật.

Tôi có một kinh nghiệm tương tự một lần trong một tu viện Tây Tạng ở Nam Ấn. Tôi thật sự ngưỡng mộ nhiều với Maria, cho nên tôi nghĩ Maria đã cảm kích về điều ấy, hay cho tôi một loại gia hộ đặc biệt. Hay thỉnh thoảng tôi nói đùa rằng Maria không phân biệt giữa Phật tử và không Phật tử. Thật sự Đạo Phật không có khái niệm về một đấng tạo hóa. Nói một cách nghiêm khắc, theo quan điểm của những tôn giáo hữu thần, thì Phật tử là những người không có đức tin.

Thế nào đi nữa, nếu có đức tin, những giáo thuyết nào đó được tất cả những truyền thống quan trọng giữ gìn là rất tốt vì chúng cung cấp sự hòa bình nội tại, niềm an bình ở trình độ tinh thần. Với việc liên hệ đến những truyền thống tôn giáo vô thần, có Phật giáo, Kỳ Na giáo, và phái Số Luận[1], một trường phái tư tưởng cổ khác không Phật giáo của Ấn Độ vốn rất phức tạp và đối kháng hiệu quả nhất với Phật giáo trong lãnh vực triết lý. Đó là một triết lý rất phức tạp, rất phong phú. Trong truyền thống Số Luận, có hai nhóm: một nhóm chấp nhận đấng tạo hóa, và nhóm khác không chấp nhận.

Những truyền thống vô thần không tin tưởng vào một đấng tạo hóa nhưng tin luật nhân quả - rằng mọi thứ hình thành như sự tiếp nối của những nguyên nhân và điều kiện trước đó. Không phải là mọi thứ bổng nhiên xảy ra mà không có nguyên nhân. Không có đấng tạo hóa; mọi thứ xảy ra thông qua những nguyên nhân và điều kiện của chính nó, cho nên chúng ta gọi nó là luật nhân quả. Theo đó, như tôi đã đề cập trước đây, với việc liên hệ đến bất cứ hành vi tích cực nào, “tích cực” có nghĩa là không chỉ mang đến một sự hài lòng nào đó tạm thời cho chính ta mà về lâu về dài sự hài lòng hay lợi ích, vốn đến qua việc phụng sự người khác. Việc đem đến một lợi ích nào đó cho những người khác là cách tốt nhất để đạt được sự toại nguyện về lâu về dài cho chính ta, vì đó là hành vi tích cực – nghiệp tích cực hay nghiệp lành. Nghiệp tích cực mang đến một kết quả tích cực.

Những thí dụ của nghiệp tiêu cực chẳng hạn như sát sanh, trộm cắp, tà dâm (chủ yếu là hiếp dâm), vọng ngữ, làm tổn hại đến thân thể và sở hữu vật chất của người khác, nói lời chia rẻ vốn liên hệ đến những từ ngữ chia rẻ bạn bè hay những người vốn đến với nhau. Chúng ta thường nói rằng có mười nghiệp bất thiện, và đối lập với chúng là nghiệp tích cực, chẳng hạn như tránh làm tổn hại đến người, tránh giết hại, tránh trộm cắp, và v.v…Nghiệp có nghĩa là hành động. Những hành giả tin tưởng vào luật nghiệp báo đôi khi dễ dàng quy trách nhiệm: “Ô, đấy là nghiệp! Không thể làm gì khác hơn!”  Tôi nghĩ đó là một sai lầm. Nghiệp được chúng ta tạo ra, cho nên trong trường hợp chúng ta sắp trải nghiệm kết quả của một nghiệp tiêu cực nào đó – nếu chúng ta thực hiện một nổ lực – qua nổ lực của chúng ta thì chúng ta có thể tạo nên một nghiệp tích cực mạnh mẽ hơn vốn có thể trung hòa nghiệp tiêu cực trước đó. Qua năng lực thuần túy của nghiệp tích cực, năng lực của nghiệp tiêu cực để sản sinh những hậu quả tiêu cực có thể được tiêu trừ.

Khi chúng ta phản chiếu trên những hành vi đúng đắn của chúng ta – những hành vi vốn đem đến tối thiểu một hạnh phúc nào đó, một sự hài lòng nào đó, một sự thoải mái nào đó cho người khác, kể cả những loài vật – thì chúng ta đón nhận sự hài lòng vô hạn. Điều này xảy ra ở trình độ tinh thần, và nó xảy ra phù hợp với luật nghiệp báo. Cho nên, nghiệp có thể thay đổi, bởi vì nó là do chúng ta tự tạo ra. Mọi thứ tùy thuộc vào năng lực ý chí của chúng ta – “tôi phải làm việc này, bất chấp có bao nhiêu chướng ngại đi nữa.” Mặc dù một vài năm về trước chúng ta cảm thấy thật không có thể thực hành những điều gì đó, khi thời gian trôi qua và chúng ta tự cảm thấy quen thuộc với những thứ ấy, tâm thức chúng ta dần dần tiến đến gần hơn, gần hơn, và gần hơn. Sau một vài thập niên, thì chúng ta thật sự trải nghiệm những thứ ấy.

Trong trường hợp của riêng tôi, một vài thập niên trước, có những thứ nào đó mà tôi cảm thấy thật sự khó khăn để thực hành, nhưng bây giờ, sau ba mươi hay bốn mươi năm, những thứ  như vậy đã trở nên dễ dàng hơn nhiều lắm. Đó là cùng chủ đề, cùng con người, cùng tâm thức, nhưng do bởi quen với sự thực tập, nên ngày càng gần hơn. Giống như với những phi hành gia. Họ không thể điều khiển mọi thứ ngay lập tức, nhưng qua việc rèn luyện và trở nên quen thuộc với những gì họ phải làm, cuối cùng họ có thể hành động mà không phải suy nghĩ nhiều. Bấm nút thứ nhất, nút thứ hai, nút thứ ba, đến một cách tự động.

Phật học nói rằng có một sự giới hạn đối với bất cứ sự rèn luyện thân thể vật lý nào bởi vì trình độ vật lý thô phù, cho nên có sự giới hạn. Qua rèn luyện chúng ta có thể nhảy qua  một khoảng cách hay độ cao nào đó đáng kể. Nhưng vì tâm không có hình thể, cho nên nếu chúng ta làm quen thuộc với những thứ nào đó, thì không có giới hạn. Nó có thể gia tăng, vì căn bản của nó không cứng nhắc. Với sự rèn luyện thân thể vật lý, vi căn bản của nó là cứng nhắc cụ thể, cho nên bị giới hạn. Nhưng với một phẩm chất tinh thần, một khi ta phát triển nó đến một trìn độ nào đó, miễn là chúng ta lưu ý đến sự phát triển, thì cảm giác ấy đến một cách tự động. Không cần phải nổ lực trong từng trường hợp. Nhưng với sự rèn luyện thân thể, thí dụ với những vận động viên, quý vị cần rèn luyện liên tục. Nếu không vận động trong vài tháng, thì quý vị cần luyện tập để đạt đến cùng trình độ vốn có. Phẩm chất tinh thần không giống như thế. Qua kinh nghiệm của riêng ta, nếu chúng ta chú ý, thì chúng ta nhận thấy rằng có những sự khác biệt giữa những phẩm chất của trình độ thân thể và tinh thần.

Tâm thức chúng ta vô hình, vô tướng, và trong một cách nào đó thì rất khó để kiểm soát, trong một cách khác thì rất dễ dàng để kiểm soát, để chuyển hóa. Kiểm soát hay chuyển hóa ở trình độ tinh thần hình thành một cách toàn diện qua ý chí tự nguyện., qua nhiệt tình. Không có áp lực bên ngoài có thể thay đổi tâm thức chúng ta, nó chỉ có thể thay đổi một cách tự nguyện. Thế nên, nhằm để phát triển loại nhiệt tình tự nguyện ấy, thì chúng ta phải thấy lợi ích của những cung cách tích cực nào đó của tư duy, chẳng hạn như từ ái, ân cần, tôn trọng người khác và tùy hỉ trong những hành vi tốt lành của người khác, và tính gây hại của sân hận, ganh tỵ, và những tâm tiêu cực khác. Đó là những gì mang đến lòng tin chắc: “Tôi muốn giảm thiểu những cảm xúc tiêu cực nay và tăng gia những thứ tích cực.” Sau đó chúng ta tự nguyện hiện thực nổ lực trong hành động.

Một khi chúng ta thấy nhu cầu của loại chuyển hóa như vậy, rồi thì chúng ta sẽ phát triển ý chí để thực hiện nổ lực ngày đêm, kể cả trong những giấc mơ của chúng ta. Tâm vô hình, vô tướng này, sẽ dần dần thay đổi. Những nguồn gốc của lo lắng, và rắc rối tinh thần cuối cùng sẽ được giảm thiểu, và sự hòa bình của tâm sẽ gia tăng bất chấp những thứ xảy ra chung quanh chúng ta. Không năng lực ngoại tại nào có thể hủy hoại sự hòa bình nội tại của chúng ta. Sự hòa bình nội tại của chúng ta sẽ bị hủy hoại tức thời bởi những kẻ thù nội tại của chúng ta – sân hận, thù oán, ganh tỵ. Đây là những kẻ thù thật sự. Những kẻ thù ngoại tại, bất chấp mạnh mẽ thế  nào đi nữa, chỉ có thể tàn phá thân thể vật chất của chúng ta mà thôi, chứ không thể phá hoại sự hòa bình bên trong của chúng ta. Một khi sự sân hận , thù oán, và ganh tỵ phát triển, nó liền tức thời phá hoại sự hòa bình nội tại của chúng ta. Cho nên, kẻ thù không phải ở bên ngoài; kẻ thù ở bên trong đây.

Một trong những người bạn Hồi giáo của tôi nói rằng “thánh chiến (jihad)” có nghĩa thật sự là để chiến đấu với những cảm xúc phiền não tai hại – là thứ mà Phật giáo gọi là kẻ thù nội tại. Đó là một ý nghĩa của thánh chiến - jihad. Cho nên tất cả những sự thực tập này thật sự đòi hỏi khái niệm jihad. Nhưng có một số người  có những ấn tượng khác về ý nghĩa của nó.

Theo quan điểm của một hành giả Phật giáo, càng đạt được kinh nghiệm nội tại, thì tâm thức của hành giả càng ổn định. Dĩ nhiên, như tôi đã đề cập trước đây, chính tôi là một hành giả rất nghèo nàn, nhưng ngay cả từ một kinh nghiệm nho nhỏ của tôi thì tôi có thể quả quyết với quý vị rằng qua rèn luyện tâm thức, thì tâm thức của chúng ta trở nên ổn định hơn và trải nghiệm ít căng thẳng và ít sợ hãi hơn, là điều vốn mang đến một sự tự tin hơn. Cũng thế, với một tâm tĩnh lặng thì chúng ta có thể thấy thực tại một cách rõ ràng hơn. Khi tâm thức chúng ta bị khống chế bởi sợ hãi, hay sân hận, thì chúng ta không thể thấy thực tại một cách chính xác. Khi tâm chúng ta quá bị quấy rây, thì chúng ta không thể sử dụng trí thông minh của con người một cách thích đáng. Tôi nghĩ rằng lòng nhiệt tình lập tức mang đến sức mạnh nội tại và cũng có thể cho phép tâm thức chúng ta thể hiện chức năng một cách bình thường hơn, một cách khách quan hơn. Trong cách ấy, chúng ta đạt đến một trình độ khác của tâm thức hòa bình, một trình độ khác của hạnh phúc và toại nguyện.

Nếu chúng ta rèn luyện trong cách này, thì ngay cả khi chúng ta được sanh ra như một con người rất bình thường, thì có khả năng vào thời điểm lâm chung, thể trạng tinh thần của chúng ta sẽ tiến bộ hơn. Rồi thì một trăm phần trăm bảo đảm rằng kiếp sống tới của chúng ta sẽ là một kiếp sống rất tích cực. Đời nối tiếp đời cách ấy. Người Phật tử tin tưởng rằng trong kiếp sống vô tận sẽ ngày càng tốt đẹp hơn, tốt đẹp hơn, tốt đẹp hơn lên, …, cho đến khi mục tiêu cuối cùng của Quả Phật được đạt đến. Hạnh phúc tối đa là ở Quả Phật.

Trong Bát Nhã Tâm Kinh, câu thần chú: Tadyatha Gate Gate Paragate Parasamgate Buddhi Soha (yết đế yết đế ba la yết đế ba la tăng yết đế bồ đề tát bà ha). Dĩ nhiên, tôi không thể phát âm một cách chính xác. Khi những học giả thật sự của Sanskrit tán tụng bằng Sanskrit, thì thật đặc biệt. Với ngôn ngữ Tây Tạng, thì tôi không biết. Thế nào đi nữa, ý nghĩa của  tadyatha là “nó là như vậy”, gate gate có nghĩa là “đi, đi”, paragate nghĩa là “vượt qua”, parasamgate nghĩa là “vượt qua một hoàn hảo”, và bodhi nghĩa là “xin cho hạt giống của Bồ đề, hay giác ngộ, được gieo trồng.”

Thường thường, tôi nói đùa với mọi người rằng Gate Gate Paragate Parasamgate Buddhi Soha có hai trình độ - một là vật lý và thứ khác là tinh thần. Ở trình độ vật lý, không cần nổ lực, chúng ta đi, đi, đi vượt qua, có nghĩa là chúng ta đi từ thiếu niên để là thanh niên và rồi trung niên và là người lão niên. Rồi thì với bodhi svaha, chúng ta cuối cùng đi đến nghĩa trang. Trong một trường hợp, hoặc là ở châu Âu hay châu Mỹ, chúng ta phải đi ngang qua một nghĩa trang gần đấy. Sau đó, trong buổi nói chuyện của tôi, tôi đề cập rằng kinh nghiệm của việc đi ngang qua một nghĩa trang, và rằng đó là nơi đến cuối cùng của chúng ta. Ở trình độ vật lý, không cần phải nổ lực, nó xảy ra một cách tự động.

Vị trí của tôi bây giờ là parasamgate. Vì bây giờ tôi đã bảy mươi sáu tuổi, gate gateparagate đã qua rồi, và bây giờ nó là parasamgate, với nghĩa trang chỉ như điểm đến cuối cùng. Hay có lẽ thân thể tôi sẽ được đặt trong một chorten hay tháp mộ. Tôi không biết. Nhưng thế nào đi nữa, đó là điểm đến cuối cùng ở trình độ vật chất. Do thế, nó sẽ đi theo cách ấy không cần nổ lực.

Bây giờ, chỗ chúng ta cần sử dụng nổ lực là ở trình độ tinh thần của Gate Gate Paragate Parasamgate Buddhi Soha. Hai chữ đầu, gate gate, liên hệ đến những con đường của tích lũy (tư lương đạo) và chuẩn bị (gia hạnh đạo). Paragate có nghĩa có nghĩa đạt đến trình độ thứ ba, con đường thấy đạo (kiến đạo). Và theo những giai tầng của Bồ tát thừa, địa thứ nhất được đạt tới, tiếp theo là những địa còn lại của thập địa. Sau đó đến bodhi svaha – Quả Phật. Như tôi đề cập trước đây, tôi là một hành giả nhỏ của Phật giáo, và tôi đang thật sự thực hiện nổ lực của việc đi trên lối của gate gate. Đôi khi tôi cảm thấy một số dấu hiệu của cửa thứ nhất gate, mặc dù tôi chưa đạt đến đấy, nhưng tôi đã có một số dấu hiệu về nó. Cho nên, nếu tôi có thêm thời gian để thực hiện nổ lực, tôi hoàn toàn chắc chắn rằng tôi sẽ đạt đến trình độ thứ nhất của gate.

Một cách căn bản thì tất cả chúng ta đều giống nhau, đều là những con người. Tinh thần, cảm xúc và thân thể đều giống nhau. Thế rồi, từ quan điểm của Phật giáo, mọi người đều có Phật tánh, hay Tathagatagarbha. Phật tánh, hay hạt giống Phật là ở đấy. Miễn là linh quang ở đấy, thì hạt giống Phật ở đấy. Linh quang là nguồn gốc căn bản, nhân căn bản của thức. Miễn là thức ở đấy, nguồn gốc căn bản của thức phải ở đấy. Thứ ấy, nói một cách đại khái, là Phật tánh. Đấy là năng lực để trở thành toàn tri toàn giác. Từ đấy, Giác Ngộ hình thành. Những viên đá, vốn không có tâm thức, nên không có Phật tánh, vì vậy chúng không có năng lực ấy. Chúng sanh, kể cả thú vật, có thức. Ngay cả thức của một con thú là rất giới hạn, thức vẫn ở đấy. Do vậy, vì theo quan điểm của Phật giáo, tất cả chúng sanh có Phật tánh, nên chúng sanh luôn luôn có khả năng để thành tựu Quả Phật.

Vì thế, với việc quan tâm đến những trình độ khác nhau của hạnh phúc, những người không tín ngưỡng đạt đến nó trên căn bản thế tục. Đấy là một. Thứ đến, đối với những người có tín ngưỡng, thì có đức tin hữu thần và đức tin vô thần tôn giáo. Phật giáo là một đức tin trong tôn giáo vô thần và trong Phật giáo cũng có truyền thống Pali và Sanskrit.

Vậy thì, như tôi thường làm, tôi muốn có một vài câu hỏi. Nhưng tôi muốn nói rõ rằng chúng phải là những câu hỏi đầy đủ ý nghĩa, chứ không là những câu hỏi ngớ ngẫn. Những câu hỏi ngớ ngẫn làm mất thời gian. Và nếu có quá nhiều câu hỏi ngớ ngẫn thì tôi có thể bực bội, và sau đó quý vị sẽ phải nghe những lời gắt gỏng. Đó cũng sẽ là một minh chứng cho sự giận dỗi của Đạt Lai Lạt Ma.

HỎI & ĐÁP

HỎI: Làm sao một đứa trẻ thấy hạnh phúc khi thấy cha mẹ bị đau khổ vì cơn bệnh giai đoạn cuối?

ĐÁP: Tôi hoàn toàn chia sẻ sự quan tâm của bạn. Nó làm tôi nghĩ về lúc mẹ tôi qua đời, và một cách đặc biệt khi vị trưởng lão giáo thọ của tôi viên tịch. Khi vị trưởng lão giáo thọ, người trao cho tôi cụ túc giới qua đời, tôi đã thật sự cảm thấy như tôi mất đi một tảng đá vững vàng mà tôi học hỏi trên ấy. Vào lúc ngài qua đời, tôi không còn tảng đá vững vàng ấy nữa. Nhưng rồi thì tôi đã nhớ rằng vị giáo thọ quá cố của tôi thường đọc những vần kệ của Tịch Thiên để khuyến khích – khi chúng ta đang đi ngang qua một số khó khăn, thì chúng ta phải nghĩ về thực tế của những khó khăn đó. Nếu có khả năng vượt thắng chúng, thế thì không cần phải lo lắng; và nếu không có cách để vượt thắng loại thảm họa đó, thế thì lo lắng cũng không ích gì. Đó là sự tiếp cận rất thực tế.

Cho nên, khi bạn đang đối diện một hoàn cảnh mà cha mẹ bạn có một cơn bệnh giai đoạn cuối – một loại bệnh tật rất nghiêm trọng hay đau đớn – xin hảy thực hiện mọi nổ lực để vượt thắng nó, để chửa trị nó. Nếu không thể chửa trị, thế săn sóc chính bạn nhiều hơn. Và ngay cả nếu sự kiện trở nên tệ hại nhất diễn ra, thì quý vị nên hướng đời sống của quý vị trong một cung cách đầy đủ ý nghĩa hơn vì thế cha mẹ quá cố của quý vị sẽ cảm thấy hạnh phúc. Nếu quý vị lo lắng quá nhiều, và trong trường hợp tệ hại nhất có một sự suy nhược thần kinh do quá nhiều băn khoăn, tôi nghĩ những người bạn của quý vị sẽ cảm thấy rất buồn trong trường hợp của cha mẹ quá cố của quý vị. Sau khi vị giáo thọ của tôi viên tịch, tôi tự nói với mình, “Bây giờ tôi phải nhận lấy toàn bộ trách nhiệm để hoàn thành mong ước của vị giáo thọ quá cố của tôi.” Do vậy, thảm kịch ấy biến thành việc đạt đến sức mạnh hơn, hăng hái hơn.

Nếu quý vị là người không tín ngưỡng, hãy nghĩ về việc làm những thứ nào đấy trong kiếp sống này. Nếu là một người có tín ngưỡng, tin vào những kiếp sống sau, thì quý vị có thể trì tụng những mật ngôn nào đó và hồi hướng cho cha mẹ của quý vị. Và nếu quý vị là một người có tín ngưỡng trong một tôn giáo hữu thần, hãy nhớ đến Thượng Đế và hãy nhớ rằng phải có một ý nghĩa nào đó trong hoàn cảnh đau buồn về cha mẹ của quý vị. Chỉ có Thượng Đế mới biết ý nghĩa ấy, quý vị thì không. Nếu quý vị tin vào luật nhân quả nghiệp báo, thì hãy nghĩ về nghiệp quả của chính cha mẹ quý vị và về vấn đề hệ quả đặc thù này đã đơm hoa kết trái như thế nào từ những nghiệp nhân trước đó của họ.

HỎI: Làm sao chúng ta yêu thương những người không thương yêu chúng ta?

ĐÁP: Tình thương của chúng ta thường là tình thương định kiến. Tình thương ấy thật sự là dính mắc, và như thế ấy thì không lành mạnh. Dính mắc thì đồng hành sâu đậm với thù oán và ganh tỵ. Những gì chúng ta cần là tình yêu và lòng thương mến không thành kiến, tình yêu và lòng thương mến không điều kiện hay từ ái và bi mẫn. Nếu lý do ta yêu một người nào đó vì người ấy yêu ta hay tốt với ta, đó là tình yêu định kiến. Bất kể dù người nào đó có tích cực với chúng ta hay không, thì người ấy vẫn xứng đáng với lòng thương mến bi mẫn của chúng ta, sự quan tâm của chúng ta. Điều này kể cả kẻ thù ta. Miễn là thái độ này được quan tâm, thì người nào đó có thể tiêu cực với ta, nhưng ta không nghĩ về điều ấy; ta nghĩ rằng kẻ thù ta cũng là một chúng sanh và cũng muốn hạnh phúc và có mọi quyền lợi để vượt thắng khổ đau. Trong cách này, chúng ta phát triển một cảm nhận quan tâm chân thành cho sự cát tường của họ. Đó là lòng thương mến không định kiến, lòng bi mẫn thật sự. Nhằm để phát triển điều này, chúng ta phải thực tập một sự buông xả căn bản, rồi thì bình đẳng hóa chính ta với mọi chúng sanh khác, cả bạn bè và kẻ thù. Từ việc thấy rằng mọi người đều có cùng quyền lợi để vượt thắng khổ đau, sau đó chúng ta phát triển một cảm nhận quan tâm. Đó là tình yêu không định kiến; đó là lòng từ ái thật sự.

Nếu chúng ta có thể thực tập được như vậy, thế thì hãy thực tập; bằng nếu không, vậy thì hãy thực hiện một sự chuẩn bị nào đó cho việc trả thù – Tôi không đùa! Trả thù đem đến một sự cáu kỉnh hơn, tình trạng tinh thần rồi loạn hơn. Nếu thất bại và đáp ứng một cách mạnh mẽ, thì ta thậm chí lo lắng hơn, lo lắng vô tận. Ngay từ lúc đầu, hãy tự cởi mở chính mình, “Bất chấp họ làm gì.” Dĩ nhiên, nếu họ cố gắng tổn hại thân thể ta, thì hãy cẩn thận. Ta phải thật thận trọng, bằng không thì ta sẽ nghĩ hay nói điều gì đó tiêu cực. Chỉ nghĩ, “Không hề gì, không hề gì.”

Thí dụ, khi một số viên chức Trung Cộng diễn ta tôi như một con quỷ, nó làm tôi bật cười. Đôi khi tôi nói đùa với một số bạn bè người Hoa của tôi rằng họ càng lập đi lập lại sự phỉ báng ấy, thì cặp sừng của quỷ của tôi sẽ càng mọc dài hơn. Đúng là ngớ ngẫn, có phải không? Cho nên, hãy nghĩ trong cách ấy, xem nhẹ nó và sẽ không có gì rắc rối.

HỎI: Vai trò của nghiệp và cảm xúc trong việc theo đuổi hạnh phúc là thế nào?

ĐÁP: Tôi nghĩ sự khao khát quá mạnh có thể cũng là một loại cảm xúc trong cảm giác, nhưng có một vai trò quan trọng diễn ra bởi những cảm xúc tích cực mạnh mẽ, chẳng hạn như lòng bi mẫn rộng lớn, một cảm nhận của việc quan tâm vì sự  khổ đau của người khác. Khi quý vị nghĩ về khổ đau của người khác, nước mắt tuôn rơi vì có quá nhiều cảm giác, nhưng cảm xúc đó là cảm xúc rất tích cực, đem đến sự nhiệt tình hơn để phụng sự người khác, để làm việc gì đó cho mọi người. Loại cảm xúc đó mang đến quyết tâm, như được biểu lộ trong lời cầu nguyện ưa thích của tôi – “Khi nào không gian còn tồn tại, khi nào chúng sanh đau khổ còn hiện hữu, Tôi nguyện cũng sẽ hiện diện để phụng sự tất cả.” Loại quyết tâm đó đầy năng lực được đem đến bởi những cảm xúc như vậy.

Thế nên, cảm xúc không nhất thiết là tiêu cực. Tôi nghĩ có hai loại cảm xúc. Một loại cảm xúc đến một cách tự động và tổng quát là tiêu cực. Một loại cảm xúc khác đến qua tu  tập, qua lý trí và việc làm cho quen thuộc, và thường là tích cực.

HỎI: Cha mẹ giúp cho con cái của họ hạnh phúc như thế nào?

ĐÁP: Tôi nghĩ tùy thuộc vào lứa tuổi của con cái. Trong kinh nghiệm của tôi, khi tôi còn rất trẻ, tôi nhớ rằng bất cứ khi nào một người mới đến lãnh sự quán Ấn Độ thuộc Anh ở Lhasa thì luôn luôn mang đến đồ chơi cho tôi. Khi tôi nhận tin tức rằng có một người mới đến và muốn có một cuộc gặp gở chính thức, thì tôi luôn  luôn hào hứng về loại đồ chơi nào mà người ấy sẽ tặng tôi. Thế nên, vào lúc rất trẻ, đó là những gì quan trọng. Khi con trẻ hơi lớn lên, tôi nghĩ là chúng cần những sự hướng dẫn hay gương mẫu đầy đủ ý nghĩa. Ở tất cả mọi lứa tuổi, đó là tình cảm tối đa của quý vị, sự yêu thương tối đa của quý vị cho con cái đó là rất quan trọng. Tôi nghĩ khí cụ mạnh mẽ nhất trong việc thay đổi tâm tư người khác là tình yêu thương, chứ không phải tiền bạc. Tình cảm chân thành và một cảm nhận quan tâm chân thành thật sự tác động vào tâm tư và cảm xúc của con trẻ.

HỎI: Đức Thánh Thiện nói rằng người ta nên không sợ hãi, nhưng nếu cha mẹ ngài đặt sự sợ hãi vào tâm tư ngài, thì ngài không thể chống lại họ.

ĐÁP: Việc đó tùy thuộc vào động cơ, và cũng như mục đích. Nếu con cái lười biếng, nếu quý vị có một mục đích tốt lành và chân thành quan tâm đến tương lai cát tường của chúng, thì đôi khi quý vị có thể sử dụng một chút áp lực hăm dọa. Những thứ như vậy là tích cực. Thật không tốt nếu xem thường con cái và trêu chọc hay mĩa mai chúng. Quý vị phải tôn trọng con cái quý vị và cho chúng tình cảm tối đa.

Ở đây tôi muốn kể cho quý vị nghe về câu chuyện của tôi. Khi tôi 7 hoặc 8 tuổi, tôi đã bắt đầu học thuộc lòng một số kinh luận căn bản. Vì tâm thức tôi khá sắc bén, nên tôi có thể học thuộc lòng một cách dễ dàng, nhưng do bởi thế, tôi cũng rất lười biếng. Vào lúc đó, anh trai tôi và tôi đang học chung với nhau, nên giáo thọ của tôi có hai cây roi, một cây màu vàng và một cây bình thường. Cây roi bình thường để dành cho anh tôi, và cây roi vàng được coi là cây roi thánh thiện dành cho học trò thánh thiện – Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tôi biết là cây roi thánh thiện không sinh ra cái đau thánh thiện, chỉ là cái đau bình thường. Vì sợ, tôi phải hơi nổ lực trong học tập. Nhưng sau này, dĩ nhiên, giáo thọ của tôi rất ân cần. Một số nổ lực của tôi là vì sợ; nhưng nổ lực của tôi cũng vì sự cảm kích sâu xa cảm nhận quan tâm của các ngài cho tôi và lòng từ ái của các ngài thì vô cùng, vô cùng mạnh mẽ hơn.

Như tôi đã đề cập trước đây, khi giáo thọ của tôi qua đời, tôi thật sự cảm thấy một sự mất mát vô tận, đó là cho chính người đã giữ cây roi. Nên đó là thí dụ. Quý vị phải cho tình cảm tối đa và thỉnh thoảng, nếu cần thiết, thì quý vị có thể sử dụng những phương pháp hay lời nói hơi nghiêm khắc, nhưng quý vị làm như thế là vì cảm nhận quan tâm chân thành và vì một mục tiêu tốt lành. Quý vị phải hành động phù hợp với những hoàn cảnh.

HỎI: Hạnh phúc có thể giảm thiểu sự thối nát trong xã hội và quốc gia không?

ĐÁP: Vâng, hạnh phúc chân thật trên căn bản của trung thực và sự thật. Con người cảm nhận rằng quý vị hài lòng với tiền bạc của quý vị qua những hành động không căn cứ trên đạo đức là sai. Điều đó rất rất là nông cạn; họ thật sự ngu ngơ và thiển cận. Những con người – cho dù là những lãnh tụ tôn giáo, thương gia, chính trị gia, và từ bất cứ chuyên môn khác nào – là thật sự yếu kém sâu bên trong, và cuộc sống của họ thì đầy ảo giác hay nhận định sai lầm. Những người như vậy không thể hành động một cách lương thiện thật sự vì họ có điều gì đấy che dấu; do bởi chính điều đó, một cảm giác không thoải mái luôn luôn ở sâu bên trong ấy. Làm sao họ lương thiện thật sự? Họ không thể. Như tôi đã đề cập trước đây, họ không thể xây dựng một sự tin tưởng thật sự, và cuối cùng họ sẽ trở thành thấp hèn.

HỎI: Vai trò của âm nhạc trong việc đem hòa bình đến thế giới là gì?

ĐÁP: Tôi phải nói là rất giới hạn. Dĩ nhiên, như tôi đã đề cập trước đây, một sự hài lòng nào đó đến từ trình độ giác quan. Những thứ như âm nhạc và phong cảnh xinh đẹp có thể đem đến một sự hòa bình nào đó của tâm thức, nhưng loại hòa bình đó của tâm thức hoàn toàn lệ thuộc vào những nhân tố bên ngoài, và khi những nhân tố đó không còn nữa, thì quý vị thấy khó để vượt qua thời gian. Đôi khi tôi cảm thấy hơi thương hại cho những một số nhóm du lịch. Một số người già có nhiều tiền, nhưng vì họ đã về hưu và không có một loại việc làm đặc thù, họ thiếu một loại năng lực suy nghĩ. Để trải nghiệm một sự hài lòng nào đó thì hoàn toàn vào trình độ giác quan. Ngoại trừ họ có một nghề nghiệp nào đó ờ trình độ giác quan ngoại tại, bằng không thì họ không thể vượt qua thời gian, họ chán chường. Nếu quý vị có một số kinh nghiệm niềm hòa bình của tâm thức và toại nguyện ở trình độ tinh thần, thì quý vị không cần lệ thuộc vào năng lực của cảm giác. Quý vị không cần đi đây đi đó. Quý vị có thể ở trong một nơi vắng vẻ tịch mịch; quý vị đạt được một sự hòa bình tối đa của tâm thức.

Trong một trường hợp tôi viếng thăm một đại tu viện ở Barcelona, ở Tây Ban Nha. Một tu sĩ Thiên Chúa giáo đã đến gặp tôi và người tổ chức đã nói với tôi rằng tu sĩ ấy đã ở một tịch mịch  trong ngọn núi ở sau tu viện đó. Ông ở đấy trong một thời gian dài như vậy, năm năm với hầu như không có thức ăn nóng. Khi chúng tôi gặp nhau, tôi nói với ông, “Tôi được nghe rằng ông đã ở trong núi năm năm như một ẩn sĩ. Ông đã thực tập gì trong núi?” Ông nói với tôi, “Tôi hành thiền về yêu thương.” Khi ông đề cập đến việc đó, trong đôi mắt ông có một phản chiếu nào đó về sự ấm áp của ông. Tôi dâng trào một sự tôn kính sâu xa và ngưỡng mộ đối với ông.

Một điều nữa là tiếng Anh của ông ngay cả tệ hơn tôi. Tôi nói chuyện trìu mến trong vốn tiếng Anh nghèo nàn của tôi với ông vì tiếng Anh của tôi hơi khá hơn ông. Chúng tôi đã có một cuộc trao đổi rất ý nghĩa. Đó là một tu sĩ tuyệt vời.

Một số hành giả Phật giáo, kể cả một số Tây Tạng, cũng thích sống trong những nơi thật đơn độc, cô lập vì những nơi ấy cho họ cơ hội để sử dụng những năng lực con người của họ ở trình độ tinh thần, đem đến cho họ niềm hòa bình nội tại và sức mạnh nội tại bao la. Những người như vậy không bao giờ dựa vào âm nhạc hay những thứ ngoại tại khác. Dĩ nhiên, việc nghe nhạc có thể bổ sung cho sự thực tập tâm linh khác. Đôi khi chúng ta có thể chỉ nghĩ về ý nghĩa của một sự cầu nguyện nào đó, và vào lúc khác nghe cùng lời cầu nguyện ấy với một âm điệu nào đó có thể tác động chúng ta hơn. Tất cả mọi truyền thống tôn giáo phối hợp những lời cầu nguyện nào đó với âm nhạc. Tôi nghĩ vấn đề chính là việc thực tập ở trình độ tinh thần, nhưng quý vị có thể xem những thứ gì đó, nghe nhạc, và thỉnh thoảng cũng có một miếng bánh thánh bỏ vào trong miệng quý vị. Cho nên tất cả ba giác quan này có thể hoạt động với nhau như một sự bổ sung cho việc thực tập tâm linh.

HỎI: Ai sẽ có được năng lực để yêu thương và tình cảm hơn  – đàn ông hay đàn bà?

ĐÁP: Tôi nghĩ một cách tổng quát, qua những nhân tố sinh học, đàn bà có năng lực hơn với việc liên hệ đến một ý nghĩa của việc quan tâm cho sự cát tường của người khác. Trong một cuộc thảo luận của tôi với những nhà khoa học, họ cho rằng khi hai người – một nam và một nữ - nhìn vào một người nào đó đang trải nghiệm đau đớn, sự đáp ứng của người nữ là mạnh hơn người nam. Cũng thế, theo sinh học, với người nam, một khi người ấy hưởng thụ thế là xong, nhưng người nữ phải mang đứa bé trong nhiều tháng, và rồi sau khi sanh người ấy phải thực hiện một nổ lực vô cùng để chăm sóc đứa trẻ.

Tôi thường kể câu chuyện về điều gì đó tôi đã đề cập trên một chuyến bay dài cả đêm từ Nhật Bản đến Hoa Kỳ. Cùng với những hành khách, tôi để ý một cặp vợ chồng trẻ với hai đứa bé. Một đứa thì rất nhỏ còn đứa kia đã biết đi. Lúc khởi đầu, đứa lớn chạy tới chạy lui, gây rối một chút, nhưng chẳng hề gì. Lúc đầu, cả cha mẹ cùng để ý đến hai đứa bé. Sau đó, khoảng nửa đêm, người cha rơi vào giấc ngủ. Người mẹ vẫn quan tâm đến hai đứa bé đó. Bà chăm sóc chúng, đặc biệt đứa nhỏ, cả đêm. Đến lúc chúng tôi gần đến San Francisco hay Los Angeles, mắt của bà mẹ rất đỏ. Đó là một biểu hiện rõ ràng. Cả cha mẹ đều yêu thương thật sự con cái họ, nhưng có một sự giới hạn nào đó với việc người cha chăm sóc chúng, trái lại bà mẹ chăm sóc chúng cả đêm.

Và nhìn vào những con chó và chim. Con mẹ liên tục chăm sóc những đứa con cho đến khi chúng có thể sống độc lập. Dĩ nhiên, con chó cha chỉ thụ hưởng, thế là xong; chó cha không làm gì cả. Nhưng một số con chim ở với nhau cho đến khi con nó có thể sống độc lập, với cả cha và mẹ chim mớm mồi cho chúng. Và rồi thì hơn nữa, bà mẹ có những cảm xúc mạnh mẽ hơn nhiều đối với con cái; đó là nhân tố sinh học, vì chúng ta cần điều đó. Đời sống của chúng ta bắt đầu và chúng ta sống còn với tình cảm của bà mẹ chúng ta và sửa của bà mẹ chúng ta. Tôi thường nói với mọi người, có vài trăm người ở trong tòa nhà này, thí dụ thế, và trong khi chúng ta có thể giống nhau bên ngoài, thì tôi nghĩ rằng những người nào nhận tối đa tình cảm từ bà mẹ của họ khi họ còn bé bỏng thì cảm thấy an toàn hơn, tĩnh lặng hơn sâu bên trong. Những người nào mất mẹ, không nhận tình cảm từ bà mẹ hay ngay cả bị họ ngược đãi, mặc dù họ bên ngoài giống nhau và có thể có một đời sống thành công, nhưng sâu bên trong có một số niềm đau nào đó, một dấu vết nào của kinh nghiệm đó.

Do vậy, theo sinh học thì người nữ là động lòng thương hơn. Khi tôi có một buổi nói chuyện công cộng ở Hoa Kỳ, Âu châu, hay ở Ấn Độ, tôi thường đề cập rằng ở thời kỳ ban sơ, loài người chúng ta không có khái niệm về giới lãnh đạo. Mọi người bình đẳng và làm việc với nhau. Một số nhà triết học Mác xít nói rằng chủ nghĩa Mác xít nguyên thủy – mọi người bình đẳng, làm việc với nhau và chia sẻ bất cứ thứ gì họ có. Rồi cuối cùng khái niệm về giới lãnh đạo hình thành. Vào lúc ấy giáo dục không có vai trò gì, vì thế sức mạnh thân thể là nhân tố chính trong việc trở thành lãnh đạo. Vì thế là sự bắt đầu cho sự thống trị của nam giới. Giống như thế với những thú vật khác, như loài khỉ. Vì nam giới mạnh mẽ hơn, họ trở thành trội hơn.

Rồi cuối cùng, giáo dục đi đến đóng một vai trò quan trọng hơn trong xã hội, vì thế làm cho bình đẳng hơn. Trong những năm gần đây, những thế kỷ gần đây, có một số nữ lãnh đạo rất nổi tiếng, ảnh hưởng. Điều đó cũng xảy ra trong xứ sở này, và Golda Meir ở DoThái là một lãnh đạo rất mạnh, có phải thế không? Điều đó mang lại một chút bình đẳng hơn. Bây giờ đã đến lúc khi chỉ có giáo dục thôi thì không đủ. Chúng ta cần có một nổ lực đặc biệt để thúc đẩy và gia tăng lòng yêu thương của loài người. Bây giờ, ở đây,  người nữ nên có một vai trò năng động hơn. Đó là quan điểm tổng quát của tôi. Khi đi đến trình độ của gia đình cá thể. Tôi không biết. Đôi khi, nếu người nữ có năng lực hơn, thì người cha trở thành giống như nô lệ. Và thỉnh thoảng, bà mẹ trở thành hầu như giống nô lệ. Việc đó khác nhau tùy từng trường hợp. Nhưng thật sự, như tôi đề cập trước đây, những mối quan hệ nên căn cứ trên lòng từ ái chân thành, lòng bi mẫn chân thành; chúng không nên căn cứ chỉ trên sự hấp dẫn thân thể, nhưng trên sự tôn trọng sâu xa cho người kia. Vì vậy, khi chúng ta có những cảm giác chân thành của sự gần gũi và quan tâm, thì trên căn bản của sự tôn trọng sâu xa, cha mẹ tự nhiên trở thành bình đẳng. Điều này luôn  luôn xảy ra.

HỎI: Khi ngài thấy người nào đó làm tổn hại hay phá hoại môi trường của ngài, ngài tiếp cận với họ như thế nào? Ngài phản ứng như thế nào với hoàn cảnh đó?

ĐÁP: Việc này có liên hệ đến một gia đình hay một tổ chức nào không? Ngày nay, một số tổ chức, kể cả chính quyền đôi khi hành động phù hợp với chương trình của họ. Điều này có thể ứng dụng một cách đặc thù vào những quốc gia như T C, nơi không có bộ máy tư pháp độc lập. Nhưng nó cũng áp dụng tới những cơ sở tư nhân và đến những gia đình riêng lẻ.

Nếu có thể thì thật hợp lý để  nói chuyện với người đã tạo nên vấn nạn môi trường ấy. Chăm sóc môi trường là sự quan tâm của mỗi người, và tất cả chúng ta cũng có thể thực hiện những sự đóng góp nho nhỏ đến sinh quyển địa cầu. Thí dụ trong trường hợp của riêng tôi, tôi không bao giờ dùng bồn tắm trong khách sạn trong vài thập niên trở lại đây; tôi chỉ tắm bằng vòi bông sen. Tôi xem đó như một đóng góp nhỏ mà tôi làm để tiết kiệm nước. Dĩ nhiên, chỉ một người làm thì không có nhiều hiệu quả. Và bất cứ khi nào tôi rời phòng, tôi luôn luôn tắt hết mọi đèn điện. Những loại hành vi như vậy về phần của một cá nhân không có ý nghĩa gì nhiều, nhưng tối thiểu về tinh thần tôi đã làm một đóng góp nào đó. Một gia đình riêng có thể chăm sóc môi trường bằng việc thu nhặt rác rưởi. Trong những cung cách nho nhỏ thì họ có thể làm một sự đóng góp, một cách gián tiếp làm giảm thiểu sự hâm nóng địa cầu. Thế nên, trao đổi với láng giềng của quý vị, và nếu không có kết quả gì, thì hãy mời thêm nhiều người tham gia thực hiện một nổ lực nào đó. Nếu như vậy mà thất bại, thế thì tôi không biết – có lẽ chiến đấu!

HỎI: Chúng ta thật sự hạnh phúc như thế nào trong những hoàn cảnh bất lợi hay thù địch?

ĐÁP: Điều này hoàn toàn tùy thuộc vào sức mạnh nội tại của quý vị. Ở những giai đoạn đầu thì điều này là khó khăn ngay cả cho một hành giả, nhưng chúng ta phải thực hiện một nổ lực. Cuối cùng quý vị có năng lực bên trong mạnh mẽ hơn, và sau đó thì trở nên dễ dàng hơn nhiều để đối phó với những rắc rối như vậy. Tự nhiên mà nói, những sự thực hành như vậy không phải dễ dàng. Quý vị cần nổ lực liên tục, với quyết tâm – “Tôi phải thực hành điều này. Tôi phải gia tăng lòng từ bi của tôi.” Bao dung hay nhẫn nại, rồi thì sẽ tự động đến. Đây là một sự tiếp cận thực tiển với nhẫn nại và lợi ích vô vàn trong việc mang nó đến. Tôi nghĩ chúng ta thường quên lãng những yếu tố căn bản này của tâm thức và một cảm xúc phiền não nào đó trở nên ưu thế.

Những người nào tin tưởng trong giáo Pháp hay một số truyền thống tâm linh nào khác, như tôi đã đề cập trước đây – cho dù là tôn giáo hữu thần hay vô thần – thì quý vị nên chân thành và nghiêm túc với tín ngưỡng của quý vị. Điều đó là quan trọng. Đức tin không chỉ là việc làm trên đầu môi. Tín ngưỡng phải trở thành một bộ phận trong đời sống hàng ngày của quý vị, rồi thì giá trị chân thật của nó sẽ đến. Những người nào không tin tưởng nhiều trong những truyền thống như vậy có thể nghĩ đơn giản, “Tôi muốn một đời sống hạnh phúc, và việc đạt được một đời sống hạnh phúc tùy thuộc vào sức mạnh nội tại của tôi, và điều đó tùy thuộc vào quan điểm của tôi, thái độ của tôi.”

Do vậy, trước nhất, hãy cố gắng chú ý nhiều hơn vào những giá trị nội tại của quý vị, bên cạnh việc chỉ nghĩ. Điều đó là rất nông cạn. Ngày nay, khi tôi nghe đài BBC hay xem truyền hình, chúng luôn nói về đô la, đô la, kinh tế, kinh tế. Tôi nghĩ việc đó thật sự ảnh hưởng tâm thức chúng ta trở thành ô nhiễm hơn. Từ những nền văn minh Ai Cập, Trung Hoa, và thung lũng Ấn Hà, thì tôi nghĩ nền văn minh thung lũng Ấn Hà thì có những quan điểm triết lý phức tạp hơn nhiều. Ấn Độ, theo truyền thống thì có một nền khoa học nội tại rất mạnh, rất giàu. Khoa học hiện đại bây giờ đang chú ý ngày càng nhiều hơn và khao khát có thêm những thông tin về tâm thức và vấn đề đối phó với những cảm xúc từ di sản văn hóa truyền thống của Ấn Độ. Thật rất, rất quan trọng để nhận ra kho tàng cổ truyền của Ấn Độ và không quên những giá trị nội tại này. Dĩ nhiên, thật rất quan trọng để học hỏi vấn đề phát triển vật chất như thế nào qua khoa học và kỷ thuật hiện đại, do thế giáo dục liên hệ đến những thứ này cũng rất rất quan trọng; nhưng trong lúc đó, quý vị cũng phải biết những giá trị truyền thống. Những người Tây Tạng chúng tôi cũng phải học hỏi về giáo dục hiện đại, nhưng những giá trị truyền thống của chúng tôi vẫn liên hệ rất nhiều. Đó là những gì mà tôi muốn chia sẻ cùng quý vị. Cảm ơn.

BÌNH LUẬN: Thưa Đức Thánh Thiện, có một thông điệp này kính gửi đến ngài. Tôi trích: “Thưa Đức Thánh Thiện, tôi đến từ Lhasa, và tôi nghĩ rằng tôi có thể đại diện cho hầu hết những học trò Tây Tạng. Tôi muốn nói là chúng tôi yêu mến ngài, chúng tôi tôn kính ngài, chúng tôi sẽ đi theo ngài. Ngài là vị thầy vĩ đại trong tâm chúng tôi, trong tim chúng tôi.”

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Cảm ơn.

Nguyên tác: Different Levels of Happiness, từ quyển The Big Book of Happiness

Ẩn Tâm Lộ, Monday, August 14, 2017




[1] Kỳ na giáo: Jainism, Sankhya: Số Luận; có thể kể thêm Lão giáo hay Đạo giáo cũng thuộc loại này với lý thuyết: người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên.

Thứ Hai, 27 tháng 11, 2017

BIỂU HIỆN CỦA THỨC



Nguyên tác: The Spectrum of Conciousness
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển



Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau. Khoa học nhận thức nói đến sự  nghiên cứu này một cách chính yếu trên căn bản của những cấu trúc thần kinh sinh học và những chức năng hóa sinh của não bộ, trong khi sự khảo sát của Phật giáo về thức hoạt động một cách chính yếu từ những gì được gọi là nhận thức ngôi thứ nhất. Đối thoại giữa những trường phái này có thể mở ra một cung cách mới trong việc khảo sát [tâm] thức. Sự tiếp cận cốt lõi của tâm lý học Phật giáo liên hệ một sự phối hợp của thiền quán chiếu, vốn có thể được diễn tả như một sự thẩm tra phương pháp học; một sự quán sát thực nghiệm của động cơ, như được biểu hiện qua các cảm xúc, những mô thức suy nghĩ, và thái độ, và sự phân tích bình luận triết lý.

Xu hướng chính của tâm lý học Phật giáo không phải là để lập danh mục phẩm chất của tâm hay ngay cả để diễn tả vấn đề tâm thể hiện chức năng như thế nào; đúng hơn sự quan tâm căn bản của nó là để vượt thắng khổ đau, đặc biệt những, phiền não tâm lý và cảm xúc và để tẩy trừ những phiền não đó. Trong những kinh luận cổ điển, có ba nguyên tắc cho nghiên cứu về [tâm]  thức. A Tỳ Đạt Ma tập trung trên sự thẩm nghiệm những tiến trình nhân quả của hàng trăm thể trạng tinh thần và cảm xúc, kinh nghiệm chủ quan của chúng ta về những thể trạng này, và những ảnh hưởng của chúng trên các tư tưởng và thái độ của chúng ta. Nó liên hệ với những điều có thể được gọi là tâm lý học (bao gồm tâm lý trị liệu) và hiện tượng học. Thứ đến, sự phân tích nhận thức luận của Phật giáo về bản chất và những đặc trưng của nhận thức, kiến thức, và mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư tưởng nhằm để phát triển một khuôn mẫu nhận thức cho việc thấu hiểu những khía cạnh đa dạng của thức – các tư tưởng, cảm xúc và v.v… Cuối cùng, Kim Cương thừa sử dụng quán tưởng, các tư tưởng, những cảm xúc và những kỷ năng vật lý đa dạng (chẳng hạn như tập luyện yoga) trong một nổ lực hành thiền mãnh liệt để làm nổi bật những cung cách lành mạnh của biểu hiện và để chuyển hóa những phiền não của tâm. Nó quan tâm không phải với sự khám phá một thực thể độc lập thường hằng được gọi là “tâm” nhưng đúng hơn với sự thấu hiểu về bản chất của tâm bình thường và để chuyển hóa hiệu quả nó vào trong một thể trạng không phiền não và trong sáng hơn.

Sự tiếp cận với việc nghiên cứu thức căn cứ trên sự thấu hiểu về những chức năng và các thể thức của tâm và những động lực nhân quả của chúng – và đây là một lãnh vực chính xác nơi mà sự thấu hiểu Phật giáo có thể gặp nhau một cách dễ dàng với sự tiếp cận khoa học bởi vì, giống như khoa học, hầu hết những sự khảo sát [tâm] thức của Phật giáo là căn cứ trên thực nghiệm.

Tôi đã bắt đầu học về những khía cạnh đa dạng của tâm như một bộ phận nhập môn đến điều được gọi là lo rig, có nghĩa đen là “tỉnh thức và thông minh”. Chủ đề này được dạy để rèn luyện tu sĩ – thông thường ở tuổi chín hoặc mười, sau khi thọ giới sa di lúc sáu hay tám tuổi. Trước tiên, vị giáo thọ của tôi – chính yếu  là Ling Rinpoche vào lúc ấy – cho tôi học thuộc lòng một bản định nghĩa về bản chất của những sự kiện tinh thần và những đặc trưng chính của nhận thức cùng các trạng thái cảm xúc. Mặc dù tôi không có một ý kiến rõ ràng về ý nghĩa nó là gì lúc đó, nhưng tôi biết rằng định nghĩa tiêu chuẩn về tinh thần, là đối kháng với vật chất, được đặc trưng với tính chủ quan. Những đối tượng vật chất một cách đặc trưng có một chiều kích không gian và có thể được thấy như cản trở (hay che khuất) những đối tượng vật chất khác. Những hiện tượng tinh thần, trái lại, phải được hiểu theo quan điểm của sự liên tục tạm thời và bản chất dựa trên kinh nghiệm của chúng.

Tôi đã mất rất nhiều thời gian trong việc học hỏi những khác biệt giữa kinh nghiệm cảm giác và kinh nghiệm tinh thần. Một định nghĩa chuẩn mực của kinh nghiệm cảm giác là sự phụ thuộc của nó  trên một cơ quan cảm giác đặc thù – mắt, tai, mũi, và v.v… Có một thừa nhận rõ ràng rằng mỗi nhận thức cảm giác là khác biệt với thứ khác và có một phạm trù duy nhất, vì thế mắt không thể nghe được âm thanh hay tai [không] nếm vị và v.v… Như được lưu ý bởi những tư tưởng gia tiền phong của Phật giáo, kể cả Thế Thân và Pháp Xứng, thì có những khác biệt nổi bật  trong những tiến trình không-thời gian liên hệ trong sự nhận biết các đối tượng trong các phạm trù đa dạng của cảm giác. Nhận thức thị giác (nhãn thức) về một đối tượng có thể xảy ra từ một khoảng cách xa, việc nghe âm thanh (nhĩ thức) từ một khoảng cách gần hơn, trong khi sự trải nghiệm về một mùi hương (tỉ thức) đặc thù xảy ra trong một phạm vi ngắn hơn nữa. Trái lại, hai giác quan còn lại – làm sinh khởi kinh nghiệm vị giác (thiệt thức) và xúc giác (thân thức) – cần tiếp xúc trực tiếp giữa những giác quan và những đối tượng tương ứng của chúng. Trong ngôn ngữ khoa học, tôi nghĩ, những sự khác biệt này sẽ được giải thích theo quan điểm của các cung cách mà những thực thể vật chất chẳng hạn như photon (lượng tử ánh sáng) và những sóng âm thanh phát ra từ các đối tượng kích thích các giác quan.

Định rõ đặc trưng kinh nghiệm tinh thần là không có cơ quan cảm giác vật chất. Vì kinh nghiệm tinh thần, vốn nó tác động năng lực thứ sáu (ý thức) cộng với năm thức giác quan trước (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, và thân thức). Giáo lý nhà Phật về tâm không có gì mật nhiệm hay huyền bí. Thay vì thế, nếu ta nhìn vào một bông hoa xinh đẹp; nhận thức tức thời về bông hoa, với tất cả những sự phong phú, màu sắc, và dáng vẻ của nó, thuộc về kinh nghiệm thị giác (nhãn thức). Nếu ta tiếp tục nhìn, ở đó sinh khởi sự lập lại liên tục cùng nhận thức thị giác. Tuy nhiên, thời điểm tư tưởng xảy ra trong khi ta đang nhìn vào bông hoa – thí dụ thế, trong việc tập trung vào một khía cạnh hay phẩm chất đặc trưng, chẳng hạn như chiều sâu của màu sắc hay đường cong của cánh hoa – thì ta đã vận hành thức tinh thần (ý thức). Thức tinh thần bao gồm toàn bộ thực thể của những gì chúng ta gọi là những tiến trình tinh thần – kể cả, nhận biết, phân biệt, xu hướng, ý chí, suy nghĩ nhận thức và trừu tượng, và những giấc mơ.

Những kinh nghiệm cảm giác là tức thời và bao phủ toàn bộ. Chúng ta ngửi bông hồng, chúng ta thấy màu sắc, chúng ta cảm thấy sự đau nhói từ cái gai mà không có bất cứ tư tưởng ý thức nào thâm nhập trong trải nghiệm. Tư tưởng, trái lại, hoạt động có tuyển chọn, đôi khi ngay cả dường như là tùy tiện , bằng việc trở lại một khía cạnh hay đặc điểm đặc thù của một đối tượng nào đó. Trong khi nghiên cứu hoa hồng, chúng ta có thể thấy những tư tưởng tự động xâm nhập vào tâm chúng ta: mùi hương là mùi chanh mơ hồ và sảng khoái, màu hồng nhạt dỗ dành, mũi gai sắc bén thì phải tránh. Thêm nữa, tri giác nhận thức liên hệ tới đối tượng qua một trung gian chẳng hạn như ngôn ngữ hay các khái niệm. Khi chúng ta thấy một bông hoa xinh đẹp rực rở, giống như hoa đổ quyên màu đỏ bao phủ những núi đồi chung quanh Dharamsala vào mùa xuân, thì kinh nghiệm là phong phú nhưng chưa phân hóa (thuần nhãn thức); nhưng khi những tư tưởng sinh khởi về những đặc trưng của bông hoa, chẳng hạn như “nó thơm phức” hay “các cánh hoa của nó lớn” (ý thức), thế thì kinh nghiệm là hẹp lại hơn nhiều nhưng tập trung hơn.

Một sự tương đồng tuyệt vời, thường với những học sinh trẻ, đang cầm một chung trà. Kinh nghiệm cảm giác (thân thức) như đang xúc chạm chung trà với tay không, trong khi tư tưởng (ý thức) như xúc chạm chung trà với tay mang bao tay vải. Sự khác biệt phẩm chất giữa hai kinh nghiệm này là tuyệt đối. Bao tay vải là một ẩn dụ cho những khái niệm và ngôn ngữ là thứ đến giữa người quán sát và đối tượng khi tư tưởng vận hành (ý thức).

Có một sự phân tích triết lý bao quát về vai trò của ngôn ngữ trong mối quan hệ đến tư tưởng trong nhận thức luận Phật giáo, vốn phát triển nhiều quan điểm của nó trong phạm vi rộng rãi hơn của sự tranh luận triết lý với nhiều trường phái tư tưởng không Phật giáo. Hai trong số những nhân vật ảnh hưởng nhất là những luận sư Ấn Độ Trần Na và Pháp Xứng trong thế kỷ thứ 5 và 7. Trong sự tu học của tôi về logic và nhận thức luận, tôi phải học thuộc lòng những tiết đoạn quan trọng trong tác phẩm nổi tiếng của Pháp Xứng là Thích Lượng Luận (Pramanavartika), một luận điển triết lý được sáng tác bằng thi kệ và được chú giải vì sự sâu sắc và tính văn học của nó. Tôi thấy rằng triết lý phương Tây đã quan tâm rất nhiều với mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư tưởng, và với câu hỏi căn bản về vấn đề có phải tư tưởng là phụ thuộc hoàn toàn trên ngôn ngữ hay không. Những tư tưởng gia Phật giáo, trong khi công nhận sự nối kết bản chất giữa hai thứ trong loài người, thì cũng chấp nhận về nguyên tắc tiềm năng của tư tưởng không lời – thí dụ, thú vật được tin là có những tư tưởng gián tiếp bằng những khái niệm (tuy nhiên thô sơ) chứ không phải là ngôn ngữ trong ý nghĩa rằng chúng ta hiểu nó.

Tôi đã ngạc nhiên khi đi đến khám phá ra rằng trong tâm lý học Tây phương hiện đại không có khái niệm phát triển về một năng lực tinh thần không cảm giác. Tôi biết rằng với nhiều người thành ngữ “giác quan thứ sáu[1]” có ý nghĩa như một loại năng lực tâm lý tinh thần huyền bí. Nhưng đối với những người Phật tử thì nó liên hệ đến thế giới tinh thần, kể cả các tư tưởng, cảm xúc, xu hướng, và nhận. Trong các khái niệm tư tưởng của phương Tây như linh hồn trong những người hữu thần hay tự ngã cho những nhà phân tâm học, nhằm lấp bớt một khoảng cách nào đó, nhưng điều dường như đang vắng mặt là sự nhìn nhận một năng lực đặc biệt vốn thấy rõ những hiện tượng tinh thần. Những hiện tượng như vậy kể cả một phạm vi rộng rãi của những kinh nghiệm tri giác, chẳng hạn như ký ức và hồi tưởng (thuộc ý thức) là những thứ vốn theo quan điểm của Phật giáo, là khác biệt phẩm chất với những kinh nghiệm cảm giác (5 thức cảm giác của mắt, tai, mũi, lưỡi và thân).

Cho rằng kiểu mẫu thần kinh sinh học của nhận thức và tri giác là một giải thích về những hiện tượng này theo quan điểm của những tiến trình hóa học và sinh học của não bộ. Tôi có thể thấy tại sao theo quan điểm của khoa học thì không có những phân biệt phẩm chất cần được vạch ra giữa giữa những tiến trình cảm giác (của 5 thức trước) và nhận thức (của ý thứcthứ 6). Hóa ra rằng bộ phận của não phối hợp nhất những nhận thức thị giác cũng là bộ phận năng động nhất trong hình dung suy tưởng. Não bộ được quan tâm cho đến nay, dường như rằng không có gì khác biệt cho dù ta đang nhìn điều gì đó bằng mắt thịt hay với “mắt tâm”. Theo quan điểm của Đạo Phật, vấn đề là sự giải thích thần kinh sinh học này đã bỏ đi một thành phần quan trọng nhất của những sự kiện tinh thần này – là kinh nghiệm chủ quan.

Mô hình nhận thức luận cổ điển của Đạo Phật không cho một chú ý nổi bật nào với não bộ trong hoạt động tri giác, chẳng hạn như nhận thức. Dù rằng sự nhấn mạnh triết lý Phật giáo vào chủ trương thực nghiệm và dù rằng khoa học y học Ấn Độ cổ điển đã có kiến thức tinh vi về giải phẩu học, thì thật ngạc nhiên rằng không có thừa nhận rõ ràng về vai trò của não bộ như cấu trúc cốt lõi tổ chức trong thân thể, đặc biệt trong mối quan hệ đến nhận thức và tri giác. Tuy nhiên Phật giáo Kim Cương thừa, nói về cơ quan truyền dẫn tọa lạc trên đỉnh đầu như vị trí của năng lượng quy định kinh nghiệm chủ quan.

Trong việc nghiên cứu về nhận thức và tri giác, tôi có thể hình dung một sự hiệp tác đầy thành tựu giữa Phật giáo và khoa học thần kinh hiện đại. Phật giáo phải học hỏi nhiều về những cơ chế của não bộ liên hệ đến các sự kiện tinh thần – những tiến trình thuộc hệ thần kinh và hóa học, sự hình thành những nối kết thuộc kỳ tiếp hợp (trong phân chia tế bào), thể tương liên giữa những trạng thái tri giác và các khu vực đặc biệt trong não bộ. Thêm nữa, có nhiều giá trị trong kiến thức y học và dược liệu sinh học hiện tại đang được phát sinh về vấn đề não bộ thể hiện chức năng như thế nào với những phần đã bị tổn thương và vấn đề những căn bản nào đó đem lại những tình trạng đặc thù nào đó.

 Tại một hội nghị Tâm Thức và Đời Sống, Francisco Varela đã chỉ cho tôi thấy một loạt những hình ảnh MRI (điện tâm đồ), những mặt cắt xuyên ngang của một não bộ với những phần nổi sáng trong những màu sắc khác nhau để biểu thị hoạt động tương quan của thần kinh và hóa học có liên quan với những kinh nghiệm cảm giác đa dạng. Những hình ảnh này là các kết quả của những thí nghiệm mà trong ấy đối tượng được đặt với các kích thích cảm giác khác biệt (chẳng hạn như âm nhạc hay các đối tượng thị giác) và sau đó ghi chép lại trong những đáp ứng khác nhau (chẳng hạn như với đôi mắt nhắm hay mở).Thật rất đáng thuyết phục để thấy sự tương quan gần gũi giữa những thay đổi có thể lượng định, có thể thấy được trong não bộ và việc xảy ra về những nhận thức cảm giác đặc thù. Chính mức độ này của sự chính xác và những tiềm năng sinh khởi từ việc sử dụng những khí cụ như vậy đã đánh dấu tiềm năng phi thường của hoạt động khoa học. Khi sự khảo sát nghiêm nhặt ngôi thứ ba được phối hợp với sự khảo sát chặc chẽ ngôi thứ nhất, thì chúng ta có thể hy vọng có một phương pháp toàn diện hơn về việc nghiên cứu [tâm] thức.

Theo nhận thức luận Phật giáo, thì có một giới hạn được xây dựng  trong năng lực của tâm con người cho việc xác minh những đối tượng của nó. Giới hạn này ở mức độ tạm thời như một tâm bình thường, không được rèn luyện trong việc áp dụng cẩn trọng của sự chú ý thiền quán, chỉ có thể xác định một sự kiện đã tồn tại trong một khoảng thời gian nào đó – theo truyền thống khoảng thời gian ngắn của một búng tay hay chớp mắt[2]. Những sự kiện ngắn hơn điều này có thể được nhận thức nhưng không thể được ghi nhận toàn bộ như là đối tượng của sự hồi tưởng ý thức. Một đặc trưng xa hơn của nhận thức con người là nhu cầu của chúng ta tùy vào những sự vật và sự kiện chỉ trong mô thức của bản chất cấu thành của chúng. Thí dụ, nếu tôi nhìn vào một cái chậu, tôi thấy một hình dáng phồng ra với đáy bằng phẳng và những trang trí. Tôi không thấy những nguyên tử và phân tử cá biệt hay không gian giữa chúng, là những thứ vốn cùng tạo nên hiện tượng phức hợp mà tôi quán sát. Cho nên khi một nhận thức xảy ra, đó không phải là một trường hợp phản ánh giản dị trong tâm của những gì bên ngoài mà thay vì thế là một tiến trình phức tạp của cấu tạo [nhận thức] đã xảy ra để làm cho có ý nghĩa những gì một cách chuyên môn vốn thực chất có vô số thông tin.

Tiến trình của sự xây dựng có khả năng sáng tạo cũng vận hành trên trình độ tạm thời. Trong việc nhận thức một sự kiện thì ngay cả cho thời gian của một cái búng tay, vốn trong thực tế được hình thành của một chuỗi vô số thời gian ngắn ngủi, chúng ta kết  hợp tất cả “thời khắc” này vào một sự tương tục. Một sự tương tự cho điều này, được trích dẫn bởi Pháp Xứng và được dạy cho những học sinh cao đẳng tu viện Tây Tạng, là vào buổi tối ta quay một ngọn đuốc cháy sáng quanh một trục, thì người quán sát sẽ thấy một vòng tròn lửa. Nếu chúng ta quán sát một cách tận tường “vòng” [lửa] thì ta sẽ thấy nó được làm nên bởi một chuỗi của những thời điểm tỏa sáng. Nghĩ lại thời thơ ấu của tôi, khi tôi say mê với cơ cấu của máy chiếu phim, thì tôi nhận ra rằng hình ảnh chuyển động của một bộ phim trên màn ảnh trong thực tế được làm bởi một chuỗi những tấm ảnh. Tuy nhiên chúng ta nhận thức bộ phim như vận hành uyển chuyển.

Các câu hỏi về vấn đề những nhận thức của chúng ta sinh khởi như thế nào và đặc biệt, mối quan hệ giữa một sự kiện nhận thức và các đối tượng của nó là gì đã là những lãnh vực quan tâm chính đối với những triết gia Ấn Độ và Tây Tạng. Đã có một sự tranh luận lâu dài trong tư tưởng nhận thức luận Phật giáo về vấn đề sự nhận thức của một đối tượng nào đó sinh khởi như thế nào. Ba luận điểm chính đã xuất hiện. Một trường phái giữ quan điểm rằng giống như có nhiều màu sắc trên một đối tượng màu sắc phức tạp, thì cũng có những nhận thức đa dạng trong kinh nghiệm thị giác nhìn vào nó. Một vị thế thứ hai cho rằng nhận thức được so sánh tuyệt diệu với việc bóc tách một quả trứng nấu chín. Khi quả trứng được cắt làm đôi, thì có hai phần giống nhau như đúc; giống như thế, khi các giác quan đi đến tiếp xúc với những đối tượng tương ứng, thì một sự kiện nhận thức đơn độc tách thành một nửa đối tượng và một nửa chủ thể. Vị thế thứ ba, một truyền thống quan điểm tương thích với các tư tưởng gia Tây Tạng, lập luận rằng bất chấp những khía cạnh đa dạng trong một đối tượng nào đó của nhận thức, thì kinh nghiệm nhận thức thật sự là một sự kiện đơn khối nhất thể.

Một lãnh vực quan trọng của thảo luận trong nhận thức luận Phật giáo là sự phân tích các nhận thức đúng và sai. Đối với Phật giáo, sự  nhận biết, hay tuệ giác đúng đắn, vốn mang đến sự giải thoát khỏi những tình trạng vọng tưởng của tâm, vì thế sự chú ý chặc chẽ được phát sinh cho sự thấu hiểu về điều gì cấu thành nhận thức. Sự khác biệt của thấu hiểu đúng và thấu hiểu sai vì thế trở thành một quan tâm trọng yếu. Có một sự phân tích rộng rãi về tất cả những loại kinh nghiệm nhận thức và những  nguyên nhân khác nhau cho các lỗi lầm nhận thức. Nếu chúng ta đứng trên một chiếc thuyền xuôi theo một dòng sông và nhận thức cây cối trên bờ đang di chuyển, thì vọng tưởng thuộc về mắt nằm trong điều kiện ngoại tại là chiếc thuyền đang di chuyển. Nếu một người đau khổ vì bệnh vàng da, thì người ấy có thể thấy ngay cả một đối tượng trắng như vỏ ốc là vàng; ở đây điều kiện cho vọng tưởng là nội tại. Nếu ta thấy một cuộn dây trong bùng trong một vùng được biết là có những con rắn độc, thì ta có thể nhận thức nó như một con rắn; trong trường hợp này điều kiện của vọng tưởng là cả nội tại (đó là, nổi sợ về rắn) và ngoại tại (đó là, trong vị thế của cuộn dây và khó thấy).

Đây là tất cả những trường hợp nơi mà vọng tưởng bị điều kiện hóa bởi chính những hoàn cảnh tức thời. Nhưng có một phạm trù toàn diện của những điều kiện phức tạp hơn cho những tri giác sai lầm, chẳng hạn như niềm tin trong một bản ngã tự quản hay niềm tin rằng tự ngã hay những hiện tượng duyên sanh khác là thường hằng. Trong thời gian trải nghiệm, không có cách nào để phân biệt giữa nhận thức chính xác và lừa dối. Chỉ là trong nhận thức muộn màng mà chúng ta mới có thể có sự phân biệt này. Chính là trong ảnh hưởng của những kinh nghiệm theo sau phát sinh từ từ những tri giác như vậy đã giúp để xác định rõ chúng là hữu hiệu hay vô giá trị. Thật lý thú để biết khoa học thần kinh có thể phân biệt giữa những nhận thức chính xác và không chính xác ở trình độ của hoạt động não không.

Trong vài trường hợp tôi đã hỏi câu hỏi này với những nhà khoa học thần kinh. Cho đến bây giờ, theo tôi biết, thì không có thí nghiệm nào đã được tiến hành. Trên trình độ hiện tượng luận, thì chúng ta có thể thấy rõ tiến trình mà qua đó tâm chúng ta có thể xuyên qua những sự chuyển tiếp giữa vài trạng thái khác biệt, trong vài trường hợp đối kháng hoàn toàn. Thí dụ, chúng ta hỏi có phải Neil Armstrong đã đặt chân lên mặt trăng hay sao hỏa năm 1969 hay không. Một người có thể bắt đầu bằng việc tin tưởng mãnh liệt rằng đó là sao hỏa. Sau đó, như kết quả của việc nghe về sự thăm dò sao hỏa mới đây nhất, thì người ấy có thể bắt đầu dao động về sự tự tin ấy. Một khi đã trở thành rõ ràng rằng không có phi vụ có người lái nào đến sao hỏa đã xảy ra, thì người ấy dựa vào kết luận đúng đắn rằng Neil Armstrong đã hạ cánh trên mặt trăng. Cuối cùng như một kết quả của việc nói chuyện với những ngươi khác và biết được những tin tức về phi vụ Apollo, cá nhân có thể đi đến câu trả lời đúng đắn về câu hỏi ban đầu. Trong trường hợp như thế này, chúng ta có thể thấy rằng tâm đi từ tình trạng hoàn toàn sai lầm qua một tình trạng dao động đến sự tin tưởng chính xác và cuối cùng là tri thức đúng thật.

Tổng quát thì truyền thống nhận thức luận Tây Tạng liệt kê một loại hình bảy lớp trạng thái tinh thần: nhận thức trực tiếp, tri giác suy luận, tri giác hệ quả, công nhận đúng đắn, nhận thức vô ý, nghi ngờ, và tri giác biến dạng. Những tu sĩ trẻ phải học các định nghĩa về bảy trạng thái tinh thần này và những mối liên hệ hổ tương của chúng; lợi ích của việc học tập những trạng thái này là bằng việc hiểu biết chúng thì chúng ta có thể trở thành nhạy cảm hơn đến thứ lớp và sự phức tạp của kinh nghiệm chủ quan của con người. Quen thuộc với những trạng thái tinh thần này làm cho việc nghiên cứu về [tâm] thức dễ dàng quản lý hơn.

Rất lâu về sau này trong việc học tập của tôi mới đi đến việc học tâm lý học Phật giáo như nó được hệ thống bởi những đại tư tưởng gia Ấn Độ là Vô Trước và Thế Thân. Ngày nay nhiều tác phẩm của các ngài này bằng Phạn ngữ đã bị biệt tích, nhưng cảm ơn đến những nổ lực lớn của các thế hệ dịch giả Tây Tạng và những người cộng tác Ấn Độ, chúng đã tồn tại trong Tạng ngữ. Theo một số người bạn Ấn Độ của tôi, những người kiệt xuất về Phạn ngữ, thì những bản dịch Tạng ngữ về những tác phẩm cổ điển này thật là chính xác mà chúng ta hầu như có thể hình dung tác phẩm bằng Phạn ngữ có thể như thế nào. Tác phẩm A Tỳ Đạt Ma Tập Luận của Vô Trước và A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận của em trai ngài (tác phẩm sau thì còn bằng Phạn ngữ, trong khi chỉ những đoạn của tác phẩm trước là còn trong Phạn ngữ) đã trở thành những sách vở dạy những nguyên tắc phổ cập về tâm lý học Phật giáo ở Tây Tạng từ thời kỳ rất sớm. Chúng được thừa nhận như những tài liệu gốc về điều được Phật giáo Tây Tạng liên hệ như lớp “Thượng A Tỳ Đạt Ma” của Vô Trước và lớp “Hạ A Tỳ Đạt Ma” của Thế Thân. Chính là trên căn bản của những tác phẩm này mà kiến thức của tôi về bản chất, phân loại, và những chức năng của các tiến trình tinh thần được đặt nền tảng một cách chính yếu.

Phạn ngữ và Tạng ngữ cổ điển đều không có chữ cho “cảm xúc” (emotion) như khái niệm được sử dụng trong các ngôn ngữ và văn hóa hiện đại. Điều này không nói rằng ý tưởng cảm xúc không tồn tại, cũng không hàm ý rằng người Ấn và Tạng không trải nghiệm các cảm xúc. Giống như người phương Tây cảm thấy vui mừng với các tin tức tốt lành, buồn thảm với sự mất mát một người thân, và sợ hãi khi đối diện với nguy hiểm, người Ấn và Tạng cũng vậy. Có lẽ các lý do cho sự vắng mặt một chữ như vậy phải liên hệ với lịch sử tư tưởng triết lý và phân tích tâm lý ở Ấn Độ và Tây Tạng. Tâm lý học Phật giáo không nêu lên sự phân biệt các trạng thái tri giác với cảm xúc trong cách mà tư tưởng phương Tây phân biệt các đam mê với lý trí. Theo nhận thức Phật giáo, các sự phân biệt giữa các trạng thái phiền não và không phiền não là quan trọng hơn sự khác biệt giữa tri giác và các cảm xúc. Sự thông minh sâu sắc phối hợp một cách chặc chẽ với lý trí, có thể là phiền não (thí dụ, trong dự định có thủ đoạn của một hành động giết người), trái lại một thể trạng nhiệt tình của tâm, chẳng hạn như việc tràn ngập từ bi, có thể là một thể trạng đạo đức không phiền não cao độ. Hơn thế nữa, các cảm xúc cả vui mừng và buồn thảm có thể là phiền não hay không phiền não, tàn phá hay lợi lạc, thì lệ thuộc vào phạm trù mà trong ấy chúng sinh khởi.

Trong tâm lý học Phật giáo, một phân biệt quan trọng được vạch ra giữa [tâm] thức và các phương thức đa dạng mà qua đó nó biểu hiện, cho điều mà thuật ngữ  chuyên môn trong Phật giáo là “những nhân tố tinh thần[3]”. Thí dụ khi tôi thấy một người bạn từ xa, thì nó hình thành một tiết đoạn tinh thần vốn có thể hiện hữu như một sự kiện đơn độc nhưng trong thực tế đó là một tiến trình phức tạp cao độ. Có 5 nhân tố phổ quát với tất cả các sự kiện tinh thần – cảm nhận (trong trường hợp này là vui vẻ), tri giác, thâm nhập, chú ý, và tiếp xúc với đối tượng. Trong thí dụ này, có thể có những nhân tố bổ sung, chẳng hạn như sự dính mắc, hay hứng thú, tùy thuộc vào  trạng thái tâm của người quán sát ngay lúc đó và đối tượng đặc thù hiện hữu Những nhân tố tinh thần nên được thấy không như những thực thể riêng biệt thay vì thế như những khía cạnh khác nhau, hay những tiến trình khác nhau, của cùng tiết đoạn tinh thần, được phân biệt theo dạng thức những chức năng của chúng. Các cảm xúc thuộc phạm trù của những nhân tố tinh thần, thì tương phản với chính phạm trù của [tâm] thức.

Mặc dù có những danh mục thuộc nhiều truyền thống, nhưng bản liệt kê được người Tây Tạng liên hệ, vốn được Vô Trước đề xuất[4], bao gồm 51 nhân tố tinh thần then chốt[5] . Thêm nữa đối với 5 mệnh đề[6] (cảm nhận, tri giác, thâm nhập, chú ý, và tiếp xúc), thì 5 nhân tố tinh tế của đối tượng[7]– nguyện vọng, hấp dẫn, chánh niệm, tập trung, và tuệ quán – hiện diện khi tâm xác định một đối tượng. Xa hơn nữa, có 11 nhân tố tinh thần[8] lành mạnh, vốn hiện diện khi tâm ở trong thể trạng tích cực. Đây là đức tin hay tự tin, một cảm giác xấu hổ, lương tâm (được định nghĩa như việc quan tâm đến người khác), không dính mắc, không thù oán (kể cả từ ái), không vọng tưởng (kể cả tuệ trí), mạnh dạn, uyển chuyển, chú ý, hành xả, không hại (kể cả bi mẫn). Trong bản liệt kê này, chúng ta thấy vài cảm xúc tích cực tương ứng nổi bật lên là từ ái và bi mẫn. Xấu hổ và lương tâm thì thú vị mà trong ấy xấu hổ là nói về năng lực cho cảm giác tự hổ thẹn bởi các hành vi hay tư tưởng không lành mạnh của chính mình, trong khi lương tâm trong phạm trù này liên hệ đến phẩm chất vốn làm cho ta xa lánh những hành động hay tư tưởng không lành mạnh vì lưu tâm đến những người khác. Vì thế cả hai thứ này có một yếu tố cảm xúc.

Khi chúng ta hướng đến những tiến trình phiền não tinh thần, bảng liệt kê nhiều hơn, phần lớn bởi vì đây là những thứ cần được tịnh hóa bởi một người ngưỡng mộ đến Giác Ngộ trong Phật giáo. Có 6 phiền não gốc[9]: dính mắc hay tham dục, sân hận (kể cả thù oán), tự kiêu hay cao ngạo, si mê, nghi ngờ, các quan điểm phiền não. Trong những thứ này, ba thứ đầu có một cấu thành cảm xúc mạnh mẽ. Rồi thì có 20 phiền não dẫn xuất[10]: phẫn nộ, uất hận, thù oán, ganh tỵ hay ghen ghét, và tàn ác (những thứ này xuất phát từ sân hận), bủn xỉn, tự mãn, tự ái, kích động kể cả ngạc nhiên, tự che dấu thói xấu của mình, và sự mờ tối tinh thần (những thứ này xuất phát từ dính mắc), thiếu tự tin, uể ỏai, quên lãng, và thiếu chú ý (những thứ này xuất phát từ si mê); khoe khoang, lừa gạt, không xấu hổ, thiếu sự quan tâm đến người khác, không chú ý, và bối rối (những thứ này xuất phát từ sự kết hợp của si mê và dính mắc). Rõ ràng nhiều thứ trong những nhân tố tinh thần được liệt kê ở đây có thể đồng nhất với các cảm xúc. Cuối cùng, trong bản liệt kê 51, có một nhóm của 4 nhân tố tinh thần[11] được liên hệ như là “những thứ có thể thay đổi”. Đây là ngủ, hối hận, khảo sát, và sự phân tích chớp nhoáng. Chúng được gọi là những thứ có thể thay đổi bởi vì, lệ thuộc trên trạng thái của tâm, chúng có thể là lành mạnh, không lành mạnh hay trung tính.

Quan trọng nhất là nhạy cảm đến những phạm trù khác nhau mà trong ấy tâm lý học Phật giáo và phương Tây cung ứng sự đối trị các cảm xúc. Chúng ta không nên lầm lẫn sự phân biệt của Phật giáo giữa những cảm xúc lành mạnh và không lành mạnh (hay thiện và bất thiện) với sự phân biệt của tâm lý học phương Tây giữa các cảm xúc tích cực và tiêu cực. Trong tư tưởng phương Tây, tích cực và tiêu cực được định nghĩa trong dạng thức của vấn đề chúng ta cảm thấy như thế nào khi những cảm xúc đặc thù xảy ra. Thí dụ, sợ hãi là tiêu cực vì nó mang đến một cảm nhận khó chịu náo động.

Sự phân biệt Phật giáo giữa những nhân tố tinh thần không lành mạnh hay phiền não và lành mạnh là căn cứ trên những vai trò mà những nhân tố này biểu hiện trong mối quan hệ đến những hành vi mà chúng làm cho sinh khởi – nói cách khác, sự cát tường đạo đức của một người. Thí dụ, dính mắc có thể cảm thấy thú vị nhưng bị xem như phiền não vì nó liên hệ đến một loại bám víu dai dẳng, căn cứ trên tự ngã, là thứ vốn có thể thúc đẩy ta đến hành vi tổn hại. Sợ hãi là trung tính và thực tế là có thể thay đổi trong đó nó có thể khuyến khích ta đến một thái độ lành mạnh hay không lành mạnh tùy thuộc vào các hoàn cảnh. Vai trò của những cảm xúc này như những nhân tố thúc đẩy trong hành vi của con người là hết sức phức tạp và cuốn hút sự chú ý rộng khắp trong các luận điển của Phật giáo. Thuật ngữ gốc trong Tạng ngữ cho phiền não là nyonmong, Phạn ngữ là klesha, có nghĩa là điều gì đó làm khổ sở từ bên trong. Một đặc trưng then chốt của những trạng thái tinh thần này là ảnh hưởng của chúng trong việc tạo ra sự bối rối và việc đánh mất sự tự chủ. Khi chúng sinh khởi, thì chúng ta có xu hướng đánh mất sự tự do của chúng ta để hành động phù hợp với nguyện vọng của chúng ta và trở thành bị mắc kẹt trong tâm trí bị bóp méo. Biết rằng chúng có gốc rể tận cùng trong một cung cách chấp ngã sâu xa trong việc liên hệ đến những người khác và đến thế giới quanh ta, khi những phiền não này sinh khởi, thì các nhận thức của chúng ta có xu hướng trở thành hạn hẹp.

Có sự phân tích bao quát về bản chất hoán vị, sự phân nhánh, và các mối quan hệ hổ tương, và những động lực nhân quả của các nhân tố tinh thần trong cả các tác phẩm của Ấn Độ và Tây Tạng về tâm lý học Phật giáo. Bản liệt kê của Vô Trước mà chúng ta sử dụng ở đây, không được xem như toàn diện – thí dụ, sợ hãi và lo lắng không hiện hữu, mặc dù chúng sinh khởi trong những phạm trù khác và những bảng liệt kê khác. Mặc cho những khác biệt trong các hệ thống danh mục, sự tổ chức của các bản liệt kê về các nhân tố tinh thần phản chiếu mục tiêu tiềm tàng của việc xác định và xóa bỏ các cảm xúc tiêu cực cũng như việc trau dồi những thể trạng tích cực của tâm.

Từ lâu tôi đã tự hỏi chúng ta có thể liên hệ khuôn mẫu tâm lý học Phật giáo về những tiến trình tinh thần lành mạnh và không lành mạnh như thế nào để thấu hiểu các cảm xúc được phát triển bởi khoa học phương Tây. Hội nghị lần thứ 10 về Tâm Thức và Đời Sống vào tháng Ba năm 2000, đã cho tôi một cơ hội để nghĩ về lãnh vực này sâu sắc hơn, vì chủ đề của hội nghị là các cảm xúc tàn phá, và rất nhiều chuyên gia về cảm xúc từ các cộng đồng khoa học phương Tây đã đến để thảo luận trong một tuần ở Dharamsala. Các tiến trình được điểu khiển bởi Daniel Goleman, người mà tôi đã biết lâu lắm rồi. Chính Dan là người đầu tiên giới thiệu cho tôi nhiều nghiên cứu khoa học vốn đề xuất một mối quan hệ gần gũi giữa tất cả những trạng thái tinh thần và sức khỏe thân thể của người ấy. Hội nghị này là nơi mà tôi đã gặp gở Paul Ekman, một nhà nhân loại học và tâm lý học, người đã dành vài thập niên cho việc nghiên cứu các cảm xúc. Tôi đã cảm thấy một sự đồng cảm lập tức với ông và đã cảm nhận có một động cơ đạo đức chân thành  tiềm tàng trong công việc của ông, trong ấy nếu chúng ta thấu hiểu bản chất các cảm xúc của chúng ta và tính phổ quát của chúng tốt hơn, thì chúng ta có thể phát triển một cảm nhận lớn hơn về mối quan hệ bản chất của loài người. Cũng thế, Paul nói đúng nhịp độ cho tôi theo dõi trình bày của ông bằng tiếng Anh mà không khó khăn gì.

Tôi đã  học hỏi rất nhiều với Paul về sự thông hiểu mới nhất của khoa học về cảm xúc. Tôi thấu hiểu rằng khoa học tri giác hiện đại đã vạch ra những sự phân biệt giữa hai phạm trù chính của các cảm xúc – các cảm xúc căn bản và điều mà một số người liên hệ như “các cảm xúc tri giác cao cấp”. Qua “các cảm xúc căn bản”, các nhà khoa học muốn nói rằng những cảm xúc đó, vốn được nghĩ là phổ quát và bẩm sinh. Như trong những bản liệt kê của Phật giáo, thì bản danh mục chính xác cũng khác nhau giữa các nhà nghiên cứu, nhưng Ekman đề cập rằng thêm 10 thứ, kể cả sân hận, sợ hãi, buồn bã, ghê tởm, khinh bỉ, ngạc nhiên, sung sướng, lúng túng, tội lỗi, và xấu hổ. Như trong những nhân tố tinh thần Phật giáo, mỗi thứ này được xem như đại diện cho một nhóm cảm giác. Qua “các cảm xúc tri giác cao cấp”, các nhà khoa học muốn nói đến môt loạt những cảm xúc cũng là phổ quát nhưng là biểu lộ tùy thuộc vào sự khác biệt văn hóa. Thí dụ, bao gồm yêu thương, kiêu ngạo, và ghen tỵ. Các nhà chuyên  môn đã quán sát rằng trong khi những cảm giác căn bản hiện hữu một cách rộng rãi trong cấu trúc dưới vỏ não, thì các cảm xúc tri giác cao cấp phối hợp nhiều hơn với vỏ não mới – bộ phận của não bộ phát triển nhất trong sự tiến hóa của loài người và năng động nhất trong các hoạt động tri giác phức tạp, chẳng hạn như lý trí. Tôi nhận ra rằng tất cả những sự trình bày này là các kết quả sơ bộ nhất của một chủ đề đang diễn tiến một cách nhanh chóng, vốn có thể trải qua một chuyển đổi kiểu mẫu căn bản sâu sắc hợp lý trước khi nó ổn định trong một sự nhất trí.

Phật giáo thừa nhận tính phổ quát của các phiền não tinh thần trong tất cả chúng sanh tri giác. Các phiền não then chốt được thấy như những biểu hiện của dính mắc, sân hận, và vọng tưởng (tham, sân và si). Trong một số chủng loại, chẳng hạn như con người, sự biểu hiện của những thứ này phức tạp hơn, trong khi trong những chủng loại nào đó của thú vật thì sự biểu hiện của chúng sẽ là phôi thai hơn và hiếu chiếu dã man hơn. Những tiến trình như vậy càng giản dị thì được xem như thuộc bản năng và càng ít lệ thuộc vào sự suy nghĩ có ý thức. Trái lại, những biểu hiện phức tạp của cảm xúc được xem như nhạy cảm hơn với điều kiện, kể cả bằng ngôn ngữ  và khái niệm. Thế nên tiềm năng mà các cảm xúc căn bản, theo sự phân loại của khoa học hiện đại thì phối hợp với những phần của não bộ vốn già hơn trong mô thức tiến hóa và cũng có chung với thú vật cho thấy một sự song hành tiềm tàng với sự thấu hiểu của Phật giáo.

Theo quan điểm thực nghiệm, một khác biệt giữa các cảm xúc phiền não, chẳng hạn như thù oán, và các thể trạng lành mạnh, chẳng hạn như từ bi, là các phiền não có xu hướng bám chặc vào tâm trên một mục tiêu cụ thể - một người mà chúng ta dính mắc [với ác cảm], thì một mùi hay một tiếng [của người ấy] chúng ta cũng muốn xua đuổi nó đi. Các cảm xúc lành mạnh, trái lại, có thể phổ biến hơn, cho nên sự tập trung không hạn chế với một người hay một đối tượng. Do vậy, trong Phật giáo có một quan niệm rằng những thể trạng lành mạnh hơn thì có một cấu thành tri giác cao cấp hơn các cảm xúc phiền não. Xét cho cùng, điều này có thể chứng tỏ là một lãnh vực hấp dẫn của sự so sánh và nghiên cứu cho khoa học phương Tây.

Cho rằng khoa học hiện đại về các cảm xúc được đặt nền tảng trong sinh học thần kinh, thì quan điểm tiến hóa bị giới hạn để duy trì khuôn mẫu nhận thức bao quát. Thêm nữa, điều này có nghĩa rằng để khám phá căn bản sinh học thần kinh của các cảm xúc con người, thì những cố gắng sẽ được thực hiện để thấu hiểu sự xuất hiện của các cảm giác đặc thù trong mô thức các vai trò của nó trong sự chọn lọc tự nhiên. Trong thực tế, tôi nghe nói rằng có một bộ môn toàn bộ được gọi là “tâm lý học tiến hóa”.  Đến một phạm vi nào đó, tôi có thể thấy vấn đề các giải thích thuyết tiến hóa có thể làm cho xuất hiện các cảm xúc căn bản chẳng hạn như dính mắc, sân hận, và sợ hãi. Tuy nhiên, khi chương trình sinh học thần kinh cố gắng để nối kết các cảm xúc đặc thù đến một lãnh vực nào đó của não bộ, thì tôi không thể hình dung vấn đề sự tiếp cận tiến hóa có thể thực hiện sự phán xét với sự phong phú của thế giới cảm xúc và phẩm chất chủ quan của kinh nghiệm như thế nào.

Một điểm rất hấp dẫn khác nữa hiện hữu trong cuộc thảo luận của tôi với Paul Ekman là sự khác biệt giữa các cảm xúc về một mặt và các tâm trạng cùng những cá tính về mặt kia.  Các cảm xúc được xem như xảy ra tức thời trái lại các tâm trạng có thể tồn tại lâu hơn – thậm chí cả ngày – và những cá tính còn lâu bền hơn nữa, đôi khi mang theo cả đời người. Vui sướng và buồn rầu, thí dụ, là những cảm xúc, vốn thường sinh khởi từ một kích thích đặc thù nào đó; trong khi hạnh phúc và đau khổ là những tâm trạng, mà các nguyên nhân trực tiếp của chúng có thể là không dễ dàng để xác định. Tương tự thế, sợ hãi là một cảm xúc nhưng băn khoăn là tâm trạng tương ứng của nó, trong khi một cá nhân có thể sở hữu một thiên hướng cao độ để lo âu, nó vốn là một nét tiêu biểu của cá tính. Mặc dù tâm lý học Phật giáo không thực hiện sự phân biệt chính thức giữa các tâm trạng và cảm xúc, nhưng nó thừa nhận những khác biệt giữa các trạng thái tinh thần, cả trong tức thời và lâu dài, và các thiên hướng tiềm tàng đối với chúng.

Các ý kiến cho rằng những cảm xúc đặc thù có thể sinh khởi từ một thiên hướng tự nhiên nào đó, rằng các cảm xúc đặc thù có thể làm phát sinh những loại thái độ nào đó, và đặc biệt sự thừa nhận rằng các cảm xúc tích cực chịu trách nhiệm tới những tiến trình tư tưởng là quan trọng cho sự thực tập quán chiếu Phật giáo. Những sự thực tập then chốt chẳng hạn như sự trau dồi từ ái và bi mẫn, hay việc vượt thắng những cảm xúc tàn phá chẳng hạn như sân hận và thù oán, có gốc rể và lệ thuộc trên sự thông tuệ tâm lý học. Một khía cạnh quan trọng của các sự thực tập này là sự phân tích tức thời của động lực nhân quả của những tiến trình tinh thần đặc biệt – các điều kiện ngoại tại của chúng, những trạng thái tinh thần trước đó và hiện diện bên trong, cùng mối quan hệ với những sự kiện tri giác và cảm xúc khác. Trong nhiều trường hợp, tôi đã từng có những cuộc thảo luận với các nhà tâm lý học và phân tâm học trong một lãnh vực rộng rãi về các nguyên tắc điều trị, và tôi đã từng chú ý một sự song hành thú vị trong mối quan hệ nhân quả của các cảm xúc. Cho đến bây giờ khi các nguyên tắc áp dụng tâm lý này được quan tâm với việc làm nhẹ bớt khổ đau, thì tôi nghĩ rằng chúng cùng chia sẻ một mục tiêu căn bản với Phật giáo.

Mục tiêu chính của việc thực tập quán chiếu trong Phật giáo là để làm giảm bớt khổ đau. Khoa học, như chúng ta đã từng thấy, đã cống hiến rất nhiều đến việc làm giảm bớt khổ đau, đặc biệt trong lãnh vực thân thể. Đây là một mục tiêu tuyệt vời mà tôi hy vọng là tất cả chúng ta sẽ tiếp tục lợi lạc từ chúng. Nhưng khi khoa học tiến bộ xa hơn, thì có nhiều đe dọa hơn. Năng lực của khoa học ảnh hưởng đến môi trường, quả là thay đổi toàn bộ phương hướng của loài người, đã lớn mạnh vô cùng. Như một kết quả, lần đầu tiên trong lịch sử, chính đòi hỏi cho sự tồn tại của chúng ta mà chúng ta bắt đầu quan tâm đến trách nhiệm đạo đức không chỉ trong sự áp dụng khoa học mà cả trong phương diện nghiên cứu và phát triển những thực tế mới cũng như kỷ thuật mới. Và chính là việc sử dụng các nghiên cứu sinh học thần kinh, tâm lý học, và ngay cả giáo thuyết về tâm của Phật giáo cố gắng để trở thành hạnh phúc hơn, để thay đổi tâm chúng ta qua một sự trau dồi cẩn mật  những thể trạng tích cực của tâm. Nhưng khi chúng ta bắt đầu vận dụng những mật mã di truyền, thì cả chính chúng ta và của thế giới mà chúng ta sống, như thế nào là nhiều? Đây là một câu hỏi phải được các nhà khoa học cũng như trong công chúng rộng rãi quan tâm đến.

Ẩn Tâm Lộ
Saturday, October 28, 2017
Sunday, November 5, 2017



[1] Không phải thức tinh thần thứ sáu tức là ý thức của Phật giáo.
[2] thường gọi là trong một sát na
[3] Các tâm sở trong Duy thức.
[4] Rất giống Duy Thức Tam Thập Tụng của Thế Thân?
[5] Đó là 51 tâm sở trong Tam Thập Tụng.
[6] Là 5 món biến hành: xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư; nhưng trật tự ngược lại.
[7] Là 5 món biệt cảnh: dục, thắng giải, niệm, định, tuệ.
[8] Là 11 thiện tâm sở: tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, cần, an, bất phóng dật, hành xả, và bất hại.
[9] Là 6 căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến.
[10] Là 20 tùy phiền não:  Phẫn, hận, phú, não, tật san, cuống, xiểm, hại, kiêu, vô-tàm, vô-quí, trạo-cử, hôn-trầm, bất-tín, giải-đãi, phóng-dật, thất niệm, tán loạn, và bất chính-tri.
[11] Là 4 món bất định: hối, miên, tầm, từ.