Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2021

NGƯỜI CẦM HOA SEN TRẮNG

 

 


 


 

NGƯỜI CẦM HOA SEN TRẮNG

Nguyên tác: Holder Of The White Lotus
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Việt dịch: Quảng Cơ/ Tuệ Uyển hiệu đính/ Tuesday, October 5, 2021

***
***

Tôi đào thoát khỏi Tây Tạng vào ngày 31 tháng 3 năm 1959. Kể từ đó tôi sống lưu vong ở Ấn Độ. Trong giai đoạn 1949-50, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã gửi một đội quân đến xâm lược đất nước của tôi. Trong gần một thập kỷ, tôi vẫn là nhà lãnh đạo chính trị cũng như tinh thần của người dân và cố gắng thiết lập lại mối quan hệ hòa bình giữa hai quốc gia của chúng tôi. Nhưng nhiệm vụ được chứng minh là bất khả thi. Tôi đã đi đến một kết luận không mấy vui vẻ rằng tôi chỉ có thể phục vụ người dân của mình tốt hơn từ bên ngoài.

Khi tôi nhìn lại khoảng thời gian Tây Tạng vẫn còn là một đất nước tự do, tôi nhận ra rằng đó là những năm tháng đẹp nhất trong cuộc đời tôi. Hôm nay tôi chắc chắn rất hạnh phúc, nhưng chắc chắn sự tồn tại của tôi bây giờ rất khác so với sự giáo dục của tôi. Và mặc dù rõ ràng là không có tác dụng gì đối với cảm giác nhớ nhung, nhưng tôi vẫn không thể không cảm thấy buồn khi nghĩ về quá khứ. Nó nhắc nhở tôi về những đau khổ khủng khiếp của đồng bào tôi. Tây Tạng cũ không hoàn hảo. Tuy nhiên, đúng là nói rằng cách sống của chúng tôi là một cái gì đó khá đáng chú ý. Chắc chắn rằng có rất nhiều thứ đáng để bảo tồn mà bây giờ đã bị mất đi vĩnh viễn.

Tôi đã nói rằng những từ ngữ Dalai Lama - Đạt Lai Lạt Ma có ý nghĩa khác nhau đối với những người khác nhau, đối với tôi chúng chỉ ám chỉ chức vụ mà tôi nắm giữ. Trên thực tế, Dalai là một từ tiếng Mông Cổ có nghĩa là 'đại dương’ và Lama là một thuật ngữ tiếng Tây Tạng tương ứng với từ guru trong tiếng Ấn Độ, có nghĩa là một đạo sư. Cùng với nhau, các từ DalaiLama đôi khi được dịch một cách lỏng lẻo là 'Đại dương của Trí tuệ’. Nhưng đây là do một sự hiểu lầm mà tôi cảm thấy. Ban đầu, Dalai là bản dịch cục bộ của Sonam Gyatso, tên của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ ba: Gyatso có nghĩa là đại dương trong tiếng Tây Tạng. Một sự hiểu lầm đáng tiếc nữa là do tiếng Trung Hoa diễn tả từ lamahuo-fou – hoạt Phật, có hàm ý là 'Phật sống'. Điều này sai. Phật giáo Tây Tạng không công nhận điều đó. Nó chỉ chấp nhận rằng một số chúng sanh nhất định, trong đó có Đức Đạt Lai Lạt Ma, có thể chọn cách tái sanh của họ. Những người như vậy được gọi là tulkus (hóa thân). Tất nhiên, trong khi tôi sống ở Tây Tạng, trở thành Đạt Lai Lạt Ma có ý nghĩa rất lớn. Điều đó có nghĩa là tôi đã sống một cuộc sống khác xa với sự vất vả và nhọc nhằn của đại đa số người dân của tôi. Tôi đi đến đâu cũng được một đoàn người hầu cận tháp tùng. Xung quanh tôi là các bộ trưởng và cố vấn của chính phủ mặc áo choàng lụa xa hoa, những người đàn ông được thấy từ những gia đình quý tộc và tinh hoa trong đất nước. Những người bạn đồng hành hàng ngày của tôi là những học giả lỗi lạc và những người am hiểu về tôn giáo có thực chứng cao độ. Và mỗi khi tôi rời Potala, cung điện mùa đông - 1.000 phòng tráng lệ của các Đạt Lai Lạt Ma, tôi được hộ tống bởi một đám rước hàng trăm người.

Ở hàng đầu đoàn là một Ngagpa, một người đàn ông mang theo một 'bánh xe cuộc sống' mang tính biểu tượng. Theo sau ông là một đoàn tatara, những người kỵ mã mặc trang phục truyền thống, sặc sỡ và mang theo cờ phướng. Phía sau họ là những người khuân vác mang những con chim biết hót trong lồng và đồ đạc cá nhân của tôi đều được gói trong lụa vàng. Tiếp theo là một bộ phận các nhà sư từ Namgyal, tu viện riêng của Đạt Lai Lạt Ma. Mỗi người mang một biểu ngữ được trang trí bằng các đề mục thiêng liêng. Phía sau họ đi tiếp theo là các nhạc công cưỡi trên lưng ngựa. Sau đó, theo sau hai nhóm quan chức tu sĩ, đầu tiên là một bộ phận cấp dưới đóng vai trò là những người vận chuyển, sau đó là các nhà sư thuộc dòng Tsedrung, những vị là viên chức của Chính phủ. Đằng sau những con ngựa này là một đàn ngựa từ chuồng riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tất cả đều được trang trí xinh đẹp, và được dẫn dắt bởi các người giữ ngựa.

Theo sau đó là một đội quân ngựa khác mang những ấn tín của nhà nước. Tôi đến tiếp theo, đi trong một chiếc kiệu màu vàng, được khiêng bởi hai mươi người đàn ông, tất cả là sĩ quan trong quân đội và mặc áo choàng màu xanh lá cây với mũ màu đỏ. Không giống như các quan chức cấp cao nhất, những người để tóc cao, những người này có một bím tóc dài và duy nhất chạy dọc xuống lưng. Bản thân chiếc kiệu có màu vàng (để biểu thị đời sống tu hành), được hỗ trợ bởi thêm tám người đàn ông mặc áo dài bằng lụa màu vàng. Cùng với đó là bốn thành viên của Kashag (chính phủ), Nội các của Đạt Lai Lạt Ma, với sự tham dự của Kusun Depon, người đứng đầu vệ sĩ của Đạt Lai Lạt Ma và Mak-chi, Tổng tư lệnh quân đội nhỏ bé của Tây Tạng. Cả hai người này đều nghiêm nghị mang theo thanh kiếm của mình trong lễ chào. Họ mặc một bộ đồng phục gồm quần xanh lam và áo dài màu vàng được thắt bím vàng. Trên đầu họ đội một chiếc mũ topi tua rua. Vây quanh đoàn tùy tùng chính này, có đội hộ tống sing gha, cảnh sát tu viện. Những người đàn ông có vẻ ngoài đáng sợ này đều cao ít nhất 6 bộ và mặc áo lót dày, khiến họ có vẻ ngoài thậm chí còn ấn tượng hơn. Trên tay họ mang theo những chiếc roi dài, mà họ không ngần ngại sử dụng.

Đằng sau chiếc kiệu tôi ngồi là hai Giáo thọ của tôi, trưởng và phó (người trước từng là Nhiếp chính của Tây Tạng trước khi tôi đến tuổi trưởng thành). Sau đó đến cha mẹ tôi và các thành viên khác trong gia đình tôi. Theo sau họ là một nhóm đông đảo các quan chức cư sĩ, cả quý tộc và thường dân, được sắp xếp theo cấp bậc.

Luôn luôn gần như toàn bộ cư dân của thủ đô Lhasa, đến để cố gắng nhìn thấy tôi bất cứ khi nào tôi đi ra ngoài. Có một sự im lặng tràn ngập và thường có những giọt nước mắt khi mọi người cúi đầu hoặc phủ phục xuống đất khi tôi đi qua.

Đó là một cuộc sống rất khác so với cuộc sống mà tôi từng biết khi còn là một cậu bé. Tôi sinh ngày 6 tháng 7 năm 1935 và tên là Lhamo Thondup. Theo nghĩa đen, điều này có nghĩa là ‘Nữ Thần Toại Nguyện’. Tên người, địa điểm và sự vật trong tiếng Tây Tạng thường đẹp như tranh vẽ trong diễn dịch. Ví dụ, Tsang- po, tên của một trong những con sông quan trọng nhất của Tây Tạng - và là nguồn của dòng Brahmaputra hùng vĩ của Ấn Độ - có nghĩa là "Kẻ Lọc Nước".Tên làng của chúng tôi là Taktser: Cọp Gầm. Đó là một khu định cư nhỏ và nghèo nàn, nằm trên một ngọn đồi nhìn ra một thung lũng rộng lớn. Đồng cỏ của nó đã không được định cư hoặc làm nông nghiệp trong thời gian dài, chỉ được chăn thả bởi những người du mục. Lý do cho điều này là sự không thể đoán trước của thời tiết ở khu vực đó. Trong suốt thời thơ ấu của tôi, gia đình tôi là một trong hai mươi gia đình kiếm sống bấp bênh từ mảnh đất đó.

Taktser nằm ở vùng cực đông bắc Tây Tạng, thuộc tỉnh Amdo. Về mặt địa lý, Tây Tạng có thể được chia thành bốn khu vực chính. Về phía tây bắc là Changtang, một khu vực sa mạc đóng băng chạy theo hướng đông tây kéo dài hơn tám trăm dặm. Nó gần như không có thảm thực vật và chỉ có một số người du mục chăm chỉ sống giữa sự hoang vắng của nó. Về phía nam của Changtang là các tỉnh UTsang. Khu vực này tiếp giáp về phía nam và tây nam bởi dãy Himalayas hùng vĩ. Về phía đông của U-Tsang là tỉnh Kham, đây là vùng màu mỡ nhất và do đó đông dân nhất cả nước. Về phía bắc của KhamAmdo. Trên biên giới phía đông của cả KhamAmdo là ranh giới quốc gia của Tây Tạng với Trung Hoa. Vào thời điểm tôi sinh ra, một lãnh chúa Hồi giáo, Ma Pu-Feng, gần đây đã thành công trong việc thành lập ở Amdo một chính quyền khu vực trung thành với Cộng hòa Trung Hoa Dân Quốc.

Cha mẹ tôi là những người nông dân nhỏ: chính xác không phải là nông nô, vì họ không bị ràng buộc bởi bất kỳ người chủ nào; nhưng họ hoàn toàn không phải là quý tộc. Họ thuê một ít đất và tự làm. Các loại cây trồng chính ở Tây Tạng là lúa mạch và kiều mạch và bố mẹ tôi đã trồng cả hai loại này cùng với khoai tây. Nhưng thường thì công việc trong năm của họ bị hủy hoại do mưa đá lớn hoặc hạn hán. Họ cũng nuôi một số động vật, đây là nguồn sản phẩm đáng tin cậy hơn. Tôi nhớ rằng chúng tôi có năm hoặc sáu con dzomos (con lai giữa yak và bò) để vắt sữa và một số gà thả rông để đẻ. Có một bầy hỗn hợp có lẽ là tám mươi con cừu và dê, và cha tôi gần như lúc nào cũng có một hoặc hai hoặc thậm chí ba con ngựa, vốn ông rất thích. Cuối cùng, gia đình tôi đã nuôi được một vài con yak (bò Tây Tạng hay tuyết ngưu).

Yak là một trong những món quà của Thiên nhiên dành cho nhân loại. Nó có thể tồn tại ở bất kỳ độ cao nào trên 10.000 bộ, vì vậy nó rất thích hợp cho Tây Tạng. Dưới đó là chúng chết. Vừa là một con thú chuyên chở, vừa là nguồn cung cấp sữa (trong trường hợp của con cái, được gọi là con dri), và thịt, yak thật sự là một mặt hàng chủ yếu của nông nghiệp vùng cao. Lúa mạch mà cha mẹ tôi trồng là một loại lương thực khác của Tây Tạng. Khi rang và nghiền thành bột mịn, nó sẽ trở thành tsampa. Hiếm khi có một bữa ăn nào được phục vụ ở Tây Tạng mà không bao gồm tsampa và, ngay cả khi sống lưu vong, tôi vẫn tiếp tục ăn nó mỗi ngày. Tất nhiên, nó không được ăn như bột. Đầu tiên bạn phải kết hợp nó với chất lỏng, thường là trà, nhưng sữa (mà tôi thích hơn) hoặc sữa chua hoặc thậm chí chanp (bia Tây Tạng) sẽ làm được. Sau đó, dùng các ngón tay vuốt quanh bát, bạn vo thành những viên nhỏ. Nếu không nó có thể được sử dụng như nguyên liệu căn bản cho cháo đặc (yến mạch). Đối với người Tây Tạng, nó rất ngon, theo kinh nghiệm của tôi, rất ít người nước ngoài thích nó. Người Hoa nói riêng không quan tâm đến nó chút nào.

Hầu hết những gì cha mẹ tôi trồng trong trang trại chỉ được sử dụng để nuôi chúng tôi. Nhưng cha tôi thỉnh thoảng vẫn buôn bán ngũ cốc hoặc một vài con cừu với những người du mục đi ngang qua hoặc xuống Siling, thị trấn và thủ phủ gần nhất của Amdo, cách đó ba giờ đi ngựa. Tiền tệ không được sử dụng nhiều ở những vùng nông thôn xa xôi này và hầu hết thương mại được thực hiện bằng hình thức trao đổi. Vì vậy, cha tôi sẽ đổi số tiền dư trong mùa lấy trà, đường, vải bông, có lẽ là một vài đồ trang trí, và có thể là một số đồ dùng bằng sắt. Thỉnh thoảng ông cũng quay lại với một con ngựa mới, điều này khiến cha tôi thích thú. Cha tôi có cảm tình rất tốt với chúng và khá nổi tiếng ở địa phương với tư cách là người chữa bệnh cho ngựa.

Ngôi nhà tôi sinh ra là điển hình của khu vực Tây Tạng của chúng tôi. Nó được xây bằng đá và bùn với một mái bằng dọc theo ba mặt của một hình vuông. Đặc điểm khác thường duy nhất của nó là rãnh nước, được làm từ những cành cây bách xù, khoét ra để tạo thành ống dẫn nước mưa. Ngay phía trước nó, giữa hai 'cánh tay' hay cánh gà, có một khoảng sân nhỏ ở giữa là một cột cờ cao. Trên đó treo một biểu ngữ, được bảo đảm ở trên và dưới, trên đó có viết vô số lời cầu nguyện.

Những con vật được giữ ở sau nhà. Bên trong có sáu phòng: một nhà bếp, nơi chúng tôi dành phần lớn thời gian khi ở trong nhà; một phòng cầu nguyện với một bàn thờ nhỏ, nơi tất cả chúng tôi sẽ tụ tập để cúng dường vào đầu ngày; phòng cha mẹ tôi; một phòng dự phòng cho bất kỳ khách nào mà chúng tôi có thể có; một kho chứa đồ của chúng tôi; và cuối cùng là một chuồng gia súc. Không có phòng ngủ cho bọn trẻ chúng tôi. Khi còn bé, tôi ngủ với mẹ tôi; sau đó, trong nhà bếp, bên bếp lò. Đối với đồ đạc, chúng tôi không có ghế hoặc giường như vậy, nhưng có những khu vực cao hơn để ngủ trong cả phòng của cha mẹ tôi và phòng phụ. Cũng có một số tủ làm bằng gỗ gai sơn. Sàn nhà cũng được làm bằng gỗ và lát ván gọn gàng.

Cha tôi là một người đàn ông có chiều cao trung bình và rất nóng nảy. Tôi nhớ có lần tôi đã kéo ria mép của ông ấy và bị đánh mạnh vì rắc rối của tôi. Tuy nhiên, cha tôi cũng là một người đàn ông tốt bụng và ông ấy không bao giờ có ác cảm. Một câu chuyện thú vị đã được kể về cha tôi vào thời điểm tôi sanh ra. Ông đã bị bệnh trong một số tuần và phải nằm trên giường của mình. Không ai biết điều gì đã xảy ra với ông và mọi người bắt đầu lo sợ cho cuộc sống của ông ấy. Nhưng vào ngày tôi chào đời, cha tôi đột nhiên bắt đầu hồi phục mà không rõ lý do. Thật không thể nào hào hứng hơn khi trở thành một người cha vì mẹ tôi đã sinh được tám người con, mặc dù chỉ có bốn người sống sót. (Tất nhiên, những gia đình nông dân như chúng tôi – sống trong những gia đình đông con và mẹ tôi sinh mười sáu người con, trong đó bảy người sống.) Vào thời điểm viết bài, Lobsang Samten, anh trai trực tiếp của tôi, và Tsering Dolma, chị cả của tôi, không còn sống, nhưng hai người anh trai khác, em gái tôi và em trai tôi vẫn sống khỏe mạnh.

Mẹ tôi chắc chắn là một trong những người tốt nhất mà tôi từng biết. Bà ấy thật sự tuyệt vời và được yêu mến, tôi khá chắc chắn, bởi tất cả những người biết bà ấy. Bà rất từ bi. Có lần, tôi nhớ mình được kể rằng, có một nạn đói khủng khiếp ở gần Trung Hoa. Kết quả là, nhiều người nghèo Trung Hoa đã bị đuổi qua biên giới để tìm kiếm thức ăn. Một ngày nọ, một cặp vợ chồng xuất hiện trước cửa nhà chúng tôi, mang trên tay một đứa trẻ đã chết. Họ cầu xin mẹ tôi cho thức ăn và bà đã sẵn sàng đưa cho họ. Sau đó, bà chỉ vào đứa con của họ và hỏi liệu họ có muốn giúp đỡ để chôn nó không. Khi họ hiểu được ý của bà ấy, họ lắc đầu và nói rõ rằng họ có ý định ăn thịt nó. Mẹ tôi đã rất kinh hoàng và ngay lập tức mời họ vào và làm sạch toàn bộ bên trong thùng mỡ trước khi hối tiếc đưa cho họ lên đường. Ngay cả khi nó có nghĩa là cho đi thức ăn của gia đình để bản thân chúng tôi đói, bà không bao giờ để bất kỳ người ăn xin nào về tay không.

Tsering Dolma hơn tôi mười tám tuổi. Vào thời điểm tôi mới sanh, chị ấy đã giúp mẹ tôi điều hành nhà và đóng vai trò như một bà mụ của tôi. Khi bà sanh tôi, chị ấy nhận thấy rằng một bên mắt của tôi không mở đúng cách. Không do dự, chị đặt ngón tay cái lên mí mắt và buộc nó mở rộng ra - thật may là không ảnh hưởng gì. Tsering Dolma cũng là người chịu trách nhiệm cho tôi bữa ăn đầu tiên, theo truyền thống, là một chất lỏng làm từ vỏ của một loại bụi cây đặc biệt mọc ở địa phương. Điều này được cho là để bảo đảm một đứa trẻ khỏe mạnh. Nó chắc chắn đã hoạt động trong trường hợp của tôi. Những năm sau này, chị gái tôi nói với tôi rằng tôi là một đứa bé rất bẩn thỉu. Chị ấy đã ôm tôi vào lòng ngay khi tôi quậy phá lung tung!

Tôi không liên hệ nhiều đến bất kỳ người nào trong ba người anh lơn của mình. Thupten Jigme Norbu, người lớn tuổi nhất, đã được công nhận là hóa thân của một vị lạt ma cao cấp, Taktser Rinpoche (Rinpoche là danh hiệu được đặt cho các bậc thầy tâm linh và có nghĩa là Bậc Tôn Quý), và được định vị tại Kumbum, một tu viện nổi tiếng vài giờ đi bằng ngựa. Anh trai kế của tôi, Gyalo Thondup, hơn tôi tám tuổi và vào thời điểm tôi sinh ra, anh ấy đang đi học ở một ngôi làng gần đó. Chỉ có người anh trai trực tiếp của tôi, Lobsang Samten, ở lại. Anh hơn tôi ba tuổi. Nhưng anh ấy cũng đã được gửi đến Kumbum để làm một tu sĩ, vì vậy tôi hầu như không biết anh ấy.

Tất nhiên, không ai biết rằng tôi có thể là gì hơn một đứa trẻ bình thường. Gần như không thể tưởng tượng được rằng nhiều hơn một tulku có thể được sinh ra trong cùng một gia đình và chắc chắn cha mẹ tôi không hề biết rằng tôi sẽ được tôn xưng là Đạt Lai Lạt Ma. Việc hồi phục của cha tôi là một điều tốt lành, nhưng nó không được coi là có ý nghĩa quan trọng. Bản thân tôi cũng không có mối quan tâm cụ thể nào về những gì đang diễn ra ở phía trước. Những ký ức đầu đời của tôi rất bình thường. Một số người nhấn mạnh nhiều vào hồi ức đầu tiên của một người, nhưng tôi thì không. Ví dụ, trong số ký ức, tôi nhớ, khi quan sát thấy một nhóm trẻ em đang chiến đấu và chạy để tham gia với bên yếu hơn. Tôi cũng nhớ lần đầu tiên tôi nhìn thấy một con lạc đà. Những thứ này khá phổ biến ở các vùng của Mông Cổ và đôi khi chúng được mang qua biên giới. Nó trông rất lớn và hùng vĩ và rất đáng sợ. Tôi cũng nhớ lại một ngày nọ, tôi phát hiện ra mình bị nhiễm sán lãi - một nỗi đau phổ biến ở phương Đông.

Một điều mà tôi nhớ đặc biệt thích thú khi còn rất nhỏ là vào chuồng gà mái để nhặt trứng với mẹ và sau đó ở lại. Tôi thích ngồi trong ổ gà mái và tạo ra những tiếng ồn ào. Một việc yêu thích khác của tôi khi còn là một đứa bé con là đóng gói đồ đạc trong một chiếc túi như thể tôi sắp trải qua một cuộc hành trình dài. Tôi sẽ đến Lhasa, tôi sẽ đến Lhasa, tôi nói. Điều này, cùng với việc tôi khăng khăng rằng tôi luôn phải được phép ngồi ở đầu bàn, sau này được cho là một dấu hiệu cho thấy rằng tôi phải biết rằng tôi được định sẵn cho những điều lớn lao hơn. Khi còn nhỏ, tôi cũng có một số giấc mơ rõ ràng để có cách giải thích tương tự, nhưng tôi không thể nói một cách rõ ràng rằng tôi đã biết trước về tương lai của mình. Sau đó, mẹ tôi kể cho tôi nghe một số câu chuyện có thể được coi là dấu hiệu tái sanh cao cấp. Ví dụ, tôi không bao giờ cho phép ai khác ngoài bà ấy cầm chén tô của tôi. Tôi cũng không bao giờ tỏ ra sợ người lạ.

Trước khi tiếp tục kể về khám phá của tôi với tư cách là Đạt Lai Lạt Ma, trước tiên tôi phải nói đôi điều về Phật giáo và lịch sử của nó ở Tây Tạng. Người sáng lập ra Phật giáo là một nhân vật lịch sử, Sĩ Đạt Ta (Siddhartha), người được công nhận là Đức Phật Thích Ca. Ngài sanh ra cách đây hơn 2.500 năm. Giáo lý của ngài, ngày nay được gọi là giáo Pháp, hoặc Phật giáo, đã được du nhập vào Tây Tạng vào thế kỷ thứ tư sau Công nguyên. Đã mất vài thế kỷ để thay thế tôn giáo Bon bản địa và trở nên hoàn chỉnh, nhưng cuối cùng đất nước đã được chuyển đổi triệt để đến mức các nguyên tắc Phật giáo đã chi phối toàn bộ xã hội, ở mọi cấp độ. Và trong khi người Tây Tạng về bản chất là những người khá hung dữ và khá hiếu chiến, nhưng sự quan tâm ngày càng tăng của họ đối với việc thực hành tôn giáo là một yếu tố chính dẫn đến sự cô lập của đất nước. Trước đó, Tây Tạng đã chiếm hữu một đế chế rộng lớn, thống trị Trung Á với lãnh thổ bao gồm phần lớn phía bắc Ấn Độ, NepalBhutan ở phía nam. Nó cũng bao gồm nhiều lãnh thổ của Trung Hoa. Vào năm 763 sau Công Nguyên, các lực lượng Tây Tạng đã thật sự chiếm được thủ đô của Trung Hoa, nơi họ đưa ra những lời hứa về triều cống và các nhượng bộ khác. Tuy nhiên, khi sự nhiệt tình của người Tây Tạng đối với Phật giáo ngày càng tăng, thì mối quan hệ của Tây Tạng với các nước láng giềng ấy trở nên mang tính chất tâm linh hơn là bản chất chính trị. Điều này đặc biệt đúng với Trung Hoa, nơi phát triển mối quan hệ thân thiết-người bảo trợ các tu sĩ được phát triển. Các Hoàng đế Mãn Châu, những người theo đạo Phật, gọi Đức Đạt Lai Lạt Ma là 'Vua Truyền bá Phật giáo’.

Giáo lý nền tảng của Phật giáo là thuyết Duyên khởi hay Luật Nhân quả. Điều này chỉ đơn giản nói rằng mọi thứ mà một cá nhân trải nghiệm đều bắt nguồn qua hành động từ động cơ. Do đó, động cơ là gốc rễ của cả hành động và trải nghiệm. Từ sự hiểu biết này, các lý thuyết Phật giáo về tâm thức và tái sanh được hình thành.

Điều đầu tiên cho rằng, bởi vì nguyên nhân làm phát sinh kết quả mà sau đó trở thành nguyên nhân của kết quả tiếp theo, cho nên ý thức phải liên tục. Nó tiếp tục trôi chảy, thu thập kinh nghiệm và dấu vết từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc tiếp theo. Tại thời điểm của cái chết về thể chất, theo sau đó là ý thức của một chúng sanh chứa đựng dấu ấn của tất cả những kinh nghiệm và ấn tượng trong quá khứ, và những hành động xảy ra trước chúng. Đây được gọi là nghiệp, có nghĩa là "hành động". Do đó, ý thức, cùng với nghiệp tương ứng của nó, sau đó trở thành "tái sanh" trong một cơ thể mới - động vật, con người hoặc chư thiên, thần, thánh.

Vì vậy, để đưa ra một ví dụ đơn giản, một người đã dành cả cuộc đời của mình để ngược đãi động vật có thể khá dễ dàng được tái sanh trong kiếp sau như một con chó thuộc về một người không đối xử tốt với động vật. Tương tự, hạnh kiểm nghiêm chỉnh trong đời này sẽ giúp tái sanh thuận lợi trong đời sau.

Các Phật tử tin rằng vì bản chất cơ bản của ý thức là trung tính, nên có thể thoát khỏi vòng sanh, khổ, tử và tái sanh bất tận mà cuộc sống tất yếu phải kéo theo, nhưng chỉ khi tất cả ác nghiệp đã được loại bỏ cùng với tất cả dính mắc thế gian.. Khi đạt đến điểm này, ý thức trong vấn đề được cho là đạt được sự giải thoát đầu tiên và sau đó là thành Phật. Tuy nhiên, theo Phật giáo trong truyền thống Tây Tạng, một chúng sanh đạt được Phật quả, mặc dù được giải thoát khỏi Luân hồi, ‘bánh xe của đau khổ', như một hiện tượng tồn tại đã được biết đến, nhưng sẽ tiếp tục quay trở lại hoạt động vì lợi ích của tất cả chúng sanh khác cho đến khi mỗi người được giải thoát như nhau.

Bây giờ trong trường hợp của riêng tôi, tôi được coi là tái sanh của từng vị trong số mười ba vị Đạt Lai Lạt Ma trước đây của Tây Tạng (vị đầu tiên được sinh ra vào năm 1351 sau Công Nguyên), những người lần lượt được coi là biểu hiện của Đức Quán Thế Âm
(Avalokiteshvara), hay Chenrezig, Bồ tát từ bi, người nắm giữ Hoa Sen Trắng. Vì vậy, tôi cũng được cho là biểu hiện của Chenrezig, trên thực tế là vị thứ bảy mươi tư trong một dòng dõi có thể bắt nguồn từ một cậu bé Bà la môn sống vào thời Đức Phật Thích Ca. Tôi thường được hỏi liệu tôi có thật sự tin vào điều này hay không. Câu trả lời không đơn giản để đưa ra. Nhưng khi tôi đã năm mươi sáu tuổi, khi tôi xem xét những kinh nghiệm của mình trong cuộc sống hiện tại này và với niềm tin Phật giáo của mình, tôi không khó chấp nhận rằng tôi có liên hệ tâm linh với cả mười ba vị Đạt Lai Lạt Ma trước đó, với Chenrezig và với chính Đức Phật. .

Khi tôi chưa được ba tuổi, một nhóm tìm kiếm do Chính phủ cử đi để tìm hóa thân mới của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đến tu viện Kumbum. Họ đã được dẫn đến đó bởi một số dấu hiệu. Một trong số những điều này liên quan đến thi thể xông ướp của người tiền nhiệm của tôi, Thupten Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba, người đã qua đời ở tuổi năm mươi bảy vào năm 1933. Trong thời gian ở trong trạng thái ngồi, người ta phát hiện đầu đã quay từ hướng Nam sang Đông-Bắc. Ngay sau đó, Nhiếp Chính Vương, bản thân là một lạt ma cao cấp, đã có một giấc mộng. Nhìn xuống vùng nước của hồ thiêng Lhamoi Lhatso, ở phía nam Tây Tạng, ông thấy rõ ràng các chữ cái Tây Tạng Ah, Ka Ma trôi nổi trong tầm mắt. Tiếp theo là hình ảnh của một tu viện ba tầng với mái màu xanh ngọc và vàng và một con đường chạy từ đó đến một ngọn đồi. Cuối cùng, ngài nhìn thấy một ngôi nhà nhỏ có rãnh nước hình thù kỳ lạ. Ngài chắc chắn rằng những mẫu tự đề cập đến Amdo, tỉnh phía Đông Bắc, vì vậy chính nơi đó mà nhóm tìm kiếm đã được gửi đến.

Khi họ đến được Kumbum, các thành viên của nhóm tìm kiếm cảm thấy rằng họ đã đi đúng hướng. Có vẻ như nếu chữ Ah ám chỉ Amdo, thì Ka phải chỉ ra tu viện ở Kumbum - nơi thật sự có ba tầng và có mái màu xanh ngọc. Bây giờ họ chỉ cần xác định một ngọn đồi và một ngôi nhà có rãnh nước đặc biệt. Vì vậy, họ bắt đầu tìm kiếm các ngôi làng lân cận. Khi họ nhìn thấy những cành cây bách xù trên mái nhà của cha mẹ tôi, họ chắc chắn rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma mới sẽ không còn xa nữa. Tuy nhiên, thay vì tiết lộ mục đích chuyến thăm của họ, nhóm chỉ yêu cầu ở lại qua đêm. Thủ lãnh của đoàn tìm kiếm, Kewtsang Rinpoche, sau đó giả làm một người hầu và dành phần lớn thời gian buổi tối để quan sát và chơi với đứa trẻ nhỏ nhất trong nhà.

Đứa trẻ nhận ra ông và gọi ‘Sera Lama, Sera Lama’. Sera là tu viện của Kewtsang Rinpoche. Ngày hôm sau, họ rời đi - chỉ để trở lại vài ngày sau đó với tư cách là một chuyến đi chính thức. Lần này họ mang theo một số thứ thuộc về người tiền nhiệm của tôi, cùng với một số đồ vật tương tự không phải của ngài. Trong mọi trường hợp, đứa trẻ sơ sinh đã xác định chính xác những gì thuộc về Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba và nói, ‘Nó là của tôi. Nó là của tôi.” Điều này ít nhiều thuyết phục nhóm tìm kiếm rằng họ đã tìm thấy hóa thân mới. Tuy nhiên, có một ứng cử viên khác sẽ được xem xét trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Nhưng không lâu thì cậu bé đến từ Taktser được công nhận là Đạt Lai Lạt Ma mới. Tôi là đứa trẻ đó.

Không cần phải nói, tôi không nhớ nhiều về những sự kiện này. Tôi quá nhỏ. Hồi ức thật sự duy nhất của tôi là về một người đàn ông với đôi mắt xuyên thấu. Những thứ này hóa ra thuộc về một người tên là Kenrap Tenzin, người đã trở thành Sư Phụ Trách Y Áo của tôi và sau đó dạy tôi viết.

Ngay sau khi nhóm tìm kiếm kết luận rằng đứa trẻ từ Taktser là hóa thân thật sự của Đạt Lai Lạt Ma, tin nhắn được gửi về cho Lhasa để thông báo cho Quan Nhiếp Chính. Sẽ mất vài tuần trước khi nhận được xác nhận chính thức. Cho đến lúc đó, tôi vẫn ở nhà. Trong khi đó, Thống đốc địa phương Ma Pu-Feng bắt đầu gây rối. Nhưng cuối cùng tôi đã được cha mẹ đưa đến tu viện Kumbum, nơi tôi được sắp đặt trong một buổi lễ diễn ra vào lúc bình minh. Tôi đặc biệt nhớ đến sự kiện này vì tôi đã rất ngạc nhiên khi được đánh thức và mặc quần áo trước khi mặt trời mọc. Tôi cũng nhớ mình đã được ngồi trên bảo tọa.

Bây giờ đã bắt đầu một giai đoạn có phần không vui trong cuộc đời tôi. Cha mẹ tôi đã không ở lại lâu và chẳng bao lâu sau tôi chỉ có một mình giữa môi trường xung quanh mới mẻ và xa lạ này. Rất khó để một đứa trẻ nhỏ bị tách khỏi cha mẹ của nó. Tuy nhiên, có hai điều an ủi khi sống tại tu viện. Đầu tiên, anh trai trực tiếp của tôi, Lobsang Samten đã ở đó. Dù chỉ hơn tôi ba tuổi nhưng anh ấy đã chăm sóc tôi rất chu đáo và chúng tôi nhanh chóng trở thành những người bạn thân thiết. Điều an ủi thứ hai là sư phụ của anh ấy là một tu sĩ già rất tốt bụng, người thường ôm tôi vào trong áo choàng của ông ấy. Có một lần tôi nhớ lại rằng ông ấy đã tặng tôi một quả đào. Tuy nhiên, phần lớn tôi không hài lòng. Tôi không hiểu Đức Đạt Lai Lạt Ma có nghĩa là gì. Theo những gì tôi biết, tôi chỉ là một cậu bé nhỏ trong số rất nhiều người. Không có gì lạ khi trẻ em vào tu viện khi còn rất nhỏ và tôi được đối xử giống như tất cả những người khác.

Một kỷ niệm đau buồn hơn là về một trong những người chú của tôi, người đã từng là một nhà sư ở Kumbum. Một buổi tối, trong khi ông ấy ngồi đọc kinh, tôi làm rối cuốn kinh của ông ấy. Như ngày nay, cuốn sách này đã bị rời rạc và các trang nằm ở khắp mọi nơi. Em trai của cha tôi đã bồng tôi lên và tát tôi rất mạnh. Ông ấy vô cùng tức giận và tôi vô cùng sợ hãi. Trong nhiều năm sau đó, tôi bị ám ảnh bởi khuôn mặt đen sạm, đầy vết rỗ và bộ ria mép dữ tợn của ông ta. Sau đó, bất cứ khi nào tôi nhìn thấy ông ta, tôi trở nên rất sợ hãi.

Khi rõ ràng rằng cuối cùng tôi sẽ được đoàn tụ với cha mẹ và chúng tôi sẽ cùng nhau hành trình đến Lhasa, tôi bắt đầu nhìn về tương lai với nhiều nhiệt tình hơn. Như bất kỳ đứa trẻ nào, tôi rất vui mừng trước viễn cảnh được đi du lịch. Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra trong khoảng mười tám tháng, bởi vì Ma Pu-Feng từ chối để tôi được đưa đến Lhasa nếu không trả một khoản tiền chuộc lớn. Và sau khi nhận ra nó, ông ta đòi hỏi nhiều hơn, mặc dù không nhận được nó. Vì vậy, mãi đến mùa hè năm 1939, tôi mới đi đến thủ đô.

Cuối cùng thì ngày tuyệt vời cũng ló dạng, một tuần sau sinh nhật lần thứ tư của tôi, tôi nhớ lại cảm giác lạc quan vô cùng. Đoàn người lớn. Nó không chỉ bao gồm cha mẹ tôi và anh trai tôi Lobsang Samten, mà các thành viên của nhóm tìm kiếm và một số khách hành hương cũng đến. Ngoài ra còn có một số quan chức chính phủ tham dự, cùng với một số lượng lớn các nhà nghiên cứu và trinh sát. Những người đàn ông này đã dành cả cuộc đời của họ để làm việc trên các tuyến đường của đoàn lữ hành ở Tây Tạng và không thể thiếu trong bất kỳ cuộc hành trình dài nào. Họ biết chính xác nơi phải vượt qua từng con sông và mất bao nhiêu thời gian để leo đèo.

Sau vài ngày đi lại, chúng tôi rời khu vực do Ma Pu-Feng quản lý và Chính phủ Tây Tạng chính thức tuyên bố chấp nhận tư cách ứng cử viên của tôi. Bây giờ chúng tôi bước vào một số vùng quê xa xôi và xinh đẹp nhất trên thế giới: những ngọn núi khổng lồ nằm bên những đồng bằng phẳng rộng lớn mà chúng tôi phải vật lộn như những con côn trùng. Thỉnh thoảng, chúng tôi bắt gặp dòng nước chảy xiết băng giá mà chúng tôi lội qua một cách ồn ào. Và cứ cách vài ngày, chúng tôi lại đến một khu định cư nhỏ nằm co ro giữa đồng cỏ xanh tươi, hoặc bám chặc như thể bằng những ngón tay của nó vào sườn đồi. Đôi khi chúng tôi có thể nhìn thấy từ xa một tu viện sừng sững trên đỉnh một vách đá. Nhưng phần lớn, nó chỉ là một không gian trống rỗng, khô cằn chỉ có những cơn gió đầy bụi hoang vu và những trận mưa đá dữ dội như những lời nhắc nhở về các năng lực sống của thiên nhiên.

Cuộc hành trình đến Lhasa mất ba tháng. Tôi nhớ rất ít chi tiết ngoài cảm giác ngạc nhiên tuyệt vời về mọi thứ tôi nhìn thấy: những đàn drong (yak rừng) rong ruổi khắp đồng bằng, những nhóm kyang (lừa hoang dã) nhỏ hơn và đôi khi là ánh sáng lung linh của gowanawa, những con nai nhỏ mà rất nhẹ và nhanh, chúng có thể là những con ma. Tôi cũng yêu những đàn ngỗng khổng lồ mà chúng tôi đã thấy thỉnh thoảng.

Trong phần lớn cuộc hành trình, tôi đã đi cùng Lobsang Samten trên một loại kiệu gọi là dreljam do một đôi la chở. Chúng tôi đã dành rất nhiều thời gian để cãi vã và tranh cãi, như những đứa trẻ nhỏ, và thường xuyên phải chịu đòn. Điều này khiến việc vận chuyển của chúng tôi có nguy cơ bị mất cân bằng quá mức. Tại thời điểm đó, người lái xe sẽ dừng các con vật lại và gọi mẹ tôi. Khi bà ấy nhìn vào bên trong, bầ luôn thấy một điều giống nhau: Lobsang Samten đang rơi nước mắt và tôi ngồi đó với vẻ mặt đắc thắng. Vì dù tuổi của anh ấy lớn hơn, nhưng tôi vẫn quả quyết hơn. Mặc dù chúng tôi thật sự là bạn thân, nhưng chúng tôi không thể cư xử tốt với nhau. Một người trong chúng tôi sẽ đưa ra một nhận xét dẫn đến một cuộc tranh cãi và cuối cùng là những trận đòn và những giọt nước mắt - nhưng những giọt nước mắt luôn là của anh ấy chứ không phải của tôi. Lobsang Samten tốt bụng đến mức anh ấy không thể sử dụng sức mạnh vượt trội của mình để chống lại tôi.

Cuối cùng, nhóm của chúng tôi bắt đầu tiến gần đến Lhasa. Bây giờ là mùa thu. Khi chúng tôi đi được vài ngày, một nhóm quan chức cấp cao của chính phủ ra đón và hộ tống nhóm của chúng tôi đến đồng bằng Doeguthang, hai dặm bên ngoài cửa thủ đô. Ở đó, một cái lều khổng lồ đã được dựng lên. Ở trung tâm là một công trình kiến trúc màu xanh và trắng được gọi là Macha Chennio, "Đại Khổng Tước". Nó trông rất to lớn đối với mắt tôi và bao quanh một bảo tọa bằng gỗ được chạm khắc tinh xảo, vốn chỉ được đưa ra với mục đích chào đón Đức Đạt Lai Lạt Ma sơ sinh trở về nhà.

Buổi lễ sau đó, trao cho tôi quyền lãnh đạo tinh thần của người dân của tôi, kéo dài cả ngày. Nhưng trí nhớ của tôi về nó rất mơ hồ. Tôi chỉ nhớ cảm giác trở về quê hương tuyệt vời và những đám đông vô tận: Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng có thể có nhiều như vậy. Nói chung, tôi đã cư xử tốt với bản thân mình dù chỉ một vài năm tuổi, thậm chí với một hoặc hai tu sĩ cực kỳ cao cấp, những người đã tự mình đánh giá xem tôi có thật sự là hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba hay không. Sau đó, cuối cùng, tôi cùng với Lobsang Samten được đưa đến Norbulingka (có nghĩa là Công viên Ngọc) nằm ngay phía Tây của Lhasa.

Thông thường, nó chỉ được sử dụng làm cung điện mùa hè của Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng Nhiếp Chính Vương đã quyết định đợi đến cuối năm sau trước khi chính thức làm lễ đăng quang cho tôi tại cung điện Potala, nơi đặt trụ sở của Chính phủ Tây Tạng. Trong khi đó, tôi không cần thiết phải sống ở đó. Đây hóa ra là một động thái ân cần vì Norbulingka là nơi dễ chịu hơn nhiều so với hai nơi. Nó được bao quanh bởi những khu vườn và bao gồm một số tòa nhà nhỏ bên trong sáng sủa và thoáng mát. Ngược lại, Potala mà tôi có thể nhìn thấy cao ngất ngưởng phía trên thành phố từ xa, bên trong lại tối tăm, lạnh lẽo và u ám.

Vì vậy, tôi đã tận hưởng cả năm không phải chịu bất kỳ trách nhiệm nào, vui vẻ chơi với anh trai và gặp cha mẹ khá thường xuyên. Đó là sự tự do theo thời gian cuối cùng mà tôi từng biết.

***
Ẩn tâm lộ, Monday, October 18, 2021

Trích từ quyển Freedom In Exile


Thứ Sáu, 22 tháng 10, 2021

ÁNH TRĂNG BÌNH ĐỊNH CAM LỒ AMRTA

ÁNH TRĂNG BÌNH ĐỊNH CAM LỒ AMRTA
Quán Tưởng và Trì Tụng Hàng Ngày Để Xua Tan Tất Cả Những Lầm Lạc Và Nhiễm Ô




***

namo gurūcchuṣmāya!

Quy Y Và Bồ Đề Tâm

namo! Trong đạo sư, tam bảo, và bổn tôn thần thể
Với lòng chân thành sâu sắc nhất chúng con quy y
Vì thế chúng con và tất cả chúng sanh, vô tận như bầu trời, đạt đến tỉnh giác vô thượng,
Chúng con phải thực hành Ucchuṣma, ‘Lửa Hút ẩm’.
(3 lần)

Quán Tưởng

oṃ mahā-śūnyatā-jñāna-vajra-svabhāvātmako ’ham ||

Từ thể trạng của tánh không, ngay lập tức
Trên đĩa hoa sen và mặt trời,
Con thiền quán trên chính con như đại phẫn nộ Ucchuṣma,

Màu xanh đậm và chiếu ra những tia sáng,
Với hai tay tại tim con hiển thị thủ ấn đe dọa,
Và hoàn thành với tất cả những thuộc tính của một phẫn nộ heruka.
Qua sự phát ra và hoà nhập trở lại của những âm tiết tại ba trung tâm của con,

Chúng con mời tất cả những vị hoà bình và phẫn nộ tan biến vào trong chính con.
Tại tim con, trên đĩa hoa sen và mặt trời,
Là hạt giống âm tiết vây quanh bởi mantra, xoay vần như một vòng lửa.
Khi chúng con trì tụng mantra, bắn ra những tia sáng lung linh
Thiêu đốt hoàn toàn những sự lầm lỗi tai hại và đổ vỡ mật nguyện.

Quán Tưởng Điều Này Và Trì Tụng Mantra

om i sa ca taya torya torya soha | u ta mi ṭaya torya torya soha | mön ta krodhaya torya torya soha | a ka krodhaya torya torya soha | a bhu krodhaya torya torya soha | u ta sha taya torya torya soha | é ling é taya torya torya soha | la mön taya torya torya soha | a sa ni bi sa ni taya torya torya soha |
om bhur kur mahapranaya bhur ci bhur ki vimala ucchushma krodharaja hum pé | torya torya soha ||

Đối với việc thực hành hàng ngày, hãy niệm mantra một trăm lần hoặc nhiều hơn, trong im lặng. Đối với việc thực hành cách tiếp cận, hãy tích lũy mantra mười nghìn lần. Và để thực hành được thành tựu, hãy trì tụng mantra bốn mươi nghìn lần.

Khi bạn xuất thiền này, hãy kết luận với:

Qua công đức này, nguyện cho chúng con mau chóng
Thành tựu thực chứng của Ucchuṣma,
Và do thế nguyện cho mỗi một chúng sanh
Cũng đạt được thể trạng hoàn thiện như thế!

Kết thúc bằng những lời cầu nguyện về sự hồi hướng và nguyện vọng.

Nếu bạn muốn tạo ra nước tẩy uế, trước tiên hãy thực hiện sơ bộ việc quán tưởng và trì tụng như sự chuẩn bị. Một khi bạn đã gia trì cho nước bọt của mình thông qua việc trì tụng thần chú, hãy nhổ vào nước để được gia hộ, đồng thời hãy tưởng tượng nước bọt của bạn như một tia lửa hóa lỏng hòa tan vào nước, khiến nó sôi lên và có khả năng tẩy rửa. Nếu bạn và những người khác uống và rửa bằng nước này, tất cả các ô nhiễm và tạp chất sẽ được tẩy sạch.


Gia hộ cho các loại thảo mộc dùng để cúng dường hương khói, chẳng hạn như  cây bách xù, với câu mantra, và tương tự như những loại thảo mộc mọc ở những nơi linh thiêng, nhựa cây sāla, lá cờ ngọt (grass-leaf sweet flag), và ajania tenuifolia, và sử dụng chúng làm hương, là cách tốt nhất để thanh lọc phiền não. Các hướng dẫn chi tiết hơn về điều này có thể được tìm thấy trong các văn bản khác.

Đối với việc xua tan các phiền não samaya làm gián đoạn thực hành giai đoạn phát sinh, nó được nêu rõ:
Nếu không có phương pháp để xua tan mật nguyện nhiễm ô trong giai đoạn phát sinh,
Xung đột, hư hỏng mật nguyện, tạp chất,
Sự suy giảm sinh lực, và sự che khuất của tất cả các con đường và bhūmis có thể xảy ra.
Phương pháp tối cao để xua tan những phiền não này không gì khác chính là Bổn tôn yidam của bạn[1].


Như đã nói ở trên, tạo ra niềm tự hào về Kim cang thừa vững chắc cho bất kỳ vị bổn tôn yidam chính nào của bạn sẽ đủ để xua tan những hư hỏng về mật nguyện (samaya). Tuy nhiên, nếu bạn muốn tự quán tưởng với tư cách là Ucchuṣma, hãy thực hiện việc quán tưởng và trì tụng này sơ bộ. Sau đó trì tụng:

Một lần nữa, những tia sáng của lửa trí tuệ bắn ra
Từ ánh sáng hạt giống âm tiết toả ra trong tim tôi,
Thiêu đốt tất cả những sai phạm và bất tịnh của mật nguyện.
oṃ, bản chất của Tỳ Lô Giá Na, là cung điện Phật giới
āḥ, là bản chất của A Di Đà, là bảo tọa hoa sen và đĩa mặt trời.
hūṃ, là sự quán tưởng hoàn thành, trì tụng những âm tiết này.4

Visualize this accordingly, and recite as much as you can:

Quán Tưởng Điều Này Một Cách Phù Hợp Và Trì Tụng Nhiều Nhất Như Có Thể:
ཨོཾ་ཨཱཿཧཱུྃ༔
om ah hung
oṃ āḥ hūṃ

***

Kết Thúc Bằng Những Lời Cầu Nguyện Về Sự Hồi Hướng Và Nguyện Vọng
 
Thực hành cô đọng hàng ngày này được trích xuất từ kho tàng sâu sắc của Prajñāraśmi, bậc thuần hóa chúng sinh, bởi Jamyang Khyentsé Wangpo. Đức hạnh!

 Nguyên bản: Moonlight of Pacifying Amṛta
A Daily Visualization and Recitation for the Dispeller of All Samaya Corruptions and Pollutions
Tác giả:  Jamyang Khyentsé Wangpo
Anh dịch: Stefan Mang, ed. Libby Hogg, 2021
 Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính /10-8, 22-10, 2021




[1] Ở đây các âm tiết oṃ, āḥ và hūṃ đại diện cho các khía cạnh khác nhau của giai đoạn phát sinh. Oṃ, thân phật và bản chất của Vairocana, đại diện cho cung điện. Āḥ, lời nói của chư Phật và bản chất của Amitābha, đại diện cho chỗ ngồi. Hūṃ, tâm của chư Phật và bản chất của Akṣobhya, đại diện cho vị bổn tôn (được Lama Öpak làm rõ bằng truyền khẩu ).


Thứ Bảy, 16 tháng 10, 2021

TÌM KIẾM HẠNH PHÚC CỦA CON NGƯỜI

 




TÌM KIẾM HẠNH PHÚC CỦA CON NGƯỜI

Nguyên bản: The Quest for Human Happiness
Hiệu đính: Rajiv Mehrotra
Việt dịch: Tuệ Uyển / Friday, October 8, 2021

***
NHỮNG TỪ NGỮ CHÂN THÀNH

Lời cầu nguyện được đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng sáng tác, Vinh Danh và Nguyện Cầu Tam bảo Đại Bi: Đức Phật, Giáo Huấn, và Cộng Đồng Tâm Linh.

***

Ô chư Phật, chư Bồ tát và các hàng đệ tử của quá khứ, hiện tại và tương lai.
Có phẩm cách phi thường tuyệt diệu
Không thể đo lường như biển cả bao la
Những người đang quán sát chúng sinh
Như đứa con duy nhất không ai giúp đỡ
Xin thương tưởng lời nguyện cầu chân thành của chúng con.
Lời Phật dạy xua tan khổ đau cho trần thế
Hiển hiện và tự tỏa ánh hòa bình
Nguyện giáo nghĩa hiển dương lan tỏa phồn thịnh và hạnh phúc khắp cả thế giới này
Ô những người thủ trì giáo pháp và những ai thực hành thành tựu
Nguyện cho sự thực hành mười điều lành đức hạnh của các ngài chiếu soi
Những chúng sinh phước bạc bị đọa đày với khổ đau không bao giờ ngưng nghĩ bị che lấp hoàn toàn không dứt bởi những hành vi tiêu cực dữ dội vô cùng
Nguyện cho tất cả những sự sợ hãi từ chiến tranh không thể chịu đựng,đói khát, và bệnh tât được yên bình.
Để thở tự do trong đại dương của hạnh phúc và cát tường.
Và riêng cho những người hiếu đạo trên vùng đất tuyết’, qua nhiều ý nghĩa khác nhau, bị tàn hại một cách nhẫn tâm bởi lũ người tàn ác bên màn đen tối.
Nguyện từ ái để năng lực từ bi hưng khởi
Để nhanh chóng đẩy lui nước mắt và máu tuôn tràn.
Những kẻ nhẫn tâm tàn ác đó, đối tượng của từ bi,
Nổi điên cuồng vì ám ảnh của tai ương
Cố tình tàn hại kẽ khác và chính họ
Nguyện cho họ đạt được con mắt của từ bi
Thông suốt những gì phải được làm và không nên làm
Và tồn tại trong vinh quang của của hữu nghị và yêu thương.
Tâm nguyện này xin cho sự tự do hoàn toàn của Tây tạng
Điều được đợi chờ suốt cả thời gian dài
Được thanh thoát tự nhiên toại nguyện
Nguyện chóng được điều may mắn để mừng vui
Lễ hội hạnh phúc tinh thần với lệ thường trần thế
Ô đấng hộ vệ Quán Tự Tại, từ bi thương xót cho
Những ai đó đang chịu đựng vô vàn gian khổ
Hoàn toàn hy hiến cuộc sống thật đáng yêu, thân thể và tài vật, vì lợi ích của giáo nghĩa, hành giả, dân tộc và quốc gia.
Vì vậy, đấng hộ vệ Quán Tự Tại đã phát lời nguyện rộng sâu
Trước chư Phật, chư Bồ tát,
Để hoàn toàn hộ trì non nước Tuyết
Nguyện cho quả lành của những lời cầu nguyện này xuất hiện nhanh bởi sự thâm sâu của tương thuộc tính không và hình thể tương liên.
Kết hợp với năng lực của từ bi vĩ đại
trong ba ngôi tôn quý và những Từ ngữ của chân lý 
Và qua năng lực của quy luật không sai chạy của hành động và kết quả
Xin cho lời cầu nguyện chân thành này không bị trở ngại và nhanh chóng toại nguyện.

***


TÌM KIẾM HẠNH PHÚC CỦA CON NGƯỜI

Tôi là một người tương đối mới đến với thế giới hiện đại. Mặc dù tôi đào thóat khỏi quê hương tôi lâu rồi từ năm 1959, và mặc dù đời sống của tôi từ lúc đó như một người tị nạn tại Ấn Độ đã đưa tôi tiếp xúc gần hơn với xã hội đương thời, nhiều năm của tôi phần lớn bị cắt rời khỏi những thực tế của thế kỷ hai mươi. Điều này là bởi vì tôi được chỉ định như Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tôi đã trở thành tu sĩ vào lúc rất sớm. Nó cũng phản chiếu sự kiện rằng những người Tây Tạng đã chọn lựa – một cách sai lầm theo tôi thấy – duy trì sự cô lập phía sau những rặng núi cao vốn bị tách rời xứ sở chúng tôi với thế giới còn lại. Tuy nhiên, ngày nay, tôi đã du hành rất nhiều, và đó cũng là may mắn của tôi khi được gặp những người mới mẻ một cách liên tục.

Hơn thế nữa, những con người của tất cả mọi tầng lớp của cuộc sống đến gặp tôi. Rất nhiều – đặc biệt những người cố gắng thực hiện một nổ lực để du lịch đến vùng đồi núi Ấn Độ ở Dharamsala nơi tôi sống lưu vong đến để tìm kiếm điều gì đó. Giữa những người này là những người bị bệnh ung thư và AIDS. Rồi thì, dĩ nhiên, là những đồng bào Tây Tạng với những câu chuyện khốn khó và khổ đau. Bất hạnh thay, nhiều người có những mong ước không thực tế, cho rằng tôi có năng lực để chữa bệnh hay tôi có thể ban cho một loại phước lành nào đó.  Nhưng tôi chỉ là một con người bình thường. Điều tốt nhất mà tôi có thể làm là cố gắng để giúp đở họ bằng việc chia sẻ trong sự khổ đau của họ.

Về phần tôi, việc gặp gở với vô số người khắp thế giới và từ mọi tấng lớp của cuộc sống nhắc nhở tôi về căn bản giống nhau của chúng ta như những con người. Thực tế, càng thấy thế giới nhiều hơn, thì càng trở nên rõ ràng hơn rằng bất chấp hoàn cảnh chúng ta là gì, cho dù chúng ta giàu hay nghèo, có học vấn hay không, chủng tộc, giới tính, tôn giáo này hay kia, thì tất cả chúng ta đều khao khát được hạnh phúc và không muốn khổ đau. Mọi mục tiêu của hành động chúng ta, trong ý nghĩa của cả cuộc đời chúng ta, chúng ta lựa chọn để sống như thế nào trong phạm trù của những giới hạn bắt buộc bởi những hoàn cảnh của chúng ta, có thể được thấy như câu trả lời của chúng ta đến câu hỏi lớn đối diện tất cả chúng ta: “Làm sao tôi được hạnh phúc?”

Chúng ta kiên trì trong nhu cầu lớn cho hạnh phúc, dường như đối với tôi, là bằng hy vọng. Chúng ta biết, ngay cả nếu chúng ta không thừa nhận nó, thì không thể có gì bảo đảm cho một đời sống hạnh phúc hơn, tốt đẹp hơn là cuộc sống mà chúng ta có hiện tại. Như một thành ngữ cổ của Tây Tạng nói, “Cuộc sống kế hay ngày mai – chúng ta không bao giờ chắc chắn điều nào đến trước.” Nhưng chúng ta hy vọng để tiếp tục sống. Chúng ta hy vọng rằng qua hành động này hay nọ chúng ta có thể mang đến hạnh phúc. Mọi thứ chúng ta làm không chỉ như những cá nhân mà cũng trên cấp độ của xã hội, có thể được thấy trong dạng thức nguyện vọng căn bản này. Thực tế, nó là một điều được tất cả mọi chúng sanh chia sẻ. Khát vọng hay xu hướng hạnh phúc và không bị khổ đau được biết là không giới hạn. Đó là bản chất của chúng ta. Như thế ấy, không cần biện minh và được xác thực bởi sự kiện đơn giản là chúng ta muốn điều này một cách tự nhiên và đúng đắn.

Và điều này là chính xác với những gì chúng ta thấy trong xứ sở của chúng ta cả giàu và nghèo. Mọi nơi, bằng mọi phương tiện không thể tưởng tượng được, mọi người đang cố gắng để cải thiện đời sống của họ. Tuy nhiên một cách lạ lùng, ấn tượng của tôi là những người đang sống trong những xứ vật chất phát triển, đối với tất cả kỷ nghệ của họ, thì trong những cách nào đó kém hài lòng, ít hạnh phúc và một số khổ sở hơn những người sống ở những nước kém phát triển hơn. Thực tế, nếu chúng ta so sánh người giàu với người nghèo, thì thường thấy rằng những người không có gì, trong thực tế ít băn khoăn lo lắng hơn, mặc dù họ bệnh tật với những đau đớn khổ sở của thân thể. Đối với những người giàu, trong khi số ít biết sử dụng sự giàu có của họ một cách thông minh, phải nói là, không sống trong sự xa hoa mà biết chia sẻ nó với những người cần thiết – nhiều người không làm như vậy. Họ bị nhiễm quá nhiều với ý tưởng đòi hỏi hơn nữa rằng họ không có chỗ cho điều gì khác trong cuộc sống của họ. Trong sự miệt mài của họ, thì họ thật sự đánh mất giấc mơ của hạnh phúc, vốn với sự giàu có cung cấp. Như một kết quả, họ liên tục bị dày vò, bị giằng co giữa nghi ngờ về những gì có thể xảy ra và hy vọng có thêm nữa, và nổi khổ đau bệnh tật tinh thần và cảm xúc – mặc dù bên ngoài họ trông có vẻ hoàn toàn thành công và cuộc sống thoải mái. Điều này cho thấy rằng cả bởi cấp độ cao và bởi những quấy rầy phổ biến giữa những người ở những xứ phát triển vật chất về băn khoăn, bất toại, chán nản, không chắc chắn và căng thẳng. Hơn thế nữa, sự đau khổ nội tại này rõ ràng bị nối kết với sự lớn mạnh mơ hồ của những gì cấu thành một cách đạo đức và nền tảng của chúng là gì.

Tôi thường được nhắc lại nghịch lý này khi tôi ra ngoại quốc. Nó thường xảy ra khi tôi đến một xứ sở mới, ban đầu mọi thứ dường rất hài lòng, rất xinh đẹp. Mọi người tôi gặp gở rất thân mật. Không có gì để phàn nàn. Nhưng sau đó, ngày qua ngày khi tôi lắng nghe, tôi đã nghe những rắc rối của con người, sự quan tâm và lo lắng của họ. Ở dưới bề mặt, rất nhiều người cảm thấy không dễ dàng và không hài lòng với cuộc sống của họ. Họ trải nghiệm cảm giác cô lập; rồi theo đó là căng thẳng. Kết quả là không khí rắc rối như vậy vốn là một đặc trưng của thế giới phát triển.

Nghịch lý này nhờ đó nội tại – hay chúng ta có thể nói một cách tâm lý và cảm xúc – đau khổ thì rất thường thấy giữa sự dồi dào vật chất rõ ràng hiện hữu khắp nhiều nước phương Tây. Thực tế, nó cũng rất rộng rãi mà chúng ta có thể tự hỏi có điều gì đó trong nền văn hóa phương Tây vốn đưa đến những người sống ở đó đến những loại khổ đau như vậy. Điều này tôi nghi ngờ. Rất nhiều yếu tố đã liên hệ. Một cách rõ ràng, tự sự phát triển vật chất đóng một vai trò hoạt động. Nhưng chúng ta cũng có thể nêu ra sự đô thị hóa gia tăng của xã hội hiện đại, nơi mà những sự tập trung cao độ của những con người sống gần gũi với nhau. Trong phạm vi này, cho rằng ở nơi sự lệ thuộc của chúng ta với nhau để hổ trợ nhau, thì ngày nay, bất cứ nơi nào có thể, thì chúng ta có xu hướng nương tựa máy móc và những sự phục vụ. Trái lại trước đây, những người nông dân sẽ kêu gọi tất cả những thành viên trong gia đình để giúp đở với việc thu hoạch, ngày nay chỉ đơn giản là gọi những công ty làm việc ấy. Chúng ta thấy cuộc sống hiện đại được tổ chức như vậy vì thế nó chỉ đòi hỏi sự lệ thuộc rõ ràng tối thiểu có thể với những người khác. Khát vọng phổ quát nhiều hơn hay ít hơn dường như đối với mọi người là sở hữu ngôi nhà của chính họ, chiếc xe của chính họ, máy tính của chính họ và v.v…nhằm để như là độc lập như có thể. Điều này là tự nhiên và có thể hiểu được. Chúng ta cũng có thể chỉ ra sự gia tăng việc tự quản - tự do ý - chí mà mọi người thích thú như một kết quả tiến bộ trong khoa học và kỷ thuật. Trong thực tế, có thể là ngày nay chúng ta độc lập hơn bao giờ hết. Nhưng với những sự phát triển này, cũng phát sinh một cảm giác rằng tương lai của tôi sẽ không lệ thuộc vào hàng xóm của tôi mà đúng hơn là nghề nghiệp của tôi, nhất là, chủ nhân của tôi. Điều này hóa ra là khuyến khích chúng ta cho rằng những người khác không quan trọng cho hạnh phúc của tôi, hạnh phúc của họ là không quan trọng đối với tôi.

Trong cái nhìn của tôi, thì chúng ta đã tạo nên một xã hội mà trong đó chúng ta thấy ngày càng khó hơn để biểu lộ tình cảm căn bản cho nhau. Thay cho cảm nhận cộng đồng và quan hệ, thứ mà chúng ta thấy một sự trấn an như vậy của những xã hội giàu có (và nói chung là nông thôn), chúng ta thấy một cấp độ cao của cô độc và xa lánh. Mặc dù thật sự là hàng triệu người sống gần gũi với nhau, nhưng dường như rằng nhiều người, đặc biệt trong những người già, không có ai để nói chuyện ngoài những con thú của họ. Xã hội kỷ nghệ hiện đại thường làm tôi chú ý giống như là một bộ máy khổng lồ tự đẩy tới. Thay vì con người phụ trách, thì mỗi cá nhân là một thành phần nhỏ bé, không đáng kể không có lựa chọn nào khác hơn là chuyển động khi bộ máy chuyển động.

Rõ ràng, lý do quan trọng cho sự hết lòng của xã hội hiện đại với tiến trình vật chất là sự rất thành công của khoa học và kỷ thuật. Bây giờ, điều kỳ diệu về những hình thức này của nổ lực con người là chúng mang đến sự hài lòng ngay tức thời. Không như sự cầu nguyện, các kết quả phần lớn là không thấy – nếu thật sự việc cầu nguyện hoàn toàn có tác dụng. Và chúng ta ấn tượng bởi những kết quả. Điều gì bình thường hơn? Bất hạnh thay, sự tận tâm này khuyến khích chúng ta cho rằng những chìa khóa cho sự hạnh phúc là sự cát tường vật chất về một mặt và năng lực được trao bởi kiến thức về mặt khác. Và trong khi rõ ràng rằng với bất cứ người nào với tư tưởng thành thục này rằng chìa khóa cho sự hạnh phúc là sự cát tường về vật chất thì không thể tự mang đến hạnh phúc cho chúng ta, điều tiếp theo thì càng tệ hơn. Nhưng sự thật là, kiến thức không thôi không thể cung ứng hạnh phúc vốn xuất hiện từ sự phát triển nội tại chứ không liên hệ đến những nhân tố ngoại tại. Thực tế, mặc dù kiến thức rất chi tiết và đặc thù của những hiện tượng ngoại tại là một thành tựu vô biên, nhưng sự thúc đẩy để giảm thiểu, thu hẹp để theo đuổi nó, còn lâu mới mang lại hạnh phúc cho chúng ta có thể thật sự là nguy hiểm. Nó có thể làm cho chúng ta xa rời thực tế rộng lớn hơn của kinh nghiệm con người, và trong đặc thù, sự lệ thuộc của chúng ta với những người khác.

Chúng ta cũng cần nhận ra những gì xảy ra khi chúng ta lệ thuộc quá nhiều vào những thành tựu ngoại tại của khoa học. Thí dụ, như ảnh hưởng của những sự suy đồi tôn giáo, có sự gia tăng bối rối liên quan đến vấn đề chúng ta điều khiển mình trong cuộc sống như thế nào. Trong quá khứ, tôn giáo và đạo đức hòa quyện vào nhau. Bây giờ, nhiều người, tin tưởng rằng khoa học đã “bác bỏ” tôn giáo, cho nên họ càng kiêu ngạo hơn rằng bởi vì không có những bằng chứng cuối cùng nào cho bất cứ thẩm quyền của tâm linh nào, thì đạo đức tự nó phải là một vấn đề ưu tiên của cá nhân. Và trái lại trong quá khứ, những nhà khoa học và triết học cảm thấy một nhu cầu thúc ép để tìm ra những nền tảng cụ thể mà trên đó thiết lập những luật lệ bất biến và những lẽ thật tuyệt đối, thì bây giờ loại tìm kiếm như vậy là vô ích. Như một kết quả, chúng ta thấy một sự đảo ngược hoàn toàn, hướng đến cực đoan đối kháng, nơi mà không có gì tuyệt đối tồn tại nữa, nơi mà thực tại tự nó bị đặt câu hỏi. Điều này chỉ dẫn đến hổn loạn.

Nói như vậy, tôi không có ý phê phán nổ lực của khoa học. Tôi đã biết rất nhiều từ việc chạm trán với những nhà khoa học, và tôi thấy không có trở ngại gì để dấn thân trong việc đối thoại với  họ ngay cả khi quan điểm của họ là một thứ chủ nghĩa vật chất. Thực tế, cho đến khi mà tôi có thể nhớ, thì tôi đã rất hào hứng bởi cái nhìn sâu sắc của khoa học. Như một đứa trẻ, có một thời khi mà tôi đúng là quan tâm hơn trong việc tìm hiểu về cơ cấu của một máy chiếu phim cũ mà tôi thấy trong kho của cung điện mùa hè của Đạt Lai Lạt Ma hơn là những bài học tôn giáo và học thuật. Sự quan tâm của tôi đúng hơn là chúng ta có thể bỏ qua những giới hạn của khoa học. Trong việc thay thế tôn giáo như là nguồn cuối cùng của kiến thức trong sự đánh giá thông thường, thì khoa học bắt đầu nhìn tự nó hơi giống như một loại tôn giáo khác.Với điều này đi đến một hiểm họa tương tự trên phần của một điều gì đó của những môn đồ của nó của một niềm tin mù quáng trong những nguyên lý của nó, và, một cách tương ứng, không bao dung những quan điểm loại trừ lẫn nhau. Tuy nhiên, sự hất cẳng tôn giáo đã xảy ra là không có gì ngạc nhiên cho những thành tựu ngoại lệ của khoa học. Ai mà không ấn tượng về năng lực của chúng ta đã đưa con người đặt chân lên mặt trăng? Nhưng vấn đề tồn tại rằng, thí dụ nếu chúng ta đi đến một nhà khoa học nguyên tử và nói, “tôi đang đối diện một vấn đề khó xử, tôi nên làm gì?” người ấy có thể chỉ lắc đầu và đề nghị chúng ta tìm nơi nào khác cho câu trả lời. Nói một cách tổng quát, một nhà khoa học có một vị trí không hơn gì một luật sư trong trường hợp này. Vì trong khi cả khoa học và luật học có thể giúp chúng ta dự báo trước hậu quả có thể có trong các hành động của chúng ta, nhưng không thể nói vấn đề chúng ta phải làm thế nào trong một ý nghĩa đạo đức. Hơn thế nữa, chúng ta cần nhận ra những giới hạn của khoa học trong chính câu hỏi. Thí dụ, mặc dù chúng ta đã nhận thấy ý thức con người hàng thiên niên kỷ, và mặc dù nó đã là chủ đề của sự thẩm tra suốt chiểu dài của lịch sử, mặc cho những nổ lực tối đa của các nhà khoa học thì họ vẫn không thấu hiểu nó thật sự là gì, hay tại sao nó tồn tại, nó thể hiện chức năng như thế nào, hay bản chất cơ bản của nó là gì. Khoa học không thể nói với chúng ta nguyên nhân căn bản của ý thức là gì, cũng không thể nói những ảnh hưởng của nó là gì. Dĩ nhiên, ý thức thuộc về loại hiện tượng không có hình tướng, vật chất hay màu sắc. Nó không dễ bị khảo sát bởi những phương tiện ngoại tại. Nhưng điều này không có nghĩa là những thứ như vậy không tồn tại, chỉ đơn thuần khoa học thì không thể tìm thấy chúng.

Do vậy, chúng ta có nên từ bỏ những thẩm tra của khoa học trên cơ sở đã làm chúng ta thất vọng không? Chắc chắc là không. Cũng không có nghĩa là tôi cho rằng mục tiêu cho sự thịnh vượng vì tất cả chúng ta là vô giá trị. Do bởi bản chất của tất cả chúng ta, những kinh nghiệm thân thể và vật lý đóng một vai trò ưu thắng trong đời sống của chúng ta. Những thành tựu của khoa học và kỷ thuật rõ ràng phản chiếu mong muốn của chúng ta đạt được một sự tồn tại tốt đẹp hơn và thoải mái hơn. Điều này là rất tốt. Ai mà không vổ tay ca ngợi cho nhiều tiến bộ của y dược hiện đại?

Cùng lúc, tôi nghĩ thật chân thành rằng những thành viên của những cộng đồng thôn dã truyền thống nào đó thật sự hưởng thụ sự hòa hợp lớn hơn và tĩnh lặng hơn với cư ngụ trong những thành phố hiện đại của chúng ta. Thí dụ, trong vùng Spiti ở bắc Ấn Độ, vẫn duy trì phong tục cho những cư dân địa phương là không khóa cửa nhà của họ khi đi ra ngoài. Họ nghĩ rằng một khách viếng thăm thấy nhà trống vắng sẽ đi vào và tự làm thức ăn trong khi chờ đợi gia đình trở về. Điều như vậy cũng từng tồn tại trong thời xưa ở Tây Tạng. Điều này không nói rằng không tội phạm trong những vùng như vậy. Như trong trường hợp của Tây Tạng bị chiếm đóng, những thứ như vậy dĩ nhiên xảy ra thỉnh thoảng.  Nhưng khi họ làm như vậy, người ta sẽ cau mày trong ngạc nhiên. Nó là một sự kiện hiếm hoi và bất thường. Với sự đô thị hóa đã đi đến sự bất hòa hợp.

Tuy nhiên, chúng ta phải thật cẩn thận không lý tưởng hóa những cung cách sống xưa cũ. Trình độ hợp tác cao mà chúng ta thấy trong những cộng đồng thôn dã kém phát triển có thể là những nơi dựa trên nhu cầu nhiều hơn là thiện chí. Người ta nhận ra nó như một giải pháp thay thế cho khó khăn lớn hơn. Và sự toại nguyện mà chúng ta nhận thức có thể có nhiều để làm với sự không biết. Những người này có thể không nhận hay tưởng tượng rằng có bất cứ cung cách sống nào khác của cuộc sống là có thể. Nếu họ biết, rất có thể họ nắm lấy nó một cách hăng hái. Sự thử thách mà chúng ta đối diện do đó là việc tìm ra một phương pháp nào đó để hưởng thụ cùng cấp độ hòa hợp và tĩnh lặng như những cộng đồng truyền thống hơn đó trong khi hoàn toàn lợi lạc với những sự phát triển vật chất của thế giới như chúng ta thấy nó vào lúc bình minh của thiên niên kỷ mới. Bằng khác hơn nó hàm ý rằng những cộng đồng này không nên cố gắng ngay cả cải thiện tiêu chuẩn đời sống của họ. Tuy nhiên, tôi hoàn toàn chắc chắn rằng, thí dụ, đại đa số người du mục Tây Tạng sẽ rất vui mừng để có quần áo giữ nhiệt mới nhất cho mùa đông, nhiên liệu không khói để nấu ăn, những lợi ích của thuốc men hiện đại và những máy truyền hình di động trong những căn lều của họ. Và tôi là một người sẽ không mong phủ nhận những thứ này của họ. Xã hội hiện đại, với tất cả những lợi ích và nhược điểm của nó, đã nổi bật lên trong bối cảnh của vô số nguyên nhân và điều kiện. Cho rằng chỉ đơn thuần bằng việc từ bỏ tiến trình vật chất thì chúng ta có thể vượt qua tất cả những rắc rối của thời đại sẽ là thiển cận. Như vậy sẽ bỏ qua những nguyên nhân tiềm tàng của chúng. Bên cạnh đó, vẫn có nhiều điều tích cực trong thế giới hiện đại.

Có vô số người trong những nước phát triển nhất rất năng động trong sự quan tâm của họ cho người khác. Gần nhà hơn, tôi nghĩ về lòng ân cần tử tế lớn lao mà những người Tây Tạng tị nạn được cho thấy bởi những người mà tài nguyên cá nhân cũng rất giới hạn. Thí dụ, những trẻ em Tây Tạng đã lợi lạc không kể xiết từ những đóng góp vô ngã của những giáo viên Ấn Độ, nhiều người buộc phải sống dưới những điều kiện khó khăn xa nhà của họ. Trên mức độ rộng hơn, chúng ta cũng có thể quan tâm đến nhận thức ngày càng lớn mạnh về những quyền con người cơ bản khắp mọi nơi trên thế giới. Điều này cho thấy một sự phát triển rất tích cực trong cái nhìn của tôi. Cung cách mà trong ấy mà cộng đồng quốc tế đáp ứng chung đến những thảm họa thiên nhiên với sự giúp đở tức thời cũng là một đặc trưng tuyệt vời của thế giới hiện đại. Sự thừa nhận gia tăng rằng chúng ta không bao giờ có thể tiếp tục ngược đãi môi trường tự thiên nhiên của chúng ta mà không đối diện với những hậu quả nghiêm trọng như một nguyên nhân cho hy vọng. Hơn thế nữa, tôi tin rằng, việc cảm ơn rộng rãi cho sự đối thoại hiện đại, con người chắc chắn chấp nhận hơn cho sự đa dạng hiện tại. Và những tiêu chuẩn của trình độ học vấn và giáo dục khắp thế giới nói chung là cao hơn trước đây. Những phát triển tích cực như vậy tôi xem như là một biểu hiện của những gì con người có thể làm được.

Mới đây, tôi đã có cơ hội để gặp Mẹ của Nữ Hoàng Anh Quốc. Bà đã là một nhân vật quen thuộc suốt cuộc đời tôi, cho nên điều này đã cho tôi một niềm vui lớn.  Nhưng điều hào hứng là được nghe ý kiến của bà, như một phụ nữ già của chính thế kỷ hai mươi, là người ta đã trở nên tỉnh thức hơn về những người khác hơn là khi bà ta còn trẻ. Trong những ngày đó, bà nói, người ta quan tâm chính yếu trong xứ sở của họ, trái lại ngày nay có nhiều quan tâm cho những cư dân của các quốc gia khác. Khi tôi hỏi bà rằng bà có lạc quan về tương lai không, thì bà đã trả lời một cách khẳng định không chút do dự.

Tuy nhiên, không giống như những khổ đau của bệnh tật, tuổi già và sự chết, không rắc rối nào trên đây là bởi tự nhiên không tránh khỏi. Chúng cũng không phải do thiếu kiến thức. Khi chúng ta suy nghĩ một cách cẩn thận, thì chúng ta thấy rằng tất  cả chúng là vấn nạn đạo đức. Mỗi thứ trong chúng phản chiếu sự thấu hiểu của chúng ta về những gì đúng và sai, về những gì tích cực và những gì tiêu cực, về những gì thích đáng và không thích đáng. Nhưng vượt qua điều này thì chúng ta có thể chỉ đến điều gì đó căn bản hơn: sự quên lãng về những gì chúng ta gọi là không gian bên trong chúng ta.

Tôi muốn nói gì qua điều này? Theo sự thấu hiểu của tôi, sự nhấn mạnh quá mức về những thành tựu vật chất của chúng ta phản chiếu một sự kiêu hảnh tiềm tàng rằng, những gì nó có thể mua có thể bằng tự chính nó, cung cấp chúng ta với tất cả sự hài lòng mà chúng ta yêu cầu. Tuy thế tự nhiên, thì sự hài lòng của thành tựu vật chất có thể cung ứng cho chúng ta sẽ bị giới hạn với trình độ của cảm giác. Nếu đúng là con người chúng ta không khác với thú vật, thì điều này sẽ tốt thôi. Tuy nhiên, chủng loại của chúng ta là phức tạp – trong đặc thù, sự kiện rằng những suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta cũng như sự tưởng tượng và năng lực phê bình – rõ ràng rằng những nhu cầu của chúng ta vượt lên trên cảm giác đơn thuần. Sự phổ biến của băn khoăn, căng thẳng, bối rối, không chắc chắn và chán nản trong những người mà nhu cầu căn bản của họ đã gặp là một biểu thị rõ ràng cho điều này. Những rắc rối của chúng ta, cả những trải nghiệm ngoại tại – chẳng hạn như chiến tranh, tội ác và bạo động và những thứ chúng ta kinh nghiệm bên trong – những khổ đau cảm xúc và tâm lý – là không thể giải quyết cho đến khi chúng ta nói về sự quên lãng tiềm tàng này. Đó là tại sao những vận động lớn của một trăm năm qua và hơn nữa – dân chủ, giải phóng, chủ nghĩa xã hội – tất cả đều thất bại để đem lại lợi ích chung mà đáng lẻ chúng phải cung ứng, mặc dù có rất nhiều ý tưởng tuyệt vời. Một cuộc cách mạng được kêu gọi, một cách chắc chắn. Nhưng không phải là một cuộc cách mạng chính trị, kinh tế hay cả một cuộc cách mạng kỷ thuật. Chúng ta đã có đủ kinh nghiệm về những thứ này trong suốt thế kỷ trước để biết rằng một sự tiếp cận ngoại tại sẽ không đủ. Điều tôi đề xuất là một cuộc cách mạng tâm linh.

***

Ẩn tâm lộ, Friday, October 15, 2021

Trích từ quyển The Essential Dalai Lama



 

Thứ Hai, 11 tháng 10, 2021

THỰC HÀNH HÀNG NGÀY CỦA KIM CANG PHỔ BA

 

THỰC HÀNH HÀNG NGÀY CỦA VAJRAKĪLA


 

Āḥ! Sự tỉnh thức hiện tại này, thoát khỏi tâm nhận thức,
Thậm thâm và rực sáng như bầu trời,
Là bản chất chân thật của bổn tôn thần thể.
Không có thuộc tính, như khuôn mặt hay cánh tay, để bám víu vào.

Quả cầu lớn là thân kim cang -
Kim Cang Phổ Ba (Vajrakumāra) đồng tử, bậc không già hay ốm yếu,
Nhưng duy trì ổn định mãi mãi, hiển bày sự hiện diện đoàn tuỳ tùng hoàn hảo và hiện diện một cách tự nhiên của ngài::

Tất cả xuất hiện là hiện tướng của bổn tôn:
Tất ca âm thanh là Kīla đại lạc:
Tất cả tư tưởng là tâm của phẫn nộ kim cang.
Tất cả hiện tướng, âm thanh và tỉnh thức hình thành
Những thân và thế giới mandala của bổn tôn.

om benza kili kilaya sarva bighanen bam hung phet dzah hung ah
oṃ vajra kīli kīlaya sarva vighnān baṃ hūṃ phaṭ | jaḥ hūṃ āḥ

Nguyện cầu cho nguyện vọng và hồi hướng
Từ Kīla Tantra: sự hoàn toàn tịnh hoá sân hận


Nguyện cho chúng con mãi tái sanh, trong gia đình của những heruka,
với Kim Cang Phổ Ba vô tỉ như sự hướng dẫn của chúng con,
Tâm chúng con được phú cho lòng từ bi,
Và với lòng sùng mộ sâu sắc với đạo sư!

Nguyện cho chúng con được mãi mãi sanh ra, để cầm chày kim cang và đao phổ ba (kīla),
Để học hỏi giáo pháp thậm thâm,
Và, không có bất cứ sự phân biệt nào,
Để cùng chia sẻ cam lồ của hoàng hậu!

Sau đó:
Qua công đức này, nguyện cho chúng con và tất cả chúng sanh,
Đạt được chiến thắng đối với ma vương, và vượt thắng tất cả những chướng ngại
Và chắc chắn thành tựu đạo quả giác ngộ -
Niết bàn vô thượng của Kim Cang Phổ Ba.

***
Vì vậy, hãy hồi hướng công đức hướng tới giác ngộ tối thượng, và niêm phong việc thực hành bằng những lời nguyện cầu nguyện vọng sâu sắc
 
Anh dịch: Rigpa Translations, with many thanks to Lama Chökyi Nyima (Richard Barron).
Việt dịch: Tuệ Uyển / 28-7-2021

 

BA MƯƠI NGUYỆN VỌNG



BA MƯƠI NGUYỆN VỌNG

The Thirty Aspirations | Lotsawa House


ན་མོ་གུ་རུ། །
Namo guru!

Nguyện cho những gia hộ của một bậc thầy ban cho với một dòng truyền thừa tâm linh đi vào tâm trí của chúng con và tất cả chúng sanh khác.
Nguyện cho chúng con nhận ra ý nghĩa rốt ráo đã được giới thiệu.
Nguyện cho nhận thức này sẽ trở nên rõ ràng một cách hoàn hảo trong chúng con.
Nguyện cho chúng con nhận được một lời tiên tri liên quan đến cả sự không sợ hãi và mười sức mạnh[1].
Nguyện cho những điềm lành tròn dần và sự nông cạn tàn lụi.

Nguyện cho chúng con có khả năng đưa tất cả chúng sanh vào con đường chín muồi và giải thoát.
Nguyện cho chúng con có khả năng đi qua các nền tảng và những con đường chỉ trong một lần ngồi.
Nguyện cho con mắt trí tuệ của chúng con có thể nhìn thấy được chân lý của pháp tánh.
Nguyện cho đạo đức của chúng con lớn lên như lá mùa xuân.
Nguyện cho mọi sự đơm bông kết trái chín muồi như một cây ước nguyện.

Nguyện cho lòng sùng kính của chúng con được vững bền như Núi Tu Di.
Nguyện cho chúng con chắc chắn, không còn nghi ngờ gì nữa.
Nguyện cho nguyện vọng của chúng con được thanh tịnh, khi chúng con trải qua sự chín muồi của nghiệp lành.
Nguyện cho áo giáp [của sự kiên trì của chúng con] không bị ô uế trần tục.
Nguyện cho chúng con có khả năng chịu đựng gian khổ và sự tu tập của chúng con không bị chướng ngại.

Nguyện cho các kinh mạch, các luồng khí và các giọt của chúng con được mềm dẻo.
Nguyện cho chúng con tiếp tục có những ý định trong sáng.
Nguyện cho tâm bồ đề của chúng con không bao giờ suy đồi.
Nguyện cho chúng con trải nghiệm quan điểm và thiền tập của Đại Thừa.
Nguyện cho tâm nhị nguyên của chúng con được giải thoát một cách tự nhiên.

Nguyện cho chúng con được sanh ra trong một dòng họ quyền quý.
Nguyện cho chúng con được chăm sóc bởi một bậc thầy của dòng dõi tuyệt vời.
Nguyện cho hạnh kiểm của chúng con không bao giờ là bất thiện.
Nguyện cho chúng con tu tập tâm thức của mình trong ba loại kiến thức[2].
Nguyện cho chúng con nhận được những phước lành của sự trao truyền.

Nguyện cho chúng con đạt được phúc lạc như kim cang.
Nguyện cho chúng con làm chủ được ý thức, các kinh mạch và năng lượng vi tế.
Nguyện cho chúng con thành tựu sắc thân như thân thể của chính mình.
Nguyện cho chúng con thực chứng pháp thân một cách trực tiếp.
Với các hoạt động của ứng hóa thân, nguyện cho chúng con có thể hoàn thành phúc lợi của người khác một cách hoàn hảo.

***
The Thirty Aspirations
Tác giả: Padampa Sangye
 Anh dịch:Sean Price, 2021.
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển chuyển ngữ /Monday, October 11, 2021


[1] Thập lực
[2] Ba loại kiến thức: văn là lắng nghe, tư là quán chiếu, và tu là thực hành


Chủ Nhật, 10 tháng 10, 2021

NGUYỆN VỌNG CHO THỜI ĐẠI CUỐI CÙNG

 


NGUYỆN  VỌNG CHO THỜI ĐẠI CUỐI CÙNG
Aspiration for the Final Age | Lotsawa House



Namo! Từ tận đáy lòng, chúng con xin nương tựa Tam Bảo.
Cho đến khi đạt được sự tin tưởng bản chất vô sanh của thực tại,
Nguyện cho chúng con không bao giờ rơi vào những cõi thấp
Nhưng đạt được thân người, cao cấp ngay cả hình tướng của chư thiên.

Thậm chí nếu chúng con đạt được những cõi cao hơn, không nơi nào trong cõi luân hồi
Thoát khỏi những ràng buộc của ba loại khổ đau.
Và ngay cả trong những cảnh giới may mắn, nguyện cho chúng con thoát khỏi hình thức
Chướng ngại niết bàn, chẳng hạn những tình trạng không tự do.
 
Nguyện cho chúng con tránh phải sanh ra như một vị vua độc ác hay một viên chức thiếu kiềm chế,
Kẻ say mê lợi danh và luồn lách cùng coi thường luật pháp
Nguyện
cho chúng con đừng trở thành một người hầu, hèn mọn và bị dày vò,
Hoặc một thương gia, hoặc bất cứ ai bất chánh hoặc có lỗi.

Nguyện
cho chúng con không trở thành một người quản lý ăn cắp tài sản của Tăng già,
Hoặc một người không có phẩm chất hoặc phóng thích kẻ chiếm dụng tiền quỹ.
Nguyện
cho chúng con tránh tái sanh làm người không nhận kẻ tổn thương gia chủ
Khi họ cố gắng để tái sanh tốt hơn và là người hành hạ tâm hồn của kẻ khác.

Nguyện
cho chúng con không trở thành một người xấu số như một con rắn
Hoặc một người có sự ghen tị với sự giàu có của người khác giống như a tu la.
Nguyện
cho chúng con tránh tái sanh như một kẻ lừa dối bậc tôn kính
Và coi thường Giáo Pháp, hoặc như một tên trộm, một kẻ cướp hay một thợ săn.

Nguyện
cho chúng con tránh được năm tội ác vô biên[1] và năm tội ác tương tự,
Và không hối hận một cách vô cớ phạm mười điều bất thiện[2].
Nguyện
cho chúng con tránh được tất cả các hình thức của hành vi sai trái và phi đạo đức,
Chẳng hạn như đốt cháy rừng hoặc lấy trộm mật ong từ ổ ong

Tránh những cảnh ngộ như vậy, bây giờ, khi kết thúc năm trăm,[3]
Có được sự hỗ trợ quý giá của thân thể con người,
Cho dù là một tu sĩ hay cư sĩ,
Xin cho chúng con được thừa kế dòng dõi của các vị bồ tát.

Ngay sau khi chúng con được tái sanh, chúng con có thể gặp một bậc thầy hoàn hảo
Và thật sự giảng dạy con đường Đại Thừa,
Và bằng cách làm hài lòng vị ấy theo mọi cách,
Nguyện cho chúng con có được trí tuệ của lắng nghe, tư duy, và thực hành.

Hơn nữa, bằng cách sở hữu động lực của Bồ đề tâm
Và tự làm quen với việc áp dụng sáu sự hoàn hảo,
Cầu mong cho chúng con có được may mắn tối cao để vượt qua tất cả cùng một lúc
Năm con đường[4] và mười giai đoạn[5] và làm chủ bộ tập hợp những mật điển!

***
Nguyên bản: Aspiration for the Final Age

Tác giả:  Jigme Lingpa
Anh dịch: Matthias Staber, Patrick Dowd and Han Kop, 2021.
 Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính / Sunday, October 10, 2021



[1] Năm tội lớn (sa. pañcānantaryāṇi karmāṇi), còn được gọi là Ngũ nghịch, Ngũ vô gián nghiệp là năm tội nặng nhất dẫn đến quả báo ngay lập tức, trong kiếp này (vô gián, Phạn văn "ānantarya" nghĩa là ngay lập tức, không có trung gian, gián đoạn), sau khi chết sa đoạ Ðịa ngục (sa. naraka). Chúng cụ thể là:1/Giết cha (sát phụ, sa. pitṛghāta);2/Giết mẹ (sát mẫu, sa. mātṛghāta);3/Giết một vị A-la-hán (sát A-la-hán; sa. arhadvadha);4/Làm thân Đức Phật chảy máu (xuất Phật thân huyết, sa. tathāgatasyāntike duṣṭacittarudhirotpadana).5/Chia rẽ Tăng-già (Phá hoà hợp tăng, sa. saṅghabheda).
[2] Mười điều bất thiện, gồm ba của thân, bốn của miệng, và ba của ý/ đối lại là mười thiện nghiệp
[3] Điều này đề cập đến năm trăm năm cuối cùng của Phật pháp.
[4] Năm con đường: tư lương, gia hạnh, kiến đạo, tu tập, và vô học
[5] Thập địa bồ tát