Chủ Nhật, 16 tháng 9, 2018

CẤU TRÚC THÂN TÂM




Nguyên bản: The Inner Structure
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

-***-

Ngày mai khi ta không còn nữa
Đang đến không còn nghi ngờ gì nữa
-THƯ GỬI KANIKA CỦA SHURA-

-***-

Thi Kệ Mười Một

Xin cho chúng tôi biết bản chất của chính chúng tôi
Qua du già việc nhận biết luân hồi và niết bàn như trống rỗng
Khi xuất hiện, gia tăng, và gần đạt đến hòa tan – thứ trước vào thứ sau –
Cùng những trải nghiệm như ánh sáng
của mặt trăng, mặt trời, và bình minh đen tối.

Để có được một cảnh tượng của bốn giai cuối của sự chết diễn tiến, thì thật cần thiết để thấu hiểu những trình độ của thức cũng như cấu trúc của những kinh mạch, các luồng gió,các hạt của chất lỏng (gồm nước và khí) bên trong thân thể. Đây là triết lý và tâm lý học quan trọng của Mật thừa.

NHỮNG TRÌNH ĐỘ CỦA THỨC

Tantra Yoga Tối Thượng phân chia thức thành những trình độ thô, vi tế, và cực vi tế. Những trình độ thô bao gồm năm thức cảm giác (tiền ngũ thức) – nhãn thức nhận biết màu sắc và  hình thể, nhĩ thức cho các âm thanh, tỉ thức cho mùi hương, thiệt thức cho vị nếm, thân thức cho kinh nghiệm xúc chạm. Đây là những thức cá biệt với những không gian hoạt động đặc thù – màu sắc và hình thể, âm thanh, mùi hương, vị nếm, và trải nghiệm xúc chạm.

Vi tế hơn những thứ này nhưng vẫn ở trình độ thô là thức mà với nó chúng ta suy nghĩ – ý thức. Nó được phân thành năm lớp, tương ứng với ba loại gió – mạnh, vừa và yếu – trên đó ba lớp ý thức cưỡi lên. Nhóm ý thức thứ nhất liên hệ một chuyển động mạnh của gió đến các đối tượng của nó và bao gồm 33 kinh nghiệm nhận thức, chẳng hạn như sợ hãi, dính mắc, đói, khát, thương cảm, hám lợi, và ganh tỵ. Nhóm thứ hai bao gồm các ý thức khái niệm liên hệ một chuyển động vừa của gió đến các đối tượng của chúng – 40 nhận thức,chẳng hạn như vui sướng, kinh ngạc, rộng lượng, mong muốn hôn hít, chủ nghĩa anh hùng, không dịu dàng và quanh co. Nhóm ý thức thứ ba liên hệ một chuyền động yếu của gió đến các đối tượng của nó – bảy nhận thức, là quên lãng, sai lầm như trong việc nhận biết nước trong ảo giác, tâm lý rối loạn, phiền muộn, lười biếng, nghi ngờ cùng muốn bình đẳng và hận thù. (Trong mỗi nhóm của ba nhóm ý thức này, hay các nhận thức, có các trình độ của thô và vi tế).

Ba loại kinh nghiệm nhận thức này thuộc trình độ thô của tâm [là ý thức] nhưng chúng vi tế hơn 5 thức cảm giác. Chúng là những sự phản chiếu, cho nên nói là, thuộc vào những trình độ sâu hơn của thức vốn có nhận thức ít và ít nhị nguyên hơn. Chúng là những dấu vết (hạt giống) của ba trình độ vi tế của tâm vốn biểu hiện tại những thời điểm khi những trình độ thô hơn của thức chấm dứt – hoặc cố tình – như trong những thể trạng thậm thâm của thiền quán – hoặt tự nhiên, như trong tiến trình của sự chết hay đi vào giấc ngủ.

Khi những luồng gió mà trên nó tất cả 80 nhận thức này cưỡi lên sụp đổ, thì những nhận thức cũng tan rã. Điều này cho  phép ba trình độ vi tế của thức biểu hiện trong trật tự này: các tâm màu trắng sống động xuất hiện, đỏ-cam sống động xuất hiện, màu đen sống động xuất hiện. (Những điều này được diễn tả bên dưới trong 5 qua 7 giai đoạn). Những điều này cuối cùng dẫn đến trình độ vi tế nhất của thức, tâm linh quang, vốn, nếu được sử dụng trong con đường tâm linh, là mạnh mẽ nhất. (Nó được diễn tả bên dưới trong giai đoạn 8).

Trước khi thảo luận bốn giai đoạn cuối cùng này trong chi tiết, chúng ta phải giải thích những thay đổi mà trong đó chúng lệ thuộc. Trong triết lý của Tantra Yoga Tối Thượng, những giai đoạn này xảy ra trong những kinh mạch vật chất, những làn gió, và những hạt căn bản vốn chảy trong những kinh mạch này.

CẤU TRÚC CỦA NHỮNG KINH MẠCH TRONG THÂN THỂ

Trong thân thể, có ít nhất bảy mươi hai nghìn (72.000) kinh mạch – động mạch, tĩnh mạch, ống dẫn, dây thần kinh, và con đường rõ ràng hay không rõ ràng vốn bắt đầu lớn mạnh của thứ sẽ là trái tim ngay sau khi thụ thai. Ba kinh mạch quan trọng nhất chạy từ điểm giữa chân mày lên đến đỉnh đầu, rồi đi xuống dọc phía trước của xương sống đến gốc của xương sống, cuối cùng mở rộng đến điểm cuối của bộ phận sinh dục. Sự giải thích này là một cách để tưởng tượng những kinh mạch trung tâm, bên phải, và bên trái trong thiền quán, vốn không giống thế nào đấy với chúng trong thực tế, nhưng việc quán tưởng chúng trong cung cách lý tưởng này rất hiệu quả trong việc tác động đến những trình độ vi tế hơn của tâm. Đôi khi những sự giải thích cơ thể như thế này chỉ đơn thuần biểu thị các điểm tập trung được sử dụng trong thiền quán.

Ở những vị trí quan trọng trong ba kinh mạch chính này là bảy luân xa, với số lượng khác nhau của các nan hoa, hay cánh hoa hay căm xe:

1-    Luân xa đại diệu lạc: tọa lạc bên trong đỉnh đầu, với 32 cánh hoa. Nó được gọi là luân xa đại diệu lạc vì ở trung tâm của nó là hạt của chất lỏng tinh chất trắng vốn là căn bản của diệu lạc.
2-    Luân xa hỉ lạc: ở trung tâm của cuống họng, với 16 cánh hoa. Nó được gọi là luân xa hỉ lạc vì đây là nơi mà những vị nếm được trải nghiệm.
3-    Luân xa hiện tượng: được thấy ở trái tim, với 8 cánh hoa. Được gọi là luân xa hiện tượng vì nó là nơi trú ngụ của gió và tâm rất vi tế mà tự chính chúng là gốc rể của tất cả mọi hiện tượng.
4-    Luân xa xuất phát: tọa lạc tại chấn thủy (mạng lưới thần kinh phía trên bụng) với 64 cánh hoa. Nó được gọi là luân xa xuất phát vì nội hỏa, được kích thích bởi việc tập luyện yoga và phương tiện của việc sản sinh đại diệu lạc, cư trú tại đây.
5-    Luân xa duy trì diệu lạc: ở gốc của xương sống, với 32 cánh hoa. Nó được gọi là luân xa duy trì diệu lạc vì trình độ sâu nhất của diệu lạc được duy trì từ gốc của xương sống.
6-    Luân xa giữa châu báu (chóp của bộ phận sinh dục) có 16 cánh hoa.
7-    Cũng có một luân xa giữa chân mày, với 16 cánh hoa.

Tại tim, những kinh mạch bên phải và bên trái bao bọc chung quanh kinh mạch trung tâm ba lần (mỗi kinh mạch cũng thắt lại trên nó), và rồi đi xuống. Việc này làm thành một sự bó chặc sáu lần tại tim, vốn ngăn cản sự đi qua của luồng gió trong kinh mạch trung tâm. Vì sự bó chặc này là nghiêm nhặt, cho nên trái tim là một sự tập trung lợi hại của thiền tập, vốn có thể đưa đến việc suy nhược thần kinh nếu các kỷ năng thích đáng của thiền tập không được sử dụng.

Tại mỗi trung tâm này – trán, đỉnh đầu, cuống họng, trái tim, chấn thủy, gốc của cột sống, và bộ phận sinh dục – các kinh mạch bên phải và trái bao bọc chung quanh kinh mạch trung tâm mỗi thứ một lần (mỗi kinh mạch cũng thắt lại trên nó), do thế làm thành hai sự siết lại. Các kinh mạch phải và trái được thổi phồng với gió và bóp kinh mạch trung tâm lại như vậy khiến luồng gió  không thể di chuyển trong nó: những sự bó chặc hay siết lại như vậy được gọi là “những mối gút”. Xét cho cùng, thật quan trọng để nhớ rằng việc nêu ra và diễn tả cấu trúc của các kinh mạch và luân xa có ý nghĩa cho việc thực tập; chúng không nhất thiết là những miêu tả hình dáng và vị trí thật sự của chúng, vốn có thể thay đổi rất lớn từ người này sang người khác.

CẤU TRÚC CỦA CÁC LUỒNG GIÓ TRONG THÂN THỂ

Khi gió chú ý đến một đối tượng, nó làm như vậy qua chuyển động của gió, hay năng lượng. Tâm cưỡi trên gió giống như một kỵ mã trên lưng ngựa. Theo Tantra Yoga Tối Thượng, cấu trúc tâm-vật lý của chúng ta liên hệ năm luồng gió chính yếu và thứ yếu:

1-    Gió mang sự sống: Sự tọa lạc chính yếu của nó hệ thống các kinh mạch tại trái tim, và sự biểu hiện của nó là để duy trì sự sống. Nó cũng làm phát sinh năm luồng gió thứ yếu, vốn chi phối sự hoạt động của cảm giác và chú ý.
2-    Gió đi xuống bài tiết: Nó tọa lạc chính yếu trong hệ thống các kinh mạch ở phần dưới của bụng, và nó chuyển động trong khoảng tử cung và túi tinh, bọng đái, đùi, và v.v… Nó bắt đầu và chấm dứt việc đi tiểu, đại tiện, và kinh nguyệt.
3-    Gió của lửa cư trú: Sự tọa lạc của nó ở trong hệ thống các kinh mạch trong chấn thủy, nơi nội hỏa được phát sinh qua yoga. Luồng gió này tạo ra sự tiêu hóa, chia tách những bộ phận tinh chế và chưa tinh chế, và v.v…
4-    Gió chuyển động đi lên: Sự tọa lạc của nó chính yếu trong hệ thống các kinh mạc ở cuống họng. Hoạt động suốt khắp cổ họng và miệng, luồng gió này tạo ra việc nói năng, nếm thức ăn, nuốt, ợ hơi, khạc nhổ và v.v…
5-    Gió tỏa khắp: Sự tọa lạc của nó chính yếu trong các khớp xương, làm cho tay chân cử động, kéo dài và thâu ngắn tay chân, cùng mở và đóng miệng cũng như mí mắt.

Như ta có thể thấy, gió điều khiển các chức năng của cơ thể và tinh thần. Sức khỏe tốt đòi hỏi sự chuyển động tự do của các luồng gió; sự tắc nghẻn gây ra các rắc rối.

Thông thường, gió [năng lượng] không di chuyển trong kinh mạch trung tâm, ngoại trừ tiến trình của sự chết; tuy nhiên, qua những kỷ thuật yoga thậm thâm, nó có thể - cho phép những thể trạng thậm thâm của tâm biểu hiện. Trong bốn giai đoạn cuối cùng của sự chết, các luồng gió vốn phục như nền tảng của thức đi vào các kinh mạch bên phải và bên trái và hòa tan ở đấy. Lần lượt, các luồng gió bên trong các kinh mạch phải và trái đi vào bên trong và hòa tan trong kinh mạch trung tâm. Sự siết chặc của các kinh mạch giảm thiểu và biến mất tại những thắt gút của các kinh mạch. Khi các kinh mạch phải và trái trở nên giảm thiểu sự bám chặc vào nhau, thì kinh mạch trung tâm được tự do, do thế cho phép sự chuyển động của gió bên trong nó. Chuyển động này gây ra sự biểu hiện của các tâm vi tế, mà các nhà du già của Tantra Yoga Tối Thượng tìm cầu để sử dụng trong con đường tâm linh; các luồng gió mà trên đó một tâm diệu lạc sâu xa cưỡi lên rút lui một cách mãnh liệt khỏi việc chuyển động đến các đối tượng, và một tâm như vậy là mạnh mẽ một cách đặc biệt trong việc thực chứng thực tại.

Hơn hai mươi năm trước có một tu sĩ hơn tám mươi tuổi, thất của vị ấy ở bên hiên nhà trong một làng xóm lân cận. Người ta thường đến để xem bói. Vị ấy thỉnh cầu diện kiến, và tôi đã gặp mặt. Vị ấy đã tặng tôi một quyển sách từ truyền thống Nyingma về những sự thực tập, gọi là Đột Phá Và Vượt Qua, và chúng tôi đã tiến hành sự đàm thoại bình thường. Vị ấy đã nói với tôi rằng khi còn trẻ và ở Tây Tạng, đã kết hôn, nhưng người phối ngẫu đã qua đời, sau đó vị ấy đã từ bỏ đời sống thế tục, bỏ lại tất cả tài sản, và đi hành hương. Cuối cùng vị ấy đã đến Drikung, nơi vị ấy đã gặp một vị lạt ma rất già, cũng khoảng tám mươi, trên một ngọn núi sau Drikung. Vị lạt ma có khoảng mười hai đệ tử. Vị ấy nói rằng trong hai trường hợp vị ấy đã thấy các tu sĩ sử dụng các khăn choàng như đôi cánh bay từ đỉnh đồi này sang đỉnh đồi nọ. Vị ấy đã thật sự thấy như thế.

Nếu đó là sự thật, thì đây không phải chỉ là huyển thuật mà đã đến từ việc thực tập yoga gió. Các tu sĩ, sống trong vùng xa xôi ấy với một vị lạt ma già, rõ ràng đã viễn ly và đã phải cởi mở những thắt gút của các kinh mạch. Đối với tôi dường như họ cũng phải có quan kiến về tánh không của sự tồn tại cố hữu (vô tự tánh), cũng như lòng vị tha được phú cho với lòng từ ái và bi mẫn. Cho dù họ có là một học giả hay không đi nữa, thì họ phải có tinh hoa của sự thông hiểu về tánh không.

NHỮNG HẠT CỦA TINH CHẤT LỎNG TRONG CƠ THỂ

Ở trung tâm của các kinh mạch luân xa là các hạt, trắng ở trên đỉnh và đỏ ở dưới đáy, mà trên ấy sức khỏe thân thể và tinh thần y cứ. Ở đỉnh đầu yếu tố trắng chiếm ưu thế, trái lại ở chấn thủy yếu tố đỏ chiếm ưu thế. Những hạt này có nguồn gốc từ hạt căn bản nhất tại trái tim, vốn có kích thước của một hạt mù tạc lớn hay một hạt đậu xanh nhỏ, và, giống như những hạt khác, có đỉnh màu trắng và phần dưới màu đỏ. Vì nó tồn tại cho đến khi chết, cho nên hạt ở trái tim này được gọi là “hạt bền vững”. Gió mang sự sống rất vi tế cư ngụ bên trong hạt này; vào lúc chết, tất cả các loại gió cuối cùng hòa tan vào nó, vào thời điểm mà linh quang của sự chết ló dạng.

Bây giờ, với dữ liệu này về các trình độ của thức, các kinh mạch, các hạt tinh chất lỏng như căn bản, thì chúng ta hảy trở lại để nhìn vào vấn đề các trình độ của thức hòa tan trong những giai đoạn cuối cùng của sự chết như thế nào.

HIỂN BÀY CÁC GIAI ĐOẠN CUỐI CÙNG CỦA SỰ CHẾT

Bốn giai đoạn cuối cùng của sự chết bắt đầu với ba trình độ của tâm vi tế và bao gồm với một giai đoạn của tâm rất vi tế. Các trình độ thô của thức đã chấm dứt, ba giai đoạn của tâm vi tế hiển lộ. Khi ta tiếp tục qua ba trình độ này, thức của ta trở nên gia tăng bất nhị, vì ở đấy càng lúc càng giảm cảm nhận của chủ thể và đối tượng.

Giai đoạn 5: khi tất cả 80 nhận thức của trình độ thô của thức tan rã, trình độ thứ nhất của ba trình độ vi tế của tâm hiển lộ, với hiện tướng trắng sống động ló dạng phù hợp với nó. Đây là một sự trong sáng rộng mở, như bầu trời mùa thu lan tỏa bởi ánh sáng trắng. Không có gì khác xuất hiện trong tâm này. Truyền thống Phật giáo sử dụng thí dụ bầu trời mùa thu vì trong mùa thu ở Ấn Độ, nơi giáo huấn xuất phát, những cơn mưa mùa hè đã chấm dứt, để lại bầu trời trong vắt không mây bụi. Rất giống như vậy, bầu trời, hay không gian, chỉ là sự vắng bóng của chướng ngại, những nhận thức thô đã biến mất, để lại một cảm nhận của sự cởi mở. Thể trạng thứ nhất của ba trạng thái vi tế được gọi là “hiện tướng,” bởi vì một hiện tướng như ánh sáng mặt trăng vừa ló dạng, nhưng không có ánh sáng nào như vậy chiếu sáng từ bên ngoài. Trạng thái này cũng được gọi là “trống rỗng”, vì nó vượt khỏi 80 nhận thức và những luồng gió mà chúng cưỡi lên.

Ở mức độ vật lý mặc dù nó xảy ra bên ngoài những gì người lâm chung trải nghiệm, nhưng đây là những gì xảy ra trong giai đoạn thứ năm: (1) Những luồng gió trong những kinh mạch phải và trái phía trên trái tim đi vào kinh mạch trung tâm qua sự khai mở của nó ở đỉnh đầu. (2) Qua điều này, thắt gút của những kinh mạch ở đỉnh đầu được thả lỏng. (3) Điều này, hóa ra, làm cho những hạt trắng ở đỉnh đầu và có bản chất của nước chuyển dịch đi xuống; khi nó đến đỉnh của thắt gút sáu lần của các kinh mạch phải và trái tại trái tim, thì hiện tướng màu trắng sống động ló dạng.

Giai đoạn 6: Khi tâm của hiện tướng màu trắng xuất hiện và luồng gió của nó hòa tan vào tâm gia tăng xuất hiện một hiện tướng màu đỏ cam sống động ló dạng phù hợp với chính nó. Đây là một sự kiện sáng sủa hơn, giống như bầu trời mùa thu thoát khỏi mây và bụi lan tỏa bởi ánh sáng đỏ cam. Không điều gì khác xuất hiện với tâm này. Trạng thái này được gọi là “sự gia tăng xuất hiện” vì một hiện tướng như ánh sáng mặt trời xuất hiện rất sống động, nhưng xét cho cùng không có ánh sáng chiếu rọi từ bên ngoài. Trạng thái này cũng được gọi là “vô cùng trống rỗng” vì nó vượt khỏi tâm của hiện tướng và luồng gió mà nó cưỡi lên.

Về thể chất: (1) Các luồng gió trong các kinh mạch phải và trái bên dưới trái tim đi vào kinh mạch trung tâm qua sự khai mở phía dưới của nó tại gốc cột sống hay bộ phận sinh dục. (2) Qua điều này, những thắt gút của các luân xa trong bộ phận sinh dục và tại lỗ rốn mở ra. (3) Việc này làm hạt đỏ (hình dạng như một đường thẳng đứng nhỏ) ở giữa luân xa tại lỗ rốn di chuyển lên. Khi nó di chuyển ngay dưới thắt gút của các kinh mạch trái và phải tại trái tim, thì sự gia tăng xuất hiện đỏ cam ló dạng.

Giai đoạn 7: Khi tâm của sự gia tăng xuất hiện đỏ cam và luồng gió của nó hòa tan vào trong tâm gần thành tựu, thì một hiện tướng màu đen sinh động ló dạng phù hợp với nó. Bây giờ, nó giống như bầu trời mùa thu không mây và bụi và được lan tỏa bởi bóng tối dày đặc phủ xuống ngay sau hoàng hôn. Không có điều gì khác xuất hiện trong tâm này. Trong phần đầu của tâm màu đen gần thành tựu, thì ta vẫn tỉnh thức, nhưng trong phần sau ta trở nên vô ý thức (không còn tri giác) trong một bóng tối dày đặc như bất tỉnh. Giai đoạn này được gọi là “gần thành tựu” vì nó gần với sự biểu hiện của tâm linh quang. Nó cũng được gọi là “đại không tánh”, vì nó vượt khỏi tâm của sự gia tăng xuất hiện và luồng gió mà nó cưỡi lên.

Về thể chất: (1) Các luồng gió phía trên và phía dưới bên trong kinh mạch trung tâm tập trung tại trái tim, mở thắt gút sáu lần của các kinh mạch bên trái và bên phải. (2) Vào lúc này, hạt màu trắng xuất phát từ đỉnh đầu hạ xuống xa hơn và hạt màu đỏ xuất phát từ lỗ rốn đi lên xa hơn, với cả hai đi vào trung tâm của hạt bền vững tại trái tim. (3) Khi hai thứ này gặp nhau, hiện tướng sống động màu đen ló dạng.

Giai đoạn 8: Tâm trở thành vi tế hơn nó vốn là trong phần thứ hai vô ý thức của tâm màu đen gần thành tựu; chuyển động của gió trở nên yếu hơn, và trạng thái của gió vi tế nhất xảy ra. Tại điểm này, sự vô tri giác bị xua tan, và tâm linh quang, tính vi tế nhất của tất cả các tâm, vô thức và hoàn toàn bất nhị, hiển lộ ra. Tại thời điểm này tất cả hoạt động nhận thức  đã ngừng lại và ba “điều kiện gây ô nhiễm” – trắng, đỏ, đen, hay mặt trăng, mặt trời và bóng tối, vốn ngăn trở sự hiển lộ màu sắc tự nhiên của bầu trời – đã tan rã. Một sự quang đảng thật trong sáng ló dạng. Như bầu trời mùa thu lúc bình minh, trước khi mặt trời lên, không có bất cứ nhân tố nhiễm ô nào, không có thứ gì khác xuất hiện. Thức sâu nhất này được gọi là “tâm bẩm sinh nền tảng của linh quang” và “tất cả đều trống rỗng” vì nó vượt khỏi 80 nhận thức và ba tâm vi tế.

Về thể chất: (1) Những hạt trắng và đỏ hòa tan vào hạt bền vững tại trái tim – hạt trắng hòa tan vào đỉnh màu trắng và hạt đỏ hòa tan vào phần đỏ bên dưới. (2) Ngay sau đó, các luồng gió bên trong kinh mạch trung tâm hòa tan vào luồng gió mang sự sống rất vi tế. (3) Điều này làm cho luồng gió rất vi tế và tâm linh quang hiển lộ.

Đối với hầu hết mọi người thì sự chết xảy ra khi trình độ vi tế nhất của tâm hiển lộ. Thức vi tế nhất thường duy trì trong thân thể trong ba ngày, ngoại trừ thân thể bị tàn phá bởi bệnh tật, mà trong trường hợp đó nó không thể duy trì ngay cả một ngày. Đối với một hành giả năng lực, thì đây là một cơ hội đáng giá để thực hành. Những người nào thấy rõ tâm linh quang có thể duy trì trong trạng thái này lâu dài hơn và, tùy thuộc vào sự luyện tập trước đó, thậm chí có thể sử dụng nó để thực chứng lẻ thật của tánh không của sự tồn tại cố hữu của mọi hiện tượng, kể cả luân hồi và niết bàn.

THỰC CHỨNG TÁNH KHÔNG

Việc thông hiểu giáo lý tánh không của Phật giáo là thiết yếu để sống và chết với thực tại và không sợ hãi. Tánh không không có nghĩa là không có gì tồn tại. Bạn có thể nghĩ rằng tánh không có nghĩa là không có gì cả, nhưng không phải như vậy. Hiện tượng trống rỗng là gì? Không có sự thấu hiểu điều gì bị phủ định, thì ta không thể sự vắng mặt của nó hay tánh không. Nhìn vào nó bằng cách này: Đức Phật thường nói rằng vì tất cả mọi hiện tượng là do nhân duyên sanh, cho nên chúng là tương đối, có nghĩa rằng sự tồn tại của nó tùy thuộc vào các nguyên nhân và điều kiện và trên những bộ phận của chính nó. Thí dụ, thân thể của ta, không tồn tại một cách độc lập, đúng hơn, nó lệ thuộc vào vô số nguyên nhân chẳng hạn như noãn châu và tinh trùng cũng như thực phẩm và nước. Nó cũng lệ thuộc vào những bộ phận của chính nó – đôi chân, đôi tay, mình và đầu.

Hãy thẩm tra thân thể ta, hiện hữu giống như nó tồn tại trong bản chất của nó, là giống hay khác với đầu, mình và tay chân của ta. Nếu nó thật tồn tại như nó xuất hiện, hiện diện thật cụ thể, thì nó phải trở thành rõ ràng và rõ ràng hơn dưới ánh sáng của sự phân tích hoặc thân thể là bất cứ bộ phận cá thể nào của nó, hoặc nó là nội dung tổng quát, hoặc nó là điều gì đó hoàn toàn khác biệt. Càng nhìn gần hơn, thì ta không thể thấy nó trong bất cứ cách nào trên đây. Đây là trường hợp của tất cả mọi hiện tượng. Sự kiện rằng ta không thể tìm thấy chúng dưới sự phân tích như vậy có nghĩa rằng chúng không tồn tại dưới năng lực của chính chúng; chúng không tự thiết lập. Chúng không tồn tại cố hữu, mặc dù tất cả hiện tướng là mâu thuẩn.

Tuy thế, điều này không có nghĩa là chúng sanh và mọi vật hoàn toàn không tồn tại. Đúng hơn, chúng chỉ không tồn tại trong cách mà chúng hiện hữu như sự tồn tại quá cụ thể. Khi bạn phân tích và thiền quán thuần thục, thì bạn sẽ thấu hiểu sự hòa hiệp giữa hiện tướng thật sự của con người và mọi thứ cùng tánh không của sự tồn tại cố hữu của chúng. Không có sự thông hiểu như vậy, thì tánh không và hiện tướng dường như ngăn cấm nhau.

Tất cả mọi hiện tượng – các nguyên nhân và hệ quả, chủ động và tác động, tốt và xấu – chỉ đơn thuần tồn tại một cách quy ước [thế đế]; chúng lệ thuộc sinh khởi hay nhân duyên sanh. Vì các hiện tượng lệ thuộc vào những nhân tố khác cho sự tồn tại của chúng, cho nên chúng không độc lập. Việc vắng mặt sự độc lập này – hay tánh không của sự tồn tại cố hữu – là sự thật tối hậu [chân đế]. Việc lãnh hội điều này là tuệ trí.

Nguyên nhân căn bản của khổ đau là si mê – nhận thức sai lầm rằng chúng sanh hữu tình và các đối tượng tồn tại một cách cố hữu. Tất cả những trạng thái sai lầm của tâm có khuyết điểm này như gốc rể của chúng. Mục tiêu chính của con đường tâm linh là để làm mất tác dụng và tiêu trừ si mê qua tuệ trí. Một thức thông tuệ, đặt nền tảng trong thực tại, thông hiểu rằng chúng sanh hữu tình và các hiện tượng khác không tồn tại một cách cố hữu. Đây là tuệ trí của tánh không.

Một trong những điều ấn tượng và hữu dụng nhất trong tác phẩm đầu tiên của Đức Ban Thiền Lạt Ma là Tranh Luận với Si Mê, vốn tương tự như chương thứ 8 trong Hướng Dẫn Lối Sống Bồ tát của Shantideva, mà trong đó có một sự tranh luận giữa vị kỷ và yêu mến người khác. Tác phẩm Tranh Luận với Si Mê của Đức Ban Thiền Lạt Ma rằng chúng sanh hữu tình cùng các đối tượng là tồn tại cố hữu và tuệ trí duyên sanh cùng tánh không. Khi tôi đọc quyển sách ấy, tôi nhận ra rằng quan điểm Trung Đạo của tôi bị hụt hẩng trong sự tiếp cận cao nhất.

Qua sự giải thích của ngài, tôi cuối cùng nhận ra rằng thật cực kỳ khó khăn, sau khi phủ nhận sự tồn tại cố hữu, để thừa nhận sự tồn tại đơn thuần mệnh danh và quy ước của con người và hiện tượng. Điều này được củng cố bởi một thi kệ trong giải thích về tuệ giác đặc biệt của Tông Khách Ba trong Đại Luận Những Giai Tầng Của Con Đường Đến Giác Ngộ.

Mặc dù tâm ta khó thừa nhận duyên sanh
Của nhân và quả trong sự vắng mặt của sự tồn tại cố hữu
Nhưng thật tuyệt vời nếu ta nương trên sự tiếp cận
Nói rằng như vậy là hệ thống Trung Đạo.

Trước đây, tôi không bàn luận vấn đề chúng sanh hữu tình và các đối tượng xuất hiện tới chúng ta như thế nào, tôi không đụng tới hiện tướng, và quan tâm đến việc phủ nhận sự tồn tại cố hữu như điều gì đó vượt khỏi căn bản, hiện tướng quy ước. Tuy nhiên, qua sự phản chiếu về ý nghĩa luận đề của Đức Ban Thiền Lạt Ma thứ nhất, tôi đã phát sinh một sự thấu hiểu mới. Điều này có thể được giải thích hoàn hảo nhất bằng vấn đề tôi đi đến nghĩ về một tuyên bố của một học giả du già vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, Gungtang Konchok Tenpay Dronmay như thế nào:

Qua việc sự tồn tại cố hữu đang bị tìm kiếm dưới sự phân tích,
Không thấy nó bác bỏ sự tồn tại cố hữu,
Vẫn không thấy nó không phủ nhận căn bản của điều gì đang bị tìm kiếm
Và vì vậy sau đó chỉ còn lại danh nghĩa được tìm thấy.

Ngài dường như đang cho thấy rằng, ngoài ra việc phủ nhận sự tồn tại cố hữu bên cạnh hiện tượng, tự hiện tướng của hiện tượng không bị phủ nhận, tự hiện tượng không phủ nhận. Quả nhiên tự hiện tượng không bị phủ nhận, nhưng dường như rằng trong tuyên bố của  ngài những nghiệp tướng của của các hiện tượng không được đụng tới trong cách rằng chúng xuất hiện tới chúng ta được thiết lập bằng đặc tính riêng của chúng và một sự tồn tại cố hữu nào đó đang bị phủ nhận. Tuy nhiên, đây là nhận thức của hai trường phái Hạ Trung Quán, Tự Quản Tông.

Đối với họ, nếu hiện tượng được thiết lập một cách tối hậu, chúng sẽ được thiết lập như kiểu mẫu tồn tại của chính chúng, trong trường hợp chúng sẽ phải xuất hiện với tuệ trí rốt ráo, nhưng vì hiện tượng chẳng hạn như bốn yếu tố (đất, nước, gió, lửa) không xuất hiện với tuệ trí rốt ráo, cho nên chúng không tồn tại một cách rốt ráo. Đó là nhận thức của Tự Quản Tông Trung Quán. Dường như đối với tôi, theo một nhận thức như vậy, mâu thuẩn với tuyên bố của Tông Khách Ba về quan điểm của hai trường phái Thượng Trung Quán – Cụ Duyên Tông được trích ở trên, sẽ không khó thừa nhận sự lệ thuộc sinh khởi nhân quả trong sự kiện như vậy được phân tích. 

Tác phẩm Tranh Luận với Si Mê của Đức Đệ Nhất Ban Thiền Lạt Ma chỉ rõ rằng khi các sắc và v.v… xuất hiện tới chúng ta, ngay lúc bắt đầu sự xuất hiện của chúng được thiết lập bằng đặc tính riêng của chúng, và vì vậy khi hiện tướng này bị bác bỏ, dường giống như tự hiện tượng không còn đứng vững được nữa. Đây là tại sao Tông Khách Ba nói rằng thật khó khăn để thừa nhận duyên khởi nhân quả trong sự vắng mặt của sự tồn tại cố hữu. Được hổ trợ bởi Tranh Luận với Si Mê của Đức Đệ Nhất Ban Thiền Lạt Ma, tôi đã hiểu rằng những gì Tông Khách Ba nói là thật sự như vậy. Quyển sách thật sự hữu ích.

Việc nhận thức rằng ta không tồn tại một cách cố  hữu qua việc sử dụng lý trí ta không phải là một cũng không phải nhiều, không phải số ít cũng không phải số nhiều, và việc duy trì quan điểm ấy làm sói mòn – một ít – tính si mê nhận thức sự tồn tại cố hữu. Tuy nhiên, nhận thức này không hoàn toàn chiến thắng nhận thức tồn tại cố hữu vốn duy trì với sự lưu tâm đến chính ta. Tại sao? Vì một “cái tôi” tồn tại cố hữu quy ước vẫn duy trì cho ý thức ấy. Ngay khi “cái tôi” xuất hiện, cùng với nó là sự tồn tại cố hữu vốn bị phủ nhận các hiện tướng, cho nên những gì chúng ta cần là cái nhận thức rằng “cái tôi” xuất hiện trên sự quán sát và thân không tồn tại. “Cái tôi” này không tồn tại. Như Đức Ban Thiền Lạt Ma thứ nhất nói:

Chỉ đơn thuần bác bỏ sự tồn tại thật sự
Của “cái tôi” xuất hiện trên việc quán sát tâm và thân,
Hãy lấy chính sự vắng mặt này như đối tượng của sự chú ý của chúng ta,
Với sự xuất hiện rõ ràng mà không để năng lực của nó làm giảm giá trị.

Ngài đang nói rằng nếu ta hành thiền cách này, nó sẽ làm giá thiểu nhận thức về sự tồn tại cố hữu. Việc này giúp đở tôi rất nhiều.

Ở đây trong những giai đoạn của lâm chung ta tìm kiếm để tiếp nhận bản chất tối hậu của hiện tượng, tánh không của sự tồn tại cố hữu, như một đối tượng những tâm vi tế, năng lực hơn và tập trung nhất tâm vào nó. Qua sự quán chiếu này ta sẽ biết bản chất tối hậu của chính ta. Về hai bản chất, quy ước và tối hậu (thế đế và chân đế), ta đang tiếp nhận tính tối hậu – sự vắng mặt của sự tồn tại cố hữu.

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

1-    Hãy chú ý vấn đề thái độ và nhận thức đa dạng của chúng ta có những sức mạnh khác nhau trong dạng thức chuyển động của gió [năng lượng] đến những đối tượng tương ứng của chúng.
2-    Hãy biết rằng sau bốn dấu hiệu của ảo giác, khói, đom đóm, và ngọn lửa (của đèn bơ hay đèn sáp, lúc đầu nhấp nháy và rồi đứng lại), ba tâm vi tế: trắng năng động xuất hiện, đỏ cam gia tăng xuất hiện, và đen gần bình minh.
3-    Hãy nhớ rằng ta đang cố tìm để sử dụng những tâm vi tế hơn để thực chứng tánh không chân thật.
4-    Tánh không không có  nghĩa là không tồn tại; đúng hơn nó là sự vắng mặt của sự tồn tại cố hữu của các hiện tượng, cả chúng sanh hữu tình và vô tình (nhân vô ngã và pháp vô ngã).
5-    Hãy nghiên cứu để phân tích các hiện tượng: Hãy tập trung trên vấn đề chúng là bất cứ phần tử nào của chúng một cách riêng lẻ, hoặc trên tập họp của tất cả các phần tử của chúng, hay điều gì khác một cách toàn diện. Điều này sẽ cho thấy rằng các hiện tượng không tồn tại theo cách cụ thể mà chúng dường như vậy.
6-    Tất cả các nguyên nhân và hệ quả, tác nhân và hành động, tốt và xấu chỉ đơn thuần tồn tại một cách quy ước  (thế đế); chúng là duyên sanh.
7-    Sự vắng mặt của tính độc lập, hay tánh không của sự tồn tại cố hữu, là lẽ thật tuyệt đối (chân đế). Đây là những gì tuệ trí thấu hiểu, làm tiêu mòn si mê phía sau tham dục và thù hận cùng khổ đau mà chúng gây ra.
8-    Qua sự quán chiếu du già này biết bản chất rốt ráo của ta cũng như của tất cả mọi hiện tượng.
-***-
Ẩn Tâm Lộ, Saturday, September 15, 2018

-***-


Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2018

HÀNH THIỀN TRONG KHI LÂM CHUNG





Nguyên bản: Meditating while dying
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

-***-

Kiếp sống này biến mất rất nhanh chóng
Giống như thứ gì đó được viết trên mặt nước với một que cây
-ĐỨC  PHẬT-

-***-

Thi Kệ Số Tám
Xin cho chúng tôi phát sinh một tâm thức mạnh mẽ của đạo đức
Khi những yêu tố - đất, nước, gió, lửa – tan rã trong những giai đoạn
Và sức mạnh thân thể bị mất, miệng và mũi khô và co lại
Sức ấm rút lui, hơi thở hổn hển, và âm thanh khò khè nổi lên

-***-

Bảy thi kệ đầu được trình bày phù hợp với cả những hình thức của giáo lý nhà Phật, Kinh điển và Mật điển, Mật điển liên hệ với một sự thực tập đặc biệt gọi là quán tưởng tự thân ở đây và bây giờ như một hiện thân của từ bi và thông tuệ với hình thể của một Đức Phật. Từ thi kệ số tám trở đi, sự trình bày chính yếu về những sự thực tập Mật điển, một cách đặc biệt từ loại Tantra Yoga Tối Thượng (Vô Thượng Du Già).

Việc diễn tả về sự chết trong dạng thức sự tan rã của thân và tâm và của bốn yếu tố là đặc biệt trong Tantra Yoga Tối Thượng. Sau khi thụ thai một tiến trình của hình thành diễn tiến từ vi tế đến thô, nhưng vào lúc lâm chung có một sự tan rã từ thô đến tế. Những hiện tượng tan rã gồm có bốn yếu tố - đất (vật chất cứng của thân thể), nước (chất lỏng), lửa (sức nóng), và gió (năng lượng, chuyển động).

Cho dù ta sống hết tuổi thọ của mình hay không, thì tiến trình của sự chết vẫn liên hệ nhiều thời kỳ. Trong một sự chết đột ngột, ta đi qua những giai đoạn này một cách rất nhanh chóng, với một cơ hội nhỏ nhận thấy chúng; với những ai chết dần dần, thì có thể nhận ra và làm lợi ích cho những giai đoạn này. Những điềm lạ của sự chết, chẳng hạn như một sự thay đổi trong cung cách thở di chuyển đến lỗ mũi, những giấc mơ, và những dấu hiệu thể chất, có thể xảy ra thậm chí nhiều năm trước cái chết thật sự, mặc dù đối với những người bình thường thì những điều này thường xảy trong một hay hai năm trước khi chết. Những điềm lạ của sự chết kể cả việc trở nên ghê tởm với những thứ chung quanh ta, nhà cửa, bạn bè, và v.v… kết quả trong một nguyện ước đến nơi nào khác. Hay, ta có thể phát triển tham luyến quá lắm với những thứ mà ta đã có trước đây. Ta có thể chuyển từ khắc nghiệt sang hợp tác, hay một cung cách khác trước đây. Sự nhiệt tình của ta  có thể tăng hoặc giảm rõ rệt. Có thể có một sự thay đổi trong phong cách thể chất hay thái độ của ta. Bản chất sự đối thoại của ta có thể trở nên rất thô lỗ - việc chửi thề và v… - hay ta có thể nói lặp đi lặp lại sự chết.

Khi tiến trình của sự chết thật sự bắt đầu, ta đi qua tám giai đoạn. Bốn giai đoạn đầu liên hệ đến sự tan rã của bốn yếu tố. Bốn giai đoạn sau liên hệ đến sự tan rã của thức vào trong trình độ sâu thẩm nhất của tâm, gọi là tâm linh quang. Hãy nhớ rằng, sự trình bày những giai đoạn của sự chết là một bản đồ của những thể trạng sâu xa của tâm vốn xảy ra khắp suốt trong đời sống hàng ngày và thường bị coi thường hoặc không ai thấy. Tám giai đoạn này diễn tiến rõ rệt theo trình tự khi lâm chung, đi ngủ, chấm dứt một giấc mơ, nhảy mũi, ngất xỉu và trong tình trạng khích động cực điểm - cực khoái, và trong trình tự ngược lại sau một tiến trình của sự chết hoàn toàn chấm dứt, cũng như khi thức giấc từ giấc ngủ, khi bắt đầu một giấc mơ, và khi nhảy mũi, ngất xỉu, và khi tình trạng khích động cực độ chấm dứt.

Tám giai đoạn được xác định bằng phương cách của sự toại nguyện trực quan mặc dù không thấy bằng mắt:

Thứ tự tiến tới
1-    Ảo giác
2-    Luồng khói
3-    Đom đóm
4-    Ngọn lửa của cây đèn dầu
5-    Tâm bầu trời trắng sống động
6-    Tâm bầu trời đỏ cam sống động
7-    Tâm bầu trời đen sống động
8-    Linh quang

Thứ tự ngược lại
1-    Linh quang
2-    Tâm bầu trời đen sống động
3-    Tâm bầu trời đỏ cam sống động
4-    Tâm bầu trời trắng sống động
5-    Ngọn lửa của cây đèn dầu
6-    Đom đóm
7-    Luồng khói
8-    Ảo giác

BỐN GIAI ĐOẠN ĐẦU TRONG THỨ TỰ TIẾN TỚI
SỰ TAN RÃ CỦA BỐN YẾU TỐ

Tổng quát thì các yếu tố thô hòa tan vào trong bốn yếu tố vi tế hơn. Khi năng lực của các yếu tố thô phục vụ như sự hổ trợ cho sự thoái hóa thức, thì các yếu tố vi tế trở nên rõ ràng hơn. Có tám giai đoạn, bốn giai đoạn đầu là:

Giai đoạn 1: yếu tố đất thoái hóa và hòa tan vào yếu tố nước. Những khía cạnh rắn chắc của thân thể, chẳng hạn như xương, không còn có thể phục vụ như một khung sườn, hay nền tảng, cho thức; năng lực của những khía cạnh rắn chắc làm như vậy để hòa tan vào, hay được chuyển biến đến, các chất lõng của thân thể, chẳng hạn như máu hay đàm. Bây giờ năng lực của yếu tố nước hoạt động như cơ sở của thức trở thành rõ ràng hơn. Thân thể của ta trở thành mõng manh hơn một cách đột ngột và tay chân ta lỏng lẻo. Ta mất sức mạnh thể chất – sức sống và ánh sáng của thân thể bị giảm thiểu một cách căn bản, làm nó kiệt quệ. Sức nhìn của ta trở thành  đen tối và không rõ ràng; ta không còn thể mở mắt và nhắm ta được nữa. Ta có thể có một cảm giác như chìm vào trong đất hay dưới bùn, và ta có thể ngay cả kêu gọi , “Đưa tôi lên!” hay cố gắng vùng vẩy gượng lên, nhưng điều quan trọng là không chiến đấu; hãy duy trì sự tĩnh lặng trong một thái độ đạo đức. Những gì ta thấy trong tâm thức giống một ảo giác.

Giai đoạn 2: năng lực của yếu tố nước suy thoái và hòa tan vào trong yếu tố lửa – hơi ấm vốn duy trì thân thể - và năng lực của yếu tố lửa phục vụ như căn bản của thức được nâng cao. Ta không còn trải nghiệm những cảm giác của sung sướng hay đớn đau, hay ngay cả những cảm giác trung tính, được phối hợp với các cảm giác và ý thức. Miệng, lưỡi, và cổ họng khô qua việc mất nước dãi, và cặn bả hình thành trên răng. Những chất lỏng khác, chẳng hạn như nước tiểu, máu, chất lỏng tái tạo, và mồ hôi, bị khô cạn. Ta không còn có thể nghe những âm thanh, và các tiếng vo ve thông thường trong các lỗ tai dừng lại. Những gì ta thấy trong tâm giống như những luồng khói phun ra, hay khói dày đặc khắp phòng, hay khói dâng lên cuồn cuộn từ một ống khói.

Giai đoạn 3: năng lực của yếu tố lửa – suy thoái và hòa tan vào yếu tố gió – những luồng hiện tại của không khí, hay năng lượng, điều khiển các chức năng cơ thể khác nhau chẳng hạn như thở vào, thở ra, ợ hơi, khạc nhổ, nói năng, nhai nuốt, co duỗi tay chân, mở và khép miệng, cũng như nháy mắt, tiêu hóa, tiểu tiện, kinh nguyệt và xuất tinh. Hơi ấm của cơ thể tụt giảm, đưa đến sự bất lực trong tiêu hóa thực phẩm. Nếu ta đã hướng dẫn đời sống của ta không có đạo đức một cách vượt trội, hơi nóng thân thể tụ họp đi xuống từ đỉnh đầu đến tim, phần trên của thân thể trở nên lạnh trước, nhưng nếu ta đã sống một cách đạo đức ưu thế, hơi nóng tụ họp từ gót chân đi lên đến tim, và phần dưới cơ thể trở thành lạnh trước. Năng lực ngửi của mũi chấm dứt. Ta không thể chú ý đến các hành động và nguyện ước của bạn bè cùng người thân chung quanh ta, hay không nhớ tên của họ. Ta trải nghiệm việc thở khó khăn, thở ra trở thành dài hơn và dài hơn và thở vào sẽ ngắn hơn và ngắn hơn; cổ họng ta phát ra âm thanh khò khè hay thở hổn hển. Những gì chúng ta thấy trong tâm ta giống như hoa đốm, có lẽ bên trong làn khói, hay giống như tia lửa trong bồ hóng dưới đáy của một chảo sắt.

Giai đoạn 4: năng lực của yếu tố gió thô suy thoái và hòa tan vào thức. Lưỡi bắt đầu cứng và ngắn, gốc của nó biến thành màu hơi xanh.Việc trải nghiệm xúc chạm cơ thể không thể nữa, đối với hành động thân thể. Hơi thở qua các lỗ mũi dừng lại, nhưng có những trình độ vi tế hơn của hơi thở, hay gió, cho nên sự chấm dứt của hơi thở qua mũi không biểu thị việc hoàn tất tiến trình của sự chết. Những gì chúng ta thấy trong tâm giống như ngọn lửa của cây đèn bơ hay đèn sáp (hay như ánh sáng lập lòe phía trên cây đèn bơ hay đèn sáp). Thoạt tiên ánh sáng lập lòe giống như bơ hay sáp gần như cạn kiệt. Sau đó, khi những ngọn gió mà trên đó những nhận thức tinh thần lướt theo bắt đầu suy sụp, hiện tướng của ngọn đèn bắt đầu đứng lại.

Trong tổng quát, thân thể của một người được cấu thành bởi bốn yếu tố: tuy nhiên, qua những biến thể trong các kinh mạch và gió trong khuôn khổ này, thì những người khác nhau trải nghiệm những hiện tướng nội tại khác nhau trong tiến trình của sự tan rã. Đây là tại sao có những biến thể nhỏ khác nhau trong các sự giải thích về tiến trình này trong những Mật điển đặc thù được Đức Phật thuyết giảng, chẳng hạn như Bí Mật Tập Hội (hệ thống chính được giải thích trong quyển sách này). Thắng Lạc Kim Cang (Chakrasamvara), và Thời Luân Kim Cang (Kalachakra), cũng như trong những Mật điển nào đó của Trường phái Cựu dịch Phật giáo Tây Tạng, gọi là Nyingma. Những biến thể nhỏ này một cách chính yếu đến từ những khác biệt trong các kinh mạch trong thân thể và trong các làn gió và giọt của chất lỏng tinh hoa chảy qua  những kinh mạch đó. Vì những nhân tố nội tại này khác nhau trong từng cá nhân, cho nên những sự thực tập cũng hơi khác nhau. Thậm chí khi những nhân tố nội tại là giống nhau, nhưng những dấu hiệu của sự chết hiện lên trong tâm trong những cung cách khác nhau vì các hành giả du già đặt nhấn mạnh trên những điểm khác nhau trong thân thể.

Trong những giai tầng này ta cần một thái độ đạo đức vô ngại, vốn là nguyện ước được trình bày trong thi kệ này của Đức Ban Thiền Lạt Ma. Chúng ta là những chúng sanh bình thường dưới ảnh hưởng của sanh và tử cho nên chắc chắn có những xu hướng được thiết lập qua các kiếp sống của những hành vi tốt và xấu mà các kết quả của chúng chưa biểu hiện. Mỗi thời khắc mà chúng ta thực hiện các hành động được thúc đẩy bởi si mê là góp phần để sống trong vòng luân hồi. Những hành vi rất mạnh mẽ có thể đẩy tới không chỉ một mà nhiều kiếp sống trong vòng luân hồi. Gần thời điểm lâm chung, một trong nhiều khuynh hướng nghiệp lành và không lành này được ấp ủ và phục vụ như cơ sở cho toàn bộ kiếp sống tới; nhiều nghiệp khác thiết lập những phẩm chất của sự sống chẳng hạn như sức khỏe, tiềm năng, và sự thông minh. Do thế, tư tưởng của ta, thể trạng tinh thần của ta, gần thời điểm lâm chung là rất quan trọng.

Ngay cả nếu hầu hết trong lúc sống ta thực hành thái độ đạo đức, thì một xu hướng phi đạo đức gần lúc lâm chung có thể nuôi dưỡng thiên hướng phi đạo đức mà tất cả chúng ta có. Thậm chí một âm thanh quấy rầy bởi một người nào đó ngồi xuống một vật quá cứng, có thể làm phát sinh sự bực tức và sân hận. Ngược lại, một người không thường quen thuộc nhiều với đạo đức có thể phát triển một tâm đạo đức mạnh mẽ lúc lâm chung, làm kích thích nhưng xu hướng nghiệp lực đạo đức và đưa đến một sự tái sinh tốt đẹp. Do thế, ta phải chăm sóc thật kỹ càng thời điểm lâm chung và phát sinh tối đa như có thể bất cứ loại thái độ đạo đức mà ta có thể biểu hiện được. Thật rất quan trọng rằng những người có mặt với sự lâm chung biết rằng tâm thức người lâm chung đang ở trong một tình trạng rất phức tạp; họ phải rất cẩn trọng không làm quấy rầy – nói năng lớn tiếng, khóc lóc, và những vấn đề cư xử thô tháo – thay vì thế, phải tạo ra một không khí hòa bình.

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

1-    Vậy ta sẽ không ngạc nhiên bởi tiến trình lâm chung khi nó bắt đầu, hãy học hỏi những giai đoạn tan rã của bốn yếu tố và những dấu hiệu ngoại tại cùng lúc ấy, như cho biết ở trên, và những dấu hiệu nội tại, được diễn tả trong những thi kệ.
2-    Chăm sóc thời điểm lâm chung vì vậy những xu hướng tốt đẹp được nuôi dưỡng và được kích thích bởi những quan điểm đạo đức.
3-    Những điềm báo trước sự chết có thể xuất hiện trong một hay hai năm trước khi sự chết thật sự đến. Những điều này cảnh báo ta về nhu cầu để chuẩn bị, nhưng thật tốt hơn là hãy sẳn sàng trước khi ấy.

-***-

Thi Kệ Số Chín
Xin cho chúng tôi nhận ra phương thức bất tử của chúng sanh
Khi những hiện tướng sai lầm đủ thứ sợ hãi và kinh khiếp
Và trong ảo giác, làn khói, và đom đóm đặc thù xuất hiện
Và khung sườn của tám mươi nhận thức biểu thị chấm dứt
         
Khi bốn yếu tố tan rã, những hiện tướng đủ loại xuất hiện. Đôi khi ngay cả trước  khi mắt và tai chấm dứt thể hiện chức năng, thì những cảnh tượng và âm thanh bất thường xuất hiện. Và luôn luôn, những ảo giác khác nhau xuất hiện tới ý thức. Thí dụ, những người bị đau khổ vì chứng bệnh suy nhược có thể thấy đám lửa khủng khiếp, tạo nên sự sợ hãi lớn. Những người khác trải nghiệm các ảo giác dễ chịu và ngay cả ngạc nhiên và cảm thấy thoải mái. Những sự khác nhau như thế này đến từ từ những khuynh hướng được tạo thành bởi những hành vi đạo đức và phi đạo đức trong kiếp sống này và những kiếp sống trước. Những sự khác biệt này báo hiệu thể loại và phẩm chất của sự tái sanh sắp xảy ra, như cung cách mà phẩm chất của ánh sáng trên bầu trời trước khi mặt trời mọc báo trước thời tiết trong ngày.

Khi bốn yếu tố tan rã từng thứ một, thì những dấu hiệu bên trong của sự chết xuất hiện.Sự của hòa tan yếu tố đất vào nước sinh ra một hiện tượng giống như một ảo giác trong sa mạc; sự hòa tan của yếu tố nước vào trong lửa làm sinh ra một hiện tượng giống như sự phun khói từ một ống khói hay làn khói mõng lan tỏa khắp phòng; sự hòa tan của lửa vào gió tạo ra một hiện tượng giống như đom đóm lửa, hay như những tia lửa trong bồ hóng dưới đáy chảo để sấy khô ngủ cốc. (Sự hòa tan của yếu tố gió sẽ được thảo luận trong chương tiếp theo)

Những dấu hiệu đó – ảo giác, khói, đom đóm, và ngọn lửa cũng như bốn thứ được diễn tả sau đây – xuất hiện đến những ai chết từ từ. Chúng không xảy ra đối với những ai chết một cách đột ngột, chết trong tai nạn hay vì vũ khí.

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

1-    Hãy nhận ra rằng những hiện tướng ảo giác, một số thậm chí ghê sợ và khủng khiếp, vốn có thể xảy ra trong lúc lâm chung qua nghiệp lực. Đừng bị xao lãng vì chúng.
2-    Hãy nghiên cứu ba hiện tướng đầu trong tám thứ ấy: ảo giác như ở trong sa mạc; khói phun từ ống khói hay làn khói mõng lan tỏa khắp phòng; đom đóm lửa, hay những tia lửa trong bồ hóng dưới đáy chảo.

-***-

Thi Kệ Số Mười
Xin cho chúng tôi phát sinh sự tỉnh thức và quán chiếu mạnh mẽ
Khi yếu tố gió bắt đầu hòa tan vào thức
Và sự tương tục của hơi thở bên ngoài chấm dứt,
các hiện tướng thô nhị nguyên tan rã,
Và một hiện tướng như ngọn đèn bơ cháy ló dạng.

Thức được định nghĩa như thứ vốn trong sáng và hiểu biết. Sự trong sáng trong ý nghĩa kép là bản chất tự nhiên của nó là rõ ràng và nó chiếu sáng, hay phát giác, giống như ngọn đèn dầu xua tan bóng tối vì thế các đối tượng có thể được thấy. Thức cũng hiểu biết đối tượng trong ý nghĩa rằng tối thiểu nó nhận biết chúng, ngay cả khi nó không biết chúng một cách chính xác.

Thức được cấu thành bởi những thời khắc, thay vì những tế bào, các nguyên tử, hay những hạt. Trong cách này thức và vật chất có những bản chất khác biệt một cách căn bản, và do vậy, chúng có các nhân chính yếu khác biệt. Những thứ vật chất có các thứ vật chất khác như những nhân chính yếu của chúng (được gọi như vậy vì chúng sản sinh thể chất, hay thực thể căn bản, của hệ quả), bởi vì phải có một sự phù hợp trong căn bản tự nhiên giữa nhân chính yếu và quả chính yếu. Thí dụ, đất sét là nhân chính yếu của một chậu bằng đất. Nguyên nhân chính yếu của một tâm phải tự chính nó là điều gì đó vốn trong sáng và hiểu biết – một thời khắc trước của tâm. Do vậy, bất cứ thời khắc nào của thức đòi hỏi một thời khắc trước của thức cho nhân chính yếu của nó, vốn có nghĩa là phải có một sự tương tục vô thỉ của tâm. Điều này là vấn đề một vòng vô thỉ của tái sanh được thiết lập qua lý luận như thế nào. Thêm nữa, nếu có một ký ức chính xác của sự tái sanh, thì đó là một dấu hiệu đầy đủ - không phải mọi người phải nhớ. Sự vắng mặt của những kiếp sống quá khứ và  tương lai chưa bao giờ được nhận thức một cách trực tiếp, trái lại có những trường hợp được chứng thực về một ý ức rõ ràng của những kiếp sống quá khứ. Mặc dù sự thật rằng thân thể lệ thuộc vào những điều kiện cho sự tăng và giảm của nó, nhưng thân thể được ban cho sự sống, và khi sự sống ấy bị buộc phải chấm dứt, thì nó nhanh chóng bị thối rữa và trở thành một xác chết. Bất chấp nó xinh và đẹp như thế nào đi nữa thì nó cũng biến thành một xác chết. Nếu ta phân tích sức sống vốn giữ cho thân thể này khỏi thối rữa, thì ta sẽ thấy rằng đó là tâm. Dĩ nhiên xác thịt được kết nối với thức để giữ nó khỏi bị phân hủy. Sự tương tục của tâm này là những gì tiến diễn đến kiếp sống tới.

Sự khác biệt trong bản chất giữa tâm và vật chất đòi hỏi những nhân chính yếu của chúng là khác nhau, nhưng điều này không có nghĩa rằng tâm và vật không tương tác lẫn nhau, vì chúng làm như vậy trong nhiều cách. Vật chất có thể là một điều kiện bổ trợ của tâm, chẳng hạn như khi vật chất vi tế bên trong con mắt hoạt động như một điều kiện bổ trợ với nhãn thức, hay khi một màu sắc hay một hình tướng hoạt động như một điều kiện bổ trợ với nhãn thức, hay khi thân thể của chính ta hoạt động như một sự hổ trợ, hay một căn bản của chính thân thức.

Tương tự thế, thức tạo hình vật chất vì nó là các hoạt động của chúng ta, hay các nghiệp, được thúc đẩy bởi thức. Đó là cấu trúc của môi trường. Ảnh hưởng chung của các nghiệp của nhiều chúng sanh tạo thành chính hệ thống thế giới mà chúng ta sống. Cũng thế, theo Tantra Yoga Tối Thượng, thức lướt trên gió là vật chất, mặc dù trong những hình thức vi tế nhất thì gió không được cấu thành bởi các hạt. Do bởi sự liên đới gần gũi giữa gió và tâm như vậy cho nên chúng là một thực thể bất phân, một chúng sanh Giác Ngộ có thể biểu hiện một thân với gió vi tế như nhân chính yếu của nó, một thân vượt khỏi những hạt vật chất như trong trường hợp thọ dụng thân (viên mãn báo thân) của một Đức Phật ở cõi Cực Lạc.

Việc áp dụng giáo lý về các nhân chính yếu và những điều kiện bổ trợ cho sự thụ thai, chúng ta có thể thấy rằng vật chất của cha và mẹ - noãn châu và tinh trùng – hoạt động như những nhân chính yếu của thân thể của đứa bé và hoạt động như những điều kiện bổ trợ của tâm. Thời khắc cuối cùng của thức của đứa bé trong kiếp trước của nó hoạt động như nhân chính yếu của thức vào thời điểm thụ thai và như một điều kiện bổ trợ của thân thể. Giống như ở trình độ thô của thân thể - ngay cả phôi thai – được xem như sự hổ trợ vật chất cho thức, cho nên gió mà trên đó thức cưỡi đi, giống như một kỵ mã trên lưng ngựa, là một thực thể vật chất hổ trợ cho thức. Mặc dù thức có thể tách rời khỏi thân thể vật chất, như nó làm khi chúng ta đi từ kiếp sống này đến kiếp sống khác, nhưng thức không bao giờ có thể tách rời khỏi trình độ vi tế nhất của của gió (phong đại).

Tôi không nghĩ rằng gió rất vi tế, hay năng lượng, có thể được xếp loại như một trong bốn yếu tố - đất, nước, lửa và gió – vì nó vượt khỏi những hạt vật lý. Gió rất vi tế là một khía cạnh chuyển động của gió rất vi tế; nó là cùng thực thể như tâm tương ứng của nó. Thật khó để phân tích gió rất vi tế và tâm với những khí cụ khoa học; tuy nhiên, có thể phát hiện một cách khoa học sự hiện diện của gió rất vi tế và tâm trong những trường hợp của sự chết lâm sàng trước khi thức xuất ra khỏi thân trong khi cơ thể vẫn không phân hủy. Một ít nhà khoa học đã mang một số máy móc đến bệnh viện của chúng tôi, nhưng trong khi họ ở đó, không có ai chết, và rồi khi những người dày dạn kinh nghiệm tâm linh qua đời, thì các máy móc lại không sẳn sàng!

Khi gió hay năng lượng mà trên đó nhiều trình độ các loại của thức cưỡi lên, trở nên rất yếu ớt và hòa tan một cách trọn vẹn hơn vào trong thức, thì những trình độ vi tế hơn và vi tế hơn của tâm biểu hiện. Vào lúc bắt đầu của giai đoạn bốn, khi các làn gió phục vụ như những khung sườn của nhiều thái độ bắt đầu tan rã, thì ở đó xuất hiện đến tâm một hình ảnh như ngọn lửa của cây đèn bơ hay đèn sáp, thoạt tiên nhấp nháy và rồi ổn định. Hơi thở bên ngoài chấm dứt. Thế giới nói chung xem điều này như thời điểm của sự chết mặc dù nó thật sự đến sau đó. Ở giai tầng này, những trình độ thô của hiện tướng của chủ thể và đối tượng như xa cách và bị chia cắt thành những thực thể tan rã; mắt không thấy các hình sắc hiển thị, tai không nghe các âm thanh, mũi không cảm thấy mùi hương, lưỡi không cảm giác các vị nếm, và thân thể không cảm nhận xúc chạm đối tượng. Bản chất trong sáng và hiểu biết của tâm nổi lên rõ ràng.

Nếu ta có thể chánh niệm lúc chết, việc nhận ra những dấu hiệu của các giai đoạn tan rã và hòa tan, việc duy trì sự tự quan sát nội tâm đủ để cố gắng ở bất cứ trình độ nào của đạo đức mà ta biết, thì sự thực hành của ta sẽ rất mạnh mẽ. Ở mức độ tối thiểu, nó sẽ ảnh hưởng một cách tích cực kiếp sống tới của ta.

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

1-    Mặc dù tâm và vật chất có những nhân chính yếu khác biệt, nhưng chúng tương tác nhau trong nhiều cách.
2-    Sau ba dấu hiệu nội tại của ảo giác, làn khói, và đom đóm, đi đến giai đoạn nội tại thứ tư, vốn giống như ngọn lửa của cây đèn bơ hay đèn sáp, mới đầu nhấp nháy và rồi ổn định.
3-    Mặc dù ở thời điểm này hơi thở bên ngoài qua mũi đã dừng và không còn phản ứng có ý thức đến sự kích thích bên ngoài, nhưng người ấy chưa chết. Thật hữu ích nếu thân thể không bị quấy rầy cho đến khi sự chết hoàn toàn xảy ra.
4-    Việc duy trì chánh niệm, và sự tự quan sát nội tâm vốn giúp chúng ta nhận ra giai đoạn nào của tiến trình nội tại đang xảy ra có thể thúc đẩy cho việc thực hành và ảnh hưởng đầy năng lực cho một sự tái sanh tích cực.

-***-

Ẩn Tâm Lộ , Sunday, August 26, 2018

-***-
                                             
HƯỚNG DẪN VỀ SỰ CHẾT ĐỂ SỐNG TỐT ĐẸP HƠN
Nguyên bản: Advice on Dying and Living a Better Life
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

MỤC LỤC
01-Tỉnh thức về sự chết
02- Giải thoát khỏi sự sợ hãi
03- Chuẩn bị để chết
04- Loại trừ những chướng ngại đến cái chết có lợi
05-Thành tựu những điều kiện thuận lợi cho thời điểm lâm chung
06- Hành thiền trong khi đang chết
07- Cấu trúc bên trong
08- Linh quang của sự chết
09- Phản ứng với tình trạng trung ấm thân
10- Đón nhận một sự tái sanh tích cực
11- Thi kệ quán chiếu hàng ngày


HÀNH THIỀN TRONG KHI LÂM CHUNG

Nguyên bản: Meditating while dying
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

-***-

Kiếp sống này biến mất rất nhanh chóng
Giống như thứ gì đó được viết trên mặt nước với một que cây
-ĐỨC  PHẬT-

-***-

Thi Kệ Số Tám
Xin cho chúng tôi phát sinh một tâm thức mạnh mẽ của đạo đức
Khi những yêu tố - đất, nước, gió, lửa – tan rã trong những giai đoạn
Và sức mạnh thân thể bị mất, miệng và mũi khô và co lại
Sức ấm rút lui, hơi thở hổn hển, và âm thanh khò khè nổi lên

-***-

Bảy thi kệ đầu được trình bày phù hợp với cả những hình thức của giáo lý nhà Phật, Kinh điển và Mật điển, Mật điển liên hệ với một sự thực tập đặc biệt gọi là quán tưởng tự thân ở đây và bây giờ như một hiện thân của từ bi và thông tuệ với hình thể của một Đức Phật. Từ thi kệ số tám trở đi, sự trình bày chính yếu về những sự thực tập Mật điển, một cách đặc biệt từ loại Tantra Yoga Tối Thượng (Vô Thượng Du Già).

Việc diễn tả về sự chết trong dạng thức sự tan rã của thân và tâm và của bốn yếu tố là đặc biệt trong Tantra Yoga Tối Thượng. Sau khi thụ thai một tiến trình của hình thành diễn tiến từ vi tế đến thô, nhưng vào lúc lâm chung có một sự tan rã từ thô đến tế. Những hiện tượng tan rã gồm có bốn yếu tố - đất (vật chất cứng của thân thể), nước (chất lỏng), lửa (sức nóng), và gió (năng lượng, chuyển động).

Cho dù ta sống hết tuổi thọ của mình hay không, thì tiến trình của sự chết vẫn liên hệ nhiều thời kỳ. Trong một sự chết đột ngột, ta đi qua những giai đoạn này một cách rất nhanh chóng, với một cơ hội nhỏ nhận thấy chúng; với những ai chết dần dần, thì có thể nhận ra và làm lợi ích cho những giai đoạn này. Những điềm lạ của sự chết, chẳng hạn như một sự thay đổi trong cung cách thở di chuyển đến lỗ mũi, những giấc mơ, và những dấu hiệu thể chất, có thể xảy ra thậm chí nhiều năm trước cái chết thật sự, mặc dù đối với những người bình thường thì những điều này thường xảy trong một hay hai năm trước khi chết. Những điềm lạ của sự chết kể cả việc trở nên ghê tởm với những thứ chung quanh ta, nhà cửa, bạn bè, và v.v… kết quả trong một nguyện ước đến nơi nào khác. Hay, ta có thể phát triển tham luyến quá lắm với những thứ mà ta đã có trước đây. Ta có thể chuyển từ khắc nghiệt sang hợp tác, hay một cung cách khác trước đây. Sự nhiệt tình của ta  có thể tăng hoặc giảm rõ rệt. Có thể có một sự thay đổi trong phong cách thể chất hay thái độ của ta. Bản chất sự đối thoại của ta có thể trở nên rất thô lỗ - việc chửi thề và v… - hay ta có thể nói lặp đi lặp lại sự chết.

Khi tiến trình của sự chết thật sự bắt đầu, ta đi qua tám giai đoạn. Bốn giai đoạn đầu liên hệ đến sự tan rã của bốn yếu tố. Bốn giai đoạn sau liên hệ đến sự tan rã của thức vào trong trình độ sâu thẩm nhất của tâm, gọi là tâm linh quang. Hãy nhớ rằng, sự trình bày những giai đoạn của sự chết là một bản đồ của những thể trạng sâu xa của tâm vốn xảy ra khắp suốt trong đời sống hàng ngày và thường bị coi thường hoặc không ai thấy. Tám giai đoạn này diễn tiến rõ rệt theo trình tự khi lâm chung, đi ngủ, chấm dứt một giấc mơ, nhảy mũi, ngất xỉu và trong tình trạng khích động cực điểm - cực khoái, và trong trình tự ngược lại sau một tiến trình của sự chết hoàn toàn chấm dứt, cũng như khi thức giấc từ giấc ngủ, khi bắt đầu một giấc mơ, và khi nhảy mũi, ngất xỉu, và khi tình trạng khích động cực độ chấm dứt.

Tám giai đoạn được xác định bằng phương cách của sự toại nguyện trực quan mặc dù không thấy bằng mắt:

Thứ tự tiến tới
1-    Ảo giác
2-    Luồng khói
3-    Đom đóm
4-    Ngọn lửa của cây đèn dầu
5-    Tâm bầu trời trắng sống động
6-    Tâm bầu trời đỏ cam sống động
7-    Tâm bầu trời đen sống động
8-    Linh quang

Thứ tự ngược lại
1-    Linh quang
2-    Tâm bầu trời đen sống động
3-    Tâm bầu trời đỏ cam sống động
4-    Tâm bầu trời trắng sống động
5-    Ngọn lửa của cây đèn dầu
6-    Đom đóm
7-    Luồng khói
8-    Ảo giác

BỐN GIAI ĐOẠN ĐẦU TRONG THỨ TỰ TIẾN TỚI
SỰ TAN RÃ CỦA BỐN YẾU TỐ

Tổng quát thì các yếu tố thô hòa tan vào trong bốn yếu tố vi tế hơn. Khi năng lực của các yếu tố thô phục vụ như sự hổ trợ cho sự thoái hóa thức, thì các yếu tố vi tế trở nên rõ ràng hơn. Có tám giai đoạn, bốn giai đoạn đầu là:

Giai đoạn 1: yếu tố đất thoái hóa và hòa tan vào yếu tố nước. Những khía cạnh rắn chắc của thân thể, chẳng hạn như xương, không còn có thể phục vụ như một khung sườn, hay nền tảng, cho thức; năng lực của những khía cạnh rắn chắc làm như vậy để hòa tan vào, hay được chuyển biến đến, các chất lõng của thân thể, chẳng hạn như máu hay đàm. Bây giờ năng lực của yếu tố nước hoạt động như cơ sở của thức trở thành rõ ràng hơn. Thân thể của ta trở thành mõng manh hơn một cách đột ngột và tay chân ta lỏng lẻo. Ta mất sức mạnh thể chất – sức sống và ánh sáng của thân thể bị giảm thiểu một cách căn bản, làm nó kiệt quệ. Sức nhìn của ta trở thành  đen tối và không rõ ràng; ta không còn thể mở mắt và nhắm ta được nữa. Ta có thể có một cảm giác như chìm vào trong đất hay dưới bùn, và ta có thể ngay cả kêu gọi , “Đưa tôi lên!” hay cố gắng vùng vẩy gượng lên, nhưng điều quan trọng là không chiến đấu; hãy duy trì sự tĩnh lặng trong một thái độ đạo đức. Những gì ta thấy trong tâm thức giống một ảo giác.

Giai đoạn 2: năng lực của yếu tố nước suy thoái và hòa tan vào trong yếu tố lửa – hơi ấm vốn duy trì thân thể - và năng lực của yếu tố lửa phục vụ như căn bản của thức được nâng cao. Ta không còn trải nghiệm những cảm giác của sung sướng hay đớn đau, hay ngay cả những cảm giác trung tính, được phối hợp với các cảm giác và ý thức. Miệng, lưỡi, và cổ họng khô qua việc mất nước dãi, và cặn bả hình thành trên răng. Những chất lỏng khác, chẳng hạn như nước tiểu, máu, chất lỏng tái tạo, và mồ hôi, bị khô cạn. Ta không còn có thể nghe những âm thanh, và các tiếng vo ve thông thường trong các lỗ tai dừng lại. Những gì ta thấy trong tâm giống như những luồng khói phun ra, hay khói dày đặc khắp phòng, hay khói dâng lên cuồn cuộn từ một ống khói.

Giai đoạn 3: năng lực của yếu tố lửa – suy thoái và hòa tan vào yếu tố gió – những luồng hiện tại của không khí, hay năng lượng, điều khiển các chức năng cơ thể khác nhau chẳng hạn như thở vào, thở ra, ợ hơi, khạc nhổ, nói năng, nhai nuốt, co duỗi tay chân, mở và khép miệng, cũng như nháy mắt, tiêu hóa, tiểu tiện, kinh nguyệt và xuất tinh. Hơi ấm của cơ thể tụt giảm, đưa đến sự bất lực trong tiêu hóa thực phẩm. Nếu ta đã hướng dẫn đời sống của ta không có đạo đức một cách vượt trội, hơi nóng thân thể tụ họp đi xuống từ đỉnh đầu đến tim, phần trên của thân thể trở nên lạnh trước, nhưng nếu ta đã sống một cách đạo đức ưu thế, hơi nóng tụ họp từ gót chân đi lên đến tim, và phần dưới cơ thể trở thành lạnh trước. Năng lực ngửi của mũi chấm dứt. Ta không thể chú ý đến các hành động và nguyện ước của bạn bè cùng người thân chung quanh ta, hay không nhớ tên của họ. Ta trải nghiệm việc thở khó khăn, thở ra trở thành dài hơn và dài hơn và thở vào sẽ ngắn hơn và ngắn hơn; cổ họng ta phát ra âm thanh khò khè hay thở hổn hển. Những gì chúng ta thấy trong tâm ta giống như hoa đốm, có lẽ bên trong làn khói, hay giống như tia lửa trong bồ hóng dưới đáy của một chảo sắt.

Giai đoạn 4: năng lực của yếu tố gió thô suy thoái và hòa tan vào thức. Lưỡi bắt đầu cứng và ngắn, gốc của nó biến thành màu hơi xanh.Việc trải nghiệm xúc chạm cơ thể không thể nữa, đối với hành động thân thể. Hơi thở qua các lỗ mũi dừng lại, nhưng có những trình độ vi tế hơn của hơi thở, hay gió, cho nên sự chấm dứt của hơi thở qua mũi không biểu thị việc hoàn tất tiến trình của sự chết. Những gì chúng ta thấy trong tâm giống như ngọn lửa của cây đèn bơ hay đèn sáp (hay như ánh sáng lập lòe phía trên cây đèn bơ hay đèn sáp). Thoạt tiên ánh sáng lập lòe giống như bơ hay sáp gần như cạn kiệt. Sau đó, khi những ngọn gió mà trên đó những nhận thức tinh thần lướt theo bắt đầu suy sụp, hiện tướng của ngọn đèn bắt đầu đứng lại.

Trong tổng quát, thân thể của một người được cấu thành bởi bốn yếu tố: tuy nhiên, qua những biến thể trong các kinh mạch và gió trong khuôn khổ này, thì những người khác nhau trải nghiệm những hiện tướng nội tại khác nhau trong tiến trình của sự tan rã. Đây là tại sao có những biến thể nhỏ khác nhau trong các sự giải thích về tiến trình này trong những Mật điển đặc thù được Đức Phật thuyết giảng, chẳng hạn như Bí Mật Tập Hội (hệ thống chính được giải thích trong quyển sách này). Thắng Lạc Kim Cang (Chakrasamvara), và Thời Luân Kim Cang (Kalachakra), cũng như trong những Mật điển nào đó của Trường phái Cựu dịch Phật giáo Tây Tạng, gọi là Nyingma. Những biến thể nhỏ này một cách chính yếu đến từ những khác biệt trong các kinh mạch trong thân thể và trong các làn gió và giọt của chất lỏng tinh hoa chảy qua  những kinh mạch đó. Vì những nhân tố nội tại này khác nhau trong từng cá nhân, cho nên những sự thực tập cũng hơi khác nhau. Thậm chí khi những nhân tố nội tại là giống nhau, nhưng những dấu hiệu của sự chết hiện lên trong tâm trong những cung cách khác nhau vì các hành giả du già đặt nhấn mạnh trên những điểm khác nhau trong thân thể.

Trong những giai tầng này ta cần một thái độ đạo đức vô ngại, vốn là nguyện ước được trình bày trong thi kệ này của Đức Ban Thiền Lạt Ma. Chúng ta là những chúng sanh bình thường dưới ảnh hưởng của sanh và tử cho nên chắc chắn có những xu hướng được thiết lập qua các kiếp sống của những hành vi tốt và xấu mà các kết quả của chúng chưa biểu hiện. Mỗi thời khắc mà chúng ta thực hiện các hành động được thúc đẩy bởi si mê là góp phần để sống trong vòng luân hồi. Những hành vi rất mạnh mẽ có thể đẩy tới không chỉ một mà nhiều kiếp sống trong vòng luân hồi. Gần thời điểm lâm chung, một trong nhiều khuynh hướng nghiệp lành và không lành này được ấp ủ và phục vụ như cơ sở cho toàn bộ kiếp sống tới; nhiều nghiệp khác thiết lập những phẩm chất của sự sống chẳng hạn như sức khỏe, tiềm năng, và sự thông minh. Do thế, tư tưởng của ta, thể trạng tinh thần của ta, gần thời điểm lâm chung là rất quan trọng.

Ngay cả nếu hầu hết trong lúc sống ta thực hành thái độ đạo đức, thì một xu hướng phi đạo đức gần lúc lâm chung có thể nuôi dưỡng thiên hướng phi đạo đức mà tất cả chúng ta có. Thậm chí một âm thanh quấy rầy bởi một người nào đó ngồi xuống một vật quá cứng, có thể làm phát sinh sự bực tức và sân hận. Ngược lại, một người không thường quen thuộc nhiều với đạo đức có thể phát triển một tâm đạo đức mạnh mẽ lúc lâm chung, làm kích thích nhưng xu hướng nghiệp lực đạo đức và đưa đến một sự tái sinh tốt đẹp. Do thế, ta phải chăm sóc thật kỹ càng thời điểm lâm chung và phát sinh tối đa như có thể bất cứ loại thái độ đạo đức mà ta có thể biểu hiện được. Thật rất quan trọng rằng những người có mặt với sự lâm chung biết rằng tâm thức người lâm chung đang ở trong một tình trạng rất phức tạp; họ phải rất cẩn trọng không làm quấy rầy – nói năng lớn tiếng, khóc lóc, và những vấn đề cư xử thô tháo – thay vì thế, phải tạo ra một không khí hòa bình.

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

1-    Vậy ta sẽ không ngạc nhiên bởi tiến trình lâm chung khi nó bắt đầu, hãy học hỏi những giai đoạn tan rã của bốn yếu tố và những dấu hiệu ngoại tại cùng lúc ấy, như cho biết ở trên, và những dấu hiệu nội tại, được diễn tả trong những thi kệ.
2-    Chăm sóc thời điểm lâm chung vì vậy những xu hướng tốt đẹp được nuôi dưỡng và được kích thích bởi những quan điểm đạo đức.
3-    Những điềm báo trước sự chết có thể xuất hiện trong một hay hai năm trước khi sự chết thật sự đến. Những điều này cảnh báo ta về nhu cầu để chuẩn bị, nhưng thật tốt hơn là hãy sẳn sàng trước khi ấy.

-***-

Thi Kệ Số Chín
Xin cho chúng tôi nhận ra phương thức bất tử của chúng sanh
Khi những hiện tướng sai lầm đủ thứ sợ hãi và kinh khiếp
Và trong ảo giác, làn khói, và đom đóm đặc thù xuất hiện
Và khung sườn của tám mươi nhận thức biểu thị chấm dứt
         
Khi bốn yếu tố tan rã, những hiện tướng đủ loại xuất hiện. Đôi khi ngay cả trước  khi mắt và tai chấm dứt thể hiện chức năng, thì những cảnh tượng và âm thanh bất thường xuất hiện. Và luôn luôn, những ảo giác khác nhau xuất hiện tới ý thức. Thí dụ, những người bị đau khổ vì chứng bệnh suy nhược có thể thấy đám lửa khủng khiếp, tạo nên sự sợ hãi lớn. Những người khác trải nghiệm các ảo giác dễ chịu và ngay cả ngạc nhiên và cảm thấy thoải mái. Những sự khác nhau như thế này đến từ từ những khuynh hướng được tạo thành bởi những hành vi đạo đức và phi đạo đức trong kiếp sống này và những kiếp sống trước. Những sự khác biệt này báo hiệu thể loại và phẩm chất của sự tái sanh sắp xảy ra, như cung cách mà phẩm chất của ánh sáng trên bầu trời trước khi mặt trời mọc báo trước thời tiết trong ngày.

Khi bốn yếu tố tan rã từng thứ một, thì những dấu hiệu bên trong của sự chết xuất hiện.Sự của hòa tan yếu tố đất vào nước sinh ra một hiện tượng giống như một ảo giác trong sa mạc; sự hòa tan của yếu tố nước vào trong lửa làm sinh ra một hiện tượng giống như sự phun khói từ một ống khói hay làn khói mõng lan tỏa khắp phòng; sự hòa tan của lửa vào gió tạo ra một hiện tượng giống như đom đóm lửa, hay như những tia lửa trong bồ hóng dưới đáy chảo để sấy khô ngủ cốc. (Sự hòa tan của yếu tố gió sẽ được thảo luận trong chương tiếp theo)

Những dấu hiệu đó – ảo giác, khói, đom đóm, và ngọn lửa cũng như bốn thứ được diễn tả sau đây – xuất hiện đến những ai chết từ từ. Chúng không xảy ra đối với những ai chết một cách đột ngột, chết trong tai nạn hay vì vũ khí.

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

1-    Hãy nhận ra rằng những hiện tướng ảo giác, một số thậm chí ghê sợ và khủng khiếp, vốn có thể xảy ra trong lúc lâm chung qua nghiệp lực. Đừng bị xao lãng vì chúng.
2-    Hãy nghiên cứu ba hiện tướng đầu trong tám thứ ấy: ảo giác như ở trong sa mạc; khói phun từ ống khói hay làn khói mõng lan tỏa khắp phòng; đom đóm lửa, hay những tia lửa trong bồ hóng dưới đáy chảo.

-***-

Thi Kệ Số Mười
Xin cho chúng tôi phát sinh sự tỉnh thức và quán chiếu mạnh mẽ
Khi yếu tố gió bắt đầu hòa tan vào thức
Và sự tương tục của hơi thở bên ngoài chấm dứt,
các hiện tướng thô nhị nguyên tan rã,
Và một hiện tướng như ngọn đèn bơ cháy ló dạng.

Thức được định nghĩa như thứ vốn trong sáng và hiểu biết. Sự trong sáng trong ý nghĩa kép là bản chất tự nhiên của nó là rõ ràng và nó chiếu sáng, hay phát giác, giống như ngọn đèn dầu xua tan bóng tối vì thế các đối tượng có thể được thấy. Thức cũng hiểu biết đối tượng trong ý nghĩa rằng tối thiểu nó nhận biết chúng, ngay cả khi nó không biết chúng một cách chính xác.

Thức được cấu thành bởi những thời khắc, thay vì những tế bào, các nguyên tử, hay những hạt. Trong cách này thức và vật chất có những bản chất khác biệt một cách căn bản, và do vậy, chúng có các nhân chính yếu khác biệt. Những thứ vật chất có các thứ vật chất khác như những nhân chính yếu của chúng (được gọi như vậy vì chúng sản sinh thể chất, hay thực thể căn bản, của hệ quả), bởi vì phải có một sự phù hợp trong căn bản tự nhiên giữa nhân chính yếu và quả chính yếu. Thí dụ, đất sét là nhân chính yếu của một chậu bằng đất. Nguyên nhân chính yếu của một tâm phải tự chính nó là điều gì đó vốn trong sáng và hiểu biết – một thời khắc trước của tâm. Do vậy, bất cứ thời khắc nào của thức đòi hỏi một thời khắc trước của thức cho nhân chính yếu của nó, vốn có nghĩa là phải có một sự tương tục vô thỉ của tâm. Điều này là vấn đề một vòng vô thỉ của tái sanh được thiết lập qua lý luận như thế nào. Thêm nữa, nếu có một ký ức chính xác của sự tái sanh, thì đó là một dấu hiệu đầy đủ - không phải mọi người phải nhớ. Sự vắng mặt của những kiếp sống quá khứ và  tương lai chưa bao giờ được nhận thức một cách trực tiếp, trái lại có những trường hợp được chứng thực về một ý ức rõ ràng của những kiếp sống quá khứ. Mặc dù sự thật rằng thân thể lệ thuộc vào những điều kiện cho sự tăng và giảm của nó, nhưng thân thể được ban cho sự sống, và khi sự sống ấy bị buộc phải chấm dứt, thì nó nhanh chóng bị thối rữa và trở thành một xác chết. Bất chấp nó xinh và đẹp như thế nào đi nữa thì nó cũng biến thành một xác chết. Nếu ta phân tích sức sống vốn giữ cho thân thể này khỏi thối rữa, thì ta sẽ thấy rằng đó là tâm. Dĩ nhiên xác thịt được kết nối với thức để giữ nó khỏi bị phân hủy. Sự tương tục của tâm này là những gì tiến diễn đến kiếp sống tới.

Sự khác biệt trong bản chất giữa tâm và vật chất đòi hỏi những nhân chính yếu của chúng là khác nhau, nhưng điều này không có nghĩa rằng tâm và vật không tương tác lẫn nhau, vì chúng làm như vậy trong nhiều cách. Vật chất có thể là một điều kiện bổ trợ của tâm, chẳng hạn như khi vật chất vi tế bên trong con mắt hoạt động như một điều kiện bổ trợ với nhãn thức, hay khi một màu sắc hay một hình tướng hoạt động như một điều kiện bổ trợ với nhãn thức, hay khi thân thể của chính ta hoạt động như một sự hổ trợ, hay một căn bản của chính thân thức.

Tương tự thế, thức tạo hình vật chất vì nó là các hoạt động của chúng ta, hay các nghiệp, được thúc đẩy bởi thức. Đó là cấu trúc của môi trường. Ảnh hưởng chung của các nghiệp của nhiều chúng sanh tạo thành chính hệ thống thế giới mà chúng ta sống. Cũng thế, theo Tantra Yoga Tối Thượng, thức lướt trên gió là vật chất, mặc dù trong những hình thức vi tế nhất thì gió không được cấu thành bởi các hạt. Do bởi sự liên đới gần gũi giữa gió và tâm như vậy cho nên chúng là một thực thể bất phân, một chúng sanh Giác Ngộ có thể biểu hiện một thân với gió vi tế như nhân chính yếu của nó, một thân vượt khỏi những hạt vật chất như trong trường hợp thọ dụng thân (viên mãn báo thân) của một Đức Phật ở cõi Cực Lạc.

Việc áp dụng giáo lý về các nhân chính yếu và những điều kiện bổ trợ cho sự thụ thai, chúng ta có thể thấy rằng vật chất của cha và mẹ - noãn châu và tinh trùng – hoạt động như những nhân chính yếu của thân thể của đứa bé và hoạt động như những điều kiện bổ trợ của tâm. Thời khắc cuối cùng của thức của đứa bé trong kiếp trước của nó hoạt động như nhân chính yếu của thức vào thời điểm thụ thai và như một điều kiện bổ trợ của thân thể. Giống như ở trình độ thô của thân thể - ngay cả phôi thai – được xem như sự hổ trợ vật chất cho thức, cho nên gió mà trên đó thức cưỡi đi, giống như một kỵ mã trên lưng ngựa, là một thực thể vật chất hổ trợ cho thức. Mặc dù thức có thể tách rời khỏi thân thể vật chất, như nó làm khi chúng ta đi từ kiếp sống này đến kiếp sống khác, nhưng thức không bao giờ có thể tách rời khỏi trình độ vi tế nhất của của gió (phong đại).

Tôi không nghĩ rằng gió rất vi tế, hay năng lượng, có thể được xếp loại như một trong bốn yếu tố - đất, nước, lửa và gió – vì nó vượt khỏi những hạt vật lý. Gió rất vi tế là một khía cạnh chuyển động của gió rất vi tế; nó là cùng thực thể như tâm tương ứng của nó. Thật khó để phân tích gió rất vi tế và tâm với những khí cụ khoa học; tuy nhiên, có thể phát hiện một cách khoa học sự hiện diện của gió rất vi tế và tâm trong những trường hợp của sự chết lâm sàng trước khi thức xuất ra khỏi thân trong khi cơ thể vẫn không phân hủy. Một ít nhà khoa học đã mang một số máy móc đến bệnh viện của chúng tôi, nhưng trong khi họ ở đó, không có ai chết, và rồi khi những người dày dạn kinh nghiệm tâm linh qua đời, thì các máy móc lại không sẳn sàng!

Khi gió hay năng lượng mà trên đó nhiều trình độ các loại của thức cưỡi lên, trở nên rất yếu ớt và hòa tan một cách trọn vẹn hơn vào trong thức, thì những trình độ vi tế hơn và vi tế hơn của tâm biểu hiện. Vào lúc bắt đầu của giai đoạn bốn, khi các làn gió phục vụ như những khung sườn của nhiều thái độ bắt đầu tan rã, thì ở đó xuất hiện đến tâm một hình ảnh như ngọn lửa của cây đèn bơ hay đèn sáp, thoạt tiên nhấp nháy và rồi ổn định. Hơi thở bên ngoài chấm dứt. Thế giới nói chung xem điều này như thời điểm của sự chết mặc dù nó thật sự đến sau đó. Ở giai tầng này, những trình độ thô của hiện tướng của chủ thể và đối tượng như xa cách và bị chia cắt thành những thực thể tan rã; mắt không thấy các hình sắc hiển thị, tai không nghe các âm thanh, mũi không cảm thấy mùi hương, lưỡi không cảm giác các vị nếm, và thân thể không cảm nhận xúc chạm đối tượng. Bản chất trong sáng và hiểu biết của tâm nổi lên rõ ràng.

Nếu ta có thể chánh niệm lúc chết, việc nhận ra những dấu hiệu của các giai đoạn tan rã và hòa tan, việc duy trì sự tự quan sát nội tâm đủ để cố gắng ở bất cứ trình độ nào của đạo đức mà ta biết, thì sự thực hành của ta sẽ rất mạnh mẽ. Ở mức độ tối thiểu, nó sẽ ảnh hưởng một cách tích cực kiếp sống tới của ta.

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

1-    Mặc dù tâm và vật chất có những nhân chính yếu khác biệt, nhưng chúng tương tác nhau trong nhiều cách.
2-    Sau ba dấu hiệu nội tại của ảo giác, làn khói, và đom đóm, đi đến giai đoạn nội tại thứ tư, vốn giống như ngọn lửa của cây đèn bơ hay đèn sáp, mới đầu nhấp nháy và rồi ổn định.
3-    Mặc dù ở thời điểm này hơi thở bên ngoài qua mũi đã dừng và không còn phản ứng có ý thức đến sự kích thích bên ngoài, nhưng người ấy chưa chết. Thật hữu ích nếu thân thể không bị quấy rầy cho đến khi sự chết hoàn toàn xảy ra.
4-    Việc duy trì chánh niệm, và sự tự quan sát nội tâm vốn giúp chúng ta nhận ra giai đoạn nào của tiến trình nội tại đang xảy ra có thể thúc đẩy cho việc thực hành và ảnh hưởng đầy năng lực cho một sự tái sanh tích cực.

-***-

Ẩn Tâm Lộ , Sunday, August 26, 2018

-***-
                                             
HƯỚNG DẪN VỀ SỰ CHẾT ĐỂ SỐNG TỐT ĐẸP HƠN
Nguyên bản: Advice on Dying and Living a Better Life
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

MỤC LỤC
01-Tỉnh thức về sự chết
02- Giải thoát khỏi sự sợ hãi
03- Chuẩn bị để chết
04- Loại trừ những chướng ngại đến cái chết có lợi
05-Thành tựu những điều kiện thuận lợi cho thời điểm lâm chung
06- Hành thiền trong khi đang chết
07- Cấu trúc bên trong
08- Linh quang của sự chết
09- Phản ứng với tình trạng trung ấm thân
10- Đón nhận một sự tái sanh tích cực
11- Thi kệ quán chiếu hàng ngày