Thứ Ba, 14 tháng 5, 2019

TÂY TẠNG THÁNH ĐỊA HÒA BÌNH CỦA THẾ GIỚI



Sự cống hiến của dân tộc chúng tôi với hòa bình thế giới

THẾ GIỚI ĐÃ TRỞ THÀNH ngày càng liên hệ hổ tương với nhau cho nên nền hòa bình lâu dài trên trình độ của quốc gia, khu vực và toàn cầu chỉ có thể nếu chúng ta chú ý quan tâm đến tất cả mọi dân tộc. Trong thời đại của chúng ta, thật thiết yếu rằng tất cả chúng ta, mạnh cũng như yếu, cùng chung đóng góp cho nhau. Như lãnh đạo của dân tộc Tây Tạng và như một tu sĩ Phật giáo, tôi chân thành với ba chí nguyện của một tôn giáo căn cứ trên từ ái và bi mẫn. Trên tất cả, tôi là một con người, vì số phận của tôi cùng chia sẻ hành tinh này với tất cả mọi người, những người anh chị em của tôi. Khi thế giới ngày càng nhỏ hơn, chúng ta cần nhau hơn bao giờ hết. Đây là sự thật cho tất cả mọi thành phần của thế giới, kể cả lục địa mà tôi đã sinh ra.

Ngày nay, ở Á Châu cũng như những nơi khác, căng thẳng cao độ. Có những xung đột đang xảy ra ở Trung Đông, và Đông Nam Á, và ở quê hương tôi, Tây Tạng. Mở rộng ra, những vấn nạn này là triệu chứng bên dưới những căng thẳng vốn tồn tại trong sự tác động của những không gian quyền lực.

Nhằm để giải quyết những xung đột khu vực, chúng ta phải tính đến nhưng quan tâm tương ứng của tất cả mọi quốc gia và dân tộc lớn cũng như nhỏ. Không có giải pháp toàn cầu vốn bao gồm nguyện vọng của những dân tộc quan tâm trực tiếp nhất, sự lượng định hay biện pháp nửa chừng chỉ có thể tạo thêm những vấn nạn. Người Tây Tạng thâm tâm muốn đóng góp cho hòa bình, cả trên trình độ khu vực lẫn thế giới, và họ nghĩ rằng họ ở trong một vị thế đặc biệt để làm việc đó. Một cách truyền thống, chúng tôi là một dân tộc bất bạo động, những người yêu hòa bình. Kể từ khi Phật giáo được du nhập vào Tây Tạng hơn một nghìn năm trước, người Tây Tạng đã thực hành bất bạo động và tôn trọng tất cả mọi hình thức của sự sống. Chúng tôi đã mở rộng vị thế đứng đầu này cho những mối quan hệ quốc tế của quốc gia chúng tôi. Vị trí chiến lược cao độ của Tây Tạng trong trung tâm của Á Châu, giữa những cường quốc lớn của lục địa, một cách lịch sử ban cho chúng tôi một vai trò quan yếu trong việc duy trì hòa bình và ổn định. Một cách chính xác vì lý do này mà trong quá khứ, những đế quốc Á Châu đã cẩn thận tránh xa Tây Tạng bằng những thỏa thuận  hổ tương. Giá trị của Tây Tạng như một quốc gia trái đệm độc lập được nhận thức như một thành phần cho sự ổn định của khu vực.

Khi nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa mới thành lập xâm lược Tây Tạng năm 1950, thì một nguồn gốc xung đột mới đã xuất hiện. Điều này đã xảy ra tiếp theo, khi cuộc đồng khởi của toàn dân Tây Tạng chống lại Trung Cộng và sự đào thoát của tôi sang Ấn Độ năm 1959, căng thẳng giữa Trung Hoa và Ấn Độ gia tăng, và đưa đến kết quả trong cuộc chiến tranh biên giới trong năm 1962. Năm 1987, một lần nữa, những đội quân đông đảo đã tập trung cả hai bên biên giới Hy Mã Lạp Sơn, và căng thẳng một lần nữa diễn ra  nguy hiểm một cách cao độ.

Vấn đề thật sự không phải là đường biên giới giữa Ấn Độ và Trung Hoa, mà là sự chiếm đóng bất hợp  pháp của Trung Cộng ở Tây Tạng, vốn đã cho phép Trung Hoa thâm nhập trực tiếp vào lục địa Ấn Độ. Nhà cầm quyền Trung Cộng đã cố gắng để hạ thấp vấn đề bằng việc tuyên bố rằng Tây Tạng luôn luôn là một phần của Trung Hoa. Điều này không đúng. Tây Tạng đã là một quốc gia hoàn toàn độc lập khi nó bị xâm lược bởi Quân Giải Phóng Nhân Nhân năm 1950.

Kể từ khi những hoàng đế Tây Tạng thống nhất Tây Tạng hàng nghìn năm trước, xứ sở chúng tôi đã có thể bảo vệ nền độc lập của nó, cho đến giữa thế kỷ 12. Tây Tạng trong quá khứ đã mở rộng sự ảnh hưởng của nó đối với những lân bang và dân tộc láng giếng, và những thời gian sau nó bị ở dưới sự thống trị của những nhà thống trị ngoại bang cường thịnh: những Đại hản của Mông Cổ, những Gurkha của Nepal, những hoàng đế Mãn Châu,và người Anh hiện diện ở Ấn Độ.

Dĩ nhiên, không phải hiếm những quốc gia chịu ảnh hưởng hay can thiệp ngoại bang. Điều được gọi là những mối quan hệ chư hầu là thí dụ thuyết phục nhất cho điều này – những quốc gia lớn tiến hành ảnh hưởng của họ đối với những đồng minh  hay lân bang yếu kém hơn. Như nghiên cứu được đưa ra bởi những thẩm quyền hợp pháp cao nhất cho thấy, trong trường hợp của Tây Tạng, sự khuất phục thỉnh thoảng của xứ sở chúng tôi đối với những ảnh hưởng ngoại bang không bao giờ bao hàm việc đánh mất sự độc lập của nó. Và Tây Tạng từ mọi quan điểm là một nhà nước độc lập, không thể phá hủy được vào thời điểm xâm lược của quân đội Cộng Sản Bắc Kinh.

Sự xâm lăng của Trung Cộng bị lên án bởi hầu hết các quốc gia của thế giới tự do, cấu thành một sự xâm lược trắng trợn đối với công pháp quốc tế. Khi quân đội chiếm đóng Tây Tạng tiếp tục, thế giới nên nhớ rằng, ngay cả nếu người Tây Tạng đánh mất tự do của họ, theo luật pháp quốc tế, thì Tây Tạng ngày nay vẫn là một quốc gia độc lập bị chiếm đóng một cách bất hợp pháp.

Tôi không đang cố gắng để đi vào sự liên hệ trong một cuộc tranh luận chính trị hay hợp pháp đối với vị thế của Tây Tạng. Mong ước của tôi chỉ đơn thuần là để nhấn mạnh sự kiện rõ ràng và không thể chối cải rằng như những người Tây Tạng, chúng tôi là một dân tộc khác biệt với nền văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo, và lịch sử riêng của chúng tôi. Tây Tạng nên giữ vai trò của nó như một quốc gia trái độn, vì thế bảo vệ và bảo đảm sự thúc đẩy hòa bình ở Á Châu.

Mặc dù sự hủy diệt gây ra cho dân tộc chúng tôi trải qua những thập niên vừa rồi do quân đội xâm lược Trung Cộng tiến hành, nhưng tôi luôn luôn cố gắng để đi gần đến một giải pháp thông qua những sự thảo luận trực tiếp, thẳng thắn với nhà cầm quyền Bắc Kinh. Năm 1982, theo sau những sự thay đổi trong giới lãnh đạo Trung Cộng, và cảm ơn những sự tiếp xúc trực tiếp với chính quyền Bắc Kinh, tôi đã gửi những đại diện của tôi để khởi đầu những việc nói chuyện về tương lai của đất nước và dân tộc tôi.

Chúng tôi bắt đầu đối thoại với lòng nhiệt thành cởi mở và thái độ tích cực để đem vào xem xét những nhu cầu chính đáng của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Tôi hy vọng rằng thái độ này sẽ là hổ tương và rằng một giải pháp cuối cùng sẽ được tìm ra để có thể hài lòng và bảo tồn những nguyện vọng và quan tâm của đôi bên. Bất hạnh thay, Trung Cộng đã tiếp tục đáp ứng những nổ lực của chúng tôi trong một cung cách phòng thủ, đem sự báo cáo chi tiết của chúng tôi về những thực tế rất khó khăn ở Tây Tạng chỉ đơn thuần như những sự chỉ trích chế độ.

Nhưng đó chưa phải là tệ hại nhất. Trong ý kiến của chúng tôi, chính quyền Trung Cộng đã cho phép cơ hội cho sự đối thoại thật sự qua đi. Thay vì đối diện với những vấn nạn thật sự của sáu triệu dân Tây Tạng, họ đã cố gắng để co cụm toàn bộ vấn đề Tây Tạng thành vị thế cá nhân của chính tôi.

Trong nguyện ước chân thành nhất của tôi, và của dân tộc Tây Tạng, để tái lập ở Tây Tạng vai trò lịch sử vô giá của nó bằng một lần nữa biến toàn bộ xứ sở, kể cả ba tỉnh U-Tsang, Kham, và Amdo, thành một vùng ổn định, hòa bình, và hợp tác. Trong truyền thống tinh khiết nhất của Phật giáo, Tây Tạng vì thế sẽ cống hiến những sự phụng sự và lòng hiếu khác của nó đến tất cả những người bảo vệ hòa bình, tính tốt đẹp của con người, và quan tâm cho môi trường mà tất cả chúng ta cùng chia sẻ.

*

Đó là năm 1987, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã phát biểu tại Ủy Ban Nhân Quyền Quốc Hội Hoa Kỳ. Sau khi Mao chết, Đặng Tiểu Bình đã ban hành một chính sách mới hạn chế nới lỏng ở Tây Tạng, bắt đầu năm 1979, Đảng Cộng Sản Trung Quốc dã tổ chức một Hội Nghị Chuyên Đề Đầu Tiên về Tây Tạng vào mùa xuân năm 1980 và gửi Hồ Cẩm Đào, tổng bí thư đảng cộng sản, đánh giá hoàn cảnh Tây Tạng, bị sốc bởi tình trạng nghèo đói cùng cực của xã hội Tây Tạng, khi trở lại ông đề nghị những sự cải cách cấp tiến để thoát khỏi sự kiểm soát tập thể, cho phép sự tự trị rộng rãi hơn, và giảm thuế. Nó quyết định giảm thiểu cán bộ Trung Cộng xuống còn hai phần ba, để lại sự quản lý Tây Tạng cho người của chính họ, những người chịu trách nhiệm cho sự hồi sinh nền văn hóa của họ. Những tù nhân chính trị, bị giam giữ từ năm 1959, được thả ra, và Đảng Cộng Sản Trung Quốc mời những người lưu vong, đặc biệt là Đức Đạt Lai Lạt Ma, trở về quê hương để “tham gia vào việc tái thiết xã hội.”

Chính phủ lưu vong Tây Tạng đã gửi ba phái đoàn điều tra đến Tây Tạng năm 1979 và 1980. Sự viếng thăm của họ đã khơi dậy niềm hân hoan cùng khắp vốn đã vượt khỏi bất cứ sự nhiệt thành nào mà Trung Cộng có thể tưởng tượng. Những người anh chị em của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã hiện diện, và những người đồng bào của họ đã đổ xô tới để chạm vào họ và nước mắt tưới ướt áo của họ, vốn được mang theo như thánh tính. Những mãnh áo quần của họ là quý giá, vì chúng đến từ những người gần gũi với lãnh đạo tinh thần của họ, cho sự tôn kính không được cần che dấu của họ. Hai mươi năm tuyên truyền và đàn áp tàn bạo không làm lay chuyển lòng tin của họ, làm thất vọng nhiều cho những lực lượng quân sự của Trung Cộng. Lần viếng thăm lần thứ hai đã bị cắt ngắn vì đám đông ở Lhasa đã trở thành không thể kiểm soát.

Tháng Chín 1980, Đức Đạt Lai Lạt Ma đề nghị gửi năm mươi giáo viên từ cộng đồng lưu vong đến giảng dạy ở Tây Tạng. Ngài đề nghị mở một văn phòng liên lạc ở Bắc Kinh để tái lập niềm tin, nhưng Trung Cộng đã lập lờ.

Tháng Ba 1981, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã lưu ý điều này trong một lá thư gửi Đặng Tiểu Bình, trong khi vẫn nhấn đi nhấn lại rằng những giáo viên phải được cho phép nhanh chóng để hướng đến sứ mệnh giáo dục của họ ở Tây Tạng. Vài tháng sau đó, vào tháng Bảy, Hồ Diệu Bang đã trả lời, yêu cầu Đức Đạt Lai Lạt Ma trở lại Lhasa, nơi ngài có thể tiếp tục vị trí chính trị và những điều kiện đời sống như trước 1950.

Với phạm trù mới này Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ám chỉ khi ngài đề cập đến những đại diện được chính phủ lưu vong gửi năm 1982 và 1984 đến Bắc Kinh. Nhưng sự thất vọng đã tràn ngập họ, vì chính quyền Trung Cộng đã tuyên bố không khoan nhượng rằng họ chỉ muốn thảo luận một vấn đề duy nhất: “sự trở về mẫu quốc không điều kiện của Đức Đạt Lai Lạt Ma.”

Thời điểm cởi mở, vốn được cho phép cho sự hồi sinh của lối sống và tôn giáo Tây Tạng đã không kéo dài. Năm 1984, một Hội Nghị Chuyên Đề lần thứ hai về Tây Tạng đặt nghi vấn vào sự lãnh đạo của Hồ Diệu Bang, phê phán ông về việc cho phép tinh thần quốc gia Tây Tạng sống lại. ông bị mất chức lãnh Đạo Đảng Cộng Sản, và một lần nữa, những chính sách của Trung Cộng trở nên khắc nghiệt hơn. Đây là khi Đức Đạt Lai Lạt Ma, tại lời mời của Quốc Hội Hoa Kỳ, quyết định đưa vấn đề Tây Tạng vào môi trường quốc tế - hợp đồng cùng với một thông điệp về hòa bình cho thế giới.


*

Tôi đề nghị Tây Tạng trở thành thánh địa bất bạo động của thế giới

TÔI ĐỀ NGHỊ RẰNG TOÀN BỘ TÂY TẠNG, kể cả những tỉnh miền đông của Kham và Amdo, được chuyển biến thành một khu vực của bất bạo động, một thuật ngữ Ấn giáo mệnh danh một tình trạng của bất bạo động và hòa bình.

Sự thành lập một khu vực như vậy của hòa bình sẽ là sự tiếp tục vai trò lịch sử của Tây Tạng, một quốc gia hòa bình, trung lập và là vùng trái độn giữa những cường quốc của lục địa. Đó cũng là giữ gìn đề xuất Nepal trở thành một khu vực hòa bình, một chương trình vốn được Trung Hoa chấp nhận công khai. Khu vực hòa bình Nepal sẽ có một tác động mạnh mẽ hơn nếu nó bao gồm cả Tây Tạng và những quốc gia lân bang.

Việc thành lập một khu vực hòa bình ở Tây Tạng sẽ bắt buộc một sự triệt thoái lực lượng và sự đồn trú quân sự của Trung Cộng. Nó cũng cho phép  Ấn Độ rút lui lực lượng quân sự và những trại binh  khỏi những vùng biên giới ở Hy Mã Lạp Sơn. Một thỏa thuận quốc tế có thể bảo đảm nhu cầu hợp pháp cho việc bảo vệ và xây dựng những mối quan hệ của lòng tin giữa dân tộc Tây Tạng, Ấn Độ, Trung Hoa, và những dân tộc khác trong vùng. Đó sẽ là một thuận lợi cho mọi người, nhất là Trung Hoa và Ấn Độ. Sự an ninh sẽ được tái củng cố, và việc đó sẽ làm nhẹ bớt gánh nặng của họ liên hệ đến việc duy trì những sự tập trung quân sự lớn lao trên những vùng tranh chấp biên giới ở Hy Mã Lạp Sơn.

Trong suốt lịch sử, những mối liên hệ giữa Trung Hoa và Ấn Độ không bao giờ bị căng thẳng. Chỉ khi quân đội Trung Cộng xâm lược Tây Tạng, do thế tạo nên một vùng biên giới chung lần đầu tiên mà những mối căng thẳng xuất hiện giữa hai cường quốc, đưa đến kết quả của cuộc chiến biên giới năm 1962. Kể từ đó, nhiều sự kiện nguy hiểm đã xảy ra. Việc tái lập những mối quan hệ tốt đẹp giữa hai quốc gia đông dân nhất thế giới sẽ trở nên bớt căng nếu họ được tách rời ra, như trong quá khứ, bởi một khu vực trái độn rộng rãi, thân hữu.

Để cải thiện những mối quan hệ giữa dân tộc Tây Tạng và Trung Hoa, bước đầu tiên là việc phục hồi lòng tin. Sau sự diệt chủng hàng thập niên mới đây – trong phạm vi của hơn một triệu người Tây Tạng, hay một phần sáu dân số, đã mất sự sống của họ, trong khi tối thiểu một con số như vậy cũng bị mòn mõi trong những trại tập trung do bởi niềm tin tôn giáo và lòng yêu mến tự do của họ - chỉ có một sự rút lui quân đồn trú Trung Cộng mới có thể khởi đầu một tiến trình hòa giải thật sự. Lực lượng chiếm đóng đông đảo ở Tây Tạng nhắc người Tây Tạng mỗi ngày sự áp bức và khổ đau mà tất cả đang chịu đựng. Việc rút quân đội sẽ là một dấu hiệu mạnh mẽ cho chúng tôi hy vọng rằng trong tương lai một mối quan hệ thân hữu và tin tưởng có thể được thiết lập với người Trung Hoa.

*

Việc chuyển hóa Tây Tạng thành một khu vực hòa bình cống hiến đến văn  hóa bất bạo động (ahimsa) được Đức Đạt Lai Lạt Ma đề xuất trong phát biểu trước ủy Ban Nhân Quyền Quốc Hội Hoa Kỳ năm 1987, khi ngài trình bày Dự Án Năm Điểm Hòa Bình. Vị lãnh đạo tinh thần đã phát triển lập luận rằng nền hòa bình ở Tây Tạng có thể bảo đảm hòa bình trên thế giới, phù hợp với nguyên tắc độc lập thân yêu của ngài. Bài phát biểu này đã đánh dấu một chuyển hướng quan trọng trong sự phân tích về tình hình Tây Tạng của Đức Đạt Lai Lạt Ma và chính phủ lưu vong Tây Tạng.

Cho đến 1979, chính phủ trung ương Tây Tạng và người Tây Tạng đã cố gắng để khôi phục nền độc lập của Tây Tạng bằng việc kêu gọi Liên Hiệp Quốc, mà không có nhiều thành công, để nhìn nhận chủ quyền lịch sử của quốc gia họ, vốn, mâu thuẩn với những gì mà cơ quan tuyên truyền Trung Cộng xác nhận, là không bao giờ là một phần của Trung Hoa. Trong khi biết rằng thế giới đã trở thành ngày càng liên hệ hổ tương hơn trong chính trị, quân sự, và kinh tế, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã quyết định đặt mọi nổ lực vào việc giải quyết vấn đề Tây Tạng qua đối thoại và đàm phán.

Năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã ra lệnh rằng bất cứ điều gì về Tây Tạng cũng có thể thảo luận ngoại trừ độc lập. Trong những cuộc gặp gở với các thành viên chính phủ lưu vong, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nghiên cứu về việc khả dĩ hài lòng những nguyện vọng của dân tộc Tây Tạng trong khi vẫn chấp nhận ý kiến rằng Tây Tạng có thể sẽ trở thành một tỉnh của Trung Hoa, cung ứng một vị thế thật sự của tự quản và tự trị có được. Tình trạng không thể đảo ngược làm cho có sự tự trị hiệu quả này là hủy bỏ cơ quan hành chính của đất nước, bị áp đặt một cách tùy tiện bởi sự chiếm đóng, thành năm khu vực kết hợp vào những tỉnh của Trung Hoa. Chính quyền Dharamsala đề nghị rằng tất cả những vùng được hợp nhất vào một thực thể quyền lực là tự trị một cách dân chủ. Những chừng mức như thế cho phép bảo tồn tôn giáo và văn hóa Tây Tạng bằng việc cho người Tây Tạng quyền lực để quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của chính họ. Trung Cộng tiếp tục có trách nhiệm về quốc phòng, ngoại giao, giáo dục, và kinh tế. Như vậy sẽ có được sự tiến bộ về một sự ổn định lâu dài bằng tính toàn vẹn lãnh thổ của nó. Dân tộc Tây Tạng sau đó sẽ không có lý do gì để đòi hỏi sự độc lập của họ.

Những điểm này hình thành căn bản của chính sách được gọi là “Trung đạo”, được nghĩ là lợi ích hổ tương cho cả hai phía và để phụng sự hòa bình trên thế giới. Nó vẫn được ủng hộ bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma trong trong những đàm phán của ngài với chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Ngài đã đưa ra một sự giải thích hoàn chỉnh về điều này một năm sau bài phát biểu ở Hoa Kỳ khi ngài tuyên bố tại Quốc Hội Châu Âu ở Strasbourg.


*

Nhân danh di sản tâm linh của dân tộc tôi

CHÚNG ĐANG SỐNG NGÀY NAY trong một thế giới rất hổ tương. Một quốc gia đơn lẻ không thể tự giải quyết những vấn nạn. Nếu chúng ta không nhận ra trách nhiệm toàn cầu, thì chính sự sống còn của chúng ta bị đe dọa. Đó là tại sao tôi luôn luôn tin tưởng trong sự cần thiết cho sự hiểu biết tốt đẹp hơn, sự hợp tác gần gũi hơn, và sự tôn trọng rộng rãi hơn giữa các quốc gia trên thế giới. Quốc Hội Châu Âu là một thí dụ truyền cảm. Nổi lên từ những hổn độn của chiến tranh, những kẻ thù ngày hôm qua, trong một thế hệ mà thôi, đã học hỏi để cùng tồn tại và hợp tác.

Tây Tạng đang trải qua một thời điểm rất khó khăn. Người Tây Tạng, đặc biệt những ai đang chịu đựng sự chiếm đóng của Trung Cộng, ngưỡng mộ tự do và công lý cũng như đến một tương lai mà chính họ có thể tự quyết định, cũng như bảo vệ hoàn toàn cá tính đặc biệt của họ và sống trong hòa bình với những láng giềng của họ. Trong hơn một nghìn năm, dân tộc Tây Tạng đã thừa kế những giá trị tâm linh, bảo vệ sinh uyển khu vực cũng như duy trì sự cân bằng mong manh của sự sống trên cao nguyên. Ngưỡng mộ bởi thông điệp bất bạo động và từ bi của Đức Phật, được bảo vệ bởi những ngọn núi, chúng tôi đã cố gắng để tôn trọng tất cả những hình thức của sự sống và đã từ bỏ chiến tranh như công cụ của chính sách quốc gia.

Suốt khắp lịch sử chúng tôi, ngược lại hai nghìn năm, chúng tôi đã từng độc lập. Không khi nào từ khi lập quốc vào năm 127 trước Dương Lịch chúng tôi đã nhường lại chủ quyền của mình cho một cường quốc ngoại bang. Như là trường hợp của tất cả mọi quốc gia. Tây Tạng đã trải qua những thời điểm khi những lân bang của nó – Mông Cổ, Mãn Thanh, Trung Hoa, Anh quốc, và Nepal – đã cố gắng để khuất phục nó. Đây là những hồi đoạn ngắn mà dân tộc Tây Tạng không bao giờ đồng ý để diễn giải như một sự đánh mất chủ quyền quốc gia. Trong thực tế, có những lúc khi những vị vua Tây Tạng chinh phục những phần lãnh thổ rộng lớn của Trung Hoa và những lân bang khác. Nhưng điều đó không có nghĩa là những người Tây Tạng chúng tôi bây giờ đòi hỏi những vùng lãnh thổ này.

Năm 1949 Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa xâm lược Tây Tạng bằng vũ lực. Kể từ đấy, Tây Tạng chịu đựng một giai đoạn tối tăm nhất trong lịch sử của nó. Hơn một triệu người dân chúng tôi đã bị giết chết như kết quả của cuộc xâm lược. Hàng nghìn tu viện đã biến thành đống gạch vụn. Một thế hệ đã lớn lên thiếu thốn học vấn, phát triển kinh tế, và bản sắc quốc gia. Mặc dù những lãnh tụ Trung Cộng đã đưa những cải cách nào đó có hiệu lực, nhưng họ cũng đưa đông đảo người Hoa di chuyển đến cao nguyên Tây Tạng. Chính sách này đã khiến sáu triệu người Tây Tạng biến thành điều kiện của một tộc dân thiểu số.

Tôi đã cấm dân tộc tôi dùng đến phương thức bạo động trong những nổ lực của họ nhằm chấm dứt đau khổ cho họ. Tuy nhiên, tôi thật tin rằng một dân tộc có mọi quyền đạo đức để phản kháng chống lại bất công. Bất hạnh thay, những phản kháng ở Tây Tạng đã bị trấn áp một cách bạo động bởi công an và quân đội Trung Cộng. Tôi sẽ luôn luôn khuyến khích bất bạo động, nhưng ngoại trừ Trung Cộng từ bỏ những phương pháp tàn bạo của họ, chứ người Tây Tạng không thể bị quy trách nhiệm cho một sự gia tăng đau đớn hơn của hoàn cảnh.

Mọi người Tây Tạng hy vọng và cầu nguyện cho một sự hồi phục hoàn toàn của nền độc lập của quốc gia họ. Hàng nghìn người dân chúng tôi đã hy sinh mạng sống của họ, và toàn bộ đất nước chúng tôi đã đau khổ trong cuộc chiến đấu này. Nhưng người Trung Cộng đã thất bại hoàn toàn trong việc nhận ra những nguyện vọng của dân tộc Tây Tạng, và họ cương quyết trong chính sách đàn áp tàn bạo của họ.

Tôi đã suy nghĩ trong một thời gian dài về một giải pháp thực tiển vốn có thể chấm dứt thảm kịch của đất nước chúng tôi. Với chính phủ lưu vong, tôi đã chào mời những ý kiến của nhiều bạn hữu và những người quan tâm. Vào ngày 21 tháng Chín năm 1987, trước ủy Ban Nhân Quyền Quốc Hội ở thù đô Hoa Sinh Tân, Hoa Kỳ, tôi đã tuyên bố Kế Hoạch Năm Điểm Hòa Bình mà trong đó tôi kêu gọi cho một sự chuyển hóa ở Tây Tạng thành một khu vực hòa bình, một thánh địa nơi con người và thiên nhiên có thể sống chung với nhau trong hòa hiệp. Tôi cũng kêu gọi cho một sự tôn trọng nhân quyền và lý tưởng tự do, cho việc bảo vệ môi trường, và cho việc chấm dứt sự di chuyển người Hoa đến Tây Tạng.

Điểm thứ năm trong Kế Hoạch Hòa Bình kêu gọi cho những sự đàm phán nghiêm túc giữa người Tây Tạng và Trung Cộng. Chúng tôi đã chủ động bày tỏ những tư tưởng này, vốn, là chúng tôi hy vọng, có thể giải quyết cho vấn đề Tây Tạng. Toàn bộ Tây Tạng, được biết với cái tên Chokha Sum (kể cả những tỉnh U-Tsang, Kham và Amdo) nên trở thành một thực thể tự quản, dân chủ, và tuân thủ luật pháp, với người dân đồng ý hoạt động cho lợi ích chung và bảo vệ môi trường, trong sự phối hợp với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Chính quyền Trung Hoa sẽ vẫn chịu trách nhiệm về chính sách ngoại giao. Chính quyền Tây Tạng, về phần nó, sẽ phát triển và duy trì những mối quan hệ qua phòng ngoại giao của nó và những lãnh vực thương mại, giáo dục, văn hóa, tôn giáo, du lịch, khoa học, thể thao, và những hoạt động phi chính trị khác.

Vì sự tự do cá nhân là cội nguồn thật sự cho việc phát triển bất cứ xã hội nào, nên chính quyền Tây Tạng sẽ cố gắng để bảo đảm sự tự do này bằng việc tuân thủ hoàn toàn Tuyên Bố Nhân Quyền, dưới sự hiểu biết về những quyền tự do ngôn luận, hội họp hòa bình, và tôn giáo.Vì tôn giáo đại diện cho bản sắc của nguồn gốc quốc gia Tây Tạng, và vì những giá trị tâm linh là trung tâm của nền văn hóa giàu đẹp của Tây Tạng, cho nên nhiệm vụ đặc biệt của chính quyền Tây Tạng là bảo đảm và phát triển nó.

Chính quyền Tây Tạng nên thông qua những luật lệ nghiêm khắc để bảo vệ những hệ động thực vật hoang dã. Việc khai thác những tài nguyên thiên nhiên sẽ được kiểm soát một cách cẩn thận. Việc sản xuất, thử nghiệm, và tàng trử vũ khí nguyên tử và bất cứ vũ khí nào khác sẽ bị cấm chỉ, cùng với việc sử dụng năng lượng và kỷ thuật nguyên tử vốn sản sinh chất thải độc hại. Đó sẽ là nhiệm vụ của chính quyền Tây Tạng để chuyển hóa Tây Tạng thành một khu bảo tồn thiên nhiên rộng lớn nhất hành tinh chúng ta. Một hội nghị hòa bình khu vực sẽ được kêu gọi để bảo đảm Tây Tạng trở thành một thánh địa thật sự của hòa bình và phi quân sự. Nhằm để tạo nên một không khí tin tưởng thuận lợi cho những cuộc đàm phán hiệu quả, chính quyền Trung Hoa nên lập tức chấm dứt việc vi phạm nhân quyền ở Tây Tạng và từ bỏ chính sách di dân người Hoa đến Tây Tạng.

Đó là những ý kiến mà tôi sẽ tiếp tục duy trì trong tâm tôi. Tôi cũng cảnh giác rằng nhiều người Tây Tạng thất vọng với vị thế trung bình này. Không nghi ngờ gì, sẽ tiếp tục có nhiều cuộc thảo luận trong cộng đồng của chúng tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng. Đó là một bước cần yếu và không thể tránh khỏi trong bất cứ một tiến trình thay đổi nào. Tôi tin tưởng rằng những phản chiếu này trình bày một phương cách thực tiển nhất để tái lập một bản sắc Tây Tạng đặc thù và để khôi phục những quyền căn bản của Tây Tạng, trong khi vẫn cho phép những lợi ích của Trung Hoa tồn tại. Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh rằng, bất cứ sự đàm phán với Trung Cộng kết quả ra thế nào, thì người Tây Tạng nên có những tiếng nói cuối cùng trong bất cứ quyết định nào. Vậy thì, bất cứ đề xuất nào cũng sẽ bao gồm một chương trình cho một tiến trình hợp pháp hoàn toàn để định rõ những nguyện ước của người Tây Tạng bằng một cách của một trưng cầu dân ý quốc gia.

Tôi không mong cầu đảm nhận một vai trò năng động trong chính quyền Tây Tạng. Tuy nhiên, tôi sẽ tiếp tục hoạt động tối đa như tôi có thể cho sự cát tường và hạnh phúc của dân tộc Tây Tạng, cho đến khi nào vẫn cần thiết.

Chúng tôi đã sẵn sàng trình bày một sự đề xuất tới chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa căn cứ trên những cân nhắc này. Một đoàn đám phán đại diện chính phủ lưu vong Tây Tạng đã được chỉ định. Chúng tôi đã sẵn sàng để gặp gở và thảo luận những chi tiết của một đề xuất như vậy với chính quyền Bắc Kinh, với mục tiêu đi đến một giải pháp công bằng.

Chúng tôi được khuyến khích bởi sự quan tâm sâu sắc vấn đề của chúng tôi đánh thức nhiều chính phủ và lãnh tụ chính trị ngày càng gia tăng. Chúng tôi vững lòng trong vị thế của chúng tôi qua những thay đổi gần đây ở Trung Hoa, vốn đem đến một số lãnh đạo mới thực tế hơn và rộng rãi hơn đạt được quyền lực.

Chúng tôi cầu nguyện rằng chính phủ và các lãnh tụ Trung Hoa sẽ xem xét những ý tưởng mà tôi đã mở rộng một cách nghiêm túc trong chi tiết. Chỉ đối thoại và một khát vọng để phân tích thực tế Tây Tạng với lòng trung thực và sáng suốt mới có thể đưa đến một giải pháp khả thi. Chúng tôi hy vọng chúng tôi có thể tiến hành thảo luận với chính quyền Bắc Kinh trong khi giữ sự quan tâm phổ quát nhân bản trong tâm. Vì vậy, đề xuất của chúng tôi sẽ được thực hiện với một nguyện ước cho sự hòa giải và chúng tôi hy vọng cho một thái độ giống như vậy của phía Trung Hoa.

Lịch sử đặc thù của quê hương chúng tôi và di sản tâm linh sâu sắc của nó thích nghi tuyệt vời để điền vào vai trò một thánh địa hòa bình trong trái tim của Á Châu. Vị thế lịch sử của nó như một khu vực trái độn trung lập, đóng góp cho sự ổn định của toàn thể lục địa, xứng đáng để được khôi phục lại. Hòa bình và an ninh ở Á Châu, và khắp toàn thế giới, vì vậy sẽ được tái củng cố. Trong tương lai, sẽ không cần thiết nữa để duy trì Tây Tạng như một xứ sở bị chiếm đóng, bị áp chế bằng vũ lực, không sản xuất và bị đánh dấu bởi khổ đau. Nó có thể trở thành một thiên đường tự do nơi mà con người và thiên nhiên sẽ sống trong cân bằng hài hòa và là một mô thức sáng tạo cho một giải pháp của nhiều khu vực xung đột căng thẳng trên thế giới.

Những lãnh đạo Trung Hoa nên nhận ra rằng, trong những vùng lãnh thổ chiếm đóng, thực dân thống trị là lỗi thời. Một liên hiệp chân thật của vài quốc gia là có thể trong một phạm vi rộng lớn chỉ có thể trên căn bản của một sự tuân thủ đồng thuận tự do, khi kết quả nhằm mục đích thỏa mãn cho tất cả mọi thành phần được quan tâm. Liên hiệp Âu Châu là một thí dụ hùng hồn cho điều này.

*

Tháng Chín năm 1987, khi Đức Đạt Lai Lạt Ma trình bày Dự Án Năm Điểm Hòa Bình của ngài với ủy Ban Nhân Quyền Quốc Hội Hoa Kỳ, ngài yêu cầu “Trung Hoa tham dự nghiêm chỉnh trong những cuộc đàm phán để giải quyết vấn đề vị thế của Tây Tạng tương lai.”

Tháng Sáu năm 1988, phát biểu tại Quốc Hội Âu Châu ở Strasbourg, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mở rộng dự án của ngài, vốn bao gồm một thỏa thuận để từ bỏ đòi hỏi cho nền độc lập của Tây Tạng trong ủng hộ một khu tự trị hiệu quả. Sự nhượng bộ lớn này nhằm mục tiêu mang đến việc tạo nên một thực thể chính trị dân chủ của sự tự quản cho tất cả ba tỉnh của Tây Tạng, vốn vẫn bị sáp nhập vào Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, với việc chính phủ Trung Hoa tiếp tục quản lý chính sách ngoại giao và quốc phòng của Tây Tạng. Đề xuất Strasbourg được căn cứ trên ý kiến sáng tạo, trong tâm linh lối sống của dân tộc Tây Tạng, một thánh địa ở Tây Tạng cống hiến cho nền hòa bình thế giới và đặt nền tảng trong sự phát triển tâm linh và sự thúc đẩy những giá trị nhân bản của từ ái, bi mẫn, bất bạo động, bao dung, và tha thứ. Theo Samdhong Rinpoche, Đức Đạt Lai Lạt Ma từ bỏ đòi hỏi nền độc lập vì ngài quan tâm về việc cho phép một sự hồi sinh thật sự của di sản tâm linh và văn hóa Phật giáo, được xem là di sản của toàn nhân loại trên thế giới, trước khi nó quá trể.”

Những chính phủ Cộng Hòa Nhân Trung Hoa tuyên bố rằng đề xuất Strasbourg chỉ là một đòi hỏi cho nền độc lập che dấu dưới khu tự trị và rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma đang theo đuổi ý tưởng tách rời Tây Tạng khỏi “mẫu quốc”. Những viên chức chính quyền lăng mạ ngài bằng việc gọi ngài là một “lãnh tụ của bè đảng ly khai.” Và trong năm 1988, ở Lhasa, những cuộc phản đối hòa bình của nam nữ tu sĩ bị đàn áp một cách dã man, đã làm khơi dậy một sự phẫn nộ quốc tế. Tháng Ba năm 1989, những sự phản đối mới đã bị dập tắt bởi quân đội. Hơn một trăm người bị giết chết , và ba  nghìn người bị bắt giam. Thiết quân luật được ban hành và và duy trì trong hơn một năm cho đến tháng Năm 1990.

Những sự kiện này đưa đến một sự khơi dậy chưa từng có của công luận ở các thủ đô phương Tây. Vấn đề Tây Tạng không còn là vấn nạn nội tại mà chính quyền Trung Cộng muốn giảm thiểu nó như vậy, vì bây giờ nó được thế giới quan tâm. Đức Đạt Lai Lạt Ma trở thành như một phát ngôn viên đáng tin không chỉ cho dân tộc ngài mà cho lương tâm thế giới bằng cách gợi ý rằng, Tây Tạng, ngày nay là một vùng đất của khổ đau và diệt chủng, được chuyển hóa thành một thánh địa của hòa bình.


*


Vũ khí của tôi là sự thật, lòng can đảm và quyết tâm

NGÀY NAY KHI NGHĨ ĐẾN tương lai của Tây Tạng, tôi không kềm được xúc động cho phong trào dân chủ bị đập nát ở Quãng Trường Thiên An Môn vào tháng Sáu 1989 với một sự bạo động tàn ác nhất. Nhưng tôi không tin rằng những sự phản kháng như vậy là vô ích. Trái lại, tâm linh của tự do được khơi lại trong những người Hoa, và Trung Hoa không thể lãng quên tác động của tâm linh tự do này vốn phất phới qua nhiều vùng trên thế giới.

Những thay đổi lạ lùng đang xảy ra ở Đông Âu, những sự kiện thiết lập phong độ cho một sự đổi mới xã hội và chính trị khắp thế giới. Tương tự thế, Namibia lấy lại nền độc lập từ Nam Phi, và chính quyền Nam Phi thực hiện bước đầu tiên để xóa bỏ chế độ phân biệt chủng tộc. Thật đáng hào hứng để ghi nhớ rằng những thay đổi này xuất phát từ những vận động phổ thông xác thực và chúng được liên kết với những khát vọng không kềm chế được của con người cho tự do và công lý. Những thay đổi lịch sử này cho thấy rằng nhu cầu của lý trí, can đảm, quyết tâm, và không thể triệt tiêu được cho tự do sẽ thành công một ngày nào đó.

Đó là tại sao tôi đang thúc giục những lãnh đạo Trung Cộng đừng đi ngược lại làn sóng thay đổi, mà hãy thẩm tra các vấn nạn của dân tộc Tây Tạng và Trung Hoa với khả năng sáng tạo và tâm tư cởi mở. Tôi tin rằng sự đàn áp sẽ không bao giờ nghiền nát quyết tâm của một dân tộc để sống trong tự do và nhân phẩm. Các lãnh tụ Trung Cộng nên nhìn vào các vấn nạn nội tại của Trung Hoa và vấn đề Tây Tạng với một con mắt mới mẻ và tình trạng tươi mát của tâm hồn. Trước khi nó quá trể, họ phải lắng nghe tiếng vọng của lý trí, bất bạo động, và sự tiết độ được nói lên bởi dân tộc Tây Tạng.

Mặc cho yêu sách tuyên truyền của Trung Cộng, hàng triệu thường dân không phải người Hán, sống trong những khu vực hiện tại dưới sự cai trị của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, đang chịu đựng tất cả những loại phân biệt. Tự chính Trung Cộng thừa nhận rằng, mặc cho bao năm dưới chế độ cộng sản, những vùng này vẫn tiếp tục lạc hậu và nghèo nàn. Tuy nhiên, tác động nghiêm trọng nhất của chính sách nhà nước đối với những dân tộc của các vùng này là sự di chuyển nhân khẩu đã được áp đặt cho họ. Hầu như khắp nơi, những người Hán mới nhập cư đã trở thành đa số. Mãn Châu đã hoàn toàn bị đồng hóa. Nội Mông, chỉ hai triệu sáu người Mông Cổ còn lại, bị bao vây bởi mười tám triệu người Hán mới đến. Hơn năm chục phần trăm dân số Tân Cương là người Hán ngày nay, trái lại ở Tây Tạng sáu triệu người Tây Tạng là thiểu số với bảy triệu rưởi người Hán nhập cư.

Một cách tự nhiên, những dân tộc không phải là người Hán thì khởi loạn. Ngoại trừ những lãnh đạo Trung Cộng có biện pháp để xoa dịu họ, chắc chắn rằng những vấn nạn nghiêm trọng sẽ sinh khởi trong tương lai. Tôi tin rằng thật khẩn thiết để Trung Hoa hãy cố gắng giải quyết những vấn đề này qua đối thoại và thỏa hiệp. Chính quyền Trung Cộng phải nhận ra rằng những vấn đề này trong những vùng không phải người Hán dưới ách thống trị của nó không phải đơn thuần là kinh tế. Chúng ở gốc rễ của chính trị, và như vậy, chúng chỉ có thể giải quyết bằng những quyết định của một mệnh lệnh chính trị.

Để mang đến một giải pháp hòa bình và hợp lý cho vấn đề Tây Tạng, tôi đã thố lộ Dự Án Năm Điểm Hòa Bình và đã trình bày Đề Án Strasbourg. Ngay cả sau khi ban hành tình trạng thiết quân luật ở Tây Tạng, chúng tôi đề nghị những cuộc gặp gở sơ bộ xảy ra ở Hồng Công, nhằm để thảo luận những bước tiếp theo nhằm giảm căng thẳng và tạo điều kiện cho những lần đàm phán thật sự. Kém may mắn thay, những lãnh tụ Trung Cộng, cho đến hôm nay, đã không trả lời một cách tích cực những nổ lực chân thành của chúng tôi.

Trung Cộng đã phủ nhận và lên án kịch liệt vị trí của tôi trong quá khứ và lịch sử của Tây Tạng. Họ muốn tôi thay đổi vị thế của tôi. Nhưng thật không thể điều chỉnh sự thật của những sự kiện. Trong tâm tư hẹp hòi của họ, những người Trung Cộng không muốn hiểu ý chính của thông điệp mà tôi đã cố gắng gởi cho họ trong Dự Án Năm Điểm Hòa Bình của tôi, trong Đề Án Strasbourg, hay trong bài nói chuyện quan tâm đến những mối quan hệ tương lai của Tây Tạng và Trung Hoa, là thứ mà tôi sẵn sàng để thẩm tra với một tâm hồn cởi mở qua đối thoại.

Giống như chúng tôi đấu tranh cho nhân quyền, tự do và tương lai cát tường của sáu triệu người Tây Tạng, vì thế chúng tôi phải tái củng cố những tổ chức dân chủ của chúng tôi và tiến trình của dân chủ hóa. Như tôi đã tuyên bố nhiều lần, quan tâm đến tự do và dân chủ là cần yếu cho việc phát triển một Tây Tạng hiện đại. Năm 1963, tôi đã chấp nhận Hiến Pháp Dân Chủ của Tây Tạng, và chúng tôi đã có được những kinh nghiệm đáng kể trong việc thể hiện chức năng của những tổ chức dân chủ. Thật vẫn cần thiết để dân chủ hóa xa hơn, cả Hội Nghị Đại Biểu Nhân Dân Tây Tạng và trong Cơ Quan Hành Chính Tây Tạng. Đó là tại sao tôi đã thu thập những ý kiến và đề nghị của dân tộc chúng tôi. Tôi cảm thấy đó là trách nhiệm của mỗi người Tây Tạng để tạo nên một cộng đồng lưu vong hoàn toàn tự do và dân chủ.

Tôi chú ý với đau buồn rằng sâu xa từ việc thẩm tra vấn đề Tây Tạng từ một nhận thức mới, nhà cầm quyền Trung Cộng tiếp tục sử dụng sức mạnh quân sự đông đảo của họ để đàn áp nhiều cuộc biểu tình của người Tây Tạng. Mặc cho tàn bạo như vậy, dân tộc Tây Tạng ở Tây Tạng tiếp tục quyết tâm không hề lay chuyển. Đó là trách nhiệm của mỗi người Tây Tạng để đấu tranh cho tự do và nhân quyền. Nhưng sự đấu tranh của chúng tôi phải nên căn cứ trên bất bạo động.

Một sự kiện quan trọng là Giải Nobel Hòa Bình mà tôi được trao tặng. Mặc dù nó không thay đổi vị thế của tôi là một nhà tu giản dị, nhưng tôi vui mừng vì nó cho dân tộc Tây Tạng của tôi, vì giải thưởng ấy đã mang đến một sự thừa nhận xứng đáng cho sự đấu tranh của họ vì tự do và công lý. Nó tái khẳng định niềm tin của chúng tôi rằng với vũ khí của sự thật, lòng can đảm và quyết tâm, thì chúng tôi sẽ thành công để đem đến tự do cho quê hương chúng tôi. Mối quan hệ giữa Tây Tạng và Trung Hoa nên được căn cứ trên nguyên tắc của bình đẳng, tin tưởng, lợi ích hổ tương. Nó cũng nên được căn cứ trên việc nhắn nhủ rằng chủ quyền của Tây Tạng và Trung Hoa nên được giải nghĩa một cách thông tuệ trên một trụ đá được làm năm 823 sau Dương Lịch. Theo điều khoản được khắc trên trụ đá ở Lhasa, dân tộc Tây Tạng sẽ sống hạnh phúc trong Tây Tạng rộng lớn, và người Trung Hoa trong Trung Hoa rộng lớn.”


*

Tháng Ba 1990, “một tâm linh của tự do phất phới khắp thế giới” ở Âu Châu, với việc sụp đổ của bức tường Bá Linh, và sự tan rã của Liên Bang Sô Viết, và ở Trung Hoa với những cuộc biểu tình ở Quảng Trường Thiên An Môn, nhưng ở Tây Tạng Thiết Quân Luật vẫn đang thi hành. Nó không được gở bỏ cho đến vài tháng sau, trong tháng Năm. Nhưng phạm vi này không biểu thị sự chấm dứt đàn áp, mà sự tàn bạo của nó chỉ có gia tăng, như một báo cáo của Hội Ân Xá Quốc Tế đã đề cập năm 1990.

Bắt đầu năm 1992, những toán đặc biệt chịu trách nhiệm với việc lục soát nhà riêng khắp Tây Tạng. Những người có hình ảnh, sách vở, hay giáo huấn của Đức Đạt Lai Lạt Ma bị bắt giữ và bị tra tấn dã man, rồi bỏ tù. Nhiều người trong họ đã biến mất.



Năm 1994, Bắc Kinh thông qua một loạt các lượng định để loại trừ sự chống đối của người Tây Tạng. Hội thảo chuyên đề thứ ba về Tây Tạng bảo đảm cho “việc thống nhất Tây Tạng vơi mẫu quốc và chiến đấu chống lại chủ nghĩa ly khai.” Trong những vận động tuyên truyền hùng biện về “chống lại – Dalai” và “chống ly khai”, đó là một vấn đề của “một cuộc đấu tranh sống và chết” và sự gửi gắm là “mưa không mệt mỏi thổi xuống vì an toàn công cộng.” Một sự leo thang bạo động sau đó suốt khắp Tây Tạng, làm hồi tưởng những thời gian tệ hại nhất của cuộc Cách Mạng Văn Hoa; tháng Bảy 1996, Đảng Cộng Sản phóng ra ba cuộc vận động chính trị lớn được gọi là “Học Tập Yêu Nước,” “Văn Minh Tâm  Linh” và “Đánh Mạnh.” Với nhiều tuyên truyền, hai cuộc vận động đầu khởi động nhằm mục tiêu xóa bỏ tôn giáo, văn hóa và ngôn ngữ Tây Tạng: “ Chúng ta phải dạy những người Phật tử để cải tạo chính họ và để trả lời cho nhu cầu ổn định Tây Tạng và để đón nhận mô thức xã hội chủ nghĩa.” Để giám sát các tu sĩ nam nữ, xem như những yếu tố nguy hiểm, những người hướng đến hoạt động nhân danh Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ủy Ban Hành Chính Dân Chủ Và Yêu Nước được thành lập trong mọi tu viện. Năm 1989, chính sách này đưa đến việc trục xuất hơn mười nghìn nam nữ tu sĩ, và phụ tá bí thư của Đảng Cộng Sản tuyên bố rằng ba mươi lăm nghìn tu sĩ nam nữ đã được cải tạo, cảm ơn cuộc vận động học tập cải tạo yêu nước. Nhà cầm quyền đã xóa bỏ tất cả dấu vết của “chủ nghĩa hoạt động chính trị Tây Tạng.”

Với cuộc vận động “Đánh Mạnh”, sự bóp nghẹt này bao gồm những hành động như nói chuyện với người ngoại quốc, sở hữu những ấn phẩm của chính phủ lưu vong Tây Tạng hay hình ảnh của Đức Đạt Lai Lạt Ma, và tham gia trong những cuộc biểu tình hòa bình. Người dân bị ép phải đưa những thông tin của hàng xóm, đồng nghiệp, hay cha mẹ của họ, dưới hình phạt phải mất nhà cửa hay nghề nghiệp của họ. Can phạm bị bỏ tù, và những lời thú tội của họ bị cưởng bức từ việc tra tấn. Nhiều người đã chết như một kết quả của sự đối xử tàn ác. Năm 1999, một ủy ban của các bác sĩ tìm cách bảo vệ nhân quyền đã xác minh rằng ở Tây Tạng việc tra tấn được sử dụng ngày càng nhiều hơn như thay thế cho bản án tử hình. Một sự chết dần mòn hay một sự thoái hóa cuộc sống con người là kết quả từ sự thi hành này.

Trong những thập niên từ 1900 đến 2000, những trung tâm thẩm vấn và giam giữ mọc lên khắp Tây Tạng. Cảm ơn những lời khai của các tù nhân chính trị, một số tìm cách mua lại những khí cụ tra tấn từ những kẻ canh gác của họ bằng vàng, những kỷ thuật tra tấn được kê ra thứ tự bởi những tổ chức liên kết với Liên Hiệp Quốc, chẳng hạn như ủy Ban Quốc Tế Về Công Lý, Những Nhóm Hành Động Về Giam Giữ Tùy Tiện, và báo cáo đặc biệt về tra tấn.

Bên cạnh việc xem thường nhân quyền, nhà cầm quyền Trung Cộng đã khởi xướng một chính sách mới di chuyển đông đảo người Hán đến Tây Tạng với việc phát động một chương trình được gọi là “Phát Triển Phía Tây.” Chương trình ấy chỉ tăng tốc từ đầu thiên niên kỷ khi nó tạo điều kiện để phát triển cơ sở hạ tầng cho việc vận chuyển những di dân mới, giống như con đường sắt nối Bắc Kinh và Lhasa, khánh thành vào ngày 1 tháng Bảy, 2006.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã gọi đây là một chính sách của “xâm lược nhân khẩu học” vốn biến người Tây Tạng không hơn gì một dân tộc thiểu số ngay trên mãnh đất tổ tiên họ nhằm gắn kết Tây Tạng một lần và mãi mãi về sau vào Trung Hoa: “Một sự xâm lược nhân khẩu học thật sự đang xảy ra, và đây là một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng. Ngày nay, dân số của Lhasa, theo báo cáo điều tra dân số mới nhất, là hai phần ba người Hán. Đây cũng là trường hợp của những thành phố chính ở Tây Tạng nơi mà người Tây Tạng đã trở thành thiểu số. Người Tây Tạng ở Ấn Độ thì Tây Tạng hơn người Tây Tạng ở Tây Tạng.”

Tháng Tư 2000, Nghị viện Châu Âu đã bỏ phiếu cho một nghị quyết quan tâm sâu sắc cho mối hiểm họa rằng “sự di chuyển ồ ạt người Hán đến Tây Tạng đặt vấn đề cho di sản văn hóa và tâm linh Tây Tạng.” Những dân biểu khuyến cáo Trung Cộng bắt đầu một cuộc đối thoại “vô điều kiện” với Đức Đạt Lai Lạt Ma trên căn bản Dự Án Năm Điểm và chấm dứt sự vi phạm dai dẳng và trầm trọng những tự do căn bản của dân tộc Tây Tạng.”


*

Tây Tạng vẫn đau khổ vì những sự vi phạm nhân quyền trắng trợn, không thể tưởng tượng

TÔI TIẾP TỤC DÂNG NHỮNG LỜI CẦU NGUYỆN CỦA TÔI, đảnh lễ tất cả những người đàn ông và đàn bà can đảm ở Tây Tạng, những người chịu vô vàn thử thách và hy sinh thân mạng của họ cho vấn đề của dân tộc chúng tôi. Tôi bày tỏ lòng đoàn kết với những người Tây Tạng, những người đang chịu đựng đàn áp và đối xử tàn ác. Tôi chào mừng cả những người Tây Tạng ở trong nước và ngoại quốc, những người ủng hộ vấn đề của chúng tôi, và tất cả những người bảo vệ công lý.

Trong sáu thập niên, người Tây Tạng khắp Tây Tạng, được biết với cái tên Chokha Sum (kể cả những tỉnh U-Tsang, Kham, và Amdo)đã bị áp  lực phải sống liên tục trong tình trạng sợ hãi, đe dọa và nghi ngờ, đối tượng để Trung Cộng trấn áp. Tuy thế, dân tộc Tây Tạng đã có thể duy trì niềm tin tôn giáo của họ, dân tộc tính vững chắc, và văn hóa đặc thù của họ, trong khi vẫn giữ lòng ngưỡng mộ lâu đời của họ cho tự do tồn tại. Tôi ngưỡng mộ lớn lao cho những phẩm chất này trong dân tộc chúng tôi và cho lòng can đảm bất khuất của họ. Họ làm cho tôi cảm thấy tự hào và toại nguyện vô cùng.

Nhiều chính phủ và tổ chức phi chính phủ, và cá nhân khắp thế giới, trung thành với lý tưởng hòa bình và công lý, đã kiên trì ủng hộ cho vấn đề Tây Tạng. Trong mấy năm gần đây, các chính phủ và dân tộc của nhiều quốc gia đã thực hiện những động thái quan trọng biểu lộ sự đoàn kết của họ một cách rõ ràng, và tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đến họ.

Vấn nạn rất phức tạp của Tây Tạng liên hệ với những chủ đề khác như chính trị, xã hội, nhân quyền, tôn giáo, văn hóa, dân tộc tính, kinh tế, và môi trường thiên nhiên. Đó là tại sao một sự tiếp cận toàn cầu phải được chấp nhận và thực hiện để giải quyết nó bằng việc đưa vào sự quan tâm của tất cả mọi phía liên hệ hơn là chỉ một nhóm đơn lẻ. Cho nên chúng tôi đã kiên định trong cuộc đấu tranh của chúng tôi ủng hộ cho một chính sách lợi ích hổ tương của Trung Đạo, và chúng tôi đã thực hiện những nổ lực bền bĩ để đưa vào thực hành trong mấy năm nay.

Từ 2002, những đại diện của tôi đã tiến hành sáu buổi đàm phán với đối tác của họ ở Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa để tiếp cận những vấn đề quan trọng này. Những buổi thảo luận toàn diện này đã giúp để xoa dịu những nghi ngờ nào đó và giúp chúng tôi giải thích những nguyện vọng của chúng tôi. Tuy nhiên, khi đi đến kết thúc, không có kết quả cụ thể nào. Trong mấy năm sau cùng này, Tây Tạng đã trải nghiệm một sự gia tăng đàn áp tàn bạo. Mặc cho những sự kiện bất hạnh này, quyết tâm và chí nguyện của tôi là theo đuổi chính sách Trung Đạo và tiến hành đối thoại với chính quyền Trung Cộng duy trì không đổi.

Một mối quan tâm lớn của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là nó thiếu tính hợp pháp ở Tây Tạng. Phương pháp tốt nhất mà chính quyền Trung Cộng có thể sử dụng để làm mạnh vị thế của họ ở Tây Tạng phải là theo đuổi một chính sách có thể làm hài lòng người Tây Tạng và chiếm được lòng tin của họ. Nếu chúng tôi có thể hòa giải với người Trung Cộng bằng việc đi đến một thỏa thuận, thế thì như tôi đã tuyên bố nhiều lần, tôi sẽ cố gắng để hổ trợ dân tộc Tây Tạng cho việc ấy.

Ở Tây Tạng hiện tại, do bởi vô số hành động được tiến hành mà không có tầm nhìn xa về phần của chính quyền Trung Cộng, môi trường tự nhiên bị tổn hại nghiêm trọng. Hơn thế nữa, do bởi chính sách di chuyển cư dân, nhân số không phải Tây Tạng đã gia tăng ồ ạt, làm giả thiểu người Tây Tạng bản địa thành một dân tộc thiểu số tầm thường ngay chính trên quê hương của họ. Điều gì nữa, ngôn ngữ, phong tục, và truyền thống Tây Tạng, vốn phản chiếu bản chất và đặc tính chân thật của dân tộc chúng tôi, đang trên tiến trình biến mất. Kết quả là người Tây Tạng thấy họ dần dần bị đồng hóa thành vào trong dân số của Trung Hoa.

Ở Tây Tạng, việc đàn áp tiếp tục với nhiều vi phạm trắng trợn, không thể tưởng tượng về nhân quyền, phủ nhận tự do tôn giáo, và chính trị hóa tôn giáo. Tất cả những việc này xuất phát từ việc thiếu tôn trọng dân tộc Tây Tạng của chính quyền Bắc Kinh. Đây là những chướng ngại quan trọng mà chính quyền Trung Cộng đang thiết lập phương pháp cho chính sách thống nhất đất nước của họ. Những chính sách này tách rời người Tây Tạng khỏi người Hán. Đó là tại sao tôi kêu gọi chính quyền Bắc Kinh chấm dứt chính sách này ngay lập tức.

Mặc dù những khu vực cư trú của người Tây Tạng được mệnh danh là những vùng tự trị, quận tự trị, làng tự trị, nhưng chúng tự trị trên danh nghĩa và trong thực tế chúng không thụ hưởng bất cứ thứ gì tự trị. Trái lại, chúng được cai trị bởi những người không biết gì về hoàn cảnh khu vực và bị thống trị bởi những gì mà Mao Trách Đông gọi là “chủ nghĩa dân tộc đại Hán”. Trong thực tế, những vùng được gọi là tự trị không được ban cho bất cứ lợi ích gì rõ ràng với sự quan tâm về dân tộc tính. Đây là những chính sách sai lầm, không tương ứng với thực tế, làm nên vô vàn tổn hại, không chỉ về những dân tộc tính khác biệt, mà cũng về sự thống nhất và ổn định của quốc gia Trung Hoa. Thật quan trọng cho chính quyền Bắc Kinh để tuân theo khuyến cáo của Đặng Tiểu Bình, “hãy tìm kiếm sự thật căn cứ trên các sự kiện,” đúng nghĩa của nó.

Chính quyền Trung Cộng chỉ trích kịch liệt tôi khi tôi đưa lên vấn đề lợi ích của dân tộc Tây Tạng trước cộng đồng quốc tế. Cho đến khi chúng tôi tìm ra một giải pháp lợi ích hổ tương, thì tôi có trách nhiệm đạo đức và lịch sử để tiếp tục phát biểu một cách tự do nhân danh cho tất cả những người Tây Tạng. Trong bất cứ trường hợp nào, mọi người biết rằng tôi đã về hưu bán phần vì đội ngũ lãnh đạo mới của cộng đồng Tây Tạng lưu vong đã được bầu cử tự do.

Trung Hoa đang phát triển và đang trở thành một cường quốc, cảm ơn cho tiến trình kinh tế quan trọng. Chúng ta hoan nghênh điều này với một tâm tích cực, hơn nữa đó là cơ hội cho Trung Hoa đóng một vai trò quan trọng trên trường quốc tế. Thế giới đang chờ đợi với nhẫn nại để thấy những lãnh đạo Trung Cộng ngày nay sẽ áp dụng những khái niệm của họ về “xã hội hòa hiệp” và “phát triển hòa bình” như họ binh vực như thế nào. Phải có tiến trình trong việc tôn trọng luật pháp, trong sự minh bạch, và trong tự do ngôn luận và báo chí. Vì Trung Hoa là một đất nước với nhiều dân tộc, họ cũng nên được hưởng những quyền bình đẳng và tự do để bảo vệ bản sắc dân tộc tương ứng. đó là một điều kiện cho sự ổn định của quốc gia.

Ngày 6 tháng Ba, 2008, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào tuyên bố, “Sự ổn định của Tây Tạng liên quan đến sự ổn định của đất nước, và sự an ninh của Tây Tạng liên quan đến sự an ninh của quốc gia.” Ông thêm rằng chính quyền Trung Hoa nên bảo đảm sự cát tường của những người Tây Tạng và cải thiện những hành động của nó đối với tôn giáo và những nhóm thiểu số, trong khi duy trì sự hòa hiệp và ổn định của xã hội. Tuyên bố của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào tương hợp với thực tế và chúng tôi yêu cầu nó được áp dụng.

Năm 2008, dân tộc Trung Hoa tự hào và nôn nóng chờ đợi khai mạc thế vận hội Olympic. Ngay từ đầu tôi ủng hộ ý tưởng Trung Hoa tổ chức thế vận hội. Vì một sự kiện thể thao quốc tế như vậy, đặc biệt là Olympic, đưa những nguyên tắc của tự do bày tỏ, bình đẳng và hữu nghị ngay phía trước. Trung Hoa nên chứng minh tính hiếu khách của họ bằng việc ban cho những quyền tự do này. Trong việc gửi đi những vận động viên, tôi cảm thấy rằng cộng đồng quốc tế nên nhắc nhở nhiệm vụ của Trung Hoa. Vài quốc hội, các cá nhân, và những tổ chức phi chính phủ khắp thế giới đã đưa ra nhiều sáng kiến, nhấn mạnh cơ may của vận hội này đã cho Trung Hoa khởi đầu một sự thay đổi tích cực. Thế vận hội không nghi ngờ gì nữa đã có một tác động lớn lao trong tâm trí của mọi người trong cộng đồng người Hoa. Cho nên thế giới nên tìm những phương cách để hành động một cách hăng hái nhằm để ủng hộ sự thay đổi tích cực ở Trung Hoa, ngay cả sau khi chấm dứt Thế vận hội.

Tôi muốn bày tỏ sự tự hào của tôi và chấp nhận về sự chân thành, can đảm, và quyết tâm của dân tộc Tây Tạng ở Tây Tạng đã biểu lộ.  Tôi khuyến khích một cách năng động người Tây Tạng tiếp tục hành động một cách hòa bình, tôn trọng luật pháp. Tôi thúc giục tất cả mọi dân tộc thiểu số ở Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, kể cả người Tây Tạng, có thể hưởng thụ những quyền hợp pháp của họ.

Tôi cũng muốn cảm ơn chính phủ và nhân dân Ấn Độ đặc biệt tiếp tục sự hổ trợ vô song của họ cho người tị nạn Tây Tạng và vấn đề Tây Tạng, và để biểu lộ lòng biết ơn của tôi với tất cả mọi chính phủ và tất cả mọi dân tộc đã tiếp tục ủng hộ cho vấn đề của chúng tôi.

Với lời cầu nguyện của tôi cho sự cát tường của mọi chúng sanh.

***

Những vấn đề được giải thích trong bài phát biểu này vào ngày 10 tháng Ba, 2008, cũng giống với những gì Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tố cáo từ lúc Trung Cộng mới bắt đầu xâm chiếm Tây Tạng. Chúng đã trở nên ngày càng nguy hiểm tệ hại hơn qua năm tháng, và mặc cho sự hổ trợ của công luận quốc tế, hệ thống kềm kẹp của Trung Cộng kiểm soát đã không dừng lại.

Với mong ước đối thoại và đàm phán đã được trình bày bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma trong nhiều dịp – chẳng hạn như bài phát biểu trong chuyến du hành Đài Loan vào tháng Hai 1997, khi ngài thừa nhận rằng “cuộc đấu tranh của người Tây Tạng không hướng đến chống lại người Hoa hay Trung Hoa, nhưng trong một tinh thần chân thật của hòa giải và thỏa hiệp.”

Trung Cộng đã đáp lại những tuyên bố này bằng việc ban hành một lời kêu gọi đấu tranh bằng mọi cách có thể chống lại “cuộc vận động quốc tế của bè lũ Đạt Lai.” Trong cuộc viếng thăm Hoa Kỳ sáu tháng sau đó, vào tháng Mười 1997, Chủ tịch Trung Cộng, Giang Trạch Dân, đã tuyên bố tại Harvard: “Đức Đạt Lai Lạt Ma nên thừa nhận một cách công khai rằng Tây Tạng là một phần không thể tách rời của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và ông nên từ bỏ nền độc lập của Tây Tạng và chấm dứt mọi hành động hổ trợ trong việc tách rời nó khỏi mẫu quốc.”

Hai năm sau đó, vào năm 1999, trong một cuộc viếng thăm chính thức Pháp quốc, chủ tịch Trung Cộng lại lập lại những tuyên bố này, thêm rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nên thừa nhận rằng Đài Loan là “một tỉnh của Trung Hoa.” Và trong thông điệp hàng năm vào tháng Ba cùng năm, lãnh tụ tinh thần của Tây Tạng đã tuyên bố rằng Trung Cộng đã trở nên cứng rắn trong vị thế của họ khi bước vào những thảo luận với ngài.

Nếu nhằm để tiến tới trong đối thoại, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã rất nhiều lần từ 1987 biểu lộ sự sẳn sàng của ngài để từ bỏ sự độc lập của Tây Tạng để ủng hộ cho vị thế của một khu tự trị thật sự cùng ở chung trong Trung Hoa, đó không có nghĩa là ngài đang viết lại lịch sử của xứ sở ngài và thừa nhận sự dối trá rằng Tây Tạng là một tỉnh cổ xưa của Trung Hoa.

Công luận quốc tế - đã biểu lộ ở trình độ cao nhất bằng thẩm quyền đạo đức của giải Nobel Hòa Bình – đã tiếp tục khuyến nghị Trung Cộng chấp nhận cánh tay đưa ra bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhưng áp lực này chỉ chọc giận những cán bộ của Trung Cộng, những người bày tỏ sự bực tức gia tăng của họ bằng một sự đàn áp nghiêm trọng hơn bao giờ hết ở Tây Tạng. Cuộc đối thoại Hoa – Tạng đã bị gián đoạn trong năm 1993 và không được nối lại cho đến 2002, khi một phái đoàn của Đức Đạt Lai Lạt Ma đi Trung Hoa và Tây Tạng với mục tiêu tái lập lại một sự tiếp xúc trực tiếp. Về sau, một sự trao đổi sâu sắc hơn giữa hai bên đã không xảy ra cho đến năm 2004.

Trong lời phát biểu chính thức vào ngày 10 tháng Ba, 2005, Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố rằng, “tôi muốn một lần nữa tái bảo đảm với những người cầm quyền Trung Cộng rằng: khi tôi vẫn còn có trách nhiệm cho vấn đề Tây Tạng, chúng tôi sẽ vẫn duy trì chí nguyện với con đường Trung đạo, vốn không đòi hỏi cho sự độc lập của Tây Tạng.” Đức Đạt Lai Lạt Ma bày tỏ sự lạc quan của ngài cho sự cải thiện dần dần những sự trao đổi giữa những sứ giả của ngài và những người đối tác Trung Cộng của họ.

Tháng Bảy 2005, một cuộc gặp gở tại tòa đại sứ Trung Cộng ở Berne, Thụy Sĩ, đã gợi lên nhiều hy vọng khi phái đoàn Trung Cộng cam đoan với những người Tây Tạng rằng Đảng Cộng Sản tán thành “tầm quan trọng rất lớn của những mối quan hệ với Đức Đạt Lai Lạt Ma.” Sau đó, vào tháng Hai 2006 và một lần nữa vào tháng Bảy 2007, trong những cuộc gặp gỡ mới ở Bắc Kinh, cả hai bên đều tuyên bố rằng họ đã xem lại những điều kiện cần thiết để giải quyết những bất đồng. Những sứ giả Tây Tạng đã nhấn mạnh tính cấp bách trong việc đối diện với những vấn đề căn bản, trong khi trình bày lòng mong ước của Đức Đạt Lai Lạt Ma được thực hiện một chuyến hành hương ở Trung Hoa.

Những cuộc đàm phán này là dài nhất và hứa hẹn nhất từ trước đến nay. Đó là tại sao, trong bài phát biểu vào ngày 10 tháng Ba, 2008, trong khi hối tiếc rằng những cuộc thảo luận đã chưa có những kết quả cụ thể nào, và rằng Bắc Kinh đã kiên trì trong cuộc chiến xâm lược nhân khẩu và sự vi phạm những quyền con người ở Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã vui thích với tuyên bố của chủ tịch Hồ Cẩm Đào khẳng định rằng chính quyền Trung Cộng sẽ bảo đảm “sự cát tường của người Tây Tạng và cải thiện những hành động của nó đối với tôn giáo và những nhóm thiểu số, trong khi duy trì sự ổn định và hòa hiệp xã hội.”

Nhưng trong những ngày tiếp theo đó, Lhasa đã nổi lên trong bạo động.


*


Ở Trung Hoa, tôi thấy đang trên đà thay đổi
         
VÀI NGƯỜI KHÁCH đặc biệt đại biểu của Quốc Hội Âu Châu rất tỉnh thức về những nỗ lực liên tục của tôi để tìm ra một giải pháp đồng thuận hỗ tương cho vấn đề Tây Tạng qua đối thoại và đàm phán.  Cũng trong tinh thần đó, năm 1988, tại  Quốc Hội Âu Châu ở Strasbourg, tôi đã trình bày một đề xuất cho phép sự đàm phán mà không kêu gọi cho một sự ly khai hay độc lập của Tây Tạng. Kể từ đó, những mối quan hệ của chúng tôi với chính quyền Trung Cộng đã trải qua nhiều lúc cao và thấp. Sau khi bị gián đoạn gần mười năm, trong năm 2002, chúng tôi tái lập những cuộc tiếp xúc trực tiếp với chính quyền Bắc Kinh.

Trong khi nhất định từ bỏ việc sử dụng bạo lực để điều khiển cuộc đấu tranh của chúng tôi, tôi khẳng định rằng chúng tôi chắc chắn có quyền để khám phá tất cả mọi lựa chọn chính trị có thể được. Trong tinh thần dân chủ, tôi đã kêu gọi một cuộc gặp gở đặc biệt của những người Tây Tạng lưu vong tranh luận về vị thế của dân tộc Tây Tạng và tương lai cuộc vận động của chúng tôi. Cuộc hội họp đã xảy ra từ ngày 17 đến 22 tháng Mười Một, 2008, ở Dharamsala, Ấn Độ. Việc chính quyền Bắc Kinh  không đáp ứng một cách thuận lợi những sáng kiến khởi đầu của chúng tôi khêu gợi lại sự nghi ngờ của nhiều người Tây Tạng vốn nghĩ rằng chính quyền Trung Cộng không quan tâm đến bất cứ giải pháp có thể chấp nhận được cho đôi bên dù là gì đi nữa. Nhiều người Tây Tạng tiếp tục tin rằng nhà đương cục Trung Cộng chỉ đang dự tính đồng hóa và hòa tan Tây Tạng bởi Trung Cộng, cho nên họ đã kêu gọi cho một nền độc lập hoàn toàn của Tây Tạng. Những người khác bênh vực cho quyền tự quyết và đòi hỏi một cuộc trưng cầu dân ý cho Tây Tạng. Mặc cho những quan điểm khác biệt này, các đại biểu tại tại cuộc họp mặt của chúng tôi đã nhất trí quyết định giao cho tôi toàn quyền quyết định sự tiếp cận tốt nhất có thể, giữ trong tâm hoàn cảnh hiện tại và những thay đổi ở Tây Tạng, ở Trung Hoa, và khắp toàn thế giới.

Tôi đã lập luận lúc kết cục thì dân tộc Tây Tạng là những người quyết định về tương lai của Tây Tạng. Như Pandit Nehru, từng là thủ tướng Ấn Độ, đã tuyên bố trước quốc hội Ấn Độ vào ngày 7 tháng Mười Hai, 1950: “Lời nói cuối cùng về Tây Tạng nên được nêu lên bởi người Tây Tạng và không phải ai khác.”

Vấn đề Tây Tạng có một không gian và quan hệ mật thiết vốn vượt khỏi số phận của sáu triệu dân Tây Tạng. Nó cũng liên hệ đến hơn mười ba triệu dân sống khắp Hy Mã Lạp Sơn, Mông Cổ, và những nước Cộng Hòa Kalmuk và Buriat ở Nga, cũng như sự gia tăng nhân khẩu của những anh chị em Trung Hoa, những người cùng chia sẻ nền văn hóa Phật giáo, vốn có thể cống hiến cho nền hòa bình và hòa hiệp trên thế giới.

*

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã có bài phát biểu trên tại Quốc Hội Âu Châu ở Brusels vào tháng Mười Hai 2008, sau cuộc nổi dậy lớn làm kích động Tây Tạng bắt đầu vào ngày 10 tháng Ba năm Thế Vận Hội của Trung Hoa, sau những cuộc biểu tình xảy ra trong khi trao đuốc Thế Vận xuyên qua các thủ đô trên thế giới. Sự đàn áp của Trung Cộng thật là dã man, mù quáng, và toàn diện. Người ta đồn đãi nói rằng có rất nhiều người bị bắt mà cảnh sát Trung Cộng không đủ còng tay và phải trói tù nhân lại bằng dây điện.

Vào ngày 14 tháng Ba, Zhang Qingli, bí thư Cộng đảng của khu tự trị, đã diễn tả tình hình ở Lhasa như “đánh tới chết” chống lại những kẻ ly khai Tây Tạng. Tại cuộc  gặp gỡ với những chỉ huy Cảnh Sát Quân Đội Nhân Dân, ông ta đã bày tỏ sự hân hoan rằng những cuộc biểu tình tháng Ba đã cho phép họ “thử nghiệm năng lực của họ để đáp ứng đến một tình trạng khẩn cấp trong trường hợp của những bạo loạn.”

Con số những nạn nhân chưa được xác minh, vì vẫn còn hơn một nghìn người bị mất tích. Và tin tức bị kiểm duyệt, và tất cả mọi cuộc giáo tiếp đều bị cấm đoán – đến nổi kéo dài như vậy ngay cả nhiều tháng sau đó. Người Tây Tạng ở Ấn Độ đã nói với chúng tôi rằng họ đã không dám gọi điện thoại cho gia đình họ vì sợ nguy hiểm cho người thân bên ấy.

Bây giờ chúng tôi biết rằng hàng nghìn người Tây Tạng – tăng, ni, cư sĩ, người già và kể cả trẻ con – đã bị bắt. Hơn 200 người bị kết án, và tối thiểu 150 người chết, đôi khi bị tra tấn và đánh đập. Người nào đó nói về “cuộc Cách Mạng Văn Hóa lần thứ hai” cho phép những phương pháp được sử dụng bởi nhà cầm quyền Trung Cộng theo sau việc đóng cửa hàng trăm tu viện khắp xứ sở. Những khu vực tu viện ở Lhasa bị bao vây bởi những xe thiết giáp nhiều tuần, và cư sĩ bị can ngăn trong việc đem thực phẩm và nước uống. Ít nhất một tu sĩ được nói là đã chết vì đói ở tu viện Ramoche. Một lần nữa người ta chứng kiến sự cướp phá tài sản quý giá của tôn giáo, và những cuộc hội họp “học tập cải tạo yêu nước” được tổ chức bắt buộc những tu sĩ thọ giới phủ nhận Đức Đạt Lai Lạt Ma trong bài viết, chịu hình phạt bị buộc tội ly khai và cầm tù.

Tuyên truyền của Trung Cộng buộc tội vị lãnh đạo tinh thần lưu vong xúi dục những cuộc nổi loạn này, gọi ngài là “một tội phạm”, một “phản bội mẫu quốc,” một “kẻ ly khai,” trong khi Zhang Qingli gọi ngài là một “con sói mặt người nhưng có trái tim thú vật.” Với những lời lăng mạ này, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đáp lại một cách tiếu lâm rằng đi thử máu để quyết định xem ngài là một con người hay một con thú. Nhưng nghiêm chỉnh  hơn, ngài lấy làm tiếc về sự tấn công nghiêm trọng vào những quyền con người khi nhà đương cục Trung Cộng buộc những tu sĩ lăng mạ ngài và, dưới sự đe dọa, phủ nhận ngài.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhận những báo cáo và những hình ảnh đầu tiên của những sự tàn bạo do nhà cầm quyền Trung Cộng tiến hành khi ngài cùng Samdhong Rinpoche. Ngài nhớ rằng đôi mắt của họ đẫm lệ và ngài cảm thấy tràn ngập đau khổ: “Đơn giản là tôi buồn, buồn một cách sâu sắc,” ngài đã nói như vậy.

Vào đầu tháng Giêng 2009, trong một buổi giảng dạy ở Sarnath (Lộc Uyển), ngài tuyên bố rằng ngài đã quán chiếu lời cầu nguyện của đại hiền nhân Ấn Độ Shantideva, vốn nói về kẻ thù như một vị thầy tốt nhất, vì vị đó đã buộc chúng ta phát triển nhẫn nhục và làm sâu sắc lòng bao dung cùng tha thứ của chúng ta. Với một du khách hỏi ngài có sân hận không, Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời rằng sân hận xa lạ với ngài, vì cảm xúc này có nghĩa là ta muốn làm tổn hại một người nào đó: “Niềm tin của tôi giúp tôi vượt thắng cảm xúc tiêu cực này và giữ sự vô tư của tôi. Mỗi một nghi thức Phật giáo của tôi là một phần trong tiến tình nơi tôi và nhận. Tôi nhận lòng ngờ vực của người Hoa và tôi gửi lòng từ bi của tôi. Tôi cầu nguyện cho những người Hoa, cho những lãnh tụ của họ, và ngay cả cho những người mà tay họ vấy máu.”

Sự phân tích của Đức Đạt Lai Lạt Ma về tình hình bộc phát là sáng suốt. Ngài chú ý rằng sự áp bức và tra tấn đã không thành công ở những cuộc “học tập cải tạo” chính trị người Tây Tạng. Để bù lại những tranh cãi phát sinh bởi những cuộc định cư đông đảo người Hán, lãnh đạo Cộng đảng Trung Hoa đưa vào vài chương trình hiệu quả để cải thiện phẩm chất đời sống, bơm vào hàng tỉ nhân dân tệ trong việc xây dựng những cơ sở hạ tầng. Nhưng trong con mắt của những người Tây Tạng, điều quan trọng nhất là việc hồi phục những tự do căn bản của họ cùng với bản sắc văn hóa và sự bất cần tâm linh của họ.

Vào tháng Mười Hai 2008, tại Quốc Hội Âu Châu, Đức Đạt Lai Lạt Ma tái khẳng định sự thích đáng của chính sách Trung Đạo của ngài, với mục tiêu của nó về việc bảo đảm khu tự trị phổ quát và bảo đảm người Tây Tạng quyền giải quyết những vấn đề của một trật tự văn hóa, tôn giáo, hay môi trường của chính họ. Không có vấn đề của một sự độc lập quốc gia vì từ quan điểm của quốc tế công pháp, Tây Tạng được liên hợp trong Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, vốn vẫn chịu trách nhiệm về ngoại giao và quốc phòng.

Tuy nhiên, chính sách Trung Đạo đã là một chủ đề của sự tranh luận độc hại gia tăng, đặc biệt trong những thành viên trẻ của Đại Hội Người Trẻ Tây Tạng – một tổ chức “khủng bố”, theo Cộng Đảng Trung Hoa – những thành viên của nó kêu gọi cho một sự độc lập. Đức Đạt Lai Lạt Ma chính ngài cũng thừa nhận rằng chính sách Trung Đạo chưa tạo ra bất cứ hy vọng nào cho kết quả. Nhà thơ Tenzin Tsendu bình luận về những lý do của sự thất bại này: “Đức Đạt Lai Lạt Ma đặt căn cứ trên sự tin tưởng rằng các lãnh tụ Trung Cộng cũng là những con người, có thể ngồi chung quanh một chiếc bàn và thảo luận mọi thứ. Nhưng mặc dù kiên nhẫn qua bao năm tháng để tìm kiếm cho một cuộc đối thoại thỏa hiệp, duy trì thông suốt và mặc dù mọi thứ, mặc cho một nổ lực chân thành với những mối quan hệ nhân bản, cuộc đối thoại này đã không thành công. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận ra rằng Trung Cộng đã không chơi trò chơi này.”

Vì vậy, tại Quốc Hội Châu Âu gặp gở vào cuối năm 2008, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã không loại trừ khả năng từ bỏ đề xuất khu tự trị và trở lại kêu gọi cho một sự độc lập. Nhưng ngài cũng thừa nhận rằng ngài không thể giảm giá trị của khả năng của một giải pháp chung cuộc cho Tây Tạng: để giữ sự kiểm soát toàn Tây Tạng, một xứ sở phong phú tài nguyên thiên nhiên, những lãnh tụ Trung Cộng có thể áp bức dân số thậm chí tàn bạo hơn và dùng việc định cư dân số người Hán để làm cho người Tây Tạng vĩnh viễn thành một thiểu số không đáng kể ở một Tây Tạng tràn ngập người Hán.

Mặc dù bối cảnh không thể bị loại trừ, nhưng một nhân tố mới đã nuôi dưỡng hy vọng của Đức Đạt Lai Lạt Ma: sự tiến hóa của dân tộc Trung Hoa, và những sự nối kết Giáo Pháp đã phát triển trong những thập niên gần đây. Sau khi chúc mừng Quốc Hội Châu Âu về phần thưởng nhân quyền Sakharov cho Hu Jia, lãnh tụ tinh thần Tây Tạng khẳng định rằng ngay cả nếu ngài có thể không còn tin tưởng vào những tuyên bố của chính quyền Trung Cộng, thì ngài niềm tin của ngài với dân tộc Trung Hoa vẫn còn “nguyên vẹn.” 



*

Đến tất cả những anh chị em tâm linh Trung Hoa

TÔI MUỐN KÊU GỌI một cách cá nhân đến tất cả những anh chị em tâm linh ở Trung Hoa, cả bên trong và bên ngoài Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, đặc biệt đến những đệ tử của Đức Phật. Tôi nói như một tu sĩ Phật giáo và như một học trò của bậc thầy tôn kính của chúng ta, Đức Phật. Tôi đã kêu gọi đến cộng đồng người Hoa trong phổ quát, nhưng lần này, các bạn là những người tôi đang nói đến, những người anh chị em tâm linh của tôi, về chủ đề của một tính nhân đạo cấp bách.

Dân tộc Trung Hoa và Tây Tạng cùng chia sẻ di sản tâm linh của Phật giáo Đại thừa. Chúng ta tôn kính lòng Từ Bi của Đức Phật – Quán Thế Âm trong truyền thống Trung Hoa và Chenrenzig trong truyền thống Tây Tạng. Chúng ta yêu mến như lòng từ bi lý tưởng tâm linh cao nhất cho tất cả chúng sanh khổ đau. Vì rằng Phật giáo đã phát triển ở Trung Hoa trước  khi nó được truyền từ Ấn Độ vào Tây Tạng, cho nên tôi luôn luôn xem những người Phật tử Trung Hoa với sự tôn trọng như những người anh chị em lớn trưởng tràng.

Các bạn biết không, như một tu sĩ, bắt đầu vào ngày 10 tháng Ba, 2008, một loạt các cuộc biểu tình  đã xảy ra ở Lhasa và vài vùng khác của Tây Tạng. Những sự kiện này đã bị kích động sâu sắc bởi những chính sách của chính quyền Bắc Kinh. Tôi đã rất buồn vì sự mất đi mạng sống của cả hai bên, Trung Hoa và Tây Tạng, và tôi lập tức yêu cầu kềm chế trên bộ phận của cả hai bên Trung Hoa và Tây Tạng, tôi đặc biệt yêu cầu người Tây Tạng không được dùng đến bạo động.

Bất hạnh thay, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã sử dụng những phương pháp tàn bạo để kiểm tra cuộc phản kháng mặc cho những khẩn cầu từ nhiều lãnh tụ các nước, NGO tổ chức phi chính phủ, và những người nổi tiếng thế giới, đặc biệt nhiều học giả Trung Hoa. Trong phạm vi của những sự kiện này, một số người đã mất đi mạng sống, những người khác bị thương tật, và nhiều người khác bị tù tội. Những cuộc tấn công tiếp tục, và nó nhầm mục tiêu đặc biệt tại những tu học viện, nơi mà những truyền thống của trí tuệ Phật giáo của tổ tiên chúng tôi được bảo tồn. Trải qua những năm lưu vong, nhiều tu viện đã bị đóng cửa. Chúng tôi đã nhận được nhiều báo cáo nói về việc bỏ tù những tu sĩ, đánh đập và bị đối xử tàn tệ. Những biện pháp đàn áp này dường như là một bộ phận của một chính sách có hệ thống, được phê duyệt chính thức.

Không có sự quán sát quốc tế, những nhà báo, hay ngay cả những khách du lịch được quyền đi vào Tây Tạng, tôi thật sự lo lắng sâu sắc về số phận của những người Tây Tạng. Nhiều người thương tật, nạn nhân của sự đàn áp, đặc biệt trong những vùng xa sôi, rất sợ hãi bị bắt bớ không bao giờ đòi hỏi đến chăm sóc y tế. Theo những nguồn tin đáng tin cậy, người ta đã chạy vào núi non, nơi họ không được tiếp cận với thức ăn hay chỗ trú ngụ. Những người tiếp tục đang sống trong một tình trạng sợ hãi liên tục, khiếp đảm bị bắt bớ.

Tôi cực kỳ lo lắng bởi những sự khổ đau liên tục này. Tôi cực kỳ quan tâm, và tự hỏi kết quả sẽ là gì cho tất cả những sự tiến triển bi thảm này. Tôi không tin rằng đàn áp là một giải pháp về lâu về dài. Cách tốt nhất để tiến đến việc giải quyết vấn đề liên quan đến người Tây Tạng và Trung Hoa là qua đối thoại, và tôi đã bảo vệ vị thế này trong một thời gian dài. Trong những năm gần đây, tôi đã thường bảo đảm với chính quyền Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa rằng tôi không yêu cầu cho một sự độc lập. Tôi đang tìm kiếm cho một sự tự trị đầy đủ ý nghĩa cho dân tộc Tây Tạng, có thể bảo đảm sự tồn tại lâu dài của văn hóa Phật giáo, và ngôn ngữ của chúng tôi, và bản sắc đặc thù của chúng tôi. Nền văn hóa phong phú của Tây Tạng là một bộ phận của di sản văn hóa phổ quát của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, và nó có thể lợi ích cho những anh chị em người Hoa.

*
Vào cuối tháng Tư 2008, ở Hoa Kỳ, trong lần du hành hải ngoại đầu tiên sau cuộc phản kháng khắp Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đưa ra một lời kêu gọi đến Trung Cộng. Trong một cuộc nói chuyện với cộng đồng Á châu, ngài đã hồi tưởng lòng chân thành và cởi mở của ngài, trong khi lấy làm tiếc vì vắng mặt sự đáp ứng về phần nhà cầm quyền Bắc Kinh.

Trong bài nói chuyện thứ hai đến người Phật tử Trung Hoa, âm điệu cá nhân hơn. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói với những người “anh chị em”; đến từ ngài, những từ ngữ này không phải không có ý nghĩa. Liên kết huynh đệ tồn tại trong những trình độ con người, lịch sử, và tâm linh, vì tất cả mọi người Phật tử đều là đệ tử của cùng một vị Thầy, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.Trong năm 2008, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã kêu gọi cho một cuộc tái khám phá tình huynh đệ chung quanh lý tưởng của tự do và dân chủ. Và những lời tuyên bố của ngài có tiếng vang trong Cộng Hòa Nhân Dân, vốn không thật sự đồng nhất. Trong năm 1996, nhà  bất đồng chính kiến Lưu Hiểu Ba đã bị kết án ba năm trong trại cải tạo vì đã viết một lá thư cho Chủ tịch Giang Trạch Dân kêu gọi cho quyền tự quyết của cho dân tộc Tây Tạng và một cuộc đối thoại cởi mở với Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Trong xã hội Trung Hoa ngày nay, những nhà báo, luật sư, môi trường, nghệ sĩ có lòng can đảm đối diện với nhà cầm quyền. Như nó đang trải qua một sự thay đổi lớn, Trung Hoa đang khám phá lại tôn giáo. Theo thủ tướng Tây Tạng, Samdhong Rinpoche, có 300 triệu Phật tử ở Trung Hoa, kể cả cựu lãnh tụ Cộng Đảng Giang Trạch Dân, và cựu thủ tướng Chu Dung Cơ. Nhiều thương gia và nghệ sĩ quan tâm đến Phật giáo, và những sách vở của Đức Đạt Lai Lạt Ma, được in ở Đài Loan, được lưu hành kín đáo. Trong khi tình cảm và tình đoàn kết với người Tây Tạng được làm cho tiếp tục gia tăng, những đại gia ân nhân giàu có đã đóng góp tiền bạc để tái thiết lại những tu viện bị tàn phá và những trung tâm trao truyền Phật pháp trong truyền thống vĩ đại của Tây Tạng.

Đức Đạt Lai Lạt Ma duy trì lòng hy vọng cho một sự dân chủ hóa cuối cùng ở Trung Hoa và cho công lý sẽ được trả lại cho dân tộc Tây Tạng bởi dân tộc Trung Hoa.

Đức Đạt Lai Lạt Ma tự hỏi, “Điều gì xảy ra nếu tâm linh lật đổ cộng sản Trung Quốc?” Ngài đã hỏi câu hỏi này nhiều lần, vì với giả thuyết này, dường như không có khả năng đối với ngài. Nó được ghi trong logic của cách mạng tâm linh mà ngài đã bênh vực và trong ba chí nguyện của ngài trong kiếp sống này. Nếu việc làm của ngài trong việc phụng sự cho tự do và hòa bình khắp thế giới không hoàn tất, thì kiếp sống tới, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười lăm, sẽ tiếp lấy ngọn đuốc của tự do, vốn không bao giờ tàn lụi – nó bốc cháy trong trái tim của con người mà đời sống không chấm dứt với sự chết.



Thứ Năm, 9 tháng 5, 2019

TỔNG QUAN VỀ CON ĐƯỜNG ĐẾN GIÁC NGỘ




Nguyên bản: Overview of the Path to Enlightenment
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

*
                                
TIẾN TRÌNH TỪ TỪ

Một hành giả tiến tới Quả Phật như thế nào qua việc trau đồi thiền quán những con đường của động cơ và tuệ trí? Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật trình bày những trình độ của con đường trong một tuyên bố ngắn gọn và thậm thâm, “Tadyata gate gate paragate parasamgate bodhi svaha,” có nghĩa là, “Thật sự là như vậy, tiến tới, tiến tới, tiến vượt tới, tiến vượt tới triệt để, thành tựu Giác Ngộ.” Chúng ta hãy thẩm tra điều này một cách sâu sát hơn, bắt đầu với chữ đầu tiên, “gate” (“tiến tới” hay “đi”). Ai đang đi? Có phải “cái tôi” hay tự ngã được biểu thị trong sự lệ thuộc trên sự tương tục của tâm. Từ điều gì ta đang tiến tới? Chúng ta đang rời khỏi vòng luân hồi, trạng thái ở dưới ảnh hưởng của những hành vi nhiễm ô và các cảm xúc phiền não ẩn tàng. Ta đang tiến tới điều gì? Chúng ta đang tiến tới Quả Phật được phú cho Thân Thể Chân Thật, vĩnh viễn thoát khỏi khổ đau và những nguồn gốc của đau khổ (cảm xúc phiền não), cũng như những xu  hướng được thiết lập bởi những cảm xúc phiền não. Trên những nguyên nhân và điều kiện nào mà chúng ta lệ thuộc khi chúng ta tiến tới? Chúng ta đang tiến tới trong sự lệ thuộc trên con đường vốn là một sự phối hợp của từ bi và tuệ trí.

Đức Phật đang nói với những thực tập sinh đi trên một bờ biển khác. Từ quan điểm của thực tập sinh, vòng luân hồi thì ở gần bên, trong tầm tay. Ở bờ xa, một nơi xa kia, là niết bàn – thể trạng đã vượt khỏi khổ đau.

NĂM CON ĐƯỜNG

Khi Đức Phật nói, “Tadyata gate gate paragate parasamgate bodhi svaha,” (“Thật sự là như vậy, tiến tới, tiến tới, tiến vượt tới, tiến vượt tới triệt để, thành tựu Giác Ngộ.”), Ngài đang nói với những hành giả tiến tới trên năm con đường:

Gate – con đường tích lũy (tư lương đạo);
Gate – con đường chuẩn bị (gia hạnh đạo).
Paragate – con đường thấy đạo (kiến đạo).
Parasamgate – con đường hành thiền (tu tập đạo).
Bodhi – con đường không còn học nữa (Giác Ngộ đạo - vô học đạo – cứu kính đạo).

Chúng ta hãy xác định bản chất tiến triển qua năm con đường này:

1-    Con đường khởi đầu là gì, con đường tích lũy? Đó là thời điểm khi chúng ta chính yếu thực hành theo động cơ khác để tích lũy dồi dào phước  đức lớn. Cũng thế, mặc dù chúng ta đang thực hành một sự phối hợp động cơ và tuệ trí, thì sự thực chứng tánh không của ta chưa đạt đến trình độ của sự hổ trợ hổ tương của chỉ và quán được gọi là “một thể trạng sinh khởi từ thiền”. Trên con đường này chúng ta đạt được thiền định đầy năng lực, và đang hành động đến một thể trạng sinh khởi từ thiền thực chứng tánh không.
2-    Tại một thời điểm mà chúng ta đạt được một thể trạng của tuệ trí sinh khởi từ thiền thực chứng tánh không, chúng ta đi qua con đường chuẩn bị. Bằng việc ngày càng quen thuộc với thể trạng này, cùng với việc trau dồi động cơ từ bi, chúng ta dần dần nhận thức sự xuất hiện tánh không càng rõ ràng hơn đối với bốn trình độ của con đường chuẩn bị (hơi nóng, đỉnh cao, nhẫn nhịn, những phẩm chất thế tục cao nhất)[1].
3-    Cuối cùng tánh không được nhận ra một cách trực tiếp, ngay cả không có một chút nhiễm ô từ hiện tướng nhị nguyên, vốn đã biến mất. Đây là sự bắt đầu của con đường thấy đạo – con đường khởi đầu trực tiếp thực chứng chân lý quan tâm đến bản chất sâu xa của các hiện tượng. Tại điểm này trong Đại thừa, thập địa Bồ tát (được gọi là đất vì trên chúng những phẩm chất tâm linh được sanh ra) bắt đầu. Trên con đường thấy đạo và con đường hành thiền, hai loại chướng ngại, tri thức tập nhiễm[2] và bẩm sinh[3], được vượt thắng một cách tương ứng. Những trạng thái tri thức tập nhiễm của tâm hình thành qua sự chấp chặc vào những hệ thống sai lầm. Thí dụ, có những hành giả của một số trường phái Phật giáo tin tưởng rằng các  hiện tượng tồn tại một cách quy ước theo cách của đặc tính của chính chúng, căn cứ trên “lý luận’ vô căn cứ rằng nếu các hiện tượng không được thiết lập trong cách này, thì chúng không thể biểu hiện chức năng. Đây là một loại nhận thức sai lầm, bị làm nhiễm ô bởi những hệ thống giáo lý bệnh hoạn, được gọi là nông cạn, hay tri thức tập nhiễm. Ngay cả nếu chúng ta không có được những xu hướng mới qua tư duy nhận thức sai lầm trong kiếp sống này, thì mọi người có trong sự tương tục tinh thần của họ những xu hướng được thiết lập bởi sự chấp chặc vào những quan điểm sai lầm trong những kiếp trước.

Ngược lại, những trạng thái bẩm sinh sai lầm của tâm đã tồn tại trong tất cả chúng sanh – từ côn trùng cho đến con người – từ thời  vô thỉ, và vận hành tương hợp với chính họ mà không lệ thuộc vào những kinh điển và lý luận sai lầm.

4-    Tri thức tập nhiễm, hay nông cạn, những chướng ngại được loại trừ qua con đường thấy đạo, trái lại những chướng ngại bẩm sinh thì vượt thắng khó khăn hơn (vì chúng ta đã bị điều kiện hóa với những trạng thái sai lầm này của tâm từ thời vô thỉ). Chúng phải bị loại trừ bằng việc hành thiền liên tục trên ý nghĩa của tánh không. Vì việc hành thiền như vậy xảy ra lập đi lập lại trải qua một thời gian dài, giai đoạn này của con đường được gọi là con đường hành thiền. Thực tế, chúng ta đã hành thiền về tánh không trước đây rồi, nhưng con đường hành thiền liên hệ đến một con đường của việcthực hành mở rộng cho thông thạo.

Trên trình độ này, chúng ta trải qua chín địa Bồ tát còn lại. Từ trong mười địa, bảy địa đầu được gọi là bất tịnh, và ba địa cuối là thanh tịnh. Đây là bởi vì trên bảy địa đầu chúng ta vẫn còn ở trong tiến trình của việc loại trừ những chướng ngại phiền não và vì vậy bảy địa này chưa thanh tịnh. Qua phần thứ nhất của địa thứ tám chúng ta đang tiêu trừ những cảm xúc phiền não. Sự quân bình của địa thứ tám, chín, mười cho phép chúng ta vượt thắng những chướng ngại đến toàn tri toàn giác.

5-    Bây giờ, qua việc sử dụng thiền tập trung như kim cương thành tựu vào đoạn cuối của mười địa Bồ tát – cực điểm vẫn còn chướng ngại chưa được chiến thắng – nhưng chúng ta có thể làm xói mòn những chướng ngại rất vi tế đến toàn tri toàn giác. Chính thời khắc kế tiếp của tâm chúng ta trở thành một thức toàn tri toàn giác, một cách đồng thời bản chất sâu thẩm của tâm trở thành Thân Thể Tự Nhiên của một Đức Phật. Đây là con đường thứ năm, con đường sau cùng, con đường không còn học nữa. Từ gió rất vi tế, năng lượng – vốn là một thực thể với gió đó – những sắc tướng thanh tịnh và không thanh tịnh tự động xuất hiện ra để hổ trợ chúng sanh; những thứ này được gọi là những Thân Sắc Tướng của một Đức Phật. Đây là Quả Phật, một thể trạng của việc hiện hữu một cội nguồn giúp đở và hạnh phúc cho toàn thể chúng sanh.

Để tôi dành một vài phút ở đây để nói đến nhiều nhận thức sai lầm về vấn đề việc nữ nhân có thể thành tựu Quả Phật hay không. Trong kinh điển Đại thừa, không có một biểu thị nào rằng một nữ nhân không thể đạt được Quả Phật. Tuy nhiên, kinh luận nói rằng, trong những sự thực tập tích lũy phước  đức trải qua ba a tăng kỳ kiếp, thì chúng ta sẽ đi đến một thời điểm khi nghiệp mà chúng ta đang làm việc với ý chí trưởng thành như những dấu hiệu vật lý và hảo tướng của một Đức Phật; vào lúc ấy, theo kinh điển Đại thừa, nó giúp để có một sự hổ trợ vật lý mạnh mẽ, cho nên chúng ta tự nhiên đi đến có một thân thể của nam giới. Những kinh luận này cũng nói rằng trong kiếp cuối cùng trước khi thành tựu Quả Phật, chúng ta cần có một thân thể đại trượng phu. Tuy nhiên, Tantra Yoga Tối Thượng, là thứ mà chúng tôi xem như hệ thống sau cùng, nói rằng không chỉ một nữ nhân có thể thành tựu Quả Phật mà vị ấy có thể làm như thế ngay trong kiếp sống này.

NHỮNG PHẨM CHẤT CỦA QUẢ PHẬT

Trong tất cả mọi trường phái tu tập của Đạo Phật, sự thực hành là căn cứ trên xu hướng xa rời cõi luân hồi. Ngoài ra, trong Đại thừa chúng ta được động viên bằng xu hướng quan tâm khác để trở thành Giác Ngộ. Trong Mật tông, qua những kỷ năng vốn để nâng cao việc phát triển của thiền tập trung, vốn là sự phối hợp của định và tuệ, thì chúng ta có thể đạt được thể trạng của Quả Phật mà trong đó tất cả mọi chướng ngại – những chướng ngại phiền não ngăn trở việc thoát khỏi vòng luân hồi[4] và những chướng ngại đến toàn tri toàn giác[5] ngăn trở Quả Phật – đã được tiêu trừ.

Phẩm chất của một Đức Phật được diễn ta như những “thân thể” khác nhau vốn có thể được phân chia thành hai loại tổng quát:

·        Thân Thể Chân Thật, cho việc hoàn thành cát tường của chính bản thân.
·        Các Thân Thể Sắc Tướng, cho việc hoàn thành cát tường của các chúng sanh khác.

Các Thân Thể Sắc Tướng, lần lượt, có thể được phân chia bằng việc chúng xuất hiện như thế nào đối với chúng sanh trong những trình độ khác nhau của thanh tịnh và bất tịnh. Những hành giả tiến bộ cao độ có thể thâm nhập Thọ Dụng Thân[6]. Những trình độ khác của các hành giả trải nghiệm các Ứng thân[7]. Thân Thể Chân Thật cũng có thể phân chia thành hai loại, Thân Tự Tánh và Thân Tuệ Trí. Thân Tự Tánh có thể phân chia thêm nữa thành một thể trạng của sự tịnh hóa tự nhiên và một thể trạng của sự tịnh hóa bất định (hay làm thành) các phiền não. Thân Thể Chân Thật Tuệ Trí có thể phân chia xa hơn tùy vào nhiều quan điểm khác nhau. Hiện Quán Trang Nghiêm Luận cho Sự Thực Chứng Minh Bạch[8] của Di Lặc ghi rõ hai mươi (20) bộ tuệ trí vô nhiễm vốn có thể được phân chia thành một trăm sáu mươi bộ (160).

SỰ THỰC HÀNH LÂU DÀI

Đây là một sự giải thích tóm tắt cho nền tảng – hai chân lý, quy ước và cứu kính; những con đường xây dựng trên nền tảng ấy – động cơ và tuệ trí; những quả vị trên con đường – những Thân Thể Sắc Tướng và Thân Thể Chân Thật của một Đức Phật. Thật lợi ích để có cái nhìn tổng quát về cấu trúc của sự thực hành, nhưng chúng ta cần nhớ rằng sự thực chứng được phát sinh qua nhiều nguyên nhân và điều kiện – sự thấu hiểu đúng đắn, sự tích lũy phước đức, và sự vượt thắng các chướng ngại. Nếu ta trước tiên chưa tích lũy phước đức, và tịnh hóa những hành vi bất thiện, thì thật khó để đạt được sự thực chứng chỉ qua việc cố gắng hành thiền. Do vậy, thật quan trọng để làm việc thông qua mỗi một hành vi sơ bộ.

Liên hệ trong những sự thực hành sơ bộ tiên quyết không chỉ là một vấn đề của việc bổ sung nào đó hay ngay cả là việc hoàn thành ẩn tu ba năm hay pha mặt trăng[9] (như một số có thể tưởng tượng từ sự kiện rằng nhiều sự tu tập kéo dài như thế), hay bất cứ một thời gian nào khác. Thay vì thế, chúng ta  phải tích tập phước đức và tịnh hóa các chướng ngại cho đến khi những sự thực chứng nào đó được phát sinh. Chúng ta có thể dành trọn cả cuộc đời để làm như thế, với mục tiêu cải thiện những kiếp sống tương lai. Đôi khi, do bởi một sự khiếm khuyết hiểu biết, cho nên những người thực hiện những thời gian ẩn tu dài kết thúc với niềm kiêu hảnh lớn chỉ với sự kiện rằng họ đã hoàn thành khóa tu. Sự gia tăng trong tự hào sinh ra một sự gia tăng trong sân hận, ghen tỵ, và ganh đua. Điều giống như vậy có thể xảy ra với tri thức đơn thuần trong sách vở về giáo lý. Thật không dễ dàng; những cảm xúc phiền não là xảo quyệt.

Việc hành trì không phải là điều gì đó mà chúng ta thực hiện trong vài tuần hay vài năm. Nó xảy ra trải qua nhiều kiếp sống, trong hàng vô lượng kiếp và vô lượng kiếp. Như chúng ta đã thấy, một số kinh luận nói việc Giác Ngộ được thành tựu sau khi tích lũy vô số phước đức và tuệ trí trong ba a tăng kỳ kiếp. Nếu chúng ta xem tuyên bố này là thích đáng, thì nó có thể động viên ta tiếp nhận một thái độ nhẫn nhục, kiên trì qua những hoàn cảnh khó khăn. Nếu học hỏi điều này làm ta phiền muộn, thì có thể là do việc chúng ta mong muốn thành tựu Quả Phật một cách nhanh chóng vì quá quan tâm đến người khác của chúng ta. Đó cũng có thể là một dấu hiệu của lòng can đảm không đủ. Giác Ngộ không thể đạt được mà không phải hành động nghiêm mật. Tin tưởng theo cách khác có nghĩa là chúng ta đang chứa chấp một hình thức vị kỷ nào đó.

*

Đây là toàn bộ tiến trình của con đường tu tập. Mặc dù người ta có thể không giàu có vốn có thể giữ trong một chiếc bóp, nhưng họ có thể có sự giàu có này giữ trong tâm. Những tuyên bố hảo ý của các tôn giáo khác nhau thì không đủ; chúng ta phải khai triển thực hiện chúng trong đời sống hàng ngày trong xã hội. Sau đó chúng ta mới có thể biết giá trị thật sự những giáo lý của chúng. Thí dụ, nếu một Phật tử hành thiền trong chùa viện nhưng bên ngoài chùa viện thì họ không sống với những lý tưởng quán chiếu ấy, như vậy là không tốt. Chúng ta phải thực hành trong đời sống hàng ngày.

Giá trị thật sự của việc thực hành được thấy khi chúng ta đối diện một thời điểm khó khăn. Khi chúng ta vui sướng và mọi thứ diễn ra suông sẻ, thế thì sự thực hành dường như không khẩn thiết, nhưng khi chúng ta đối diện những vấn nạn không thể tránh chẳng hạn như bệnh tật, tuổi già, chết chóc, hay những hoàn cảnh chán chường khác, thì thật cần thiết để kiểm soát sự sân hận của ta, kiểm soát những cảm giác của chúng ta, và để sử dụng tâm tư tốt đẹp của con người chúng ta để quyết định phải đối diện với vấn nạn đó như thế nào với sự nhẫn nhục và điềm tĩnh.

Nếu chúng ta thực hành cách này, hy vọng trước nhất của chúng ta là chúng ta có thể chiến thắng vấn nạn, nếu không, tối thiểu vấn nạn không thể quấy rầy sự an bình tinh thần chúng ta. Như vậy là tốt, có phải không? Chúng ta đang đối diện với hoàn cảnh và duy trì được sự bình an của tâm hồn – không cần uống thuốc an thần hay cố gắng để đẩy tư tưởng của chúng ta khỏi nó. Đó là tại sao chúng ta vô cùng thích thú trong những ngày cuối tuần và các kỳ nghĩ dưỡng! Năm ngày trong tuần chúng ta vô cùng bận rộn, làm việc cật lực để kiếm tiền, rồi thì vào cuối tuần chúng ta đi đến một nơi nào xa xôi với số tiền ấy và có một thời gian dễ thương! Điều này có nghĩa là chúng ta cố gắng để đưa tâm thức chúng ta khỏi vấn nạn của chúng ta. Nhưng vấn nạn vẫn ở đấy.

Tuy nhiên, nếu chúng ta có một thái độ tinh thần tốt, thì không cần tiêu khiển. Khi chúng ta có thể đối diện với hoàn cảnh và phân tích vấn nạn, thế thì, giống như một cục nước đá trong nước, nó sẽ dần dần tan đi. Nếu chúng ta thực hành một cách chân thành, thì chúng ta sẽ trải nghiệm giá trị thật sự của nó.

Theo lời của chính Đức Phật, giáo huấn của Ngài sẽ tồn tại ở thế gian này trong năm nghìn năm. Vào lúc kết thúc năm nghìn năm ấy, nó cuối cùng sẽ bị hủy diệt bởi một người nào đó là chính sự tái sanh của Đức Phật, vì khi ngày ấy đến giáo lý của Ngài sẽ không còn giá trị nữa. Tuy nhiên, có cả tỉ hệ thống thế giới như chúng ta, với hàng tỉ giáo lý vô tận như vậy. Một số trong chúng, giáo lý sẽ được làm mới lại; một số sẽ tàn tạ. Giáo lý tiếp tục duy trì ở một nơi nào đó vào mọi thời gian. Chư Phật không bao giờ biến mất, và giáo lý sẽ không bao giờ tan biến.

*

TOÁT YẾU THỰC HÀNH HÀNG NGÀY

Đây là một nơi những tóm tắt cho sự thực hành tập họp lại khắp cả quyển sách. Hãy tập trung trên những thứ phù hợp với trình độ của bạn vào điểm này. Hay, chúng ta có thể thay đổi trong chúng trong phạm vi một tuần. Hãy cải thiện một cách nhẫn nại qua thời gian, những sự thực hành sẽ trở thành ngày càng quen thuộc hơn và đời sống của chúng ta sẽ trở thành đầy đủ ý nghĩa hơn.

Đạo đức của sự giải thoát cá nhân

1-    Hãy thẩm tra động cơ của chúng ta thường xuyên như có thể. Thậm chí trước khi rời khỏi giường vào buổi sáng, hãy thiết lập một quan điểm bất bạo động, không lạm dụng, không ngược đãi cho một ngày của chúng ta. Vào ban đêm thẩm tra lại những gì chúng ta đã làm trong ngày.
2-    Hãy chú ý có bao nhiêu đau khổ trong chính cuộc sống của ta:
·        Có những đau khổ thể xác và tinh thần nào tư nhiên chúng ta muốn tránh, chẳng hạn như bệnh tật, tuổi già, và sự chết.
·        Có những kinh nghiệm tạm thời nào, như ăn uống thực phẩm ngon, dường như có thể vừa lòng trong chúng và tự chính chúng, nhưng, nếu tiếp tục ăn uống có thể hóa thành bệnh – đây là đau khổ vì thay đổi. Khi hoàn cảnh biến từ sung sướng thành đau khổ, hãy quán chiếu trên sự kiện rằng bản chất sâu thẩm của niềm vui ban đầu đang tự hiển lộ. Việc dính mắc vào những niềm vui nông cạn như vậy sẽ chỉ mang đến khổ đau hơn.
·        Hãy quán chiếu vấn đề chúng ta bị vướng trong một tiến trình của điều kiện, vốn, đúng hơn là ở dưới sự kiểm soát của chúng ta, chính là ở dưới sự ảnh hưởng của nghiệp và những cảm xúc phiền não.
3-    Hãy phát triển một cách từ từ một quan điểm thực tiển của thân thể qua việc thẩm tra những thành phần của nó – da, máu, thịt, xương, và v.v…
4-    Hãy phân tích đời sống của chúng ta một cách cặn kẻ. Cuối cùng chúng ta sẽ thấy khó khăn để lạm dụng nó bằng việc trở thành như máy móc hay chỉ bằng việc tìm ra tiền như kẻ đại diện cho hạnh phúc.
5-    Hãy chấp nhận một thái độ tích cực khi đối mặt với khó khăn. Hãy tưởng tượng rằng bằng việc chịu đựng một hoàn cảnh khó khăn thì chúng ta cũng làm tiêu mòn những hậu quả tệ hại từ những nghiệp chướng khác mà khác đi chúng ta có thể trải nghiệm trong tương lai. Như một sự luyện tập tinh thần, hãy tự đảm nhận gánh nặng đau khổ của những kẻ khác giống như thế.
6-    Hãy đánh giá những hệ quả có thể tiêu cực và tích cực về những cảm giác chẳng hạn như tham muốn, sân hận, ganh tỵ, và thù oán. Khi nó trở thành rõ ràng rằng hậu quả của chúng là tai hại, thì chúng ta đi đến kết luận rằng không có các kết quả tích cực của sân hận, … Hãy phân tích nhiều hơn nữa, và dần dần sự tự tin của chúng ta sẽ được làm mạnh lên; sự phản chiếu được lập lại về những bất lợi của sân hận sẽ làm chúng ta nhận ra rằng nó vô nghĩa, và đáng thương. Quyết định này sẽ làm cho sự sân hận của chúng ta từ từ hao mòn.
7-    Đã nhận ra phạm vi của đau khổ, hãy nghiên cứu nguyên nhân của nó, và xác định cội nguồn của đau khổ là si mê về bản chất chân thật của con người và mọi vật, và rằng tham muốn, thù hận, và v.v… căn cứ trên sự si mê này. Hãy nhận ra rằng đau khổ có thể loại trừ được, có thể triệt tiêu được trong không gian của thực tại. Hãy quán chiếu rằng sự chấm dứt chân thật (diệt đế) đạt được qua sự thực hành đạo đức, thiền định, và tuệ trí – những con đường chân thật (đạo đế).
8-    Hãy chú ý rằng những sự dính mắc của chúng ta về thực phẩm, áo quần, và nơi cư trú, và hãy thích ứng với những thực tập của tu sĩ về toại nguyện cho đời sống của một cư sĩ. Hãy hài lòng với thực phẩm, áo quần, và chỗ cư trú tương xứng. Hãy sử dụng những thời gian rỗi rảnh cho thiền tập vì thế chúng ta có thể vượt thắng nhiều vấn nạn khác nữa.
9-    Hãy phát triển một nguyện ước mạnh mẽ để tránh làm tổn hại người khác, cho dù là bằng hành động hay lời nói, bất chấp chúng ta bị hổ thẹn, bị xúc phạm, bị mắng chưởi, hay bị đánh.

Đạo Đức Quan Tâm Đến Người Khác

Tiến hành quán tưởng năm bước cho việc phát triển từ bi:

1-    Hãy duy trì điềm tĩnh và có lý trí.
2-    Trước mặt ta bên phải, hãy tưởng tượng một phiên bản khác của chính ta, tự cao và vị kỷ.
3-    Trước mặt ta bên trái, hãy tưởng tượng một nhóm người nghèo khó, đau khổ, những người không thân thuộc với ta, cũng không phải là bạn bè hay kẻ thù.
4-    Hãy quán chiếu hai phía này từ quan điểm thuận lợi và điềm tĩnh. Bây giờ hãy nghĩ, “Cả hai đều muốn hạnh phúc. Cả hai đều muốn thoát khỏi khổ đau. Cả hai đều có quyền để hoàn thành những mục tiêu này.”
5-    Hãy xem xét điều này: Giống như thường lệ chúng ta sẳn sàng để thực hiện những điều hài lòng tạm thời cho một điều tốt đẹp lâu dài, cho nên lợi lạc của nhiều người đau khổ bên trái ta thì quan trọng hơn nhiều so với một người vị kỷ đơn lẻ bên phải ta. Hãy chú ý tâm thức ta tự nhiên quay về phía số lượng lớn hơn những con người.

Hãy thực hiện nghi thức cho sự ngưỡng mộ Giác Ngộ. Trước tiên thi hành bảy bước chuẩn bị sơ bộ:

1-    Tôn kính: Hãy tưởng tượng Đức Phật Thích Ca được vây quanh bởi vô số Bồ tát, đầy trên bầu trời trước mặt ta.
2-    Hãy cúng dường tất cả những thứ tuyệt vời – cho dù chúng ta có sở chúng hay không – kể cả thân thể, tài sản, và đạo đức của chính ta, đến chư Phật và chư Bồ tát.
3-    Hãy bày tỏ vô số hành vi lỗi lầm cua thân thể, lời nói, và tâm ý mà ta đã gây ra với một mục tiêu làm tổn hại người khác. Hãy sám hối vì đã làm những thứ ấy, và có ý muốn kiêng tránh khỏi chúng trong tương lai.
4-    Hãy ngưỡng mộ từ trong chiều sâu của trái tim đạo đức của chính ta và của những người khác. Tỏ lòng hoan hỉ trong những việc làm tốt lành mà ta đã thực hiện trong kiếp này và những kiếp trước, hãy nghĩ, “Tôi thật sự đã làm  điều gì đó tốt đẹp.” Hãy hoan hỉ trong đạo đức của những kẻ khác, kể cả của chư Phật và chư Bồ tát.
5-    Hãy thỉnh cầu chư Phật những bậc đã Giác Ngộ tròn vẹn nhưng chưa dấn thân trong việc giảng dạy giáo lý tâm linh, làm như thế nhân danh của tất cả chúng sanh đau khổ.
6-    Hãy cầu xin chư Phật không nhập niết bàn.
7-    Hãy hồi hướng sáu sự thực hành này để thành tựu Giác Ngộ vô thượng.

Sau đó bắt đầu thực hiện phần trung tâm của nghi thức ngưỡng mộ Giác Ngộ:

1-    Với một quyết định mạnh mẽ để đạt được Quả Phật nhằm để phục vụ những chúng sanh khác, hãy tưởng tượng một Đức Phật trước mặt ta, hay vị thầy tâm linh của ta như đại diện cho Đức Phật.
2-    Hãy trì tụng ba lần giống như ta đang lập lại sau vị ấy:
Cho đến khi tôi đạt được Giác Ngộ, tôi tìm quy y trong Đức Phật, giáo lý, và cộng đồng tâm linh cao thượng.
Qua sự tích lũy của phước đức của bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và tuệ trí, nguyện cho tôi thành tựu Quả Phật để phụng sự tất cả chúng sanh.

Để duy trì và tăng cường lòng vị tha sâu xa này trong kiếp sống này hãy thực hiện những điều sau:

1-    Hãy nhắc lại luôn luôn những lợi lạc của việc phát triển một mục tiêu để trở thành Giác Ngộ vì lợi ích của những kẻ khác.
2-    Phân chia một ngày thành ba thời và đêm thành ba thời, và trong mỗi thời dành một ít thời gian hay thức dậy từ giấc ngủ và thực tập năm bước quán tưởng đã nói trước đây. Cũng đầy đủ để quán tưởng năm bước ba lần trong một buổi tu tập vào sáng sớm khoảng mười lăm phút, và ba lần trong buổi tối khoảng mười lăm phút.
3-    Tránh sự quên lãng tinh thần lợi ích của ngay cả một chúng sanh.
4-    Tối đa như có thể, hãy dấn thân trong những hành vi đạo đức với một thái độ thiện lương, và phát triển một sự hiểu biết sơ bộ về bản chất của thực tại, hay duy trì một nguyện ước để làm như thế và hành động với nó.

Để duy trì và tăng cường lòng vị tha thậm thâm này trong những kiếp sống tương lai:

1-    Hoàn toàn không nói dối với bất cứ ai, ngoại trừ ta có thể giúp đở người khác một cách lớn lao qua việc nói dối.
2-    Hãy trực tiếp hay gián tiếp giúp đở người khác để tiến tời Giác Ngộ.
3-    Hãy đối xử với tất cả mọi người với sự tôn trọng.
4-    Không bao giờ lừa dối với bất cứ người nào, và luôn luôn trung thực.

Trong thâm tâm, hãy nghĩ đi nghĩ lại, “Nguyện cho tôi trở thành có thể giúp đở tất cả chúng sanh.”

Thiền Tập Trung

1-    Hãy chọn một đối tượng của thiền tập và tập trung tâm ý ta vào nó, và cố gắng đạt được và duy trì sự ổn định, trong sáng, và cường độ. Tránh sự giải đải và trạo cử.
2-    Thay phiên, xác định thể trạng nền tảng của tâm không bị tì vết bởi tư tưởng, giống như trong trạng thái của chính nó – chỉ thuần sáng suốt, bản chất hiểu biết của tâm. Với chánh niệm và nội quán duy trì trong thể trạng ấy. Nếu một tư tưởng sinh khởi, chỉ hãy nhìn vào chính bản chất của tư tưởng ấy; điều này làm nó bị mất sức mạnh và tan biến tương ứng với nó.

Tuệ Trí

Như một thực hành của việc xác định các đối tượng và chúng sanh xuất hiện một cách sai lầm trong nhận thức như thế nào, hãy cố gắng theo sau:

1-    Hãy quán sát một vật chẳng hạn như một chiếc đồng hồ đeo tay xuất hiện trong cửa hàng như thế nào khi ta lần đầu thấy nó, sau đó hiện tướng của nó thay đổi thế nào và trở thành cụ thể hơn thế nào khi sự thích thú của ta lớn mạnh, và cuối cùng nó xuất hiện thế nào khi ta đã mua nó và xem nó như của ta.
2-    Hãy chú ý trong những thời điểm khác nhau vấn đề tự ta xuất hiện trong tâm ta như thế nào giống như nó tồn tại trong và tự ta, không lệ thuộc vào tâm thức và thân thể.
3-    Sau đó, thường xuyên quán chiếu vấn đề các hiện tượng sinh khởi trong sự lệ thuộc với những nguyên nhân và điều kiện như thế nào, và quán sát vấn đề điều này mâu thuẩn với cách mà con người và sự vật xuất hiện và tồn tại trong chính bản chất của chúng như thế nào, để tồn tại một cách cố hữu. Nếu ta xoay về hướng chủ nghĩa hư vô, hãy quán chiếu hơn về sự lệ thuộc duyên khởi. Nếu, bằng việc tập trung trên các nguyên nhân và điều kiện, ta có xu hướng tái củng cố sự tồn tại cố hữu của các hiện tượng, thì hãy đặt hơn sự nhấn mạnh về vấn đề sự lệ thuộc mâu thuẩn với hiện tướng quá cụ thể này như thế nào. Chúng ta chắc chắn sẽ được kéo ra khỏi việc bám víu vào một bên; con đường trung đạo cần thời gian để thấy.

Cũng thế:

1-    Hãy xác định bản chất sáng suốt và hiểu biết của tâm, không bị che mờ bởi các tư tưởng và không có bất cứ khái niệm nào che phủ.
2-    Hãy thẩm tra bản chất sâu thẩm của tâm lập đi lập lại để khơi mở việc vắng bóng sự tồn tại cố hữu của nó, tánh không của nó. Hãy quán chiếu trên sự lệ thuộc của tâm thức vào các nguyên nhân, điều kiện, và những thành phần của nó. Đối với tâm, bất cứ chiều dài nào của thời gian đối với tâm – cho dù là một phút hay một sát na ngắn ngủi nhất – lệ thuộc vào những thành phần trước đó và sau đó của thời khắc đó.
3-    Hãy cố gắng để nhận ra khả năng tương thích của tâm với tánh không của nó của sự tồn tại cố hữu; hãy thấy sự hổ trợ hổ tương của hai thứ này với nhau như thế nào.

Mật Tông

Vì sự thực hành Mật tông chính yếu là để chuyển hóa vấn đề ta thấy tự ta, những người khác, và môi trường như thế nào, cho nên nó có thể rất lợi ích để quán tưởng chính ta như có một động cơ từ bi, thân thể tinh khiết, và những hành vi làm lợi ích cho những người khác.

*

Mặc dù kiến thức của tôi là giới hạn và kinh nghiệm của tôi là rất nghèo nàn, nhưng tôi đã cố gắng tối đa để giúp các bạn thấu hiểu toàn bộ chiều rộng giáo huấn của Đức Phật. Xin hãy triển khai thực hiện bất cứ điều gì trong những trang này xuất hiện cho có lợi ích. Nếu bạn theo những tôn giáo khác, xin hãy đón nhận bất cứ điều gì có thể hổ trợ bạn. Nếu bạn không nghĩ nó có lợi ích gì, thì hãy cứ quên đi.

*

Ẩn Tâm Lộ, Thursday, May 9, 2019




[1] Noãn, đảnh, nhẫn, thế đệ nhất.
[2] Tri thức tập nhiễm: Tân huân chủng tử
[3] Tri thức bẩm sinh: Bản hữu chủng tử - câu sanh chủng tử
[4] Phiền não chướng
[5] Sở tri chướng
[6] Báo thân
[7] Hóa thân
[8] Maitreya’s Ornament for Clear Realization
[9] Three phases of the moon