Nguyên bản: The
Teaching on Aspirational Bodhicitta
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
Trong nhiều tôn giáo của thế giới, hôm nay tôi sẽ nói về
một tôn giáo được giảng dạy bởi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật Giáo, như nó đã
tồn tại ở Tây Tạng, là một hình thức hoàn hảo của Phật Giáo trong ấy bao hàm cả
Hiển Giáo và Mật Giáo, cũng được gọi là tantra, và có những giáo huấn trọn vẹn
trong tất cả những hình thức của các trường phái, cả Tiểu Thừa và Đại Thừa. Hôm
nay tôi sẽ nói theo quan điểm Đại Thừa, trường phái Trung Đạo.
Việc phát sinh tâm thức đối với Giác Ngộ là ba đoạn kệ đầu
trang, nhưng trước đó chúng ta sẽ thực hiện Bảy Đề Mục Quán Niệm bắt đầu giữa
trang.
Trước tiên nhất, hãy để tôi nhận diện xu hướng vị tha để Giác Ngộ là gì. Vị thầy ân cần
của chúng ta Đức Phật Thích Ca, khi ngài lần đầu tiên chuyển bánh xe về Bốn
Chân Lý Cao Quý, đã thiết lập một giáo lý với từ bi là gốc rể. Cho nên ngay cả
trong kinh điển được gọi là Thanh Văn, như kinh điển của Theravada, cũng có đề
cập Đức Phật Thích Ca trước khi thành đạo ở Đạo Tràng Giác Ngộ thì ngài là một
vị Bồ tát.
Sau đó với việc quan tâm đến những sự thực hành thật sự của
một vị Bồ tát trong kinh điển Thanh Văn, có một sự giải thích ngắn trong Ba
Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo cho Giác Ngộ và có một sự đề cập nhẹ nhàng về sáu ba la mật.
Nhưng nhấn mạnh thật sự về thực hành của những vị Bồ tát được thấy trong những
kinh điển Tuệ Giác Toàn Thiện, kinh Bát Nhã. Trong những kinh Bát Nhã, những gì
được thuyết giảng một cách rõ ràng là giáo lý về tánh không. Nhưng có một trình
độ ẩn tàng về ý nghĩa của những kinh điển Bát Nhã và những điều này được biểu
thị bằng những liệt kê những hiện tượng là trống rỗng sự tồn tại cố hữu, và
trong ấy chúng ta có thể thấy những giai tầng của con đường. Và trong kinh Phổ Diệu, những hành vi của Bồ tát
được nói một cách rộng rãi.
Trong Hiện Quán
Trang Nghiêm Luận có một sự diễn tả về xu hướng vị tha để được Giác Ngộ hay
tâm giác ngộ với hai nguyện vọng. Một là nguyện vọng đem lợi ích cho người khác
và tình trạng ấy đem lại nguyện vọng thứ hai là đạt đến Giác Ngộ cho chính
mình. Cả hai nguyện vọng này hành giả cần thực hành. Việc phát triển nguyện vọng
để mang đến Giác Ngộ cho người khác được mang đến bằng việc thực hành trong hai
cách. Một là qua hoán đổi tự thân và người khác, và hai qua việc quán chiếu
giáo lý Bảy Phần Nhân Quả. Tinh hoa của tiến trình này là để nhận ra rằng tất cả
những chúng sanh khác cũng như chính chúng ta là giống nhau trong vấn đề mọi
người muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau và sự khổ đau ấy là có thể loại trừ
được. Nó có thể loại trừ được. Thêm nữa, mọi người có quyền loại trừ khổ đau.
Nhưng đâu là sự khác biệt giữa tự thân và người khác? Tự
mình chỉ là một, trái lại người khác là vô số lượng. Và từ một quan điểm khác,
hạnh phúc của một người liên hệ với hạnh phúc của người khác. Vì vậy, nếu người
khác hạnh phúc, thì tự động và tự nhiên tự ta cũng hạnh phúc. Nếu người khác khổ
đau, một người cũng tự động và tự nhiên khổ đau. Thí dụ, nếu bạn đi vào một gia
đình nơi mà mọi người liên tục tranh cải và họ liên tục quấy rầy - ngay cả chỉ
một chút, thì bạn sẽ chú ý sự không thoải mái lan tỏa trong gia đình. Và nếu bạn
đến một gia đình trú trong một mức độ nào đó của toại nguyện và hạnh phúc, sống
với nhau hòa hiệp, thì tự chính bạn sẽ có một cảm giác thoải mái ngay khi bạn đến
trong nhà của họ. Vì thế, trong cách này, hạnh phúc và khổ đau của người khác
có một mối quan hệ gần gũi với hạnh phúc và khổ đau của chính bạn.
Và rồi theo quan điểm của giáo huấn nhà Phật, nếu bạn có
một thái độ vị tha, về việc làm lợi ích cho người khác, bạn cũng tự lợi lạc nhiều
như vậy - bạn cũng tích lũy nhiều phước đức như vậy làm lợi lạc cho chính bạn.
Thí dụ, nếu bạn dấn thân trong một sự thực hành đơn độc, chẳng hạn như cầu nguyện
hay bất cứ loại thực hành đạo đức nào khác, nếu bạn làm điều này với một động
cơ của việc thành tựu giải thoát khỏi sanh tử luân hồi cho chính bạn - hay nếu
bạn làm cũng hành vi với động cơ thành tựu sự Giác Ngộ vô thượng hoàn thiện nhằm
để làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, thế thì sự khác biệt trong sức mạnh -
năng lực - của đức độ ấy, là rất lớn trong
ý nghĩa của cả hai xu hướng động cơ của bạn - những gì bạn đang mưu cầu để hoàn
thành và vì ai bạn đang mưu cầu để hoàn thành - là khác biệt một cách lớn lao.
Vì vậy, khi phạm vi của động cơ là lợi ích cho vô lượng chúng sanh, thế thì đạo
đức tích tập được qua tu tập là cực kỳ rộng lớn. Vì vậy, trong Đại Thừa khi nói
về việc tích lũy những khối lượng phước đức khổng lồ, thì phước đức ấy đạt được
qua sự ân cần đối với những chúng sanh khác.
Bây giờ, nếu bạn hỏi, "Làm thế nào có thể tưởng tượng mọi người - tất cả
chúng sanh - có loại ân cần này khi một số người không có động cơ hổ trợ người
khác và vấn đề một người có thể tưởng tượng họ ân cần như thế nào? Và câu trả lời
là việc đánh giá những chúng sanh khác không lệ thuộc vào động cơ của họ.
Như Tịch Thiên nói trong Hướng Dẫn Lối Sống của Bồ tát, trong ba sự quy y, những sự quy y thật
sự là những sự diệt độ chân thật của các chướng ngại và các con đường để thành
tựu những sự diệt độ đó. Tự những sự diệt độ chân thật đó, hay chính những tâm
đạo đó, không có bất cứ nhiệt tình nào để hổ trợ bạn, nhưng chúng cung ứng sự bảo
hộ lớn lao. Vì thế việc đánh giá, có một ý thức yêu mến hay giá trị mọi thứ,
không lệ thuộc trên việc chúng có nhiệt tình để hộ trợ bạn. Do vậy theo quan điểm
con đường tu tập, nó tùy thuộc trên tầm quan trọng hay sự ân cần của vô lượng
chúng sanh có thể tiến tới trên con đường. Cũng thế, trong hình thức thông thường,
hầu hết mọi sự cung ứng của chúng ta - thực phẩm và áo quần và tiếng tăm và
v.v…, đến từ những người khác. Nó lệ thuộc vào họ trong mô thức của trạng thái kết quả, cũng thế, nó đến bằng
phương tiện của giá trị hay sự ân cần của những chúng sanh khác. Vì vậy như được
nói, trong sự lệ thuộc vào sự ân cần của những đồng loại chúng ta mà chúng ta
thành tựu ngay cả những niềm vui nho nhỏ và v.v… trong đời sống thường ngày và
lệ thuộc trên những người khác với đại thành tựu Quả Phật và v.v… Cho nên chính
là qua những đồng loại của chúng ta, lệ thuộc trên họ mà chúng ta thành tựu bất
cứ thứ gì. Bây giờ vấn nạn với những ai chỉ mưu cầu để giải thoát họ khỏi vòng
sanh tử luân hồi cho chính họ là vì phương tiện động cơ thấp và nhỏ của họ mà họ
quên lãng những chúng sanh đồng loại của họ. Vì vậy họ đang rơi vào một sự an
bình vị kỷ, đơn độc. Do thế, như nói rằng những chúng sanh ngây ngô - những người
chưa trưởng thành giống như trẻ con - đang mưu cầu lợi ích cho chính họ bằng việc
đặt họ lên trước nhất, nhưng thật sự gây ra nhiều khổ đau hơn, trái lại những bậc
như Đức Phật đưa người khác lên trước và hành động vì lợi ích của họ, và kết quả
đây là sự thành tựu Quả Phật. Cho nên đây là cung cách chính yếu mà hành giả
rèn luyện trong việc phát triển lòng vị tha cho người khác.
Vậy thì nguyện vọng kia là gì -- nguyện vọng cho sự Giác
Ngộ của chính chúng ta? Như Dajen Gyeba
Singjai, học giả Ấn Độ - một đệ tử quan trọng của Long Thọ -- nói, Giác Ngộ
không phải là điều gì đó được ban cho từ bên ngoài. Những nguyên nhân cho Giác
Ngộ không phải sở hữu bởi người nào khác. Đúng hơn chính những nhân tố làm cho
Giác Ngộ khả dĩ được hàm chứa trong tự thân -- đây là biểu hiện tính bản nhiên sáng rở và nhận thức
của tâm, và chúng ta cần biểu hiện điều này tự thân và, do thế, biểu hiện sự
Giác Ngộ tự thân. Như chính Long Thọ nói, qua việc tiêu trừ nghiệp ô nhiễm, những
hành vi ô nhiễm và những cảm xúc phiền não, cho nên có sự giải thoát. Vậy thì
những hành vi ô nhiễm và cảm xúc phiền não là gì? Những hành vi ô nhiễm được cảm
sinh bởi những cảm xúc phiền não. Những
cảm xúc phiền não được cảm sinh bởi những hành vi tinh thần không thích đáng. Hành
vi tinh thần không thích đáng được cảm sinh bởi sự dàn dựng của khái niệm tồn tại
cố hữu. Những sự dàn dựng của khái niệm tồn tại cố hữu được tiêu trừ qua tánh
không -- nghĩa là qua thực chứng tánh không. Một hình thức khác của dòng cuối
cùng nói sự dàn dựng của khái niệm tồn tại cố hữu được tiêu trừ trong tánh
không. (Điều này có nghĩa là trong không gian của thực tại tánh không, tánh
không của sự tồn tại cố hữu). Vậy thì qua thiền quán về tánh không hành giả có
thể làm chấm dứt sự dàn dựng của khái niệm tồn tại cố hữu như thế nào? Nhằm để
thấu hiểu điều này, hành giả cần có sự lãnh hội về hai chân lý và bốn sự thật.
Bốn sự thật, hay Bốn Chân Lý Cao Quý mà Đức Phật thiết lập ban đầu là rất căn bản
cho toàn bộ giáo lý của Ngài.
Trong Đại Thừa có
sự đề cập của ba phương diện giáo huấn của Đức Phật được gọi là chuyển bánh xe
giáo lý, thứ nhất là giáo huấn Bốn Chân Lý Cao Quý mà tôi vừa đề cập. Giáo lý
giữa mở rộng Chân Lý thứ ba, sự Ngừng Dứt Chân Thật, diệt đế, và giải thích một
cách chi tiết về diệt đế. Giáo lý cuối cùng mở rộng trên Bốn Chân Lý Cao Quý,
Con Đường Chân Thật và cũng mở rộng Chân lý thứ ba của Bốn Chân Lý Cao Quý. Vì
vậy có hai chức năng này nói nhiều hơn về sự Ngừng Dứt Chân thật, diệt đế, và
nói nhiều hơn về Con Đường, đạo đế. Liên hệ đến Con Đường, nó nói về tánh
không. Thật cần thiết để biết sự trình bày về những khuyết điểm của những cảm
xúc phiền não, … trong chi tiết vi tế.
Tất cả bốn trường
phái của Phật Giáo Tây Tạng đồng ý rằng vô minh là căn bản mà từ đó tất cả những
cảm xúc phiền não khác được sản sinh. Nhưng bốn trường phái trình bày trong những
ý kiến chi tiết khác biệt rất lớn chỉ về vấn đề vô minh là gì, và những ý kiến
này cần được biết. Thế nên, thật cần thiết để biết một cách chi tiết vô minh là
gì mà nó phục vụ như gốc rể của những cảm xúc phiền não khác. Thật không đủ nếu
chỉ nghĩ, "Ô, vô minh là gốc rể của những cảm xúc phiền não." Chúng
ta cần biết và xác định rõ ràng vô minh là gì. Để có một sự thấu hiểu rõ ràng về
vấn đề vô minh là gì, thật quan trọng để có một ý tưởng về vấn đề mọi hiện tượng
thật sự tồn tại như thế nào. Chúng ta không thể chỉ hài lòng với vấn đề mọi thứ
xuất hiện như thế nào; đúng hơn, chúng ta cần có một ý tưởng về vấn đề chúng thật
sự tồn tại như thế nào. Và khi chúng ta có một ý tưởng gì đó về vấn đề mọi thứ
thật tồn tại như thế nào, rồi thì chúng ta mới có thể thấu hiểu rằng vô minh là
một vấn đề của việc nhận thức các hiện
tượng tồn tại trong một cách đối nghịch với cách chúng thật sự là. Do thế, thật
rất quan trọng để phác họa vấn đề các hiện tượng thật sự tồn tại như thế nào.
Vì vậy trong những hệ thống giáo lý Đại Thừa, có hệ thống Duy Thức và Trung Đạo.
Trong hệ thống Duy Thức, một loại lý trí được sử dụng để phân tích các hiện tượng
xuất hiện là những đối tượng ngoại tại và qua lý trí đó để quyết định rằng những đối tượng xuất hiện ngoại tại này
thật sự không phải được làm nên bởi những khối cấu trúc của những phần tử ngoại
tại; đúng hơn, chúng là những sự xuất hiện từ trong thực thể của thức nội tại.
Vì vậy, họ chấp rằng cung cách mọi hiện tượng thật sự tồn tại là giống như cùng
thực thể như tâm nội tại, rằng chúng không tồn tại như chúng xuất hiện -- như
những đối tượng ngoại tại. Vì vậy hệ thống Duy Thức thiết lập tánh không của sự
khác biệt của thực thể chủ thể và đối tượng.
Bây giờ, Nguyệt Xứng,
tên của người đề xuất trường phái Trung Đạo, trả lời họ bằng cách nói giống như
bạn thẩm tra với lý trí để khảo sát những đối tượng ngoại tại, thay vì vậy
chúng ta nên thẩm tra và khảo sát tính bản nhiên của tâm, và rằng dưới sự phân
tích như vậy chúng ta cũng sẽ không tìm ra một tâm nào đó tồn tại một cách cụ
thể. Vì thế, cả những đối tượng nội tại và đối tượng ngoại tại là tương tự nhau
trong ấy khi chúng được phân tích trong một cách như vậy thì chúng sẽ không được
tìm thấy, nhưng điều này không có nghĩa là chúng không tồn tại. Vì vậy Nguyệt Xứng
thừa nhận những đối tượng ngoại tại.
Thứ không tìm ra
được là điều gì qua truy tầm phân tích biểu thị? Nó biểu thị rằng những hiện tượng
không tồn tại một cách chủ quan trong tự chúng. Vậy thì các hiện tượng, được
nói là chủ thể và đối tượng, tồn tại một cách thật sự như thế nào? Chúng tồn tại
một cách quy ước, một cách mệnh danh. Nguồn gốc của tư thế này là ở trong những
tác phẩm của Long Thọ, người nói rằng bất cứ thứ gì duyên sanh thì nhất định trống
rỗng và không có hiện tượng nào không là
một sự duyên sanh. Và mọi thứ được đặt trong sự lệ thuộc trên những nhân tố
khác. Bởi vì các hiện tượng là quy ước trong sự lệ thuộc vào những nhân tố khác
cho nên không tồn tại hay cũng không có sự tồn tại cố hữu, mà đúng hơn là chúng
tồn tại trong một cách trung đạo, và đây là con đường Trung Đạo. Vì vậy, mô thức
tồn tại thật sự của các hiện tượng, cung cách thật sự mà các hiện tượng tồn tại,
mô thức chân thật của sự tồn tại là chúng tồn tại một cách quy ước; chúng tồn tại
một cách lệ thuộc và mệnh danh.
Tuy nhiên, những
hiện tượng mà chúng ta kinh nghiệm một cách nội tại và những hiện tượng mà
chúng ta trải nghiệm, chúng ta phải thừa nhận rằng không xuất hiện để tồn tại một
cách quy ước; chúng xuất hiện để tồn tại từ chính phía của chúng, trong chính
chúng. Bên trong tâm thức chúng ta, chúng ta có một cảm giác mạnh mẽ rằng những
hiện tượng nội tại và những hiện tượng ngoại tại này thật sự tồn tại như cách
mà chúng xuất hiện. Bây giờ điều này là điều được gọi là nhận thức sai lầm về sự
tồn tại cố hữu hay nhận thức sai lầm về sự tồn tại chân thật. Vì thế, chúng ta
nên quán chiếu hay phản chiếu trên sự kiện rằng nó là ở trong sự lãnh hội sai lầm
mà chúng ta đang phát sinh những cảm xúc phiền não và đang bị lôi cuốn vào trong
những hành vi ô nhiễm, tự thân và người khác xuất hiện tồn tại một cách cố hữu,
trái lại chúng không như thế, nhưng chúng ta đi hoàn toàn với sự xuất hiện của
tự thân và người khác như tồn tại trong tự chính chúng và trong sự lệ thuộc
trên ấy mà phát sinh những cảm xúc phiền não mà tự chúng gây ra những nghiệp cảm
nhiễm ô.
Vậy thì vô minh
là gì mà chúng ta cứ nói về nó? Nó là sự
tán thành đối với hiện tướng của mọi thứ trong môi trường giống như chúng tồn tại
như chúng xuất hiện, rồi cũng thế, chúng xuất hiện thế nào. Đó là vô minh và loại
tán thành hiện tướng sai lạc này giống như các đối tượng tồn tại trong chính
chúng gây ra tham dục và thù hận. Sự tham dục và thù hận đó tiếp theo gây ra những
hành vi nhiễm ô. Vì vậy, vô minh đang tán thành hiện tướng của những đối tượng
như tồn tại cố hữu không có một nền tảng vững chắc, không có một nền tảng được
chứng nhận bởi nhận thức có căn cứ; trái lại việc nhận ra rằng các đối tượng
không tồn tại trong cách này thật có một sự thừa nhận bởi nhận thức có căn cứ.
Vì vậy, căn bản, nền tảng của vô minh không vững chắc, bất chấp nó mạnh mẽ như
thế nào qua thời gian, nền tảng của nó không vững chắc; trái lại nền tảng của
tuệ giác là vững chắc. Chính là ở trong ý nghĩa này mà những nhiễm ô có thể được
loại trừ. Và vì thế tuệ giác hành động như một nhân tố chống lại vô minh. Và chính
là bằng cách thực tiển này mà tuệ giác thực chứng vô ngã, sự vắng mặt của sự tồn
tại cố hữu, là một phẩm chất của tâm thức, cũng có thể nói nó là một phẩm chất
lệ thuộc vào tính bản nhiên sáng suốt và hiểu biết của tâm thức được nói là ổn
định. Vì nó là ổn định, cho nên nó có thể quen thuộc với sự trong sáng ngày
càng lớn mạnh hơn. Đây là cách mà bạn có thể nghĩ về dòng này, đã được đề cập trước đây, rằng những cảm
xúc phiền não lệ thuộc vào những việc dàn dựng nhận thức của sự tồn tại cố hữu
được làm cho chấm dứt bằng tánh không hay được làm cho ngừng lại trong tánh
không. Thế nên, sự thực chứng tánh không về sự tồn tại cố hữu là lý do tại sao
- sự thực chứng về bản chất thật sự của các hiện tượng - là lý do tại sao các
nhiễm ô có thể được loại trừ. Và một khi các nhiễm ô có thể được loại trừ, thế
thì sự giải thoát khỏi vòng luân hồi là có thể. Và cũng thế, những khuynh hướng
được thiết lập bởi nhận thức sai lầm rằng các hiện tượng tồn tại trong chính
chúng, những khuynh hướng này đã tạo ra những hiện tượng xuất hiện trong khía cạnh
sai lầm này và ngăn trở sự hiểu biết tất cả mọi hiện tượng, những khuynh hướng
này cũng thích hợp cho việc loại trừ và có thể được loại trừ. Vì tâm thức một
cách tự nhiên có bản chất hay tự nhiên là sáng suốt và hiểu biết, cho nên một
khi những chướng ngại này được tẩy trừ, sau đó tâm thức có thể biết mọi thứ. Vì
vậy, chúng ta có thể thông hiểu rằng sự Giác Ngộ tròn vẹn là có thể và cũng có
thể trong sự tương tục của chính chúng ta đạt được điều này. Và đây là vấn đề
làm sao, qua việc quán chiếu cách này, thì chúng ta có thể đạt được nguyện vọng
để thành tựu sự Giác Ngộ của chính chúng ta.
Rồi thì giống như
tự ta có thể tiêu trừ những nhiễm ô của chính chúng ta trong không gian của thực
tại qua thiền quán về tánh không và những chướng ngại khác vốn ngăn trở toàn
giác toàn tri, cho nên thật đúng với sự quan tâm đến mỗi một chúng sanh. Những nhiễm ô và chướng ngại của họ là thích hợp để
được loại trừ, và cũng vì thế họ cũng thích hợp để thành tựu Giác Ngộ vô thượng
như một Đức Phật. Vì thế với nguyện vọng đem về sự Giác Ngộ vô thượng của họ,
hành giả đã ở trong nguyện vọng đem đến sự Giác Ngộ của chính mình nhằm để hổ
trợ họ. Do thế, vấn đề sự Giác Ngộ của chính bạn có thể phục vụ như một nhân tố
cống hiến sự Giác Ngộ của người khác như thế nào? Như được nói rằng một Đức Phật
không rửa sạch những hành vi nghiệp báo của người khác bằng nước. Một Đức Phật
không ban cho người khác sự chứng ngộ của Đức Phật. Nhưng đó là bằng phương
pháp giảng dạy đến người khác những phẩm chất của con đường mà Đức Phật đã phát
triển bằng kinh nghiệm nên một Đức Phật có thể hổ trợ người khác thành tựu Giác
Ngộ. Vậy nên, đây là tiến trình mà qua đó hành giả phát triển một xu hướng vị
tha để trở thành Giác Ngộ -- Bodhicitta, tâm bồ đề, Tâm Giác Ngộ, được mở ra với
hai nguyện vọng, nguyện vọng đem lợi lạc cho người khác và nguyện vọng đem về sự
Giác Ngộ cho chính mình.
Do vậy bây giờ những
gì bạn sẽ làm ở đây hôm nay là với thông tin của một sự thông hiểu về hai loại
nguyện vọng này -- nguyện vọng vì lợi ích của người khác và nguyện vọng với sự
Giác Ngộ của chính mình -- bạn phải nhất tâm tập trung vào việc thành tựu hai
điều này và phát triển nguyện ước thành tựu sự Giác Ngộ vị tha này. Và rồi thì
để nghĩ về điều đó -- thực hiện quyết định đó -- trong mọi hoàn cảnh và trong mọi
thời gian tôi sẽ không từ bỏ thái độ này, và tôi sẽ thực hiện điều này bằng việc
phát triển xa hơn và xa hơn sự quen thuộc với những tiến trình của lòng vị tha.
Và vì thế, hôm nay, nếu có người nào đó quen thuộc với loại thực hành này, thì
bạn cũng có thể phát triển một mục tiêu không bao giờ để nó trôi qua.
Vậy thì, trước
tiên nhất, xin hãy trì tụng Bảy Điều Quán Nguyện ở phần thứ ba của trang thứ nhất.
Sau đó, trước tiên nhất quý vị nên quan tâm đến, căn cứ trên hình tượng của Đức
Phật trên tường, rằng Đức Phật thật sự hiện diện. Và quý vị nên quan tâm đến rằng
những bậc đại sĩ đã từng giảng dạy Đạo Phật ở Ấn Độ và Tây Tạng và v.v… cũng hiện
diện. Và rồi thì tưởng tượng ở chung quanh quý vị trải rộng chung quanh quý vị
là tất cả những chúng sanh. Và rồi nghĩ rằng tôi sẽ thành tựu những phẩm chất
thân thể, lời nói, và tinh thần cao quý
của Giác Ngộ vì lợi ích của việc mang đến sự hổ trợ và hạnh phúc cho tất cả
chúng sanh, và trong động cơ này, thái độ này, hãy trì tụng Bảy Điều Quán Nguyện.
Nói với tôi: Chư
Phật tử nên chấp tay lại:
Đến với tất cả
chư Phật xuyên qua ba thời
Đến Giáo huấn và
cộng đồng tâm linh
Tôi lạy xuống với
những hiện thân của thân tôi
Tương đương với số
lượng các nguyên tử trong một cõi Phật
Giống những Bồ
tát như Văn Thù Sư Lợi
Cúng dường đến những
Đấng Chiến Thắng
Nên tôi cũng cúng
dường đến Ngài, Đức Thế Tôn,
Ngài, Đấng Bảo Hộ
và con cháu Ngài.
Trong vòng luân hồi
vô thỉ này
Trong kiếp sống
này và trong những kiếp sống khác
Bị trói buộc bởi
những lỗi lầm của vô minh
Tôi đã dấn thân
không cần thiết vào những hành vi sai lạc.
Tôi khuyến khích
người khác phạm phải lỗi lầm
Và cũng tùy hỉ
trong những hành vi xấu của người khác
Đã thấu hiểu những
tội nghiệp của tôi
Tôi sám hối chúng
với những Đấng Bảo Hộ từ trái tim tôi.
Tôi hoan hỉ trong
những hành vi lợi ích cho chúng sanh
Và trong những đại
dương của đức độ
Làm gia tăng nguyện
vọng vị tha
Và đem hạnh phúc
cho tất cả chúng sanh.
Tôi chấp tay cầu
thỉnh
Chư Phật trong tất
cả mọi phương,
"Xin hãy thắp
lên ngọn đèn giáo huấn
Cho chúng sanh khổ
đau trong đêm tối mê mờ."
Tôi chấp tay khẩn
nguyện,
Đến chư Phật nguyện
cho Niết bàn tối hậu,
"Xin ở lại
trong vô số kiếp bất tận;
Đừng rời chúng
sanh trong sự đui mù này."
Tôi đã hành động tất cả những điều này trong cách
này
Và tích lũy đạo đức;
Nguyện nó loại trừ
Tất cả những khổ
đau
Của tất cả chúng
sanh.
Những gì quý vị vừa
trì tụng -- "Bảy Điều Quán Nguyện" -- được trích ra từ Hướng Dẫn Lối
Sống của Bồ tát của Tịch Thiên. Sau đó, với việc quan tâm đến sự hướng tâm thức
trực tiếp đến Giác Ngộ, hai đoạn kệ đầu giống như những dòng kệ xuất hiện trong
nhiều luận điển khác nhau. Và đoạn kệ thứ
ba là một bài kệ trong Hướng Dẫn Lối Sống Bồ tát của Tịch Thiên. Cho nên hãy
trì tụng ba đoạn kệ này một cách từ từ và cẩn thận suy nghĩ một cách thận trọng
về hai nguyện vọng: vì lợi ích của người khác và vì sự thành tựu Giác Ngộ của tự
thân nhằm để mang lợi ích đến cho người khác. Và hãy nghĩ rằng tôi sẽ không để
thái độ này thoái hóa. Và những ai trong quý vị sẽ làm điều này, xin hãy quỳ xuống.
Không cần thiết phải quỳ xuống cả hai đầu gối - quý vị có thể có gối bên phải
quỳ xuống và gối trái thẳng, và những ai có sự khó khăn với đôi chân của họ thì
ngoại lệ.
Lập lại:
Với nguyện ước giải
thoát tất cả chúng sanh
Tôi sẽ luôn luôn
quy y
Phật, Pháp và
Tăng
Cho đến khi thành
tựu Giác Ngộ tròn vẹn
Được thúc đẩy bởi
tuệ giác và từ bi
Hôm nay trong sự
hiện diện của Đức Phật
Tôi nguyện phát
tâm giác ngộ
Vì lợi ích của tất
cả chúng sanh
Cho đến khi không
gian còn tồn tại
Cho đến khi chúng
sanh còn hiện hữu
Cho đến lúc ấy
tôi nguyện cũng sẽ hiện diện
Để xua tan nổi
đau của trần thế.
Lần thứ hai:
Với nguyện ước giải
thoát tất cả chúng sanh
Tôi sẽ luôn luôn
quy y
Phật, Pháp và
Tăng
Cho đến khi thành
tựu Giác Ngộ tròn vẹn
Được thúc đẩy bởi
tuệ giác và từ bi
Hôm nay trong sự
hiện diện của Đức Phật
Tôi nguyện phát
tâm giác ngộ
Vì lợi ích của tất
cả chúng sanh
Cho đến khi không
gian còn tồn tại
Cho đến khi chúng
sanh còn hiện hữu
Cho đến lúc ấy
tôi nguyện cũng sẽ hiện diện
Để xua tan nổi
đau của trần thế.
Lần thứ ba:
Với nguyện ước giải
thoát tất cả chúng sanh
Tôi sẽ luôn luôn
quy y
Phật, Pháp và
Tăng
Cho đến khi thành
tựu Giác Ngộ tròn vẹn
Được thúc đẩy bởi
tuệ giác và từ bi
Hôm nay trong sự
hiện diện của Đức Phật
Tôi nguyện phát
tâm giác ngộ
Vì lợi ích của tất
cả chúng sanh
Cho đến khi không
gian còn tồn tại
Cho đến khi chúng
sanh còn hiện hữu
Cho đến lúc ấy
tôi nguyện cũng sẽ hiện diện
Để xua tan nổi
đau của trần thế.
Bây giờ ngồi xuống.
Lợi ích của việc
tiếp nhận điều này - của việc tham dự trong nghi thức phát lòng vị tha này để
trở thành Giác Ngộ là cực kỳ lợi ích. Không nhất thiết liên hệ với tất cả những
chí nguyện, v.v… của hệ thống mật ngôn. Điều này rất, rất năng lực.
(Bây giờ Đức
Thánh Thiện nói Anh ngữ - không cần sự thông dịch của Jeffrey Hopkins)
Đó là sự giảng dạy
của ngày hôm nay. Bất cứ khi nào tôi tiến hành sự thực tập này -- giáo huấn tâm
giác ngộ này -- tự tôi cũng luôn luôn cảm thấy, "Ô bây giờ, tôi đã làm tròn
một mục tiêu nào đấy." Không có một hiểm họa như vậy, do thế, tôi cảm thấy
nó là rất rất quan trọng, rất hữu ích. Thế nên đây là sự trì tụng, bất cứ khi
nào quý vị có thời gian, bất cứ khi nào tình cảm của quý vị là tốt lành, hãy
suy nghĩ và thiền quán về nó và làm nó
quen thuộc với quý vị. Hãy tiến hành bằng cách này, và rồi quý vị sẽ thấy, qua
năm tháng, tâm vị tha sẽ gia tăng mạnh mẽ -- cuối cùng nó sẽ trưởng thành. Do vậy
đó là cách thực hành. Cho nên chúng ta thực tập sự thực hành Bồ tát như vậy, chúng
ta không nên mong đợi những điều kỳ diệu có thể thành đạt trong một thời gian
ngắn. Không nên mong đợi điều đó. Theo kinh nghiệm của tôi, tôi cần -- như câu
cuối cùng, "Cho đến khi không gian còn hiện hữu, tôi sẽ hiện hữu." Loại
suy nghĩ thế đó thật sự cho chúng ta sức mạnh nội tại. Nếu sự tồn tại của quý vị
trở thành điều gì đó lợi ích cho người khác, thế thì thời gian là ở trong sự
quan tâm này. Bằng khác đi, rồi thì chúng ta nói, "tôi muốn thành tựu Quả
Phật nhằm để làm lợi ích cho người khác, nhưng tôi muốn đạt đến Quả Phật trong
ba năm hay sáu năm hay chín năm," tôi nghĩ như vậy là không hợp lý, vô
nghĩa. Tôi nghĩ loại thái độ như vậy là nguy hiểm. Cho nên quý vị thấy, Kinh Thừa
Hiển Giáo giải thích là đếm vô số kiếp, vô số kiếp. Như vậy là rất hữu ích. Thế
đó sẽ giúp chúng ta có một quyết tâm và ý chí. Vì thế hãy nghĩ thêm về vấn đề
vô số kiếp hơn là tính giờ, hay tuần hay tháng.
Một vấn đề khác,
trong việc đi theo bất cứ tôn giáo nào, chúng ta nên thực hành một cách chân
thành. Tất cả những giáo huấn phải nên là bộ phận trong đời sống hàng ngày của
chúng ta. Điều đó rất quan trọng. Nếu niềm tin hay giáo lý vẫn chỉ đơn thuần là
tri thức, như vậy sẽ không có ích gì. Chắc chắn giáo huấn phải nên là bộ phận của
đời sống hàng ngày của chúng ta. Để được như vậy chúng ta cần nổ lực liên tục. Không
thể có những điều kỳ diệu gì đó xảy ra như một loại gia hộ ngoài sự nổ lực của
chúng ta. Như vậy là không thể. Thế đó, tôi nghĩ, mình tự đánh lừa mình. Cho
nên phải thực tiển và thực tập với cố gắng, với sự quyết tâm và với sự kiên nhẫn.
Thế đó là quan trọng. Và rồi, như những người Phật tử, chúng ta phải là những
gương mẫu tốt của môn nhân của Đức Phật. Và rồi cuối cùng, chúng ta có thể nói
-- không phải trong ý nghĩa tuyên truyền Phật Pháp -- tôi luôn luôn rất cảnh
giác về điều đó -- nhưng cùng lúc nhằm để phục vụ người khác -- nhằm để giúp đở người khác -- trước nhất tự ta phải là một người dễ thương. Như vậy là quan trọng.
Cảm ơn rất nhiều.
Ẩn Tâm Lộ,
Thursday, December 24, 2015