Năm
người lính biệt kích hình thành một cái bia che chắn chung quanh Đức Đạt Lai Lạt
Ma khi ngài cất bước lên con đường dốc đến đỉnh Linh Thứu, một trong những địa
điểm hành hương quan trọng của những người Phật tử. Những người lính này là
thành viên của một đơn vị ưu tú trong quân đội Ấn Độ, ăn mặc toàn đen: sơ mi cô
tông tay dài, khăn quấn đầu tua buông xuống, và quần bó sát chân. Mỗi người có
một khăn choàng thứ hai quấn ngang mặt chỉ thấy đôi mắt. Tất cả mang súng tự động.
Hai trong số ấy, đặc biệt được huấn luyện bắn tỉa, có một súng trường đeo lủng lẳng
trên vai. Ngay cả không có vũ khí, những người đàn ông vai rộng thật ấn tượng
khi nhìn; mỗi người cao hơn sáu bộ và rõ ràng vô cùng thích hợp.
Thêm
những binh sĩ nữa, mặc đồ kaki và mũ bê rê xanh, đi theo sau. Tôi chưa bao giờ
thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma được bảo vệ vô cùng cẩn thận như vậy ở Ấn Độ. Đây quả
là một sự kiện hiếm hoi khi lãnh tụ Tây Tạng hành hương ở một vùng hẻo lánh như vậy ở Bihar, một tiểu bang nghèo
nhất và bất ổn của đất nước; nhà chức trách không có lựa chọn nào khác đối với cơ
hội này.
Đức
Đạt Lai Lạt Ma leo lên một cách chậm chạp nhưng vững vàng, dựa cẩn thận vào cây
gậy đi bộ được làm từ một cành cây gầy còm. Thỉnh thoảng ngài nói chuyện với những
người hộ tống Ấn Độ, nhưng phần nhiều ngài im lặng. Được một phần tư đường,
ngài cởi tấm y đỏ bên ngoài và đưa cho Buchung, thị giả của ngài xếp lại cẩn thận và để vào ba lô. Đến một
chỗ, Đức Đạt Lai Lạt Ma bước ra khỏi đường và nhìn vào một động thiền nhỏ đục
vào bên trong đồi. Một đệ tử của Đức Phật đã hành thiền trong ấy hai nghìn năm
trăm năm trước. (Trên đường lên đỉnh Linh
Thứu có hai động nhỏ tương truyền là của ngài Xá Lợi Phất và A Nan).
Đỉnh
núi Linh Thứu là một khoảnh nhỏ bằng phẳng vây quanh bởi những tảng đá trồi lên
ba phía. Phía thứ tư, là sườn dốc lưỡi đao cheo leo thấp dần xuống một thung
lũng. Một hàng rào gạch, xây ngang đến thắt lưng chiếm lĩnh vùng bằng phẳng.
Nhiều ngọn nến cúng dường đã được đặt trên mặt những bức tường thấp.
Sau
khi lễ phủ phục, Đức Đạt Lai Lạt Ma bước đến cạnh sườn núi và nhìn xuống thung
lũng Rajgir, cách Đạo Tràng Giác Ngộ ba giờ lái xe. Một con đường bụi đỏ chia
đôi vùng đất nông trại xanh tươi, đưa thẳng đến những ngọn núi cao bao quanh
thung lũng. Khung cảnh tuyệt đẹp. Nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma không nán lại nơi ấy.
Tâm tư ngài đang cầu nguyện - kinh tuệ giác giải thích về khái niệm tánh không
- tâm kinh bát nhã - mà ngài đã đến để trì tụng. Chính tại nơi này, hai nghìn
năm trăm năm trước, Đức Phật đã giảng giải giáo lý tánh không, một ý tưởng trọng
tâm của tri thức Phật Giáo.
Trong
những cuộc gặp gở trước với tôi, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã giải thích rộng rãi những
khái niệm quan hệ với nhau của sự lệ thuộc hổ tương và tánh không - chúng là
hai mặt của đồng xu, hai cách khác biệt nhau để thấu hiểu cùng một ý tưởng. Đây
là những gì ngài đã nói với tôi: sự tồn tại của bất cứ thứ gì - cà phê, chiếc
ca, cảm giác ghen tỵ - hoàn toàn tùy thuộc vào một mạng lưới phức tạp của những
mối quan hệ. Do bởi điều này, nếu ta nghĩ về nó đúng mức, thì sẽ không có một
cách hợp lý nào cho những thứ này tồn tại một cách độc lập. Do thế, trong thuật
ngữ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, chúng được nói là trống rỗng một đời sống của chính
chúng. Chúng không có sự tồn tại cố hữu, vô tự tánh. Nói cách khác, chúng là không. Ngài cũng nói với tôi rằng hiểu rõ giá trị những khái niệm này một cách
trọn vẹn, để siêu việt sự thấu hiểu trí năng đơn thuần, là một sự thực tập tâm
linh nghiêm mật liên hệ một thời gian dài của thiền tập là không thể thiếu được.
Trong
một cuộc phỏng vấn khác, tôi muốn biết Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đối diện với khái
niệm tánh không lần đầu tiên như thế nào và tiếp theo đấy nó đã chiếm lĩnh tầm
quan trọng then chốt trong đời của ngài như thế nào.
"Tánh
không không phải là một vấn đề dễ dàng để hiểu," Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với
tôi. "Nhưng một khi tôi đã phát triển một sự thấu hiểu nào đó, một tuệ
giác trực tiếp nào đó, sau đó tôi nhận
ra rằng nó có thể ứng dụng được vào hầu hết mọi kinh nghiệm, mọi hoàn cảnh."
Ngài
hướng sang Lhakdor và nói Tạng ngữ. "Đã đạt được tri thức sâu hơn cùng với
tuổi tác, ảnh hưởng của tánh không với đời sống của ngài trở thành sâu sắc
hơn," Lhakdor thông dịch.
"Tôi
nghĩ khoảng hai mươi tuổi, thì tôi đã phát triển một sự thích thú chân thành với
tánh không," Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục, lúc lắc tới lui nhẹ nhàng trên
chiếc ghế của ngài. "Tôi nhớ một sự
kiện. Năm 1954, tôi dự Quốc Hội Nhân Dân ở Bắc Kinh. Có vài ngày rỗi rảnh, vì
thế tôi đã yêu cầu học về tánh không với vị giáo thọ kỳ cựu của tôi là Ling
Rinpoche. Đó là một dấu hiệu sự thích thú của tôi."
Đức
Đạt Lai Lạt Ma bổng im lặng, nhịp điệu lúc lắc dừng lại. Ngài ngồi thẳng và
nhìn chằm chằm vào khoảng không. Sau một lúc, ngài cào cào trên má ngài và bắt
đầu nói Tạng ngữ lại với Lhakdor, xoa
bóp nhẹ nhàng bàn tay phải ngài, trong một chuyển động tròn, chung quanh ngực
ngài. Lhakdor chồm tới trước, đôi mắt ông nhìn thẳng vào vị lãnh tụ Tây Tạng
khi ông thông dịch. "Vào cuối những năm hai mươi tuổi của Đức Thánh Thiện,
năm 1963, một ngày nọ khi ngài đang đọc một kinh luận Phật Giáo, tới một điểm
khi ngài ngang qua một dòng nói: 'Tôi' chỉ đơn thuần được mệnh danh cho tự ngã
của những uẩn vật chất (những tập hợp tinh thần và vật chất). Ngay khi đọc điều
đó, ngài có một cảm giác đặc biệt, một kinh nghiệm lạ kỳ." Giọng của
Lhakdor thì thầm khàn khàn, tôi phải cố gắng để nghe những lời ấy.
"Kinh
nghiệm lạ kỳ ấy tồn tại bao lâu?" tôi
hỏi.
"Cảm
giác ấy tồn tại, tôi nghĩ, vài tuần, có lẻ," Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời.
Ngài nói thêm với Lhakdor. Những nếp nhăn trên chân mày ngài sáng lên; ngài
nhìn chằm chằm vào sàn nhà trước mặt ngài và làm điệu bộ như quét thảm. Có một
cái nhìn lạ thường trên khuôn mặt ngài.
"Trong
thời gian ấy," Lhakdor thông dịch, "bất cứ khi nào ngài thấy con người,
sự vật … thảm, thí dụ, ngài thấy chúng như thảm và con người, nhưng cùng lúc,
ngài chú ý rằng tất cả không có bản chất. Ngài có cảm nhận rõ ràng rằng không
có cái 'tôi'. Không phải trong bản chất rằng cái 'tôi' không tồn tại, nhưng một
cảm giác nào đó về không có cái 'tôi' như chúng ta hiểu nó."
"Sự
vắng mặt của thực tại cứng nhắc," Đức Đạt Lai Lạt Ma nói một cách nhấn mạnh.
Ngài đưa cả hai tay lên ngực và nắm chúng lại thành những nắm đấm chặc chẽ.
"Ngài
có bất cứ viễn tượng nào không?" tôi hỏi ướm thử, không chắc là trí tuệ có
trong câu hỏi này không. Tôi vừa nhận ra rằng cuộc đối thoại đã chuyển theo một
chiều hướng không ngờ tới. Đức Đạt Lai Lạt Ma đang nói cho tôi nghe điều gì đó
rất cá nhân, điều gì có lẻ chỉ có một số người đếm trên đầu ngón tay nghe mà
thôi.
"Không,"
ngài trả lời.
"Nhưng
có kinh nghiệm này của cái không 'tôi'," tôi nói.
"Vâng."
Đức
Đạt Lai Lạt Ma lại một lần nữa nói trực tiếp với Lhakdor. "Thể chất mà
nói, có điều gì đó như ánh sáng lóe lên qua trái tim ngài," Lhakdor thông
dịch. "Ngài kinh nghiệm điều gì đó như một cú sốc điện."
Tôi
có cảm giác không thoải mái như tôi đang nghe trộm. Những thực chứng tâm linh
là các kinh nghiệm mật thiết, cá nhân đối với một Phật tử, và đây là lần đầu
tiên tôi mới nghe một hành giả nghiêm khắc nói về chúng. Nhưng tôi cần xác chứng
những gì tôi mới vừa nghe. "Một cú sốc điện đi qua thân thể ngài?"
tôi hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma.
"Vâng,"
ngài trả lời. Ngài đang nhìn tôi một cách gần gũi, đôi bàn tay ngài bây giờ để
trên đùi.
Tôi
nghe một tiếng lách cách, một tiếng động dường như đến từ một nơi xa. Rồi thì
tôi nhận ra rằng băng thu thanh của tôi đã ngừng, hết băng. Tôi giữ đôi mắt tôi
không thay đổi với Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi không tin tưởng khả năng tôi để gắn
vào một băng mới từ trong túi của tôi. Tôi sẽ có một băng copy cuộc phỏng vấn từ
Lhakdor.
"Trong
vài tuần lễ ấy, ngài thấy các đối tượng như không có bản chất, không có thực thể?"
tôi hỏi. Đức Đạt Lai Lạt Ma ngồi rất ngay ngắn trên ghế, gương mặt ngài điềm
tĩnh. Trong tôi ngài rất giống một Đức Phật vào lúc ấy. Tôi không thể không cảm
thấy kinh ngạc bởi sự hiện diện của
ngài.
"Vâng.
Nếu tôi có nghĩ về vô ngã, không cái
'tôi'," ngài giải thích, "thế thì trong giây phút ấy, giống như hình ảnh.
Tôi nghĩ đơn giản là xem TV hay một bộ phim. Một cách đặc biệt như là xem một bộ
phim. Một cách để xem phim: cảm giác điều gì đó thật sự đang diễn ra trong đấy.
Nhưng cùng lúc, trong khi mắt ông nhìn đấy, nhưng tâm tư ông biết đây chỉ đơn
thuần là hình ảnh - hành động, không thật. Cho nên việc thấy cùng hình ảnh: một,
không thấu hiểu đây là hành động; một cái khác: thấy nhưng vẫn cảm thấy đây là
hành động."
Đức
Đạt Lai Lạt Ma nói với tôi rằng cách thấy của ngài đã thay đổi sau kinh nghiệm lạ
lùng của năm 1963. Ngài đã thấy rằng mọi vật bây giờ xuất hiện có hai mặt. Một
là cụ thể cứng nhắc, thật sự, có thể chạm đến được, loại sự vật chúng ta chạm
trán hàng ngày - tủ lạnh, sân hận, hàng xóm. Thứ hai là bản chất không thật tiềm
ẩn của mọi vật - mọi vật giống như một cuộc trưng bày hình ảnh - bản chất của
chúng không có gì nhưng lập lòe những ảo ảnh hào nhoáng trên một màn ảnh rộng.
Sự tồn tại của chúng, được đặc trưng bởi sự thay đổi liên tục và nhất thời, lệ
thuộc trên một mạng lưới của những mối quan hệ. Mọi vật - tủ lạnh, sân hận,
hàng xóm - có thể được quán sát trong hai nhận thức này.
Ảnh
hưởng của sự kiện năm 1963 vẫn còn với ngài, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với tôi. Khi tiếp
tục với sự thực tập của ngài và hành thiền trên căn bản hàng ngày, tuệ giác của
ngài xảy ra thường xuyên hơn. Bất cứ khi
nào tư tưởng về ''tự ngã'' hay cái ''tôi'' nổi dậy trong tâm, thì có lẻ nó được
đồng hành với một cảm giác về tánh không, của "không tôi".
"Trước
đây," Đức Đạt Lai Lạt Ma nói, "ngoại trừ tôi nghĩ một cách nghiêm khắc
và liên tục tối thiểu vài phút, bằng không thì khó để có một loại cảm giác như
thế. Bây giờ, ngay khi tôi nghĩ về tánh không, hình ảnh trở nên khác biệt một
cách rõ ràng."
"Có
phải đây là một sự thực chứng mạnh mẽ hơn về tánh không?" tôi hỏi.
"Vâng,"
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói. Rồi thì ngài nhanh chóng trở lại: "Tánh không … tôi
không biết." Tôi có cảm giác rằng ngài muốn thật cẩn thận về điều này.
"Có
quan trọng gì trong việc thấy điều không thể nắm được trong mọi vật? Điều này sẽ
làm gì với đời sống của ngài?" tôi hỏi.
Đức
Đạt Lai Lạt Ma nói với Lhakdor.
"Thông
thường, chúng ta có xu hướng thấy mọi vật trong một cách cụ thể cứng nhắc rõ
ràng," Lhakdor thông dịch. "Do thế, có một xu hướng chấp trước vào mọi
vật, trở thành dính mắc với mọi vật. Chúng ta bám víu vào ý tưởng của một tự
ngã riêng biệt và mọi vật riêng biệt. Chúng ta phấn đấu cho những kinh nghiệm mới,
những thành tựu mới. Tuy thế, ngay khi chúng ta sở hữu chúng, tình trạng kích
thích biến mất, và chúng ta tìm kiếm cho một điều mới gì đó. Vòng lẩn quẩn bất
tận này của tham muốn đem đến khổ đau.
"Trong
trường hợp của Đức Thánh Thiện thái độ chấp trước không sinh khởi. Đây là bởi
vì 'tự ngã', mong ước, tham muốn, hay những đồng hồ Rolex được nhận thức một
cách rốt ráo bởi ngài như vô thường, thay đổi, khó nắm bắt. Trống không. Giống
như ảo ảnh, chúng không hoàn toàn thật. Không có cách nào để ông thật sự bám lấy
chúng. Do vậy, không có điểm nào để thèm thuồng chúng. Nếu chúng ta có được sự
thông hiểu về tánh không, thì tham dục, nguồn gốc của khổ đau, bị giảm thiểu."
Đức
Đạt Lai Lạt Ma quay sang nói Tạng ngữ một lần nữa. Điều gì đó thọc lét trong
xương tủy tiếu lâm của ngài. Ngài bắt đầu chuyển sang một đợt hứng thú cười
toàn thân, lúc lắc đầu ngài từ phía này sang phía nọ. Gương mặt ngài nhăn nhúm
với niềm vui đến nổi không thấy được đôi mắt ngài.
"Đức
Thánh Thiện nói rằng ngài đang khoe khoang. Và ngài nói điều này được gọi là một
kẻ ngu ngơ cố gắng để lừa phỉnh người khác. Lhakdor nói với một nụ cười mĩm
phình toàn gương mặt.
Nhìn
lướt tập giấy mà tôi ghi vội xuống, cuộc phỏng vấn đã bước sang một chiều hướng
mà tôi không ngờ. Một tư tưởng nẩy lên trong tâm tôi, và tôi hỏi Đức Đạt Lai Lạt
Ma: "Ngài có bao giờ nói với bất cứ người nào về sự thành tựu tâm linh của
ngài không?''
"Vào
những năm đầu của thập niên bảy mươi," ngài trả lời, "tôi đã nói với
Ling Rinpoche, gần như là một báo cáo, về sự thấu hiểu của tôi về tánh không, rồi
thì ngài .. " Đức Đạt Lai Lạt Ma chuyển sang nói Tạng ngữ với Lhakdor.
"Ling
Rinpoche bình luận rằng không bao lâu Đức Thánh Thiện sẽ trở thành một hành giả
du già không gian," Lhakdor thông dịch. "Hành giả du già không gian
là một hành giả thực chứng không gian tánh không, người thành tựu sự Giác Ngộ
trọng yếu."
"Ngài
đã thâm nhập vào thể trạng ấy rồi chứ?" tôi hỏi một cách thận trọng.
"Tôi
không biết," Đức Đạt Lai Lạt Ma nói. Tôi chú ý rằng ngài dường như đang vặn
nhẹ những ngón tay cái của ngài, nhưng sau một giây tôi nhận ra rằng bàn tay
ngài, để thoải mái trên đùi ngài, đang nhẹ nhàng lần chuỗi hạt tưởng tượng.
Ngài lại nói với Lhakdor.
"Trong
mọi thời ngài tu tập tiến triển," Lhakdor thông dịch. "Đức Thánh Thiện
hoàn toàn xác thực một điều . Nếu Ling Rinpoche còn tại thế, và Đức Thánh Thiện
thưa với ngài về sự thành tựu tâm linh, Ling Rinpoche chắc chắn sẽ vui
lòng."
"Có
một lý do tại sao Đức Thánh Thiện giải thích tất cả những điều này cho
ông," Lhakdor nói, một cách tự nhiên. "Thông thường hoàn toàn không
thích đáng để nói về những thứ
này."
"Đúng
đấy, đúng đấy. Do thế, bất cứ khi nào tôi giải thích điều gì đó về những kinh
nghiệm của tôi về từ bi và sự thông hiểu của tôi về tánh không, tôi luôn luôn
làm rõ ràng …" Đức Đạt Lai Lạt Ma nói. Ngài chuyển sang Tạng ngữ và nói trực
tiếp với Lhakdor.
"Đức
Đạt Lai Lạt Ma đôi khi nói về những sự phát triển tâm linh của ngài để tạo cảm
hứng cho người khác." Lhakdor thông dịch, "nhưng ngài luôn luôn kết
luận bằng việc nói rằng: 'tôi không nói tôi là một vị Bồ tát; tôi không nói tôi
thực chứng tánh không.' Đức Thánh Thiện cũng làm điều này: theo kinh nghiệm của
riêng ngài, ngài nhận thấy rằng mỗi người luôn luôn có thể tu tập tiến bộ. Do vậy,
ngài nói với thính chúng của ngài rằng: 'Trong trường hợp của riêng tôi cũng thế,
mặc dù tôi không phải là một vị Bồ tát, chưa trau dồi Tâm Giác Ngộ - lòng vị
tha vô hạn - nhưng tôi giống như một người nào đó có thể thấy đỉnh của ngọn
núi.' ''
Đức
Đạt Lai Lạt Ma chen vào. "Chưa đến đỉnh, nhưng bây giờ tôi có cảm giác rằng
- ô, tôi có thể đến đấy," ngài nói và véo vào mũi ngài.
"Ngài
ngửi thấy nó," tôi gợi ý.
Bóng
râm đã trải dài trên hành lang dễ thương bên ngoài. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhìn vào
đồng hồ ngài và nói với tôi, "Bây giờ, năm phút nữa." Tôi đã ở bên cạnh
ngài gần hai giờ đồng hồ, nhưng tôi cảm thấy một sự hoảng hốt nhẹ nhàng len lõi
trong tâm. Tôi vẫn còn một trang và chừng ấy câu hỏi. Khi tôi xem xét đến câu hỏi
tiếp, Lhakdor quay sang và nói với tôi: "Luôn luôn có một hiểm họa trong
việc nói đến những thứ như việc phát triển tâm linh."
"Hiểm
họa?" Tôi lúng túng. Tôi cũng ngạc nhiên rằng Lhakdor đã tự nêu lên sự cảnh
báo này, trong sự hiện diện của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Thường thường thói quen của
ông là giữ im lặng ngoại trừ ông được kêu gọi để thông dịch
"Nếu
ông nói ông đã thực chứng tánh không, trong khi thực tế ông chưa đạt đến thể trạng
ấy," Lhakdor giải thích.
"Hiểm
họa là điều này," Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích. "Mặc dù tôi không có
ý định ấy, trên căn bản tường trình của tôi, nhưng người nào đó tin rằng tôi đã
đạt đến thể trạng cao siêu nào đó. Nếu người ấy tin tưởng vì tín ngưỡng, có thể
cũng không sao. Nhưng nếu người ấy tin tưởng do bởi sự tường trình của tôi, và
rồi thì nếu tôi cảm thấy …" ngài dừng.
Lhakdor
hoàn tất tư tưởng của Đức Đạt Lai Lạt Ma. "Nếu Đức Thánh Thiện cảm thấy,
'Okay thôi, tốt thôi rằng ngài đã có một ý định [muốn cho người khác hiểu] như vậy,' thế thì như vậy là một hiểm họa."
"Cho
nên bây giờ thì có một động cơ vị kỷ Đức Đạt Lai Lạt Ma thêm vào.
Như
tôi ở vào những lúc khác, tôi bị ấn tượng bởi vấn đề Đức Đạt Lai Lạt Ma thẩm
tra động cơ của ngài trong mỗi hành động một cách không nao núng. Đó là một phản
xạ có điều kiện, nó xảy ra trong mỗi lần ngài mở miệng hay thực hiện một quyết
định nào.
"Dối
trá, dĩ nhiên, cho dù cư sĩ hay tu sĩ, mọi người, lừa lọc là một tội lỗi, tiêu
cực," Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục, với cường độ cao. "Nhưng tôi là một
tu sĩ, cụ túc giới. Nếu tôi nói với mọi người rằng tôi có một kinh nghiệm thực
chứng tâm linh sâu xa nào đó, và biết rằng tôi không có phẩm chất đó, sự dối
trá đó là một sự dối trá nghiêm trọng.
Nó làm cho phải bị lột y - không còn là tu sĩ nữa."
"Nó
không là một sự nói dối nho nhỏ nào đó; nó là một sự dối trá rất lớn, đặc biệt,"
Lhakdor thêm vào.
"Giống
như tà hạnh bất chính, giết người, trộm cắp. Rồi thì thì sự dối trá này,"Đức
Đạt Lai Lạt Ma nói.
"Bốn
thứ quan trọng," tôi nói
"Sau
đó không còn như một tu sĩ nữa. Do thế, nó nguy hiểm," Đức Đạt Lai Lạt Ma kết
luận.
Cuộc
đàm luận của chúng tôi kết thúc. Đức Đạt Lai Lạt Ma bước tới và ôm tôi. Sau khi
ngài rời phòng, tôi bắt đầu thu thập mọi thứ mà tôi đã vung vãi khắp bàn cà phê
- tập ghi chép, các xấp giấy của những loại câu hỏi, photocopy những chủ đề, băng
thu thanh. Lhakdor tới lui chung quanh và giúp tôi nhét những thứ ấy vào ba lô của
tôi. Chúng tôi không tán gẫu với nhau như thường lệ sau buổi phỏng vấn, tôi cảm
thấy kiệt sức, và Lhakdor cũng thế. Khi chúng tôi bước ra khỏi phòng tiếp kiến,
Lhakdor chạm nhẹ nhàng vào cùi chỏ tôi. Tôi quay lại nhìn ông. Gương mặt ông dường
như ôn hòa, một cái xúc chạm dễ thương.
"Ông
biết không, Victor," ông nói với tôi một cách lặng lẽ, "Tôi đã nghe Đức
Thánh Thiện nói tóm tắt về những đề tài này
trước đây rồi. Nhưng tôi chưa bao giờ nghe ngài chi tiết như thế, sâu xa như thế.
Những tu sĩ và lạt ma trong các tu viện không thể tin vào tai họ nếu họ nghe buổi
phỏng vấn đó." Đôi mắt ông nhìn sâu vào mắt tôi. "Họ sẽ được hứng thú
vô cùng, xúc động vô cùng, họ sẽ phát điên mất."
Ẩn
Tâm Lộ, Friday, December 11, 2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét