Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2019

TẬP TRUNG TÂM THỨC




Nguyên bản: Focusing the Mind
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển/Friday, March 22, 2019

-*-

Chúng ta hãy để một phút để ôn lại vấn đề tiến trình đối với một cuộc sống đầy đủ ý nghĩa hiển bày như thế nào. Trước nhất là đạo đức, rồi đến thiền định, rồi tuệ trí. Tuệ trí dựa trên thiền nhất tâm, và thiền định lệ thuộc vào sự tự giác về đạo đức. Trong 5 chương qua, chúng ta đã thảo luận về sự thực hành đạo đức, vốn làm chúng ta ổn định và an bình hơn và tâm thức ta đã sẳn sàng cho sự thăng tiến tâm linh hơn. Với một thói quen thái độ của ý thức, thiền định, còn được gọi là shamatha hay tam muội, có thể được hoàn thành. Tuy thế, tâm thức chúng ta quá tán loạn cho việc thực hành thiền hiệu quả tăng tiến vốn đòi hỏi sự tập trung hoàn toàn.  Thậm chí một tiếng động nhỏ ở đây hay kia có thể lập tức làm ta xao lãng. Vì tuyệt đối cần thiết làm cho tâm thức tập trung hơn vì thế tuệ trí mới có thể hiển bày. Tôi sẽ thảo luận trong chương này tiến trình của việc phát triển thể trạng tập trung một cách thậm thâm về thiền định. Trước tiên tôi sẽ diễn tả tóm tắt những loại hành thiền đa dạng vì thế chúng ta có thể thấu hiểu vị trí của thiền định trong chúng.

NHỮNG LOẠI HÀNH THIỀN

Có nhiều cách hành thiền.

1-    Hai loại hành thiền căn bản là thiền phân tích, hay thiền quán – quán và thiền ổn định hay thiền định – chỉ. Trong quán ta phân tích một chủ đề  và cố gắng để thấu hiểu nó qua lý trí. Thí dụ, chúng ta có thể hành thiền về vấn đề tại sao mọi thứ là vô thường bằng việc quán chiếu việc chúng được sản sinh bằng những nguyên nhân như thế nào và việc chúng tàn hoại từng thời khắc như thế nào (Tuệ được trau dồi qua quán). Trong chỉ ta làm tâm thức ta an trú trên một đối tượng hay đề tài đơn lẻ, chẳng hạn như vô thường. (Định được trau dồi qua chỉ).
2-    Một cách khác của việc phân chia thiền là giữa thiền chủ quan[1]thiền khách quan[2]. Trong thiền chủ quan mục tiêu của ta là trau dồi hay làm mạnh trong tâm thức một quan điểm, hay thái độ mới. Việc trau dồi niềm tin là một thí dụ cho loại thiền này; niềm tin không là một đối tượng mà trên đó chúng ta tập trung nhưng một thái độ đang được trau dồi qua hành thiền. (Trau dồi lòng từ bi là thiền chủ quan bởi vì chúng ta không đang thiền về từ bi nhưng đang tìm cách để làm cho tâm thức chúng ta từ bi hơn.) Trong thiền khách quan, ta thiền về một chủ đề, chẳng hạn như vô thường, hay một đề tài, chẳng hạn như kim thân của một Đức Phật.
3-    Chúng ta có thể thiền trong phương pháp của nguyện ước. Thí dụ, chúng ta có thể mong ước được tràn đầy với từ bi và tuệ trí của một Đức Phật.
4-    Hay chúng ta có thể đi một bước xa hơn, vào trong thiền quán tưởng mà trong ấy chúng ta hình dung rằng chúng ta có những phẩm chất mà chúng ta thật sự chưa có. Sự thực hành bồn tôn du già, thí dụ thế, được gọi là thiền quán tự thân như một chúng sanh lý tưởng mà thân thể được làm từ ánh sáng của tuệ trí.

Trong những thứ thiền này đa dạng này, chúng ta hãy thảo luận vấn đề thực hành thiền ổn định hay chỉ như thế nào. Như được đề cập ở trên, mục tiêu của thiền định là đề làm mạnh năng lực của tâm thức để tập trung vào một đối tượng hay chủ đề đơn lẻ, mà vốn tâm thức lần lượt có thể chiến thắng các vấn nạn tận gốc rể của chúng. Nó cũng giúp chúng ta cảnh giác và sắc bén hơn trong cuộc sống hàng ngày, nó dần dần tăng trưởng năng lực trí nhớ, vốn là hữu dụng trong mọi mặt của đời sống.

THÀNH TỰU ĐỊNH LỰC
(Định được trau dồi qua chỉ)

Vì loại hành thiền này, chúng ta đang tìm cách đạt được một thể trạng tập trung sâu xa của tâm thức, cho nên chúng ta cần những thứ sau đây:

1-    Nhân khởi đầu, đạo đức hay giới, vốn đem đến cho ta một mô thức an bình, thư giản, tận tâm của thái độ và vì vậy loại trừ những sự xao lãng thô.
2-    Thời gian và nơi chốn cho sự thực hành tách rời khỏi sự huyên náo của đời sống hàng ngày. Hãy tạo thời dụng biểu cho việc hành thiền trong đời sống hàng ngày. Đối với thiền tập trung, ở riêng lẻ trong một nơi tách biệt, yên tĩnh là thiết yếu. Vì tiếng động là điều vốn khó khăn, ngăn cản sự tập trung, vào lúc khởi đầu thật rất quan trọng để ở một nơi yên tĩnh. Hãy xem xét để tham dự một khóa tu hay vì đi nghĩ mát.
3-    Một sự kiêng khem thích hợp nuôi dưỡng sự trong sáng của tâm thức. Đối với một số tình trạng sức khỏe, có thể cần thiết để ăn thịt, nhưng nói chung thực phẩm chay lạc là tốt nhất. Theo đạo đức giải thoát các nhân, không có chuyện cấm đoán đối với việc ăn thịt. Nhưng chúng ta không nên ăn thịt mà người ta cố ý làm cho ta ăn, và ta không nên đòi hỏi nếu không được cúng dường. Thực tế, tốt nhất nếu đại đa số mọi người đều ăn chay. Một số kinh điển Đại thừa cấm ăn thịt, vì quan tâm cho những chúng sanh khác là trọng tâm của đạo đức Đại thừa. Cũng thế, ăn uống quá nhiều là không tốt, cho nên ăn ít thôi. Dĩ nhiên, uống rượu là không cần phải hỏi, cũng như tất cả các loại chất nghiện làm thay đổi tâm trí. Hút thuốc không thích đáng. Nếu một người râu quay nón hút thuốc trong khi thâm nhập sâu trong thiền tập, thì ông ta có nguy cơ bị cháy râu!
4-    Ngủ nghĩ đúng thời. Ngủ quá nhiều làm cho tâm thức ta bị lu mờ, quá ít có thể bị bồn chồn. Ta phải xem ta cần ngủ nghĩ bao nhiêu thì đủ.
5-    Tư thế thân thể là cần yếu đối với thiền tập trung, đặc biệt ở giai đoạn khởi đầu này. Nếu có thể áp dụng tư thế hoa sen, hay nửa hoa sen. Hãy sử dụng hai gối ngồi thiền, bồ đoàn và tọa cụ, ngồi lên bồ đoàn để phía sau ta cao hơn hai đầu gối, tác dụng là bất chấp ta hành thiền bao lâu thì ta cũng không bị mõi mệt. Hãy giử thẳng xương sống như một mũi tên; hơi cúi đầu xuống, hướng mắt về phía trước mũi; đặt lưỡi lên nóc vọng (vòm miệng); để đôi môi và răng bình thường; và để hai cánh tay hơi thong thả, không đè sát vào thân. Quan tâm đến tư thế của hai bàn tay, những hành giả của thiền Nhật Bản thường đặt bàn tay trái úp lên bàn tay phải, cũng úp xuống. Người Tây Tạng bàn tay phải, úp xuống, đặt phía trên bàn tay trái, cũng úp xuống. Trong thực hành Mật tông quan trọng là phải đặt bàn tay phải trên bàn tay trái, với cả hai bàn tay đều úp xuống, và với hai ngón tay cái chạm vào nhau như hình tam giác, đặt dưới rốn khoảng bốn ngón tay.

Đề Tài Hành Thiền

Có thể có nhiều chủ đề cho thiền chỉ để đạt được định lực:

1-    Hơi thở. Một số luận điển nói về việc quán chiếu hơi thở ra và hơi thở vào qua lỗ mũi nhưng không nói hơi thở sâu như thế nào. Những sách vở khác giải thích vấn đề quán chiếu chuyển động của hơi thở trong những vùng đặc biệt của thân thể. Trong một loại thao tác của hơi thở, ta đẩy không khí, hay năng lượng phía dưới lên, và dồn ép năng lượng phía trên xuống, giữ chúng lại giống như một chiếc bình ngay dưới rốn.
2-    Thân thể ta, các cảm giác, tâm thức, hay những hiện tượng chẳng hạn như vô thường. Những loại thiền này được gọi là những thiết lập qua chánh niệm.
3-    Mẫu tự đầu tiên của tên ta trên một cái đĩa của ánh sáng bên ngoài hay bên trong thân thể ta.
4-    Những hành giả Thái Lan thường hành thiền với việc áp dụng chánh niệm vào bất cứ thứ gì họ làm. Trong khi đi họ chánh niệm với việc đặt bàn chân phải phía trước, rồi trái, rồi phái.
5-    Tổng quát, một chủ đề tốt để hành thiền cho một Phật tử là một hình ảnh thân tướng của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni; cho một Ki Tô hữu có thể là hình ảnh của chúa Giê-su. Hãy nhìn chằm chằm vào đó để nó xuất hiện trong tâm thức ta khi ta nhắm mắt lại. Hãy hành thiền trên hình tượng ấy ở trình độ của mắt, không quá cao hay quá thấp, ở một khoảng cách bốn hay năm bộ (khoảng 1m đến 1,5m).
Vào lúc bắt đầu thật khó để chủ đề của thiền tập xuất hiện một cách rõ ràng trong tâm thức. Để tránh việc lu mờ của nhận thức, hãy cố gắng thường xuyên, những buổi hành thiền mãnh liệt năm phút hơn là những buổi thiền tập kéo dài. (4 đến 16 của những buổi hành thiền ngắn hàng ngày là lý tưởng.) Khi nó xuất hiện trong tâm thứ, thì ta đã thấy đối tượng của việc hành thiền. Bây giờ hãy an trú tâm thức ta một cách liên tục trên nó.

Đối Phó Với Trạo Cử Và Giải Đải

Để đạt được định lực, cả ổn định và trong sáng thì cần tương ứng với chủ đề hành thiền. Vì vậy những chướng ngại lớn nhất để kéo dài việc hành thiền là trạo cử và giải đải. Trạo cử ngăn ngại ổn định. Khi tâm thức không an trú trên đối tượng nhưng trở thành mất tập trung hay phân tán, đối tượng của việc hành thiền bị đánh mất. Cũng có một hình thức vi tế của trạo cử, chỗ mà thậm chí nếu đối tượng không bị đánh mất, nhưng một góc nào đó của tâm thức đang nghĩ về điều gì khác. Ta cần xác định trạo cử và qua chánh niệm, không để tâm thức ta ở dưới ảnh hưởng của nó.

Trạng thái lười biếng, sự nặng nề của tâm thức và thân thể, là một chướng ngại của sự trong sáng. Trạng thái lười biếng cũng tạo ra sự xao lãng, vốn ngăn trở sự trong sáng. Trong sự xao lãng thô thì tâm chìm đắm, đối tượng hành thiền bị phai mở và bị đánh mất. Trong sự xao lãng vi tế, đối tượng không bị đánh mất, nhưng sự trong sáng của đối tượng và tâm thức bị giảm bớt một ít vì cường độ của tâm đã bị yếu, tâm hơi bị lỏng lẻo. Tâm thức có thể hoàn toàn an trú một cách rõ ràng trên đối tượng của việc hành thiền, nhưng không có sự tỉnh giác đúng mức, trạng thái này thường bị lầm là đang hành thiền đúng.

Khi tâm thức ta quá mãnh liệt, và ta trải nghiệm trạo cử, thì ta cần nới lỏng nó, giống như làm giùng dây đàn một tí. Tương tự thế, khi ta có xao lãng thì tâm thức không mãnh liệt đúng mức, vì thế ta cần gia tăng cường độ của nó, bằng việc làm nó hơi căng lên, như thắt chặc những sợi dây. Như bạn thấy, tâm thức cần được giai điệu như một nhạc khí có dây căng đúng mức.

Chánh Niệm Và Nội Quán

Năng lực phía sau sự phát triển thiền tập trung là chánh niệm, đó là năng lực an trú với đối tượng, không cho phép sự mất tập trung. Chúng ta thực tập chánh niệm bằng việc đặt tâm ý trở lại đối tượng của việc hành thiền mỗi lần nó bị dao động. Khi chúng ta đã thành thạo trong việc duy trì chánh niệm trên đối tượng, thì ta cần sử dụng nội quán. Như Shantideva nói trong Hướng Dẫn Lối Sống của Bồ tát (Nhập Bồ tát hạnh), chức năng đặc biệt của nội quán là quan sát thường kỳ các hành vi của ta, cho dù thân thể hay tinh thần. Trong tiến trình của việc phát triển định lực, nhiệm vụ của nội quán là để quyết định tâm thức đã đến hay sắp đến, dưới ảnh hưởng của giải đải hay trạo cử. Vào lúc khởi đầu, những thời khắc của giải đải và trạo cử là mạnh mẽ, nhưng, với nổ lực, những thứ này trở thành yếu kém hơn và ít thường xuyên hơn, và những thời khắc của việc có thể an trú trên đối tượng được kéo dài thêm. Dần dần, ngay cả những sự giải đải và trạo cử vi tế cũng mất hết sức  mạnh của chúng và biến mất. Cuối cùng, năng lực của tâm ý an trú nhất niệm trên đối tượng gia tăng, thoát khỏi những khuyết điểm của trạo cử và giải đải.

Khi qua chánh niệm và nội quán ta có thể duy trì sự tương tục việc nắm giữ đối tượng, thì ta có thể thành tựu thiền tập trung trong sáu tháng. Khởi đầu ta phải đặt tâm ý ta trên đối tượng của việc hành thiền một cách cưỡng bức với nổ lực lớn rồi thì ngày qua ngày ta chú ý đối tượng mà không cần nổ lực nhiều; rồi thì ta chú ý nó với một cung cách thoải mái một cách liên tục và cuối cùng ta an trú trên đối tượng một cách tự động mà không cần có bất cứ sự cố gắng nào để loại trừ trạo cử và giải đải. Nếu ta có thể duy trì trên đối tượng của ta trong bốn giờ một cách sinh động và liên tục, thì ta đã đạt được sự ổn định vững vàng. Những trạng thái bất lợi của thân thể và tâm thức biến mất, và một sự an lạc của thân thể và uyển chuyển của tinh thần đã đạt được. Ở tại điểm này, chúng ta đã thành tựu định lực.

Những Phẩm Chất Của Định Lực

Để có được định lực, tâm thức phải ổn định để nắm chặc một đối tượng, nhưng chỉ điều này không thôi thì không đủ. Tâm thức cũng phải rõ ràng trong sáng, nhưng điều này cũng không đủ. Sự trong sáng của nó phải mãnh liệt, tỉnh giác, và sắc bén; tâm thức không thể có ngay cả một chút lu mờ.

Những sự điều chỉnh tốt đẹp của tâm thức làm nó mẫn cảm với định lực không dễ hoàn tất. Ở Dharamsala, Ấn Độ, một người Tây Tạng thực tập thiền tập trung (chỉ) nói với tôi rằng việc trau dồi tập trung nhất niệm thì tệ hại hơn bị giam trong nhà tù Trung Cộng! Bởi vì nó khó, cho nên thật quan trọng để chuẩn bị một cách cẩn thận, đi từng bước một. Đừng ép buộc mình quá, đặc biệt lúc đầu, bằng khác đi ta có nguy cơ trở thành rối loạn hay ngay cả suy nhược thần kinh. Mục tiêu ở đây là sự thực tập hàng ngày, chỗ chúng ta lựa chọn một đối tượng của việc hành thiền, và khi ta tập trung trên nó, hãy cố gắng để đạt được và duy trì sự ổn định, trong sáng, và cường độ.

Tập Trung Trên Chính Tự Tâm Thức

Định lực cũng có thể đạt được qua việc hành thiền hàng ngày trên chính tự tâm thức. Một trong những thuận lợi của việc quán sát tâm thức bây giờ là nó sẽ làm mạnh năng lực để biểu hiện tâm linh quang khi ta lâm chung. Đầu tiên hãy xác định bản chất cốt yếu rực sáng và hiểu biết của tâm, không bị cấu nhiễm bởi tư tưởng, và rồi thì tập trung trên nó. Đây là một trong nhiều trình độ của vô niệm (Tôi sẽ diễn tả việc hành thiền trên bản chất rốt ráo của tâm trong chương 10).

Để chuẩn bị cho việc tập trung trên chính tự tâm thức thì ta cần chiến thắng những chướng ngại cảm xúc bằng việc tiến hành trong việc tích lũy phước đức tích cực, như qua việc phát triển từ bi như đã được thảo luận trước đây. Bước tiếp theo là trở nên quen thuộc với bản chất của chính tâm thức của ta. Thời gian tốt nhất cho việc này là vào buổi sáng, ngay sau khi thức dậy, nhưng trước khi tất cả những tác dụng cảm giác của bạn trở thành năng động. Mắt của bạn chưa mở. Hãy nhìn vào, hay ở bên trong, chính tự tâm thức. Đây là cơ hội tốt để trải nghiệm bản chất của tâm linh quang. Đừng để tâm bạn nghĩ về những gì xảy ra trong quá khứ, cũng không để nó vơ vẫn theo những thứ có thể xảy ra trong tương lai; đúng hơn, hãy để tâm thức năng động, không có bất cứ kiến tạo nào; hãy để nó như nó là. Trong khoảng không giữa những ý tưởng mới và cũ, hãy khám phá bản chất tự nhiên, không thêu dệt, rực sáng và hiểu biết của tâm không bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ. Khi chúng ta duy trì trong cách này, ta thấu hiểu rằng tâm thức như tấm gương, phản chiếu bất cứ đối tượng nào, bất cứ nhận thức nào, và rằng tâm thức có một bản chất thuần nhất rực sáng và hiểu biết, của kinh nghiệm đơn thuần.

Sau khi ta nhận ra bản chất của tâm thức như rực sáng và hiểu biết, an trụ với nó. Sử dụng năng lực của ta về chánh niệm và nội quán duy trì trong thể trạng ấy. Nếu một tư tưởng đến, chỉ hãy nhìn vào chính bản chất của nó, và nhận thức ấy sẽ mất sức mạnh của nó và tự tan biến. Đôi khi với sự tinh tấn, ta có thể ngăn ngừa một tư tưởng khỏi việc  hình thành trọn vẹn. Rất giống như thế, tư tưởng, khi chúng ta đạt đến thể trạng này của việc nhận ra bản chất căn bản, không nhiễm ô, không tạo tác của tâm thức, thì những tư tưởng sẽ tan biến khi chúng hình thành, và ngay cả khi chúng thật sự đến, thì chúng sẽ không có năng lực. Hãy biết rằng giống như những đợt sóng của đại dương được làm thành từ nước, những tư tưởng được tạo ra từ bản chất trong sáng, và hiểu biết của tâm thức. Và qua việc thực hành liên tục hàng ngày, các tư tưởng sẽ yếu dần và biến mất mà không cần sự cố gắng nào.

Việc hành thiền này tự nó sẽ làm sắc bén tâm thức chúng ta và cải thiện trí nhớ của chúng ta, những phẩm chất vốn chắc chắn hữu dụng vượt khỏi sự thực tập tâm linh, cho dù trong thương trường, kỹ thuật, nuôi dưỡng một gia đình, hay là một giáo viên, hay một luật sư. Sự thực tập này cũng hổ trợ một nền tảng hàng ngày với sân hận. Khi ta bị kích thích, thì ta có thể tập trung trên bản chất của chính sự sân hận và do thế làm xói mòn sức tàn phá của nó.

Một lợi ích khác của sự rèn luyện tâm linh như vậy xuất phát từ sự nối kết gần gũi giữa thân thể và tâm thức. Khi ta còn trẻ và thân thể khỏe mạnh, thì tâm thức ta mạnh mẽ. Thế thì thật đặc biệt đáng giá để bắt đầu thực tập, vì vậy ở tuổi tác của các bạn, tâm thức ta đang còn tươi mát và tích cực qua những thay đổi của thân thể. Xét cho cùng, não bộ con người là một tài sản đặc biệt, và sẽ thật là đáng thương nếu để nó yếu đuối qua sự quên lãng, từ bỏ năng lực của nó cho đến tuổi già, giống như động vật, công việc của nó chỉ là săn sóc thân thể mà thôi. Đối với những hành giả, việc rèn luyện tinh thần mới đầu, và đặc biệt là tập trung tâm thức, thì thật quan trọng là việc chuẩn bị cho ngày cuối cùng (của cuộc đời), khi tâm thức ta phải duy trì trong sáng và sắc bén để làm hữu dụng những kỷ năng đặc biệt trong những giai đoạn của sự chết hay tối thiểu tác động đến sự tái sanh vào kiếp sống tới. Sự mờ tối của tâm thức ở thời điểm quan yếu này có thể là rất nguy hiểm. Một sự bảo đảm thật sự cho một sự tái sanh tốt đẹp là việc có thể tiến hành sự thực tập của ta qua các giai đoạn của sự chết.

Thể trạng tâm thức của ta ngay trước khi tái sanh ảnh hưởng trong sự quyết định đặc tính kiếp sống tới của ta. Chúng ta có thể đã tích lũy nhiều phước đức lớn trong cuộc đời, nhưng nếu ta để nó với một tâm thức mờ tối, thì ta gây nguy hiểm cho hình thức mà kiếp sống tới ta có. Trái lại, ngay cả nếu ta đã làm một số việc đáng ân hận trong cuộc đời, thì khi ngày cuối cùng đến, nếu ta đã chuẩn bị và quyết định sử dụng cơ hội này một cách trọn vẹn nhất, thì sự tái sanh kiếp tới sẽ chắc chắn là tốt đẹp. Do vậy hãy cố gắng để rèn luyện tâm thức được tươi mát, tỉnh giác, và sắc bén.

NHỮNG KỶ NĂNG KHÁC CHO VIỆC ĐẠT ĐƯỢC SỰ TĨNH LẶNG CỦA TINH THẦN

Trong những hoàn cảnh khó khăn thật dễ dàng để trở nên xúc động. Phật giáo cung ứng nhiều kỷ năng cho việc giải tỏa căng thẳng và tìm thấy tĩnh lặng trong những tình huống gay go mà chúng ta đối diện hàng ngày. Những kỷ năng này thay đổi tùy theo hoàn cảnh và cá nhân. Nó đặc biệt hiệu quả để sử dụng năng lực của thiền phân tích (quán) để nhắm đến các vấn nạn một cách trực tiếp, thay vì cố gắng để lẫn tránh chúng. Đây là một số thí dụ và kỷ năng này.

1-    Khi ta đối diện với vấn nạn, hãy làm bất cứ điều gì để vượt thắng nó, nhưng nếu không vượt qua được, thế thì quán chiếu trên sự kiện rằng đây là một rắc rối do hành động của chính ta trong việc này, hay một kiếp trước. Việc thấu hiểu rằng khổ đau đến từ nghiệp sẽ đem một sự an bình nào đó như nó biểu lộ rằng cuộc sống không phải là bất công. Trái lại buồn thương và đau khổ có thể dường như vô nghĩa.
2-    Khởi đầu một vấn nạn có thể dường như cứng nhắc và bất trị, cho đến khi ta thẩm tra bản chất thật sự của nó. Để làm điều này, hãy làm việc với sự thấu hiểu phạm vi của khổ đau trong cuộc sống của chính ta. Thân thể và tâm thức thông thường có bản chất của khổ đau, giống như bản chất của lửa là nóng và đốt cháy. Cũng giống như vậy, chúng ta đã học vấn đề làm việc với bản chất của lửa như thế nào, thì chúng ta có thể học việc hành động với khổ đau của chúng ta trong đời sống như thế nào.
3-    Hãy quán sát vấn nạn từ một nhận thức rộng rãi hơn. Nếu ai đó buộc tội ta, thay vì đả kích lại, thì hãy quán tưởng rằng sự tố cáo đó đã nới lõng những dây xích của sự tự yêu mến, và vì thế làm nổi bật năng lực của ta để quan tâm cho người khác. Hãy điều chỉnh lại những hoàn cảnh xấu như những năng lực hổ trợ cho việc phát triển tâm linh của chúng ta. Kỷ năng này thì khó khăn để áp dụng nhưng đầy năng lực khi chúng ta thành công.
4-    Khi chúng ta ganh tỵ hay mong muốn làm hại một kẻ thù, thay vì nghiền ngẫm mọi phẩm chất xấu xí của người ấy, thì hãy phản chiếu về những cống hiến của người ấy. Hầu hết mọi người là một hổn hợp của những phẩm chất và xấu – thật khó khăn để tìm ra bất cứ người nào xấu xa về mọi mặt.
5-    Hãy quán chiếu về tánh không của sự tồn tại cố hữu – đây là thiền phân tích (quán) sâu sắc nhất và điều gì đó tôi sẽ khám phá trong ba chương tiếp theo.

Hay, chúng ta có thể sử dụng thiền ổn định (chỉ) cho sự ngơi nghỉ tạm thời:

·        Nếu ta không thể dừng lại sự lo lắng đối với việc gì đó trong quá khứ hay những gì sắp xảy ra trong tương lai, thì hãy hướng sự tập trung vào hơi thở ra và hơi thở vào. Hay trì tụng câu mật ngôn này: om mani padme hum (án ma ni bát di hồng). Vì tâm không thể tập trung hai thứ đồng thời, cho nên một trong hai thứ tu tập này sẽ làm tan biến sự lo lắng trước đây.

-*-

Dường như đối với tôi thì tất cả mọi tôn giáo đều có thể lợi lạc từ những kỷ năng thiền tập của Phật giáo – vì tập trung nhất tâm có thể áp dụng một cách hữu hiệu trong nhiều hoàn cảnh. Trong mỗi bước đi của cuộc đời chúng ta có thể lợi lạc từ việc tập trung tâm thức và tăng cường trí nhớ.

-*-

TOÁT YẾU CHO SỰ THỰC HÀNH HÀNG NGÀY

1-    Hãy chọn một đối tượng của việc hành thiền và tập trung tâm thức chúng ta vào nó, cố gắng đạt được và duy trì sự ổn định, trong sáng, và cường độ. Hãy tránh giải đải và trạo cử.
2-    Luân phiên, xác định thể trạng nền tảng của tâm thức, không bị cấu nhiễm bởi tư tưởng, trong thể trạng của chính nó – chỉ thuần sự sáng suốt, bản chất hiểu biết của tâm thức. Với chánh niệm và nội quán hãy duy trì trong thể trạng ấy. Nếu một tư tưởng khởi sanh, hãy chỉ nhìn vào chính bản chất của tư tưởng ấy; điều này sẽ làm nó mất đi năng lực của nó và tự tan biến theo ý mình.

-*-

Ẩn Tâm Lộ, Sunday, March 31, 2019



[1] Thiền chủ quan (subjective meditation): không tập trung trên tâm thức hay nổ lực của ý chí. Đúng hơn là việc tìm kiếm cội nguồn của tâm thức, truy tầm gốc rể của “cái tôi”.

[2] Thiền khách quan (Objective meditation): là tập trung tâm thức trên một đối tượng, đối tượng có thể là thân tướng của một bổn tôn, ánh sang, bầu trời, …, một số phảm chất như từ ái, bi mẫn, tự làm mạnh một cách chủ động. Tâm thức tập trung trên đối tượng bằng một nổ lực của ý chí.

Thứ Năm, 21 tháng 3, 2019

BỔN TÔN DU GIÀ




Nguyên bản: Deity Yoga
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / Thursday, March 7, 2019

-*-

Trong Phật giáo có hai loại thực tập căn bản Hiển Giáo và Mật Giáo. Cho đến giờ, chúng ta đang thảo luận về sự thực hành Hiền Giáo. Mục tiêu đặc biệt của Mật Giáo là để cung ứng một con đường nhanh hơn vì thế những hành giả đủ điều kiện có thể phục vụ người khác một cách nhanh chóng hơn. Trong Mật Giáo năng lực của quán tưởng được khai thác để hành thiền trong một sự thực hành gọi là bổn tôn du già. Trong sự thực hành này ta tưởng tượng:

1-    Thay thế tâm thức ta như nó xuất hiện một cách thông thường, đầy những cảm xúc rắc rối, với một tâm thức tuệ trí tinh khiết được động viên bởi từ bi;
2-    Thay thế thân thể ta như thông thường nó hiện hữu (được cấu thành bởi thịt, máu, và xương) với một thân thể được cấu thành từ bi mẫn được thúc đẩy bởi tuệ trí.
3-    Phát triển cảm nhận của một tự ngã tinh khiết vốn phụ thuộc trên tâm thứcvà thân thể hiện hữu một cách thuần khiết trong một môi trường lý tưởng, hoàn toàn dấn thân trong việc giúp đở người khác.

Sự thực hành đặc biệt này của Mật Tông yêu cầu quán tưởng tự thân ta với một thân thể, hành vi, năng lực và môi trường chung quanh của một Đức Phật, nó được gọi là “lấy sự quán tưởng làm con đường tâm linh.”

Chúng ta hãy xem xét một dự tưởng về sự thực hành này. Ta xem tự thân ta có những phẩm chất của một Đức Phật vốn hiện tại ta chưa có. Thế thì, đây có phải một loại tâm thức thiền quán đúng đắn không? Vâng. Tâm thức ta được liên hệ trong một sự thấu hiểu thực tại từ việc ta đang hiện hữu như một bổn tôn. Do thế, tâm thức ta, từ quan điểm này, là đúng đắn. Cũng thế, ta đang cố tình tưởng tượng tự ta như có một thân thể siêu phàm ngay cả hiện tại ta chưa sở hữu. Đây là sự hành thiền quán tưởng, chúng ta không tự tin từ thâm tâm rằng ta thật sự có tâm thức, thân thể, và cá tính thuần khiết. Đúng hơn, căn cứ trên việc quán tưởng trọn vẹn  về thân thể và tâm thức lý tưởng, chúng ta đang trau dồi cảm nhận hiện hữu của một bổn tôn hổ trợ người khác một cách từ bi.

Để là một giáo thọ Mật Giáo đặc biệt – như đã nói, loại giáo thọ mà với người ấy Đức Phật đặc biệt trình bày sự thực hành Mật Tông – một hành giả phải có năng lực sắc bén và đã đạt đến tuệ trí vững vàng thực chứng tánh không, hay đã sẳn sàng kích hoạt nhanh chóng tuệ trí này. Những đòi hỏi cho chỉ việc thực hành Mật Tông là ít nghiêm nhặt hơn; tuy thế, việc dấn thân trong Mật Giáo ở bất cứ trình độ nào cũng đòi hỏi một ý chí mạnh mẽ để đạt được Giác Ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sanh, và một cảm nhận rằng việc này cần được hoàn thành một cách thật nhanh chóng.

Vào lúc bắt đầu của việc thực hành Mật Tông, cách căn bản để phát triển sự tĩnh lặng (tam muội) là hành thiền trên thân thể của chính ta giống như nó đã là một bổn tôn. Khi chúng ta hành thiền trên một thân thể siêu phàm, trước tiên ta hành thiền về tánh không, hãy gặt hái sự tỉnh thức tối đa  như có thể về tánh không của sự tồn tại cố hữu. Khi chúng ta đã thích nghi với thể trạng này, thì ta sử dụng chính tự tâm thức ấy như căn bản mà từ đó bổn tôn xuất hiện. Tâm thức, thực chứng tánh không, xuất hiện như bổn tôn và môi trường chung quanh của vị ấy. Trước tiên ta thiền quán về tánh không, từ đó bổn tôn xuất hiện; sau đó tập trung vào bổn tôn.

Trong cách này, bồn tôn du già kết hợp tuệ trí và động cơ từ bi, một tâm thức đơn độc thực chứng tánh không và xuất hiện một cách từ bi trong hình thức của một bổn tôn vị tha. Trong hệ thống Hiển Giáo, mặc dù có một sự phối hợp của tuệ trí và động cơ từ bi, nhưng sự thực hành tuệ trí chỉ tác động bằng năng lực của sự thực hành động cơ, và sự thực hành động cơ chỉ tác động bằng năng lực của sự thực hành tuệ trí; chúng không được bao hàm trong một ý thức. Một tính năng phân biệt của Mật Giáo là chúng là như vậy. Sự bao hàm của động cơ và tuệ trí trong một ý thức là những gì làm cho tiến trình của Mật Tông thật nhanh chóng.

Khi tôi còn là một thiếu niên, Mật Tông chỉ là một vấn đề của sự tin tưởng mù quáng. Vào tuổi hai mươi bốn, tôi mất quê hương và rồi thì sau đó đến Ấn Độ thật sự bắt đầu đọc những giải thích của Tông Khách Ba về tánh không. Rồi thì, sau khi chuyển đến Dharamsala, tôi đã dành nhiều nổ lực trong sự học tập và thực hành những giai tầng của con đường tu tập, tánh không, và Mật Tông. Thế nên, chỉ vào cuối những năm hai mươi tuổi của tôi sau khi đạt được một kinh nghiệm nào đó về tánh không thì bổn tôn du già mới có lý.

Một lần nọ ở chùa chính ở Dharamsala, tôi đang tiến hành nghi thức quán tưởng tôi như một bổn tôn của Tantra Yoga Tối Thượng, được gọi là Phật Bí Mật Tập Hội. Tâm tư tôi liên tục duy trì trong việc trì tụng nghi thức, và khi cụm chữ “tự chính tôi” đến, thì tôi hoàn toàn quên về tự thân thông thường của tôi trong mối quan hệ với sự phối hợp của tâm thức và thân thể. Thay vì thế, tôi có một cảm nhận rất rõ ràng về “tôi” trong mối quan hệ với sự kết hợp mới mẻ thuần khiết của tâm và thân của Phật Bí Mật Tập Hội (Phật Guhyasamaja), mà tôi đang quán tưởng. Vì đây là loại tự xác định vốn là trọng tâm của Du già Mật tông, cho nên kinh nghiệm xác nhận với tôi rằng với đầy đủ thời gian thì tôi chắc chắn sẽ đạt được những thể trạng sâu xa ngoại hạng đã được đề cập trong các kinh điển.

QUÁN ĐẢNH

Để thực hành Mật Thừa, thì đặc biệt quan trọng là được tham gia vào lễ truyền pháp gia hộ từ những bậc đại nhân trước đó. Những sự gia hộ không có trong sự thực hành của Kinh Thừa Hiển Giáo, nhưng chúng là thiết yếu trong Mật Tông. Phương tiện trước tiên của việc đi vào những sự gia hộ này là qua cánh cửa quán đảnh. Có bốn lớp Mật Tông – Hoạt Động, Thực Hiện, Du Già và Vô Thượng Du Già (Tantra Yoga Tối Thượng) – mỗi lớp với những sự quán đảnh của nó để làm chín muồi tâm thức cho sự thực tập, và mỗi lớp Mật Tông với những sự hành thiền của chính nó.

Chúng ta tiếp nhận sự quán đảnh ở đâu? Trong một mạn đà la, bao hàm những môi trường lý tưởng và cư dân siêu phàm tất cả vốn là những sự biểu hiện của từ bi và tuệ trí. Có những mạn đà la với mức độ phức tạp khác nhau cho tất cả bốn lớp Mật Tông. Một số được vẽ. Những thứ khác được tạo thành từ cát màu, và tuy thế những thứ khác nữa được tạo thành từ một loại mạn đà la thiền định đặc biệt.

Để tiếp nhận sự quán đảnh và phát nguyện trong một mạn đà la của Mật Tông Du Già hay Vô Thượng Du Già, vị lạt ma tiến hành buổi lễ phải có những phẩm chất hoàn hảo. Tất cả bốn bộ Mật Tông nhấn mạnh đặc biệt vào đức tính của vị lạt ma, trong việc giữ gìn những sự diễn tả chi tiết của Đức Phật cho những giai tầng khác nhau của con đường tu tập. Cũng hãy nhớ lời Đức Phật dạy bảo rằng không chỉ nương tựa vào người ấy mà cũng phải nương tựa vào giáo lý (y pháp bất y nhân). Ta không nên bị choáng ngợp bởi danh tiếng của một vị thầy. Điều quan trọng nhất là, vị thầy phải biết giáo lý, những thực hành, trọn vẹn.

CAM KẾT VÀ THỆ NGUYỆN

Trong hai bộ Mật Tông thấp – Hành Động và Thực Hiện – không có sự chỉ bảo rõ ràng rằng những thệ nguyện Mật Tông phải được tiếp nhận cho lễ quán đảnh; tuy thế, có nhiều sự cam kết phải được giữ. Trong hai bộ Mật Tông cao – Du Già và Vô Thượng Du Già – sau khi nhận lễ quán đảnh với tất cả những khía cạnh của nó, ta phải tiếp nhận những thệ nguyện Mật Tông ngoài những cam kết. Mật Tông Du Già và Vô Thượng Du Già có mười bốn (14) giới nguyện căn bản cũng như danh sách của những vi phạm để bảo vệ chống lại, nhưng như chúng khác nhau trong những con đường tu tập tương ứng, thậm chí những giới nguyện căn bản cũng hơi khác nhau. Vì sự thực hành Mật Tông quan tâm chính yếu với việc vượt thắng hiện tướng của chính ta và môi trường của ta khi bình thường (nhằm để khắc phục nhận thức những thứ này như bình thường), cho nên ta quán tưởng tự ta có một thân thể, các hành vi từ bi, tiềm lực, và nơi ở của một Đức Phật. Do vậy, hầu hết các sự cam kết quan tâm đến việc thay thế lý tưởng cho những hiện tướng thông thường, và kiềm chế sự đánh giá của chính ta về ta, những bạn đồng hành của ta, môi trường của ta, và những hành vi của ta như thông thường.

Loại thứ nhất được mệnh danh là đạo đức giải thoát cá nhân, sau đó là đạo đức Bồ tát, và cuối cùng là đạo đức Mật thừa. Những người thọ giới Bồ tát và Mật tông giữ lối giải thích của riêng họ về giới giải thoát cá nhân. Mật pháp Thời Luân, vốn rộ nở vào thế kỷ 11 ở Ấn Độ và đã trở thành Kim Cương tông chính yếu của những trường phái Tân dịch ở Tây Tạng, tuyên bố rằng nếu có ba vị thầy Mật tông, một với giới giải thoát cá nhân, một với giới sa di, và người thứ ba với đại giới cụ túc, thì người thọ giới cụ túc nên được xem là cao hơn những người kia. Điều này cho thấy rằng sự kính mến cao mà ngay cả trong hệ thống Mật thừa cũng đặt vào đạo đức xuất gia. Mật điển Bí Mật Tập Hội nói rằng bề ngoài ta nên giữ những khuôn phép của sự thực hành giải thoát cá nhân, và bên trong hãy duy trì một mối thân thuộc cho sự thực hành Mật Tông. Trong những cách này sự thực hành của Hiển Giáo và Mật Giáo hoạt động chung với nhau.

 PHƯƠNG TIỆN CỦA MẬT TÔNG TRONG CON ĐƯỜNG TU TẬP

Chúng ta hãy xem vai của tình dục trong con đường tu tập của Mật tong bằng cách nhìn vào cấm đoán tà dâm trong đạo đức giải thoát cá nhân, vốn hoàn toàn căn cứ trên nguyên tắc của việc tránh làm tổn hại. Tà dâm được chi tiết hóa trong A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận của Thế Thân. Đối với một người nam không được có quan hệ với vợ người khác, hay với người vị thành niên. Đối với người nữ cũng vậy; cũng không được quan hệ với chồng người khác, hay người vị thành niên. Một số người cho rằng, thực tức cười, vì tác phẩm của Thế Thân giải thích mười điều bất thiện từ quan điểm của nam giới, cho nên nếu người nữ làm mười điều bất thiện thì không sao – và vì vậy không có việc cấm đoán đối với người nữ.

Đối với những Phật tử, việc giao hợp có thể được sử dụng trong con đường tâm linh vì nó tạo ra một sự tập trung mạnh mẽ của tâm thức nếu hành giả đã có lòng từ bi và trí tuệ vững vàng. Nếu mục tiêu của nó là để biểu hiện và kéo dài những trình độ sâu sắc hơn của tâm (được diễn tả trước đây với tương ứng của tiến trình lâm chung), nhằm để đặt năng lực của họ để sử dụng trong việc làm mạnh mẽ sự thực chứng tánh không. Trái lại, chỉ giao hợp đơn thuần thì không có tác dụng vì với con đường tâm linh. Khi một hành giả đã đạt được trình độ cao cấp của thực hành trong động cơ và trí tuệ, thế thì ngay cả khi giao hợp, không làm xao lãng với việc duy trì thái độ thuần khiết của người ấy. Các hành giả du già đã đạt được trình độ cao trên con đường tu tập và đầy đủ phẩm chất thì có thể dấn thân trong hành vi như vậy, và một tu sĩ với năng lực này có thể duy trì toàn bộ giới nguyện.

Một hành giả du già Tây Tạng tinh tường, khi bị người khác bình phẩm nói rằng ông đã ăn thịt và uống bia khi dâng cúng đến bổn tôn mạn đà la. Những hành giả Mật tong như vậy quán tưởng họ như những bổn tôn trong một mạn đà la hoàn chỉnh, trong sự quán tưởng rằng bổn tôn tối thượng là đại lạc tối thượng – sự phối hợp của đại lạc và tánh không. Người ấy cũng nói rằng sự thực hành tình dục với một phối ngẫu cam kết vì lợi ích của việc phát triển một tri thức chân thật. Và rằng việc làm ấy là mục tiêu. Một hành giả như vậy có thể làm cho việc sử dụng tâm linh không chỉ thực phẩm và thức uống thơm ngon, mà ngay cả phân và nước tiểu. Một thiền giả du già chuyển hóa những thứ này thành thực phẩm của thần thánh thật sự. Tuy thế, đối với những người như chúng ta, thì việc này ngoài tầm tay. Cho đến khi nào chúng ta không thể chuyển hóa phân và nước tiểu, thì những thứ khác không nên làm!

Đức Phật đã đưa ra một chuỗi những giai tầng của con đường một cách chính xác vì lý do này. Giai đoạn sơ bộ là tu tập trong những giới nguyện của giải thoát cá nhân. Nếu chúng ta sống như một tu sĩ nam hay nữ, thì đức hạnh của ta phải căn bản hơn – hơi nguy hiểm nếu quá đáng. Ngay cả nếu ta không hoàn toàn thi hành những giới nguyện như vậy, thì cũng không có gì tai hại nhiều. Rồi thì cứ thực hành, thực hành, thực hành. Một khi chúng ta đã phát triển được sức mạnh nội tại, ta có thể kiểm soát bốn yếu tố nội tại – đất, nước, lửa, gió ( hay năm đại nếu thêm của không đại). Một khi ta có thể hoàn toàn kiểm soát bốn yếu tố nội tại, thế thì ta có thể kiểm soát năm yếu tố bên ngoài. Sau đó ta có thể sử dụng bất cứ thứ gì.

Việc giao hợp giúp gì trong con đường tu tập? Có nhiều trình độ khác nhau của tâm thức. Khả năng của những trình độ thô rất hạn chế, nhưng những trình độ sâu xa vi tế là mạnh mẽ hơn nhiều. Chúng ta cần thâm nhập những trình độ vi tế hơn của tâm thức. Nhưng nhằm để làm được như vậy, chúng ta cần làm yếu đi và tạm thời dừng lại tâm thức thô. Để làm điều này thì cần thiết phải mang đến một sự thay đổi sâu sắc trong dòng chảy của những năng lượng nội tại. Mặc dù những hình thái của những trình độ tâm thức sâu sắc hơn xảy ra trong khi nhảy mũi và ngáp, nhưng rõ ràng là chúng không thể kéo dài. Cũng thế, kinh nghiệm trước đây với việc biểu hiện những trình độ sâu sắc hơn đòi hỏi việc sử dụng việc xảy ra của chúng trong giấc ngủ sâu. Đây là nơi mà chúng xảy ra. Qua những kỷ năng đặc biệt của việc thiền định trong giấc ngủ, các hành giả thành thạo  có thể kéo dài những thể trạng vi tế và đầy năng lực và đặt chúng vào việc sử dụng để thực chứng tánh không. Tuy nhiên, nếu là những người thong thường thì không có tác dụng gì.

Một Đức Phật không cần sự giao hợp. Các bổn tôn trong một mạn đà la thì thường trong sự kết hợp với một phối ngẫu, nhưng điều này không phải nói rằng chư Phật phải cần đến sự giao hợp cho đại lạc của các ngài. Chư Phật đã có đầy đủ đại lạc trong chính các ngài. Chư bổn tôn trong sự kết hợp tự nhiên xuất hiện trong mạn đà la vì lợi ích của chúng sanh với những năng lực sắc bén có thể sử dụng phối ngẫu với đại lạc của việc kết hợp trong việc thực hành con đường nhanh chóng của Mật tong. Trong cùng cách rất giống như vậy, Đức Phật Mật tông Kim Cương Trì xuất  hiện trong những khía cạnh hòa bình và những khía cạnh hung tợn, nhưng đó không có nghĩa là Đức Phật Kim Cương Trì có  hai khía cạnh này với tính chất của ngài là luôn luôn hoàn toàn từ bi. Đúng hơn, sự xuất hiện tự nhiên trong những cung cách khác nhau là vì lợi ích của những hành giả tu tập. Đức Phật Kim Cương Trì xuất hiện đúng trong một cung cách mà hành giả nên thiền quán khi sử dụng những cảm xúc phiền não, chẳng hạn như tham dục hay thù hận trong tiến trình của con đường tu tập. Để nắm lấy những cảm xúc mạnh mẽ như vậy trong con đường tâm linh thì hành giả không thể tưởng tượng rằng họ có một thân thể hòa bình của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Bổn tôn du già đòi hỏi. Vì trong trường hợp của thù hận, thí dụ thế, thì cần phải thiền quán trên thân thể của chính mình trong một hình thức hung dữ. Đức Phật Kim Cương Trì xuất hiện một cách tự động trong một hình thức hung tợn tương ứng để chỉ cho hành giả thiền quán như thế nào. Cũng giống như thế với du già tình dục; các hành giả, những người có thể sử dụng đại lạc phát sinh trong tình cảm liên hệ trong khi nhìn chằm chằm, mĩm cười, nắm tay nhau, hay phối hợp phải biểu hiện với bổn tôn du già tương ứng, họ không thể tưởng tượng chính họ như Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, một tu sĩ. Mục tiêu của những hiện tướng khác nhau của Đức Phật Kim Cương Trì không phải làm cho hành giả sợ hãi cũng không phải kích thích tham muốn trong họ, nhưng để chỉ họ thiền quán như thế nào trong những hình thể ấy nhằm để cuối cùng họ chiến thắng những cảm xúc phiền não.

Một Đức Phật có thể xuất hiện một cách tự nhiên mà không cần sự cố gắng trong bất cứ cách nào là thích hợp. hình thể của những hiện tướng này được hình thành qua nhu cầu của những người khác, không phải vì lợi ích của Đức Phật ấy. Từ quan điểm của Phật đà, thì Đức Phật ấy có chân thân tự đầy đủ (Pháp thân), mà các ngài tồn tại mãi mãi.

Hãy nhớ rằng đạo đức Mật tông được xây dựng trên đạo đức của giải thoát cá nhân và trên đạo đức của từ bi. Mục tiêu của Mật tông là để đạt được Quả Phật trên một con đường nhanh hơn nhằm để phục vụ những người khác mau lẹ hơn.

TOÁT YẾU THỰC  HÀNH

Vì sự thực hành Mật tông chính yếu là chuyển hóa vấn đề chúng ta thấy tự thân ta, người khác, môi trường, và các hành vi của ta như thế nào, cho nên có thể hữu ích để quán tưởng tự thân như có một động cơ từ bi, một thân thể và đức hạnh tinh khiết, làm lợi ích cho những người khác.

-*-
Ẩn Tâm Lộ, Thursday, March 21, 2019


MỞ RỘNG GIÚP ĐỞ




Nguyên bản: Extending Help
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / Monday, February 25, 2019

-*-

Với sự thực hành về việc không làm tổn hại như nền tảng của chúng ta, bây giờ chúng ta trau dồi việc quan tâm cho những người khác. Trước nhất, qua đạo đức của giải thoát cá nhân, chúng ta học cách kiểm soát sân hận và những thứ như vậy, và bây giờ chúng ta có thể học hỏi vấn đề an ủi và phục vụ người khác. Những sự thực hành trong chương Hai qua Bốn điều – từ bỏ mười điều bất thiện, xác định phạm vi và tiến trình của khổ đau và phương cách vượt khỏi nó qua Bốn Chân Lý Cao Quý, và việc tiếp nhận sự lìa xa những thú vui thoáng qua của đời sống cư sĩ – tất cả tạo nên một nền tảng cần thiết cho giai tầng thứ hai, những gì chúng ta gọ là đạo đức của Đại thừa. Bây giờ, không chỉ ta không làm tổn hại người khác, mà chúng ta mang thêm trách nhiệm để giúp đở họ. Không làm tổn hại người khác là một sự thực hành phòng thủ - thụ động, trái lại hoạt động để giúp đở người khác là chủ động.

Đức Phật dạy ba giai tầng của đạo đức: đạo đức của giải thoát cá nhân, đạo đức quan tâm cho người khác, và đạo đức Mật tông – Tantra. Việc giúp đở người khác là giáo huấn Đại thừa, trọng tâm của giai tầng thứ hai, hay đạo đức của Bồ tát. Nó cũng được tập trung trong chương này.

GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN

Chúng ta có thể trau dồi thái độ quan tâm khác này thế nào? Sự tiếp cận chính cho việc định hướng chính mình đối với việc đảm đương là lưu tâm mối liên hệ quan trọng của ta đối với người khác. Một sự thực hành vốn trải dài từ Ấn Độ đến Tây Tạng liên hệ trước nhất là việc thấy nền tảng chung với những người khác (bình đẳng) và rồi thì thay thế tự tâm mình với người khác. Học giả du già Ấn Độ Shantideva giải thích sự thực hành này của việc bình đẳng và hoán đổi tự thân với người khác tường tận trong Hướng Dẫn Lối Sống của Bồ tát (Bồ Tát Hạnh), và nhiều vị Tây Tạng đã luận giải về tác phẩm này.

Lòng từ bi mở rộng đến mỗi một chúng sanh, không chỉ bè bạn, hay người thân hay những ai trong những hoàn cảnh kinh khủng. Để phát triển một sự thực hành từ bi đến sự mở rộng tròn vẹn nhất, thì chúng ta phải thực hành nhẫn nhục. Shantideva nói với chúng ta rằng nếu sự thực hành nhẫn nhục thật sự kích thích tâm ta và đem đến một sự thay đổi, thì ta bắt đầu thấy các kẻ thù ta như một người bạn thân, ngay cả là những người hướng dẫn tâm linh.

Những người thù địch cung cấp cho ta một cơ hội tuyệt vời nào đó để thực hành nhẫn nhục, bao dung và từ bi. Shantideva cho chúng ta nhiều thí dụ tuyệt vời về điều này trong hình thức của những sự đối thoại giữa khía cạnh tích cực và tiêu cực của chính tâm thức ngài. Sự quán chiếu của ngài về lòng từ bi và nhẫn nhục rất hữu dụng trong sự thực hành của chính tôi. Hãy đọc chúng và trọn tâm hồn của bạn có thể được chuyển hóa. Đây là một thí dụ:

Đối với một hành giả của từ ái và bi mẫn, kẻ thù là một trong những vị thầy quan trọng nhất. Không có kẻ thù thì ta không thể thực hành bao dung, và không có sự bao dung thì ta không thể xây dựng một căn bản mạnh mẽ của lòng bi mẫn. Do thế, nhằm để thực hành bi mẫn, chúng ta phải có một kẻ thù.
Khi chúng ta đối diện kẻ thù của ta, người sẽ tổn thương ta, đó thật sự là thời gian để thực tập bao dung. Vì vậy, một kẻ thù là nhân để thực tập bao dung; bao dung là hệ quả hay kết quả của một kẻ thù. Thế nên, đây là nguyên nhân và hệ quả. Như được nói, “Một khi điều gì đó đã có mối quan hệ nhân duyên từ việc ấy, ta không thể xem việc phát sinh ấy như một tác hại; đúng hơn nó hổ trợ cho việc phát sinh hệ quả.”

Quán chiếu trên loại lý  luận này có thể giúp để phát triển lòng nhẫn nhục sâu rộng, là thứ, vốn hóa ra phát triển một lòng bi mẫn đầy năng lực. Lòng bi mẫn thật sự được căn cứ trên lý trí. Lòng bi mẫn thông thường hay yêu thương bị giới hạn bằng khao khát hay dính mắc.

Nếu đời sống của ta là dễ dàng và mọi thứ đang diễn tiến êm thấm, thì ta có thể duy trì lòng tự phụ. Tuy nhiên, khi ta đối diện với những hoàn cảnh thật sự tuyệt vọng, thì không có thời gian để giả vờ; ta phải đối diện với thực tại. Những thời gian khó khăn xây dựng lòng quyết tâm và sức mạnh nội tại. Qua chúng, chúng ta cũng có thể biết rõ sự vô ích của sân hận. Thay vì nổi giận, hãy nuôi dưỡng một sự ân cần và tôn trọng sâu sắc đối với những người gây rắc rối vì bằng việc tạo nên những hoàn cảnh khó khăn như vậy, thì họ cung cấp cho ta những cơ hội vô giá để thực tập lòng bao dung và nhẫn nhục.

Đời sống của tôi không phải là thời gian hạnh phúc; tôi đã phải trải qua nhiều kinh nghiệm khó khăn, kể cả đánh mất quê hương vì sự xâm lược của Trung Cộng và cố gắng để tái lập nền văn hóa của chúng tôi trong những xứ sở lân bang. Tuy vậy, tôi xem những thời điểm khó khăn này trong số những thời gian quan trọng nhất trong cuộc sống của tôi. Qua chúng, tôi đã đạt được nhiều kinh nghiệm mới và học hỏi được nhiều ý tưởng mới – chúng làm cho tôi thực tế hơn. Khi tôi còn trẻ và sống phía trên cao của  thủ đô Lhasa trong cung điện Potala, tôi thường nhìn vào cuộc sống của thành phố qua một kính viễn vọng. Tôi cũng đã học được nhiều qua tán gẫu với những phu quét dọn trong cung. Họ giống như tờ báo của tôi, liên hệ đến những gì ngài Nhiếp chính đang làm và những việc tham nhũng cùng tai tiếng đang diễn ra. Tôi luôn luôn vui vẻ để lắng nghe, và họ tự hào để nói với Đức Đạt Lai Lạt Ma về những gì đang xảy ra trên đường phố. Những sự kiện khắc nghiệt đã bày ra sau sự xâm lăng năm 1959 buộc tôi trở thành liên hệ trực tiếp trong những vấn đề mà trái lại sẽ được giữ khoảng cách với tôi. Như một kết quả, tôi đi đến phải chọn một đời sống của chí nguyện hành động xã hội trong thế giới khổ đau này.

Thời gian khó khăn nhất cho tôi là sau khi Trung Cộng xâm lược. Tôi đã cố gắng để  làm hài lòng những kẻ xâm lăng để không làm tình hình tệ hại tồi tệ hơn. Khi một phái đoàn viên chức nhỏ Tây Tạng ký vào bản thỏa thuận mười bảy điểm mà không có sự đồng ý của tôi và chính phủ, chúng tôi đã để như vậy mà không có sửa đổi nhưng cố gắng để làm việc với bản thỏa thuận. Nhiều người Tây Tạng phẩn uất nó, nhưng khi họ biểu lộ sự đối kháng thì Trung Cộng phản ứng thậm chí khắc nghiệt  hơn. Tôi bị kẹt ở giữa, cố gắng để làm nguôi tình hình. Hai vị quyền thủ tướng phàn nàn về các điều kiện với chính phủ Trung Cộng, vốn họ muốn tôi cách chức họ. Đây là loại vấn đề mà tôi phải đối diện hàng ngày khi nào chúng tôi vẫn còn ở Tây Tạng. Chúng tôi không thể tập trung trong vấn đề cải thiện hoàn cảnh của chúng tôi, nhưng tôi đã thiết lập một hội đồng cải cách giảm phí nợ quá mức và v.v…

Trái với sự mong đợi của Trung Cộng, tôi lần đầu tiên viếng thăm Ấn Độ năm 1956 để kỷ niệm Phật Đản sanh lần thứ 2500. Trong khi ở Ấn Độ tôi phải có quyết định khó khăn là có nên trở lại Tây Tạng không. Tôi đã nhận nhiều thông tin về cuộc nổi dậy ở miền Đông Tây Tạng, và nhiều viên chức ở Tây Tạng khuyên tôi không nên trở về. Cũng thế, từ kinh nghiệm quá khứ, tôi biết rằng khi Trung Cộng phát triển thêm sức mạnh quân đội, thì thái độ của họ sẽ trở nên khắc nghiệt hơn. Chúng tôi có thể thấy rằng không có hy vọng gì nhiều, nhưng vào lúc ấy chúng tôi không biết rõ rằng chúng tôi có được sự bảo đảm hoàn toàn về sự hổ trợ hiệu quả từ chính phủ Ấn Độ hay từ những chính phủ khác hay không.

Cuối cùng chúng tôi đã chọn trở lại Tây Tạng. Nhưng năm 1959, khi có một sự đào thoát hàng loạt đến Ấn Độ, thì hoàn cảnh dễ dàng hơn vì tình trạng khó xử đã biến mất. Chúng tôi có thể đặt tất cả mọi năng lượng và thời gian trong việc xây dựng một cộng đồng vững mạnh với nền giáo dục hiện đại cho giới trẻ và cùng lúc cố gắng để bảo tồn những cung cách truyền thống của chúng tôi về giáo dục và thực hành Đạo Phật. Chúng tôi bây giờ đang làm việc trong một không khí của tự do mà không có sợ hãi.

Sự thực hành của chính tôi đã được lợi lạc từ một cuộc sống với vô vàn nhiễu loạn và vấn nạn. Quý vị cũng có thể đi đến thấy những thử thách gay go mà  quý vị phải chịu đựng trong khi làm sâu sắc sự thực tập của quý vị.

BÌNH ĐẲNG VÀ HOÁN ĐỔI TỰ THÂN VỚI NGƯỜI KHÁC

Như Shantideva giải thích sự thực hành này, trước tiên chúng ta nhận ra rằng mỗi một chúng sanh khác muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, giống như ta, trong cung cách nền tảng này ta và họ bình đẳng. Sau đó, khi ta xét rằng ta chỉ là một con người đơn lẻ so lường với vô số các chúng sanh khác, ta nhận ra rằng sẽ là hoàn toàn vô lý hoặc là quên lãng quyền lợi của những người khác hay lợi dụng họ vì lợi ích của riêng ta. Sẽ là hợp lý vô cùng để cống hiến hết mình cho việc làm của họ.

Khi ta xem xét hoàn cảnh trong cách này, nó trở thành rất rõ ràng. Bất chấp ta quan trọng như thế nào, thì ta chỉ là một con người đơn lẻ. Ta có cùng quyền để hạnh phúc như mọi người khác, nhưng sự khác biệt là ta chỉ là một, và họ là rất nhiều. Để đánh mất hạnh phúc của một cá nhân là rất quan trọng, nhưng không quan trọng như việc làm mất hạnh phúc của nhiều người khác. Từ quan điểm này, ta có thể trau dồi lòng bi mẫn, từ ái, và tôn trọng những người khác.

Trong một ý nghĩa, toàn bộ loài người cùng thuộc về một gia đình duy nhất. Chúng ta cần ôm ấp sự đồng nhất của nhân loại và biểu lộ sự quan tâm cho mọi người – không chỉ gia đình tôi hay xứ sở tôi hay lục địa tôi. Chúng ta phải biểu lộ sự quan tâm cho tất cả mọi người, không chỉ một ít người giống với chúng ta. Những khác biệt về tôn giáo lý tưởng, chủng tộc, hệ thống kinh tế, hệ thống xã hội, và chính quyền tất cả là thứ yếu.

Sự Vị Kỷ Thông Tuệ

Đặt người khác lên hàng ưu tiên, tự ta tiếp theo. Việc làm này thậm chí là từ một quan điểm vị kỷ. Hãy để tôi giải thích vấn đề việc này khả dĩ như thế nào. Ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, và nếu ta biểu lộ với người khác sự ân cần, từ ái, và tôn trọng, thì họ sẽ đáp lại trong tử tế; cách này thì sự hạnh phúc của ta sẽ gia tăng. Nếu ta biểu lộ với người khác sự sân hận và thù oán, họ sẽ biểu lộ lại giống như vậy, và ta sẽ đánh mất sự hạnh phúc của chính ta. Cho nên tôi nói, nếu ta vị kỷ, ta nên vị kỷ một cách thông tuệ. Sự vị kỷ thông thường chỉ tập trung vào nhu cầu của chính ta, nhưng nếu vị kỷ một cách thông tuệ, ta sẽ đối xử với người khác cũng tốt đẹp giống như những người thân của ta. Cuối cùng, sách lược này sẽ phát sinh sự hài lòng hơn, hạnh phúc hơn. Do vậy, thậm chí từ một quan điểm vị kỷ, ta nhận được những kết quả tốt đẹp hơn bằng việc tôn trọng những người khác, phục vụ người khác, và làm giảm thiểu tự ngã.

Khi chúng ta quan tâm về những  người khác, lợi lạc của chính ta cũng tự động đầy đủ. Hãy quan tâm những điều không đạo đức của hành động và lời nói, vốn là những thứ làm con người phải sanh ra trong một hoàn cảnh xấu. Một người nào đó với một quan điểm nho nhỏ tránh giết hại, thí dụ, vì một động cơ không tích tập một nghiệp xấu in dấu trong tâm thức của người ấy. Một người nào đó với một tầm nhìn hơi rộng rãi hơn tránh giết hại là việc thực tập nhằm để xa rời hoàn toàn cõi sanh tử luân hồi có thể bị tiếp tục, bằng việc suy nghĩ rằng sát sanh sẽ ngăn ngừa việc tái sanh trong một kiếp sống tốt đẹp . Tuy nhiên, những  người vị tha xem mạng sống của những người khác cũng quan trọng như của họ và tránh giết người vì muốn bảo vệ sự sống của người khác. Sự yêu mến người khác này làm nên một sự khác biệt lớn lao trong sức mạnh của động cơ để tránh việc giết hại. Những người mà động cơ của họ là vị kỷ có thể nghĩ rằng ngay cả nếu họ phạm một hành vi không lành, thì họ có thể xưng tội và tìm kiếm sự cải thiện nghiệp nhân, trái lại người nào đó vốn coi trọng sự sống của người khác quan tâm về khổ đau của người khác và biết rằng không có lợi ích gì với việc thú tội giết người. Cũng đúng với việc trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời chia rẻ, nói lời độc ác, và tôi nghĩ, ngay cả, nói lời vô ích.

Một cung cách khác mà mối quan tâm khác cũng rất quý giá là đặt hoàn cảnh của chính ta vào trong nhận thức. Về một mặt tôi đặc biệt đau buồn về tình trạng của Tây Tạng, nhưng rồi thì tôi nhớ rằng tôi đã tiếp nhận giới nguyện Bồ tát và mỗi ngày thường quán chiếu lời cầu nguyện của Shantideva:

Khi thế gian vẫn còn tồn tại
Khi chúng sanh vẫn còn hiện hữu
Nguyện tôi vẫn hiện diện để hổ trợ
Xoa dịu tất cả khổ đau của họ

Ngay khi tôi nhớ điều này, tất cả cảm giác gánh nặng lập tức tiêu tan, giống như áo quần nặng nề được trút khỏi tôi.

Chí nguyện vị tha xoa dịu những nguyên nhân đặc biệt của thất vọng bằng việc đặt chúng trong một quan điểm rộng rãi hơn; những nguyên nhân này không được làm ta chán nản. Hầu hết những rắc rối, lo lắng, và buồn phiền của riêng ta trong kiếp sống này đều đến từ sự tự yêu mến. Như tôi đã đề cập ở trên, vị kỷ một cách thông tuệ không là tiêu cực, nhưng tính vị kỷ thiển cận, chỉ quan tâm với sự hài lòng với sự hài lòng tức thời, là phản tác dụng, là chướng ngại ẩn tàng. Một quan điểm hẹp hòi làm cho một rắc rối thậm chí là nhỏ đến không thể chịu đựng được. Việc quan tâm đến tất cả chúng sanh làm rộng lớn quan điểm của ta, làm ta thực tế hơn. Trong cách này, thì một thái độ vị tha giúp làm giảm thiểu khổ đau của ta ngay lập tức.

Lời đề nghị nghiêm túc của tôi là bạn hãy thực hành từ ái và ân cần cho dù bạn có tin trong một tôn giáo hay không. Qua sự thực tập này, thì ta đi đến nhận ra giá trị của bi mẫn và ân cần vì sự hòa bình tâm hồn của chính ta. Cuối cùng, mặc dù ta có thể không quan tâm đến người khác, nhưng ta rất quan tâm đến chính ta – không cần hỏi về điều đó – cho nên ta phải muốn thành tựu một tâm thức an bình và một đời sống hàng ngày hạnh phúc hơn. Nếu ta thực hành ân cần hơn và bao dung hơn, thì ta sẽ thấy nhiều hòa bình hơn. Không cần phải thay đổi bàn ghế trong nhà, hay chuyển đến một ngôi nhà mới. Hàng xóm của ta có thể rất ồn ào và rất khó chịu, nhưng khi nào tâm tư chính ta là tĩnh lặng và bình an, thì hàng xóm sẽ không quấy rầy ta nhiều. Tuy nhiên, nếu ta nói chung là cáu kỉnh, ngay cả khi bạn thân nhất của ta thăm viếng, thì ta cũng không thể trở nên vui mừng thật sự. Nếu ta tĩnh lặng, thậm chí kẻ thù của ta cũng không thể quấy rầy ta.

Đó là tại sao tôi nói rằng nếu ta thật sự vị kỷ, thì tốt hơn là hãy vị kỷ một cách thông tuệ. Cách này ta có thể làm tròn động cơ vị kỷ của ta để hạnh phúc. Như thế tốt hơn là ích kỷ, hay vị kỷ một cách ngu ngơ, vốn sẽ không thành công.

Quán tưởng

Những kỷ năng quán tưởng sau đây là rất hữu ích trong sự thực hành hàng ngày:

1-    Ta duy trì sự tĩnh lặng và có lý trí.
2-    Trước mặt ta bên phải, hãy tưởng tượng một phiên bản khác của chính ta, một người vô cùng tự cao tự đại ích kỷ, một loại người sẽ làm mọi thứ để làm hài lòng một sự thôi thúc.
3-    Trước mặt ta bên trái, hãy tưởng tượng một nhóm người nghèo không thân thuộc với ta, kể cả một số người túng thiếu, cơ cực, khổ đau.
4-    Hãy tĩnh lặng và không thành kiến khi ta quán sát hai phía này. Bây giờ hãy nghĩ, “Cả hai bên đều muốn hạnh phúc. Cả hai bên đều muốn trút bỏ đau khổ. Cả hai bên đều có quyền để hoàn thành những mục tiêu này.”
5-    Hãy quan tâm điều này: Chúng ta thường làm việc lâu dài và cần mẫn vì lương bổng tốt hơn, hay chúng ta dành một số tiền lớn trong hy vọng gặt hái nhiều hơn nữa chúng ta sẳn sàng để thực hiện những hy sinh tạm thời vì lợi ích dài lâu. Cùng luận lý ấy, đó là một ý nghĩ đúng đắn cho một cá nhân thực hiện những hy sinh nhằm để hổ trợ một điều tốt đẹp hơn. Tự nhiên tâm hồn ta sẽ chiếu cố phía nhiều người khổ đau.
Như một người quán sát không thành kiến, hãy quan tâm sự tự cao tự đại của tự ngã chính ta ở đấy phía bên phải ta, việc quên lãng lợi ích của rất nhiều người, bất chấp họ khổ đau khủng khiếp thế nào. Đơn giản là không tốt như thế ấy. Mặc dù cả hai phía mà ta đang quán tưởng có một quyền bình đẳng để hạnh phúc, thì không có cách nào để tránh nhu cầu áp đảo của số người đông đảo kia. Vấn đề là tự chính ta phải phục vụ và giúp đở những người khác.

Thể trạng này của tâm thức là khó khăn không thể phủ nhận, nhưng nếu ta thực hành nó với một quyết tâm rộng lớn, thế thì năm này qua năm khác tâm hồn ta sẽ thay đổi, sẽ cải thiện. Giữa những năm sáu mươi tôi đã giảng dạy một giáo huấn của Tông Khách Ba về Những Giai Đoạn Của Con Đường Giác Ngộ, trong lúc tôi đề cập rằng nếu tôi thành tựu trình độ thứ nhất của sự diệt độ chân thật các cảm xúc phiền não, tôi sẽ nghĩ ngơi lâu dài, tôi thật sự suy nghĩ như thế. Mặc dù tôi  ngưỡng mộ lòng vị tha, nhưng tôi nghĩ thật quá khó khăn để phát triển. Thế rồi khoảng năm 1967, tôi đã tiếp nhận giáo huấn Hướng Dẫn Lối Sống của Bồ tát (Nhập Bồ Tát Hạnh) của Shantideva từ một Lạt Ma Kagyu Kunu Tenzin Gyeltsen và đã bắt đầu quán chiếu nhiều hơn về ý nghĩa của nó, cùng với Tràng Hoa Quý Báo (Bảo Hành Vương Chính Luận) của Long Thọ. Cuối cùng tôi đã đạt được một sự tự tin nào đó rằng có đủ thời gian tôi có thể phát triển trình độ cao siêu của lòng bi mẫn này. Bây giờ, bắt đầu khoảng 1970, mỗi buổi sáng khi quán chiếu về lòng vị tha, tôi đã khóc. Đây là vấn đề sự chuyển hóa đã xảy ra như thế nào. Tôi không cho rằng tôi đã phát triển một trình độ cao siêu của lòng vị tha, nhưng tôi tự tin rằng tôi có thể làm việc ấy.

Ngay cả nếu kinh nghiệm của ta về động cơ vị tha là khiêm tốn, thì chắc chắn nó sẽ cho bạn một mức độ an bình [nào đó] của tâm hồn. Sự phát triển việc quan tâm cho người khác có một năng lực rộng lớn để chuyển  hóa tâm thức ta. Nếu ta thực hành lòng bi mẫn vì lợi ích của tất cả chúng sanh – kể cả thú vật – rồi thì sự phước đức vô hạn ấy sẽ tích lũy cho ta.

NHẬN RA TRÁCH NHIỆM CỦA CHÚNG TA

Nếu ta không thể, trong thời gian này, vươn lên trình độ yêu mến người khác hơn chính mình, thì tối thiểu ta có thể bắt đầu để thấy rằng quên lãng người khác là không đúng. Chúng ta có thân thể con người và năng lực phán đoán của loài người, nhưng nếu chúng ta chỉ sử dụng chúng vì kết quả vị kỷ của riêng mình chứ không phải vì lợi ích của người khác, thì chúng ta không hơn thú vật. Trong thực tế những con kiến, trích dẫn chỉ một thí dụ, làm việc không vị kỷ vì cộng đồng; thì con người chúng ta đôi khi nhìn không đẹp nếu so sánh. Chúng ta được cho là những tạo vật cao cấp hơn, cho nên chúng ta phải hành động phù hợp với bản chất cao cấp của chúng ta.

Nếu chúng ta nhìn vào lịch sử thế giới, hầu hết những thảm họa liên hệ đến sự chết chóc kinh khiếp của vô số mạng sống đều do con người làm ra. Con người đã làm ra tình trạng hổn độn. Ngày nay hàng triệu con người sống liên tục trong sợ hãi về xung đột chủng tộc, dân tộc và kinh tế. Ai chịu trách nhiệm cho sự sợ hãi này? Không phải thú vật. Những hậu quả của chiến tranh kể cả những chết chóc của nhiều thú vật, nhưng điều này không làm chúng ta phiền muộn, chúng ta chỉ đơn giản quan tâm với chính chúng ta mà thôi. Người ta nói nhiều về việc chấm dứt chiến tranh, nhưng chúng ta phải vượt khỏi những suy nghĩ ước mong. Giá trị của loài người chúng ta là gì khi chúng ta sống mà không biểu lộ lòng thương cảm, không biểu lộ sự quan tâm, chỉ giết hại và ăn thú vật, và đánh nhau và giết hại hàng nghìn người? Trách nhiệm của chúng ta là dọn dẹp những hổn độn ấy.

Ngày nay, một trong những cung cách tốt đẹp nhất để đối thoại là qua truyền hình. Những người làm việc ở đài truyền hình và mong ước thực hành lý tưởng cao quý quan tâm đến người khác có thể làm nên một sự đóng góp đáng kể. Mặc dù những câu chuyện về tham muốn và giết người cung ứng sự giải trí thú vị, nhưng chúng có những tác động tiêu cực sâu trong tâm thức. Chúng ta không cần sự giải trí loại này trong mọi lúc – mặc dù đây chắc chắn không phải là trách nhiệm của tôi!

Chúng ta phải giáo dục giới trẻ của chúng ta trong sự thực hành về bi mẫn thương cảm. Giáo viên và cha mẹ làm thấm nhuần trong trẻ con về những giá trị thật sự, ấm áp tình người đến những lợi ích vô hạn. Tôi đã chú ý trong một tờ báo rằng một hảng đồ chơi thường chế tạo súng trường đồ chơi và v.v… đã chấm dứt một cách cố ý việc sản xuất những đồ chơi bạo động vào dịp Giáng sinh. Một ý tưởng tuyệt vời biết bao! Hành động trọng tâm khác nữa là gì!

QUYẾT ĐỊNH THÀNH TỰU GIÁC NGỘ

Một khi chúng ta đã thâm nhập vào trọng điểm mong muốn sâu sắc để làm bất cứ điều gì có thể để xoa dịu khổ đau và nhổ gốc rể của nó, và để hổ trợ tất cả chúng sanh đạt đến hạnh phúc và nguyên nhân của nó, hãy quán chiếu vấn đề việc này có thể thành đạt như thế nào. Nó chỉ có thể xảy ra nếu mọi người cũng đi đến thấu hiểu việc này hoạt động như thế nào, và rồi thì triển khai thực hiện những sự thực hành đó. Do vậy, chí nguyện của chúng ta vì lợi ích cao đẹp nhất của người khác có thể được hổ trợ tốt đẹp nhất bằng việc giải thích cho họ vấn đề thực hành như thế nào và thái độ nào phải từ bỏ, vì thế chính họ có thể có năng lực để đạt đến hạnh phúc và xa lìa khổ đau. Không có cách nào khác. Để cho việc này xảy ra, tự chính ta phải biết những thiên hướng và quan tâm của họ cũng như những gì cần giảng giải cho họ.

Do thế, vì lợi ích của việc giúp đở người khác, chúng ta phải được chuẩn bị đầy đủ. Sự chuẩn bị đó là gì? Chúng ta phải tiêu trừ tất cả những chướng ngại trong tâm thức của chính chúng ta để biết mọi thứ có thể biết được. Những hành giả từ bi – được gọi là Bồ tát – thật sự muốn  là không chỉ chiến thắng những chướng ngại vốn chỉ ngăn trở sự giải thoát của chính họ, mà họ muốn dọn đường đến toàn tri toàn giác vì thế họ mới có thể đạt được sự thâm nhập vào những thiên hướng và nhận thức của người khác vốn là những kỷ năng sẽ hổ trợ họ. Nếu đó chỉ là một vấn đề của sự lựa chọn, các vị Bồ tát sẽ chọn việc tiêu trừ những chướng ngại để đạt toàn tri toàn giác trước. Tuy nhiên, những cảm xúc phiền não (giam giữ chúng ta trong vòng sanh tử luân hồi) xây đắp những chướng ngại đến toàn tri toàn giác, vốn là những khuynh hướng trong tâm thức làm các hiện tượng xuất hiện giống như chúng tồn tại một cách cố hữu. Không vượt thắng trước cảm xúc phiền não chính yếu – thì ta không thể chiến thắng những khuynh hướng lắng đọng trong tâm thức bởi sự si mê ấy. Qua việc tịnh hóa những chướng ngại phiền não cững như những khuynh hướng bị thiết lập bởi chúng, thì chúng ta có thể chuyển hóa tâm thức chính chúng ta thành tâm thức toàn tri toàn giác của một Đức Phật, sự Giác Ngộ tròn vẹn.

Tóm lại, để đem đến một sự hạnh phúc hoàn toàn cho người khác thì nhất thiết chính mình phải Giác Ngộ. Khi chúng ta thông hiểu điều này và quyết tâm tầm cầu sự Giác Ngộ vì lợi ích của chúng sanh, thì điều này khuynh hướng vị tha đến Giác Ngộ, hay tâm bồ đề. Bằng việc theo sự thực hành của Shantideva của việc xem tự thân và người khác là bình đẳng trong việc phấn đấu vì hạnh phúc và rồi thì chuyển sự nhấn mạnh trong những  mục tiêu của chính ta qua những người khác số nhiều vô lượng, thì ta có thể phát sinh năng lực của tâm bồ đề trong ta.

Có ba loại thái độ vị tha khác nhau trong ba loại người:
-         Loại thứ nhất giống như quân vương, khao khát thành tựu Quả Phật trước, như cách hiệu quả nhất để hổ trợ người khác.
-         Loại thứ hai như người chèo thuyền, mong muốn đến bờ giác với sự Giác Ngộ cùng với tất cả những người khác.
-         Loại thứ ba giống như người chăn cừu, khao khát rằng tất cả mọi người khác nên thành tựu Quả Phật trước, trước khi người ấy Giác Ngộ.

Hai thứ sau chỉ biểu lộ thái độ từ bi của những loại hành giả nào đó; trong thực tế không có trường hợp như người chèo thuyền, của việc mọi người thành tựu Giác Ngộ đồng thời, cũng không có trường hợp như người chăn cừu, mọi người thành tựu trước tự thân. Đúng hơn, sự Giác Ngộ luôn luôn đến trong cách thứ nhất, như một vị quân vương, vì các vị Bồ tát cuối cùng quyết định thành tựu Giác ngộ nhanh nhất như có thể vì thế họ có thể hổ trợ người khác một cách hiệu quả hơn trên một quy mô rộng lớn. Như một hiền nhân Tây Tạng Sakya Pandita nói trong Sự Khác Biệt Của Ba Thệ Nguyện, các vị Bồ tát có hai loại nguyện cầu, những thứ có thể hoàn thành và những thứ không thể. Trong Hướng Dẫn Lối Sống của Bồ tát (Nhập Bồ tát hạnh) của Shantideva có nhiều thí dụ về những nguyện ước vốn không thể đạt được nhưng chúng hiện hữu vì lợi ích của việc phát triển một ý chí và quyết tâm mạnh mẽ. Thí dụ, việc cho đi hạnh phúc của chính ta và đón nhận khổ đau của người khác trên chính ta thực tế là không thể, có lẻ ngoại trừ những hình thức nho nhỏ của khổ đau. Giống như sự thực tập này, mặc dù không thực tế, nhưng có ý làm gia tăng tín quả cảm của lòng bi mẫn, những suy tư về người chèo thuyền và người chăn cừu phục vụ như để biểu lộ nguyện ước đầy năng lực của chư vị Bồ tát để giúp đở người khác.  

Để tôi cho một thí dụ về sự dâng hiến này vốn đã được đưa đến trình độ của kinh nghiệm thâm sâu. Có một hành giả bác học từ tu viện Drashikyil ở tỉnh Amdo vùng Đông Bắc Tây Tạng. Năm 1950 khi Trung Cộng xâm lăng và bắt một nghìn người trong số ba nghìn tu sĩ của tu viện, một trăm người trong số đó được ghi nhận là bị giết chết. Vị ấy là một trong số đó. Bị đưa đến nơi xử tử, và ngay trước khi bị bắn, vị ấy đã cầu nguyện:

Nguyện cho tất cả những hành vi xấu ác, các chướng ngại, và khổ đau của chúng sanh
Được chuyển đến tôi, không ngoại trừ ai, vào lúc này,
Và niềm hạnh phúc cùng phước đức của tôi được gửi đến những người khác.
Nguyện cho tất cả mọi tạo vật được thấm nhuần với hạnh phúc!



Chỉ trước một vài thời khắc trước khi bị giết, vị ấy có sự hiện diện tâm linh để nhớ lại sự thực hành tâm linh tiếp nhận khổ đau của người khác và ban cho niềm hạnh phúc của chính vị ấy! Thật rất dễ dàng để nói về sự thực tập như vậy khi mọi thứ diễn ra tốt đẹp, nhưng vị ấy có thể thực hiện nó vào thời điểm khắc nghiệt nhất. Đây là một biểu hiện rõ ràng của thành tựu tâm linh đạt được từ sự thực hành lâu dài.

-*-

Như Hướng Dẫn Lối Sống Bồ tát của Shantideva nói, nếu một người mù tìm được châu báu trong một đống rác, người ấy sẽ trân trọng nó. Nếu giữa đống rác của tham muốn, thù oán, và si mê – các cảm xúc làm khổ sở tâm thức chúng ta và thế  giới của chúng ta – chúng ta phát sinh một thái độ bi mẫn, thì chúng ta nên trân trọng nó như châu báu. Sự khám phá quý giá này có thể cho chúng ta hạnh phúc và sự tĩnh lặng thật sự. Những phương cách chẳng hạn như đi nghĩ mát hay dùng thuốc phiện chỉ mang đến sự khuây khỏa tạm thời. Một thái độ tu tập quan tâm chân thành đến người khác, mà trong đó ta trân trọng người khác hơn chính mình, là hữu ích cho cả ta và người khác. Nó không làm tổn hại ai cả, tạm thời hay lâu dài về sau. Bi mẫn là một châu báu vô giá.

Hãy quan tâm đến người khác trong mọi lúc. Nếu không thể giúp đở người khác, thì đừng làm tổn hại. Đây là ý nghĩa trọng tâm của việc thực hành đạo đức.

TOÁT YẾU THỰC HÀNH HÀNG NGÀY

1-    Hãy duy trì sự tĩnh lặng và phù hợp lý trí.
2-    Trước mặt ta phía bên phải, hãy tưởng tượng một phiên bản khác của chính ta, tự cao tự đại và ích kỷ.
3-    Trước mặt ta phía bên trái, hãy tưởng tượng một nhóm người nghèo nàn, những chúng sanh đau khổ không thân thuộc với ta, không phải bè bạn hay kẻ thù.
4-    Hãy quán sát hai  phía từ quan điểm tĩnh lặng thuận lợi của ta. Bây giờ hãy nghĩ, “Cả hai đều muốn hạnh phúc. Cả hai đều muốn xa lìa khổ đau. Cả hai đều có quyền để hoàn thành những mục tiêu này của họ.”
5-    Hãy quan tâm điều này: Giống như thông thường chúng ta sẵn sàng để thực hiện những hy sinh tạm thời cho sự tốt đẹp lớn hơn về sau, cũng vậy lợi ích của số lượng lớn hơn chúng sanh khổ đau về phía trái của ta là quan trọng hơn cá nhân con người vị kỷ phía bên phải ta. Hãy chú ý tâm ta tự nhiên chuyển sang phía của số lượng người nhiều hơn.

-*-

Ẩn Tâm Lộ, Monday, March 4, 2019


NGƯỠNG MỘ GIÁC NGỘ




Nguyên bản: Aspiring to Enlightenment
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

-*-

TẠI SAO CẦU GIÁC NGỘ

Bi mẫn là chìa khóa để thành tựu một trình độ sâu xa hơn của đạo đức, tuy thế chúng ta có giúp đở người thế nào khi chính chúng ta bị bao vây bởi những thái độ sai lầm? Nếu chính chúng ta không ở trong một vị trí tốt đẹp hơn, thì thật khó khăn để giúp đở người khác ở một phạm vi rộng lớn như chúng ta đang thảo luận. Thí dụ, nếu chúng ta sắp giúp đở những người mù chữ, thì chúng ta phải có học vấn. Tương tự thế, để giúp đở vô số chúng sanh thì chúng ta phải đạt được Quả Phật, vì một Đức Phật có tất cả những phẩm chất cần thiết để hổ trợ họ - thông hiểu tất cả những kỷ năng cho việc phát triển tâm linh và thần thông biết rõ ràng các cảm xúc, những mối quan tâm, các khuynh hướng của họ, v.v… Khi chúng ta bị kích thích qua sự thực hành bi mẫn để cảm thấy quan tâm cho người khác, thì đó là lúc những giá trị mới đang bén rễ. Chúng ta chuẩn bị nền tảng tâm thức chúng ta cho những giá trị mới này bằng việc dấn thân trong những nghi thức ngưỡng mộ Giác Ngộ.

Chúng ta đã được trang bị với những phẩm chất căn bản để đạt đến Giác Ngộ - bản chất rực sáng và tri nhận của tâm thức chúng ta. Do vậy, hãy tập trung trong tư tưởng, “Tôi sẽ thành tựu đạo quả Giác Ngộ vô thượng vì lợi ích của chúng sanh trong vô lượng thế giới.” Hãy nuôi dưỡng xu hướng này cho đến khi nó mạnh mẽ. Nghi thức cho việc ngưỡng mộ đến sự Giác ngộ vị tha là rất hữu ích trong tiến trình này.

BẢY SỰ THỰC HÀNH CÔNG ĐỨC

Nghi thức này, nên trở thành một bộ phận trong sự thiền tập hàng ngày của chúng ta, bắt đầu với bảy bước theo sau một sự cúng dường đặc biệt. Những sự thực tập này làm gia tăng năng lực của công đức, lần lượt hướng ta một sự chuyển hóa chắc chắn hơn. Qua những hình thức dâng hiến này ta sẽ tăng cường chí nguyện đối với từ bi; như chúng ta thấy tiếp theo đây, tất cả những thứ này liên hệ đến việc tận tâm đối với những bậc hiền thánh đặc biệt đã giảng dạy lòng từ bi:

1-    Tôn kính: Hãy tưởng tượng Đức Phật Thích Ca được vây quanh bởi vô số Bồ tát, đầy trên bầu trời trước mặt ta, và tỏ lòng tôn kính với thân thể, lời nói, và tâm ý của chúng ta. Hãy chấp tay lại, và cảm nhận một cách mãnh liệt rằng chúng ta đang trân trọng quy y trong chư Phật và chư Bồ tát. Hãy nói lớn rằng, “Thành kính đảnh lễ Đức Phật Thích Ca và chư Bồ tát.”
2-    Cúng dường: Hãy dâng lên những sự cúng dường, chẳng hạn như trái cây hay nhang đèn. Hãy tưởng tượng mọi thứ có thể thích hợp cho việc cúng dường – cho dù ta có nó hay không – kể cả thân thể ta, tài sản ta, và đạo đức của chính ta. Rồi thì hãy tưởng tượng việc cúng dường toàn bộ những thứ này đến chư Phật và chư Bồ tát.
3-    Sám hối: Tất cả chúng ta chịu trách nhiệm cho vô số hành vi xấu ác của thân thể, lời nói, và tâm ý vì động cơ của tham muốn để làm tổn hại. Trong tâm linh của sám hối, hãy phát triển một cảm nhận hối lỗi vì đã làm những việc không lành, giống như qua những hành động ấy ta đã ăn thuốc độc. Cũng hãy phát sinh một ý định kiêng ngăn những hành vi ấy trong tương lai giống như khác đi thì có thể làm ta mất mạng. Hãy nghĩ, “Từ đáy lòng của tôi, tôi xin sám hối với chư Phật và chư Bồ tát những hành vi xấu ác mà tôi đã làm.” Cung cách chính yếu để tịnh hóa những hành vi không lành là qua việc hối lỗi. Sự hối lỗi của ta càng lớn, thì chủ tâm của ta càng mạnh hơn để không lập lại chúng trong tương lai.
4-    Ngưỡng mộ: (tùy hỉ công đức) Từ trong chiều sâu của tâm thức hãy ngưỡng mộ những hành vi đạo đức của chính ta và của những người khác. Hãy hoan hỉ với những thứ tốt đẹp mà ta đã làm trong kiếp sống này. Hãy tập trung vào những việc làm tốt đẹp đặc biệt chẳng hạn như bố thí, làm từ thiện. Sự kiện rằng ta có một thân người trong kiếp sống này và cơ hội để thực hành lòng vị tha là chứng cớ của những hành động đạo đức trong những kiếp sống quá khứ. Do vậy, hãy hoan hỉ với những đạo đức này, và cũng hãy nghĩ về chính mình, “Tôi thật sự đã làm đươc những điều gì đó tốt đẹp.” Cũng hãy tùy hỉ trong những đức hạnh của những người khác, cho dù ta thấy chúng tận mắt hay không. Hãy hoan hỉ trong vô biên công đức của chư Phật và chư Bồ tát trong vô lượng kiếp. Bằng việc hoan hỉ trong những đạo đức của chính mình và của những người khác, ta sẽ giữ cho ta khỏi việc hối hận những việc làm tốt lành của ta (mong không cho từ thiện vì nó làm tài khoản ngân hàng của ta suy giảm, thí dụ thế) và ta cũng tránh trở thành ganh tỵ với những việc làm thiện lương của những người khác, hay ganh đua với họ.
5-    Khuyến thỉnh: (thình chuyển Pháp luân) Hãy thỉnh cầu chư Phật những bậc đã Giác Ngộ tròn vẹn nhưng chưa dấn thân trong việc giảng dạy giáo lý tâm linh, làm như thế nhân danh của tất cả chúng sanh đau khổ.

6-    Cầu xin: (thỉnh Phật trụ thế) Hãy nguyện cầu chư Phật không nhập niết bàn. Đây là một thỉnh nguyện đặc biệt đến chư Phật vốn đã giảng dạy và gần đến lúc nhập niết bàn.

7-    Hồi hướng: Thay vì hướng sự thực hành những bước sơ bộ đến hạnh phúc và thoải mái tạm thời trong kiếp sống này hay kiếp sống tới, hay chỉ đơn thuần được giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, hãy hồi hướng nó đến việc Giác Ngộ vô thượng. Hãy nghĩ, “Nguyện cho những hành động này giúp tôi thành tựu Giác Ngộ tròn vẹn và hoàn hảo vì lợi ích của tất cả chúng sanh.”

Sau đó hãy tưởng tượng toàn bộ hệ thống thế giới đã được tịnh hóa và cúng dường nó với tất cả những kỳ công có thể nghĩ được đến chư Phật và chư Bồ tát. Sự cúng  dường đặc biệt này nuôi dưỡng lòng từ bi bằng việc dâng cúng tất cả mọi thứ có thể mong muốn được đến những bậc đã giảng dạy nó.

CHÍ NGUYỆN GIÚP ĐỞ

Bây giờ chúng ta đã sẳn sàng cho nghi thức thật sự của việc ngưỡng mộ Giác Ngộ vì sự quan tâm cho kẻ khác. Nó có hai phần, thứ nhất là việc trì tụng sự quy y ngắn gọn: “Cho đến khi đạt đến Giảc Ngộ tôi nguyện quy y trong Phật bảo, giáo lý, và cộng đồng tâm linh siêu việt.” Trong hình thức từ bi nhất, quy y là sự phối hợp ba thái độ:

1-    Hãy quan tâm cho tình trạng khổ đau của tất cả chúng sanh, không phải chỉ cho tự thân. Cũng hãy quan tâm rằng tất cả không chỉ cầu sự cứu độ đơn thuần khỏi khổ đau mà cũng ngưỡng mộ đến sự Giác Ngộ vị tha của Quả Phật.
2-    Tin tưởng vào Đức Phật, những thể trạng chứng ngộ, và cộng đồng tâm linh, duy trì niềm tin rằng qua ba ngôi tôn quý tất cả chúng sanh sẽ tìm sự tự do khỏi tất cả khổ đau.
3-    Lòng từ bi, có nghĩa là không thể chịu đựng trước sự nô lệ của người khác với khổ đau mà không làm điều gì đó.

Hãy biết rằng Đức Phật là vị Thầy của quy y, rằng những con đường chân thật (đạo đế) và những sự chấm dứt chân thật (diệt đế) là sự quy y thật sự, và rằng những vị Bồ tát là những bậc đã thực chứng trực tiếp bản chất chân thật của mọi hiện tượng là cộng đồng tâm linh của chúng ta hướng dẫn tất cả mọi chúng sanh đến sự quy y.

Với tri thức ấy, hãy ngưỡng mộ sự Giác Ngộ vô thượng bằng việc trì tụng: “Qua sự tích tập công đức của việc bố thí, đạo đức, nhẫn nhục, nổ lực, tập trung, và tuệ trí, nguyện tôi đạt được Quả Phật để giúp đở tất cả chúng sanh.” Khi làm việc đó, hãy tự nghĩ, “Qua năng lực của những việc này nguyện tôi đạt được Quả Phật không để giúp đở chính tôi mà để phụng sự tất cả chúng sanh nhằm để giúp họ thành tựu Quả Phật.” Điều này được gọi là việc phát sinh một xu hướng từ bi để trở thành Giác Ngộ trong hình thức của một nguyện ước.

Điều này đưa chúng ta đến phần trung tâm của nghi thức. Với một nguyện ước mạnh mẽ để đạt đến Quả Phật, nhằm để phụng sự các chúng sanh khác, hãy tưởng tượng trước mặt ta một Đức Phật hay vị thầy tâm linh của chính ta tượng trưng cho ngài.

1-    Trì tụng những lời sau đây giống như ta đang lập lại nó sau Đức Phật:

Cho đến khi đạt đến Giác Ngộ, tôi sẽ quy y trong Đức Phật, giáo lý, và cộng đồng tâm linh siêu việt.
Qua sự tích tập công đức của việc bố thí, đạo đức, nhẫn nhục, nổ lực, tập trung, và tuệ trí, nguyện tôi đạt được Quả Phật để giúp đở tất cả chúng sanh.

Bằng việc nói điều này, chúng ta đang hướng những hành vi đức hạnh của ta không đến một mục tiêu nhỏ bé nào đó trong kiếp sống này, hay kiếp sống tới, nhưng đến mục tiêu to lớn nhất của tất cả - sự thành tựu giải thoát hoàn toàn cho tất cả chúng sanh. Hãy phát sinh thái độ này với sự quyết tâm to lớn.

2-    Hãy thực hiện sự trì tụng thứ hai với sự quả quyết thậm chí mãnh liệt hơn để làm cho mục tiêu vị tha này liên tục trong đời sống hàng ngày của ta:

Cho đến khi đạt đến Giác Ngộ tôi nguyện quy y trong Phật bảo, giáo lý, và cộng đồng tâm linh siêu việt.
Qua sự tích tập của công đức của sự bố thí, đạo đức, nhẫn nhục, nổ lực, tập trung, và tuệ trí, nguyện tôi thành tựu Quả Phật nhằm để giúp đở tất cả chúng sanh.

Điều này bao gồm trong nghi thức. Qua nó ta gieo trồng và nuôi dưỡng những hạt giống từ bi mạnh mẽ và không dao động.

DUY TRÌ CHÍ NGUYỆN TRONG KIẾP SỐNG NÀY

Có bốn sự thực hành nhằm mục tiêu giữ gìn lòng vị tha này khỏi suy giảm trong kiếp sống này:

1-    Trước tiên, hãy tăng cường lòng quả cảm cho việc trở thành Giác Ngộ vì lợi ích của những người khác bằng việc nhắc nhở thường xuyên những lợi ích của việc làm như vậy.
2-    Sau đó, hãy gia tăng sự quan tâm của ta vì người khác bằng việc phân chia ngày và đêm thành ba thời điểm, và trong những thời điểm đó trong ngày, hãy dành một ít thời gian, hay tỉnh giấc, để thực hành 5 bước quán tưởng được nói đến trong Chương Mở Rộng Giúp Đở, ngay cả chỉ 5 phút. Sự thực hành này rất hiệu quả; nó trở thành một thói quen thường ngày, giống như ăn uống vào một thời điểm nào đó. Nếu không thể làm thường xuyên, thì hãy quán tưởng những bước ấy 3 lần trong buổi thực hành buổi sáng kéo dài khoảng 15 phút, và làm giống như vậy vào ban đêm. Hãy suy nghĩ về mục tiêu của ta: “Nguyện cho tôi đạt đến Giác Ngộ vô thượng vì những người khác!”
3-    Sự thực hành tiếp theo đòi hỏi sự thận trọng: Trong việc cầu đạt đến Giác Ngộ vô thượng vì lợi ích của tất cả chúng sanh, hãy chắc chắn không lãng quên tinh thần về lợi ích ngay cả chỉ một người.
4-    Hãy cố gắng tích tập hai năng lực của phước đức và tuệ trí tối đa như có thể. Để gia tăng phước đức, hãy dấn thân một cách nhiệt tình vào những hành vi đức hạnh như bố thí và trì giới. Để tích lũy tuệ trí, ta phải đi đến thấu hiểu cung cách tồn tại chân thật của mọi hiện tượng. Vì đây là một chủ đề phức tạp, chúng ta sẽ khám phá sâu dài trong những chương Thẩm Tra Chúng Sanh Và Sự Vật Tồn Tại Như Thế Nào và chương Trung Đạo. Nói cho đầy đủ ở đây là thật là hữu ích để phản chiếu về vấn đề các hiện tượng sinh khởi và tồn tại tùy thuộc vào các nguyên nhân và điều kiện như thế nào.

DUY TRÌ CHÍ NGUYỆN TRONG NHỮNG KIẾP SỐNG TƯƠNG  LAI

Trong những kiếp sống tương lai mục tiêu từ bi để trở thành Giác Ngộ có thể bị yếu đi. Chúng ta có thể ngăn ngừa điều này khỏi xảy ra bằng việc từ bỏ bốn việc làm bất thiện kể dưới đây, và bằng việc rèn luyện thực hành trong bốn điều thiện tiếp theo sau:

Bốn Điều Bất Thiện

1-    Lừa dối một cao nhân chẳng hạn như một vị trụ trì, thầy truyền giới, bổn sư, hay một bạn tu về những việc tiêu cực mà ta đã làm.
2-    Làm cho những người khác dấn thân trong đạo đức hối hận với những gì họ đang làm.
3-    Chỉ trích và xem thường những người biểu lộ lòng từ bi cho những người khác.
4-    Lừa dối và trình bày sai lạc để được những người khác cung phụng.

Bốn Điều Thiện

1-    Hoàn toàn không lừa dối bất cứ ai. Có những ngoại lệ, khi việc lừa dối có thể đem lại những lợi ích lớn lao cho những người khác, nhưng rất là hiếm hoi.
2-    Hãy giúp đở những người khác hướng đến sự Giác Ngộ vị tha của Quả Phật, một cách trực tiếp hay gián tiếp.
3-    Quan tâm và đối xử với các vị Bồ tát giống như sự tôn kính Phật. Vì chúng ta không biết ai là Bồ tát hay không là Bồ tát, cho nên chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người với sự tôn trọng. Như một quy tắc chung, hãy đặt người khác trên ta.
4-    Không bao giờ lường gạt bất cứ ai và luôn luôn trung thực.

Nếu ta có quyết định rèn luyện trong những sự thực hành này để phát sinh một sự quyết tâm đạt Quả Phật vì những người khác, thế thì thực hiện sự hứa nguyện này: “Tôi sẽ duy trì sự quyết tâm của tôi và không bao giờ từ bỏ.” Những người nào không thể duy trì trình độ rèn luyện này có thể từ bỏ lời hứa nguyện thay vì thế hãy nghĩ, “Nguyện cho tôi đạt quả Giác Ngộ vô thượng vì lợi ích của tất cả chúng sanh!” Những người không phải Phật tử - Ki tô hữu, Do Thái, Hồi giáo, và v.v… - có thể phát sinh một thái độ quan tâm khác giá trị tương đương bằng việc nghĩ, “Tôi sẽ đem sự giúp đở và hạnh phúc cho tất cả chúng sanh.

MỤC TIÊU THỰC TIỂN ĐỂ TRỞ THÀNH GIÁC NGỘ

Khi sự ngưỡng mộ để được Giác Ngộ vững chắc, chúng ta nên thực hiện nó trong những hành động. Những điều  này được gọi là những hành vi chánh yếu của Bồ tát cùng với chúng là sáu hoàn thiện (ba la mật):

1-    Bố thí: kể cả (1) ban cho những thứ vật chất như tiền bạc, áo quần, và thực phẩm; (2) ban cho tình thương; (3) ban cho giáo lý và những sự thực hành tâm linh; và (4) ban cho sự giải thoát khỏi những hoàn cảnh sợ hãi với tất cả chúng sanh – kể cả thú vật; giúp đở kể cả một con kiến ra khỏi vũng nước.
2-    Đạo đức (trì giới): vốn liên hệ chính yếu đến thái độ vị tha và hành vi của những vị Bồ tát.
3-    Nhẫn nhục: vốn biểu lộ trong những hoàn cảnh căng thẳng, hay được sử dụng để duy trì những cố gắng khó khăn, chẳng hạn như học hỏi giáo lý và thực hành trong một thời gian dài.
4-    Nỗ lực (tinh tấn): duy trì lòng nhiệt tình cho đức hạnh, và hổ trợ tất cả những hoàn thiện khác.
5-    Thiền định: vốn là sự hành thiền về ổn định và mãnh liệt được giải thích trong chương tiếp theo.
6-    Tuệ trí: cần thiết cho sự thông hiểu bản chất của vòng sanh tử luân hồi và vô thường, cũng như duyên sanh và tánh không.

Sáu hoàn thiện, lần lượt, có thể cô đọng lại trong ba sự tu tập của Bồ tát – tu tập trong đạo đức hoàn thiện (kể cả những hoàn thiện của bố thí và nhẫn nhục), tu tập trong thiền định hoàn thiện, và tu tập trong tuệ trí hoàn thiện. Nổ lực hoàn thiện được đòi hỏi cho tất cả ba sự tu tập. Đây là vấn đề sáu hoàn thiện được bao hàm trong sự thực hành tam vô lậu học về đạo đức, thiền định, và tuệ trí như thế nào vốn được tập trung trong quyển sách này.

Khi chúng ta đi đến cảm nhận trong chiều sâu trái tim của chúng ta rằng chúng ta phải dấn thân trong những hành vi của Bồ tát – sáu hoàn thiện hay được thấy trong một cách khác là tam vô lậu học – thì đây chính là lúc để tiếp nhận giới nguyện Bồ tát của mục tiêu thực tiển để trở thành Giác Ngộ.

-*-

Trong căn bản, tất cả chúng sanh là giống nhau trong khát vọng mưu cầu hạnh phúc và xa tránh khổ đau. Chúng ta cũng giống nhau trong vấn đề có thể loại trừ khổ đau và đạt đến hạnh phúc là việc mà tất cả chúng ta có quyền bình đẳng. Rồi thì, những gì là sự khác biệt giữa ta và tất cả những người khác? Ta chỉ là thiểu số của một. Thật có thể dễ dàng để thấy rằng vô số chúng sanh hy vọng cho hạnh phúc và mong cầu cho một sự chấm dứt khổ đau là quan trọng hơn bất cứ một cá nhân nào. Do vậy, đó là một sự hợp lý tuyệt vời cho ta cam kết tự mình với phúc lợi của vô số những người khác, để sử dụng thân thể, lời nói, và tâm ý cho sự tốt lành của họ, và để từ bỏ một thái độ chỉ chăm sóc cho tự thân ta.

-*-

TOÁT YẾU THỰC HÀNH HÀNG NGÀY

Trước tiên thực hiện bảy bước sơ bộ:

1-    Tôn kính Đức Phật Thích Ca được vây quanh với vô số Bồ tát, mà chúng ta đã quán tưởng đầy khắp bầu trời trước mặt ta.
2-    Cúng dường tất cả mọi thứ diệu kỳ - cho dù ta có hay không – kể cả thân thể, tài sản, và đức hạnh của chính ta, đến chư Phật và chư Bồ tát.
3-    Sám hối vô số hành vi tiêu cực của thân thể, lời nói và tâm ý mà ta đã phạm phải với ý định làm tổn hại người khác. Hãy hối hận vì đã làm những việc ấy, và quyết tâm không tái phạm trong tương lai.
4-    Ngưỡng mộ (tùy hỉ công đức) từ trong chiều sâu của trái tim đức hạnh của chính ta và của những người khác. Hãy hoan hỉ với những việc làm tốt đẹp mà ta đã làm trong kiếp này và những kiếp trước, hãy nghĩ, “Tôi đã làm điều gì đó tốt đẹp.” Hãy hoan hỉ trong đạo đức của những người khác, kể cả những điều của chư Phật và chư Bồ tát.
5-    Khuyến thỉnh chư Phật, những vị đã chứng toàn giác nhưng chưa hóa độ, hãy giảng dạy vì lợi ích của những chúng sanh đau khổ.
6-    Cầu xin chư Phật đừng nhập niết bàn
7-    Hồi hướng sáu sự thực tập này để đạt đến Giác Ngộ vô thượng.

Sau đó tiến hành phần trung tâm của nghi lễ cho việc ngưỡng mộ Giác Ngộ:

1-    Với một quyết tâm mạnh mẽ đạt đến Quả Phật nhằm để phụng sự những chúng sanh khác, hãy tưởng tượng một đức Phật trước mặt ta, hay một vị thầy tâm linh như một đại diện của đức Phật.
2-    Trì tụng ba lần giống như ta đang lập lại sau vị thầy:

Cho đến khi thành tựu Giác Ngộ, tôi quy y trong đức Phật, giáo lý, và cộng đồng tâm linh cao thượng.
Qua những tích lũy công đức của việc bố thí, đạo đức, nhẫn nhục, nổ lực, thiền định, và tuệ trí, nguyện tôi thành tựu Quả Phật để giúp đở tất cả mọi chúng sanh.

Để duy trì và làm mạnh lòng vị tha thậm thâm này trong kiếp sống này tiến hành tiếp theo:

1-    Hãy luôn luôn nhắc lại những lợi ích của việc phát triển một mục tiêu trở thành Giác Ngộ vì lợi ích của những người khác.
2-    Hãy phân chia ngày thành ba thời và đêm thành ba thời, và trong mỗi thời đó hãy dành một ít thời gian hay tỉnh dậy từ giấc ngủ và thực hành năm bước quán tưởng có trong chương trước. Cũng đầy đủ để quán tưởng năm bước ba lần vào buổi sang và kéo dài khoảng 15 phút, và ba lần vào ban đêm trong 15 phút.
3-    Tránh việc quên lãng lợi ích thậm chí của một chúng sanh.
4-    Hãy dẫn thân tối đa trong những hành vi đạo đức với một thái độ tốt lành, và phát triển một sự hiểu biết sơ bộ về bản chất của thực tại, hay duy trì một nguyện ước làm như vậy và hoạt động về việc này.

Để duy trì và làm mạnh mẽ lòng vị tha thậm thâm này trong những kiếp sống tương lai:

1-    Hoàn toàn không nói dối bất cứ ai, ngoại trừ ta có thể giúp đở những người khác một cách sâu rộng qua việc nói láo.
2-    Một cách trực tiếp hay gián tiếp giúp đở mọi người tiến triển trên con đường Giác Ngộ.
3-    Hãy đối xử với tất cả mọi chúng sanh với sự tôn trọng.
4-    Không bao giờ lừa bịp bất cứ người nào, và luôn luôn duy trì sự trung thực.

Tóm lại, hãy luôn luôn suy nghĩ, “Nguyện cho tôi trở thành có thể giúp đở tất cả mọi chúng sanh.”

-*-
Ẩn Tâm Lộ, Thursday, March 21, 2019