Thứ Ba, 25 tháng 7, 2017

QUÁN CHIẾU: KHOA HỌC VÀ XÃ HỘI HIỆN ĐẠI



Tôi đã dành nhiều năm để quán chiếu những tiến bộ đáng chú ý của khoa học. Trong một khoảng không gian ngắn của đời tôi, sự tác động của khoa học và kỷ thuật với nhân loại là không thể tưởng tượng nổi. Mặc dù việc quan tâm khoa học của tôi đã bắt đầu với sự tò mò về một thế giới, xa lạ với tôi vào lúc ấy, bị thống trị bởi kỷ thuật, không bao lâu trước khi toàn bộ ý nghĩa khổng lồ của khoa học đối với loài người trở nên rõ ràng đối với tôi – đặc biệt sau khi tôi lưu vong năm 1959. Hầu như không có lãnh vực nào của con người ngày nay mà không bị tác động của khoa học và kỷ thuật. Nhưng chúng ta chưa rõ về vị trí của khoa học và kỷ thuật vào toàn bộ đời sống con người – nó nên hoạt động một cách chính xác như thế nào và nó nên được quản lý như thế nào? Điều sau là quan yếu bởi vì ngoại trừ đường hướng của khoa học được hướng dẫn bởi một động cơ đạo đức có ý thức, đặc biệt là từ bi yêu thương, bằng không thì những ảnh hưởng của nó có thể không mang đến lợi ích. Thực tế chúng có thể tạo ra những tổn hại to lớn.

Thấy tầm quan trọng vô vàn của khoa học và địa vị thống trị không thể tránh khỏi của nó trong thế giới hiện đại đã làm thay đổi thái độ đối với khoa học của tôi một cách căn bản từ hiếu kỳ đến một loại dấn thân cấp bách. Trong Đạo Phật, lý tưởng tâm linh cao nhất là trau dồi lòng từ bi cho toàn thể chúng sanh và hành động vì lợi ích của tất cả, rộng mở bao la nhất như có thể. Từ lúc ấu thơ ban sơ nhất, tôi đã có điều kiện để nuôi dưỡng lý tưởng này và cố gắng hoàn thành nó trong mỗi hành vi của tôi. Thế nên, tôi muốn thấu hiểu khoa học bởi vì nó cho tôi một lãnh vực mới để khám phá yêu cầu cá nhân của tôi để thấu hiểu bản chất của thực tại. Tôi cũng muốn học hỏi về nó bởi vì tôi nhận ra trong nó một cung cách hấp dẫn để đối thoại với những hiểu biết thu thập được từ truyền thống tâm linh của tôi. Cho nên, đối với tôi, nhu cầu cho việc dấn thân với năng lực đầy sức mạnh này trong thế giới chúng ta cũng đã trở thành một loại mệnh lệnh tâm linh. Điều bàn đến trung tâm – trọng tâm cho sự tồn tại và cát tường của thế giới chúng ta – là vấn đề chúng ta có thể thực hiện những sự phát triển tuyệt vời của khoa học như thế nào vào điều gì đó để cống hiến cho lòng vị tha và phụng sự yêu thương cho những nhu cầu của nhân loại và những chúng sanh khác mà chúng ta cùng chia sẻ trái đất này với nhau.

Đạo đức có vị trí trong khoa học chứ? Tôi tin rằng có đấy. Trước tiên nhất, giống như bất cứ khí cụ nào, khoa học có thể được đặt vào việc sử dụng tốt hay xấu. Đó là thể trạng tâm thức của người nắm giữ khí cụ vốn quyết định cuối cùng nó sẽ được đặt vào chỗ nào. Thứ hai, những khám phá khoa học ảnh hưởng cung cách chúng ta thấu hiểu thế giới và vị trí của chúng ta trong ấy. Điều này có những hệ quả với thái độ của chúng ta. Thí dụ, sự thông hiểu cơ giới học về thế giới đưa đến Cách Mạng Công Kỷ Nghệ, vốn đưa đến sự khai thác thiên nhiên đã trở thành sự thực hành tiêu chuẩn. Tuy nhiên, có sự thừa nhận phổ thông rằng đạo đức chỉ liên hệ với việc áp dụng khoa học, chứ không phải việc theo đuổi thật sự của khoa học. Trong khuôn mẫu này, khoa học gia như một cá nhân hay cộng đồng của những nhà khoa học trong phổ quát chiếm giữ một vị trí đạo đức trung tính, không có trách nhiệm với những kết quả cho những gì họ khám phá. Nhưng nhiều khám phá khoa học quan trọng và đặc biệt những sáng kiến mới mà họ hướng đến, tạo ra những hoàn cảnh mới và mở ra những khả năng mới vốn tạo ra những thử thách đạo đức và tâm linh mới. Chúng ta đơn giản không thể miễn trách doanh nghiệp khoa học và những nhà khoa học với trách nhiệm cho việc góp phần hiện hữu một thực tế mới.

Có lẻ điều quan trọng nhất là bảo đảm rằng khoa học không bao giờ được tách ra khỏi sự thấu cảm nhân loại căn bản với đồng loại của chúng ta. Giống như những ngón tay của một người chỉ có thể biểu hiện chức năng trong sự liên hệ với bàn tay, cho nên những nhà khoa học phải duy trì sự tỉnh giác về mối liên hệ của họ với toàn thể xã hội. Khoa học là quan hệ sống còn, nhưng nó chỉ là một ngón tay của bàn tay con người, và khả năng lớn nhất của nó có thể được biến thành hiện thực miễn là chúng ta nhớ điều này một cách cẩn thận. Bằng trái lại, có hiểm họa chúng ta sẽ đánh mất cảm nhận của chúng ta về những ưu tiên. Loài người có thể cuối cùng lại phục vụ cho những quyền lợi ích kỷ của tiến trình khoa học hơn là chiều ngược lại. Khoa học và kỷ thuật là những khí cụ đầy năng lực, nhưng chúng ta phải quyết định sử dụng chúng thế nào hiệu quả nhất. Trên tất cả những vấn đề ấy là động cơ vốn chi  phối việc sử dụng khoa học và kỷ thuật, mà trong ấy tâm thức và trái tim lý tưởng thống nhất với nhau.

Đối với tôi, khoa học, trước nhất và trên tất cả  đó là một nguyên tắc theo lối kinh nghiệm vốn cung ứng cho nhân loại một lối vào đầy năng lực để thầu hiểu bản chất của thế giới vật lý và sự sống. Nó là một kiểu mẫu thẩm tra thiết yếu cho chúng ta những kiến thức chi tiết tuyệt vời của thế giới thực nghiệm và những quy luật tiềm tàng của tự nhiên, mà vốn chúng ta suy ra từ những dữ liệu thực nghiệm. Khoa học diễn tiến bằng những phương tiện của một phương pháp rất đặc thù vốn liên hệ đến sự đo lường, định lượng, và sự thẩm tra liên đới qua những thí nghiệm lập đi lập lại. Điều này, tối thiểu, là bản chất của phương pháp khoa học như nó tồn tại trong mô hình hiện tại. Trong kiễu mẫu này, nhiều khía cạnh về sự tồn tại của con người, kể cả những giá trị, sáng tạo và tâm linh, cũng như những vấn đề siêu hình sâu xa hơn, ở ngoài phạm vi của sự thẩm tra khoa học.

Mặc dù có những lãnh vực của đời sống và kiến thức ở bên ngoài sự chi phối của khoa học, nhưng tôi chú ý là nhiều người vẫn bảo lưu ý kiến cho rằng quan điểm của khoa học nên là căn bản cho tất cả mọi tri thức và tất cả những gì có thể biết được. Đây là chủ nghĩa duy vật khoa học. Mặc dù tôi không thấy một trường phái tư tưởng nào đề xuất dứt khoát ý kiến này, nhưng dường như nó là một giả định chung chưa được kiểm tra. Quan điểm này ủng hộ sự tin tưởng vào một thế giới khách quan, độc lập, bất ngờ  với những người quán sát chúng. Nó cho rằng những dữ liệu được phân tích trong một cuộc thí nghiệm là độc lập với những quan điểm hình thành trước, những nhận thức, và kinh nghiệm của những nhà khoa học phân tích chúng.

Bên dưới quan điểm này là sự thừa nhận rằng trong sự phân tích cuối cùng, vật chất, như nó có thể  được diễn tả bởi những nhà vật lý và như nó bị chi phối bởi những quy luật vật lý, thì đó là tất cả. Vì thế, quan điểm này xác nhận rằng tâm lý học có thể quy về sinh học, sinh học quy về hóa học, và hóa học quy về vật lý học. Sự quan tâm của tôi ở đây không phải là tranh cải nhiều gì để chống lại vị thế giản hóa luận này (mặc dù chính tôi không đồng thuận với điều ấy) nhưng là để hướng chú ý đến một vấn đề hết sức quan trọng: rằng những ý tưởng này không cấú thành tri thức khoa học; đúng hơn chúng trình bày một vị trí triết học, trong thực tế là một quan điểm siêu hình. Quan điểm ấy rằng tất cả những khía cạnh của thực tại có thể quy về vật chất và những hạt khác nhau của nó, đối với tâm thức tôi, cũng như một quan điểm siêu hình như là quan điểm vốn là một cơ chế thông minh được tạo ra và kiểm soát thực tại.

Một trong những vấn nạn chính với chủ nghĩa duy vật khoa học triệt để là quan điểm thiển cận vốn đưa đến hậu quả và khả năng chắc chắn có thể hình thành chủ nghĩa hư vô. Chủ  nghĩa hư vô, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa giản hóa luận là ở trên tất cả mọi vấn nạn do từ một quan điểm triết lý và đặc biệt là quan điểm con người, vì chúng có khả năng làm nghèo nàn cung cách chúng ta thấy chính mình. Thí dụ, cho dù chúng ta tự thấy mình như những tạo vật sinh học ngẫu nhiên hay như những chúng sanh đặc biệt được ban cho sở hữu ý thức và năng lực đạo đức sẽ làm nên một sự tác động lên vấn đề chúng ta cảm nhận về chính mình và đối xử với người khác như thế nào. Trong quan điểm này, nhiều sở hữu của thực tế toàn diện về nó là gì để là con người – nghệ thuật, đạo đức, tâm linh, lòng tốt, vẻ đẹp, và trên tất cả là ý thức – hoặc là được giảm thiểu như những phản ứng hóa học của việc kích thích tế bào thần kinh hay được thấy như một vấn đề của cấu trúc tưởng tượng thuần tuý. Hiểm họa thế rồi là con người có thể bị làm giảm giá trị không gì hơn là những bộ máy sinh học, những việc sinh sản với cơ hội thuần khiết trong sự phối hợp ngẫu nhiên của những gien, không có mục tiêu gì hơn là sự cưởng chế sinh học trong tái sản xuất.

Thật khó khăn để thấy những vấn đề chẳng hạn như ý nghĩa của đời sống hay tốt và xấu có thể được thích ứng trong một thế giới quan như vậy như thế nào. Vấn nạn không phải là với những dữ liệu của khoa học mà với luận điểm là chỉ những dữ liệu này thôi cấu thành nền tảng hợp pháp cho việc phát triển một thế giới quan toàn diện hay một phương tiện phù hợp cho việc đáp ứng với những vấn nạn của thế giới. Có nhiều thứ với sự tồn tại của loài người và đến chính thực tại hơn mà khoa học hiện tại chưa thể cho chúng ta lối vào.

Cùng chứng cớ, thì tâm linh phải được thuần hóa bằng tuệ giác và những khám phá của khoa học. Nếu như những hành giả tâm linh, chúng ta phớt lờ những khám phá khoa học, thì sự thực tập của chúng ta cũng bị nghèo nàn, khi tư duy này có thể đưa đến trào lưu chính thống. Đây là một trong những lý do mà tôi động viên những đồng đạo Phật tử của tôi hứa nhận học hỏi khoa học, vì sự thông tuệ của nó có thể được hòa nhập trong thế giới quan Phật giáo.


Ẩn Tâm Lộ, Monday, July 24, 2017

Thứ Tư, 19 tháng 7, 2017

KHOA HỌC VÀ TU SĨ



Tôi chưa bao giờ được rèn luyện trong khoa học. Kiến thức của tôi chính yếu chính yếu có từ việc đọc những tin tức bao gồm những câu chuyện khoa học quan trọng trong những tạp chí như Newsweek hay nghe những báo cáo từ đài BBC và sau này đọc những sách giáo khoa về thiên văn học. Ba mươi năm vừa qua tôi đã có nhiều cuộc gặp gở cá nhân và thảo luận với những nhà khoa học. Trong những lần chạm trán này, tôi đã luôn luôn cố gắng để nắm bắt những mô hình và những phương pháp cơ bản của tư duy khoa học cũng như những quan hệ mật thiết của từng học thuyết hay những khám phá mới. Tuy nhiên tôi đã nghĩ một cách sâu xa về khoa học - không chỉ cho những quan hệ mật thiết của nó cho sự thấu hiểu thực tại là gì mà còn là một câu hỏi quan trọng hơn về vấn đề nó có thể ảnh hưởng đến đạo đức và những giá trị của nhân bản như thế nào. Những lãnh vực đặc thù của khoa học mà tôi đã khám phá nhiều nhất hàng năm qua như hạ nguyên tử, vũ trụ học, và sinh học, kể cả thần kinh học và tâm lý học. Cho rằng sự  rèn luyện tuệ trí của tôi là từ tư tưởng Phật học, nhưng tự nhiên, tôi đã thường tự hỏi về những điểm chung của những khái niệm Phật giáo chủ đạo và những ý tưởng khoa học quan trọng. Quyển sách này là kết quả của một quá trình dài về suy nghĩ và hành trình tuệ trí của một tăng sĩ đến từ Tây Tạng vào thế giới của những khoang bong bóng, máy gia tốc hạt, và hình ảnh cộng hưởng từ trường chức năng (Functional magnetic resonance imaging or functional MRI (fMRI)).

Nhiều năm sau khi tôi tị nạn ở Ấn Độ, tôi đã xem qua một bức thư mở từ những năm 1940 trình bày với những nhà tư tưởng Phật giáo của Tây Tạng. Nó được viết bởi Gendün Chöphel[1], một học giả Tây Tạng không chỉ tinh thông Sanskrit, mà cũng thành thạo Anh ngữ, đặc biệt trong những nhà tư tưởng của Tây Tạng thời bây giờ. Ông du hành rộng rải ở các thuộc địa của Anh quốc như Ấn Độ, Afghanistan, Nepal, và Sri Lanka trong những năm 1930. Bức thư này được viết sau khi kết thúc chuyến du hành 12 năm của ông và làm tôi hết sức kinh ngạc. Nó thông suốt trong nhiều lãnh vực mà trong ấy có thể có một cuộc đối thoại thành công giữa Đạo Phật và khoa học hiện đại. Tôi khám phá ra rằng những bình phẩm của Gendün Chöphel thường trùng hợp một cách đặc biệt với tôi. Một điều đáng tiếc là lá thư này đã không thu hút được sự chú ý mà nó đáng có, một phần gì nó chưa bao giờ được xuất bản ở Tây Tạng trước khi tôi lưu vong ở Ấn Độ vào năm 1959. Nhưng tôi cảm thấy ấm lòng vì hành trình vào thế giới khoa học của tôi đã có một vị tiền nhân trong truyền thống Tây Tạng của tôi. Hơn thế nữa Gendün Chöphel lại đến từ tỉnh nhà Amdo của tôi. Việc bắt gặp lá thư này sau nhiều năm nó được viết ra là một khoảnh khắc ấn tượng.

Tôi nhớ lại một cuộc trao đổi đầy băn khoăn vài năm trước đây mà tôi có với một người Mỹ có chồng là người Tây Tạng. Đã nghe về sự thích thú của tôi với khoa học và sự dấn thân năng động của tôi trong những cuộc trao đổi với những nhà khoa học, bà ta cảnh báo tôi về hiểm họa của những quan điểm khoa học đối với sự tồn tại của Đạo Phật. Bà đã nói với tôi là lịch sử đã cho thấy rằng trong thực tế khoa học là “kẻ giết” tôn giáo và khuyên tôi là thật không khôn ngoan nếu tôi theo đuổi những quan hệ thân hữu với những người đại diện cho khoa học. Bằng việc thực hiện hành trình cá nhân vào khoa học, tôi cho rằng tôi đã mạo hiểm. Sự tự tin của tôi trong việc liều lĩnh dấn thân vào khoa học là do nền tảng tin tưởng của tôi rằng trong khoa học cũng như trong Đạo Phật, việc thấu hiểu bản chất của thực tại được theo đuổi bằng những phương tiện khảo sát sinh động: nếu phân tích của khoa học chứng minh những tuyên bố nào đó của Đạo Phật là sai một cách thuyết phục, thế thì chúng ta phải chấp nhận những khám phá của khoa học và từ bỏ những quan điểm nào đó của Đạo Phật.

Vì tôi là người theo chủ nghĩa quốc tế chân thành, một trong những phẩm chất đã đánh động tôi nhất về những nhà khoa học là sự sốt sắng đáng ngạc nhiên của họ khi chia sẻ kiến thức với nhau mà không quan tâm đến những biên giới quốc gia. Ngay cả trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, khi thế giới chính trị bị phân cực tới một mức độ nguy hiểm, thì tôi thấy rằng những nhà khoa học từ phía Đông hay phía Tây lại sẳn sàng trao đổi với nhau trong những cung cách mà các chính trị gia thậm chí không thể tưởng tượng được. Tôi đã cảm thấy một sự thừa nhận tiềm tàng trong tâm linh này về một loài người thống nhất và sự tự do vắng mặt quyền sở hữu trong những vấn đề kiến thức.

Động cơ cho sự thích thú của tôi với khoa học không chỉ đơn thuần là cá nhân. Ngay cả trước khi lưu vong, rõ ràng đối với tôi và những người khác trong xứ sở mà một trong những nguyên nhân tiềm tàng cho thảm họa chính trị của Tây Tạng là nó đã không mở cửa cho sự hiện đại hóa. Ngay khi đến Ấn Độ, chúng tôi đã thành lập những trường học Tây Tạng cho trẻ em tị nạn với chương trình hiện đại, vốn lần đầu tiên bao gồm cả giáo dục khoa học. Trong lúc ấy, tôi cũng đi đến nhận ra rằng cốt lõi của việc hiện đại hóa là ở trong việc giới thiệu giáo dục hiện đại, và trung tâm của giáo dục hiện đại là phải có sự tinh thông về khoa học và kỷ thuật. Chí nguyện cá nhân của tôi với chương trình giáo dục này đã làm cho tôi thậm chí động viên những tu học viện Phật giáo giới thiệu khoa học vào trong chương trình của họ, mà xưa nay vai trò chính là giảng dạy tư tưởng Phật giáo cổ truyền.

Khi sự lãnh hội của tôi về khoa học đã gia tăng, dần dần trở thành rõ rệt với tôi rằng, trong chừng mực nào đó khi sự thấu hiểu về thế giới vật lý được quan tâm, thì có nhiều lãnh vực của tư tưởng Phật giáo truyền thống nơi mà những sự giải thích và lý thuyết là thô sơ khi được so sánh với những thứ đó của khoa học hiện đại. Nhưng cùng lúc, ngay cả trong những xứ sở mà khoa học phát triển cao độ nhất thì cũng rõ ràng rằng con người cũng đang tiếp tục trải nghiệm khổ đau, đặc biệt là ở trình độ cảm xúc và tâm lý. Lợi ích lớn lao của khoa học là nó có thể đóng góp vô vàn cho việc giảm thiểu khổ đau ở trình độ vật lý, nhưng chỉ qua việc trau dồi những phẩm chất của trái tim con người và việc chuyển hóa các thái độ của chúng ta mà chúng ta mới có thể bắt đầu nói đến và vượt thắng khổ đau tinh thần của chúng ta. Nói cách khác, việc đề cao những giá trị nhân bản nền tảng là không thể thiếu được cho việc tìm kiếm hạnh phúc căn bản của chúng ta. Do thế, từ quan điểm cát tường của nhân loại, khoa học và tâm linh không phải là không liên hệ. Chúng ta cần cả khoa học và tâm linh, vì việc làm giảm thiểu khổ đau phải xảy ra cả ở trình độ vật lý và tâm lý.

Quyển sách này không phải là một sự cố gắng để hợp nhất khoa học và tâm linh (Phật giáo tôi biết là một thí dụ tốt nhất) nhưng là một nổ lực để thẩm tra hai nguyên tắc nhân bản quan trọng vì mục tiêu cho sự phát triển một cung cách thánh thiện và thống nhất cho việc thấu hiểu thế giới chung quanh chúng ta, thứ kia thì khảo sát một cách sâu sắc những thứ thấy và không thấy, qua việc khám phá chứng cứ được ủng hộ bởi lý trí. Tôi không đang cố gắng vượt qua một sự nghiên cứu uyên bác về những điểm tiềm năng hội tụ và khác biệt giữa Phật giáo và khoa học – tôi để việc đó cho những nhà học thuật chuyên môn. Đúng hơn, tôi tin rằng tâm linh và khoa học là khác nhau nhưng bổ sung cho nhau qua những sự tiếp cận điều tra nghiên cứu với cùng mục đích lớn hơn, của việc tìm ra sự thật. Trong việc này, có nhiều điều mà cả hai bên có thể cùng học hỏi lẫn nhau, và cùng nhau có thể cống hiến cho việc mở rộng phạm vi hiểu biết cho kiến thức và tuệ trí của nhân loại. Hơn thế nữa, qua đối thoại giữa khoa học và tâm linh, tôi hy vọng cả hai môn có thể phát triển việc phục vụ tốt hơn cho những nhu cầu và sự cát tường của nhân loại. Thêm nữa, bằng việc kể lại câu chuyện về hành trình của chính tôi, thì tôi mong ước nhấn mạnh đến hàng triệu người Phật tử trên thế giới về nhu cầu của việc chào đón khoa học một cách nghiêm túc và tiếp nhận những khám phá căn bản của khoa học trong thế giới quan của họ.

Sự đối thoại giữa khoa học và tâm linh đã có một lịch sử lâu dài – một cách đặc biệt với sự liên hệ đến Ki tô giáo. Trong trường hợp truyền thống của tôi, Phật giáo Tây Tạng, vì những lý do đa dạng của lịch sử, xã hội, và chính trị, việc gặp gở toàn diện với thế giới quan khoa học vẫn là một chương trình mới lạ. Quan hệ mật thiết với những gì khoa học cống hiến vẫn chưa hoàn toàn rõ ràng. Bất chấp những quan điểm cá nhân khác biệt về khoa học, không có sự thấu hiểu đáng tin nào thế giới tự nhiên hay sự tồn tại của loài người chúng ta – điều tôi đang gọi trong quyển sách này là một thế giới quan – lại có thể quên đi sự thấu hiểu sâu sắc căn bản của những học thuyết như chìa khóa như thuyết tiến hóa, thuyết tương đối, và cơ học lượng tử. Có lẻ khoa học sẽ nghiên cứu cho một hẹn ước với tâm linh, một cách đặc biệt trong sự tương tác của nó với những vấn đề rộng rãi hơn của nhân loại, từ đạo đức đến xã hội, nhưng chắc chắn một số khía cạnh đặc biệt của tư tưởng Phật giáo – chẳng hạn như những thuyết vũ trụ học cổ và vật lý thô sơ – sẽ phải điều chỉnh trong ánh sáng hiểu biết của khoa học mới. Tôi hy vọng quyển sách này sẽ là một đóng góp cho dự án quan trọng sôi nổi của việc đối thoại giữa khoa học và tâm linh.

Vì mục tiêu của tôi là khám phá những vấn đề nổi bật sâu sắc nhất cho thế giới hiện đại của chúng ta, thế nên tôi mong ước chia sẻ nếu có thể với quần chúng rộng rãi nhất. Điều này không phải dễ dàng với những lý lẻ và tranh luận phức tạp trong cả khoa học và triết học Phật giáo. Trong sự háo hức của tôi để làm cho việc thảo luận có thể xảy ra, thỉnh thoảng tôi có thể quá đơn giản hóa các vấn đề. Tôi biết ơn hai vị hiệu đính, người thông dịch lâu năm của tôi Thupten Jinpa và đồng nghiệp của ông Jas’ Elsner, vì sự hổ trợ của họ trong việc giúp làm mạch lạc những ý tưởng của tôi trong sáng một cách tối đa trong Anh văn. Tôi cũng cảm ơn nhiều cá nhân đã hổ trợ họ và bình luận trong nhiều cấp độ của bản thảo. Trên tất cả, tôi biết ơn đến tất cả những nhà khoa học đã từng gặp gở tôi, đã vô cùng rộng rãi với thời gian của họ, và biểu lộ sự nhẫn nại vô cùng trong việc giải thích những ý tưởng phức tạp đến một người học trò đôi khi chậm lụt. Tôi xem tất cả như những vị thầy của tôi.

Nguyên bản: Prologue, the Universe in a Single Atom
Tác giả: Đức Đat Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – Thích Từ Đức
Hiệu đính: Quảng Bảo – Thích Pháp Lưu

Ẩn Tâm Lộ, Wednesday, July 19, 2017



[1] Gendun Chöpel (Wyl. Dge phel 'dun Chos') (1903-1951) là một trong những nhà tư tưởng độc đáo nhất trong lịch sử Tây Tạng. Ông là một nhà triết học, sử học, nghệ sĩ, phiên dịch, du lịch và một nhà vận động cho việc hiện đại hóa Tây Tạng. 

Thứ Hai, 17 tháng 7, 2017

ĐẠO ĐỨC VƯỢT KHỎI TÔN GIÁO


Nguyên bản: Ethics beyond Religion
His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Fribourg, Switzerland, April 2013
Hiệu đính:  Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Nhìn Lại Việc Nhấn Mạnh Vào Những Trình Độ Thứ Yếu Khác Nhau

Anh chị em thân mến, tôi cực kỳ vui mừng có cơ hội để nói chuyện với quý vị. Trước nhất, tôi luôn luôn thích để nói rõ ràng rằng khi tôi nói chuyện với mọi người, xin hãy tự nghĩ như một con người. Đấy là tôi muốn nói rằng, đừng nghĩ "tôi là một người Thụy Sĩ", "Tôi là người Ý Đại Lợi", hay "Tôi là người Pháp."  Thông dịch viên cho tôi không nên nghĩ rằng ông ấy là người Pháp! Tôi cũng không nên nghĩ tôi là người Tây Tạng. Xa hơn nữa, tôi không nên tự nghĩ mình là một Phật tử, bởi vì thường thường trong bài nói chuyện của tôi, cách để sống hạnh phúc, đời sống ít bị phiền não là trên căn bản sự hiện hữu của một con người.

Mỗi người trong bảy tỉ người chúng ta muốn một đời sống hạnh phúc, và mỗi cá nhân có quyền để đạt đến mục tiêu ấy. Nếu chúng ta nhấn mạnh vào những trình độ khác biệt thứ yếu như “tôi là người Tây Tạng”, thế thì nó làm cho tôi dường như quan hệ với Tây Tạng hơn. Cũng thế, “tôi là Phật tử” cho thấy một loại cảm nhận gần gũi với những người Phật tử khác, nhưng tự động tạo nên một loại khoảng cách nho nhỏ nào đó với những đức tin khác.

Loại quan điểm này thật sự là một nguồn gốc của các rắc rối, kể cả nhiều rắc rối và vô số bạo động mà con người đối diện trong quá khứ và tiếp tục đối mặt trong thế kỷ 21.  Bạo động không bao giờ xảy ra nếu quý vị xem người khác là những con người, giống như chính quý vị. Không có lý do gì để giết hại lẫn nhau; nhưng khi chúng ta quên lãng sự duy nhất của loài người và thay vì tập trung vào những trình độ thứ yếu khác nhau như "quốc ta tôi" và "quốc gia họ", "tôn giáo tôi" và "tôn giáo họ", chúng ta tạo nên những sự phân biệt và quan tâm hơn cho những con người của chính chúng ta và những thành viên của tôn giáo chúng ta. Thế rồi, chúng ta bất chấp quyền lợi của người khác và ngay cả không tôn trọng sự sống của kẻ khác. Nhiều vấn nạn chúng ta đối diện ngày nay sinh khởi từ căn bản này, của việc nhấn mạnh và đặt nặng quá nhiều trên những thứ khác biệt thứ yếu.

Bây giờ, công thức duy nhất cho điều này là suy nghĩ một cách hợp lý về chính chúng ta trên trình độ của những con người, mà không có những phân biệt và rào cản. Khi tôi diễn thuyết, thí dụ, nếu xem tôi như một Phật tử Tây Tạng và có lẻ ngay cả hơn thế ấy nếu tôi tự nghĩ như "Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma", điều này tạo nên một loại khoảng cách nào đó giữa thính chúng và chính tôi, như vậy là không thông minh. Nếu tôi chân thành quan tâm đến sự cát tường của quý vị, tôi phải nói với quý vị trên trình độ như những người anh chị em con người, cùng là những con người như chính tôi. Thật sự rằng chúng ta giống nhau: tinh thần, cảm xúc, và thân thể. Quan trọng hơn nữa, mọi người muốn một đời sống hạnh phúc không có bất cứ khổ đau nào, và tôi cũng giống như vậy, cho nên chúng ta sẽ nói chuyện trên trình độ này.

Đạo Đức Thế Tục

Đạo đức thế tục liên hệ liên hệ rất nhiều đến những nhân tố sinh học, nhưng niềm tin tôn giáo là điều đấy chỉ có loài người có. Trong loài người, niềm tin được phát triển nhưng chắc chắn không phải là một nhân tố sinh học. Đạo đức thế tục bao phủ toàn bộ dân số 7 tỉ người. Như tôi đã đề cập hôm qua, từ 7 tỉ người, một tỉ người tuyên bố chính thức họ là những người không tín ngưỡng, và nếu chúng ta nghĩ về 6 tỉ người cho là những người có tín ngưỡng, thì có rất nhiều người trong ấy là sai lạc. Có những tai tiếng, bóc lột, tham nhũng, lừa đảo, dối trá, và bắt nạt. Điều này, tôi nghĩ, qua việc thiếu vắng một sự tin tưởng chân thành vào những nguyên tắc đạo đức. Thế nên, ngay cả tôn giáo cũng bị sử dụng cho những mục tiêu sai quấy. Cho dù tôi có đề cập đến điều ấy hôm qua hay không, đôi khi tôi thật sự nghĩ rằng tôn giáo đã dạy chúng ta ngụy thiện. Chúng ta nói những lời như “từ ái” và “bi mẫn”, nhưng trong thực tế chúng ta không hành động như thế, và có rất nhiều thành kiến.

Tôn giáo nói về những thứ dễ thương này trong một cung cách truyền thống, chứ không phải trong cách thật sự nối kết với trái tim của chúng ta. Đây là do người ta thiếu những nguyên tắc đạo đức hay thiếu niềm tin về giá trị của những nguyên tắc đạo đức. Bất chấp một người là có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng đi nữa thì chúng ta cũng cần suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn vấn đề giáo dục con người về những nguyên tắc đạo đức này như thế nào. Và trên điều này, quý vị có thể thêm tôn giáo vào, và nó trở thành một tôn giáo chân thành thật sự. Tất cả những tôn giáo, như tôi đã đề cập hôm qua, đều nói về những giá trị này.

Phát Triển Hành Xả Vào Lãnh Vực Cá Nhân

Trong thế kỷ trước, trong khi người ta giết nhau, cả hai phía đều cầu nguyện Thượng Đế. Khó khăn thay! Ngay cả ngày nay đôi khi quý vị thấy những cuộc xung đột nhân danh tôn giáo, và tôi nghĩ cả hai phía để cầu nguyện Thượng Đế. Tôi đôi khi đùa rằng, dường như Thượng Đế bị bối rối! Ngài quyết định như thế nào, với cả hai phía đều đang cầu nguyện đến ngài, tìm cầu sự gia hộ? Thật khó khăn. Một lần nọ ở Argentina trong một buổi thảo luận với những nhà khoa học và một số lãnh tụ tôn giáo, mặc dù đó không phải là một cuộc gặp gở liên tôn, nhưng tôi đã gặp một nhà vật lý học tên là Maturana. Ông là thầy giáo của Varela và tôi đã gặp ông trước đây ở Thụy Sĩ, và rồi ở Argentina, nhưng rồi không gặp nữa từ dạo đó. Trong bài nói chuyện, ông đề cập rằng như một nhà vật lý học, ông không nên dính mắc nhiều với lãnh vực khoa học của ông. Do vậy, đây là một sự thừa nhận tuyệt vời và thông tuệ mà tôi đã học được.

Tôi là một Phật tử, nhưng tôi không nên phát triển sự dính mắc đối với Đạo Phật bởi vì dính mắc là một cảm xúc tiêu cực. Khi chúng ta phát triển sự dính mắc, thì quan điểm của chúng ta trở nên thành kiến. Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.

Đó là tại sao đối với những người liên hệ trong những xung đột nhân danh tôn giáo, trong hầu hết mọi trường hợp, tôi nghĩ nguyên nhân thật sự không phải là niềm tin tôn giáo, nhưng đúng hơn, đó là nhưng quan tâm kinh tế và chính trị. Nhưng dối với một số trường hợp, chẳng hạn những người theo trào lưu tôn giáo chính thống, họ quá bị dính mắc với tôn giáo của họ và rồi thì do bởi điều đó, họ không thể thấy giá trị của những truyền thống tôn giáo khác.

Sự thừa nhận của Maturana đối với tôi là một lời ý tưởng lớn. Như một kết quả của cuộc gặp gở với nhiều người, tôi ngưỡng mộ nhiều truyền thống khác và dĩ nhiên tôi hy vọng là tôi không là một người bảo thủ hay cực đoan tôn giáo. Đôi khi tôi nhớ lại một lần tôi ở Lourdes, miền nam nước Pháp. Tôi là một khách hành hương, trước tượng của Chúa Giê-Su, tôi lấy một ít nước. Tôi đã đứng trước tượng và quán chiếu trong tâm tôi, và đã nghe về hàng triệu người qua hàng thế kỷ đã viếng thăm nơi này, tìm kiếm sự bình an, với một số người bệnh tật, qua đức tin của họ và một loại phước lành nào đó đã được chửa trị. Thế đấy, tôi đã quán chiếu về những điều này và cảm nhận sâu sắc lòng tri ân với Ki Tô Giáo và gần như rơi nước mắt. Và rồi một lần khác, một điều lạ kỳ đã xảy ra ở Fatima, Bồ Đào Nha. Chung quanh là những người Thiên Chúa Giáo và Ki Tô Hữu, chúng tôi có một thời khắc ngắn trong thiền quán im lặng trước bức tượng nhỏ của Đức Mẹ Maria. Khi tôi và mọi người sắp rời đi, tôi quay lại và bức tượng thật sự mĩm cười với tôi. Tôi nhìn đi nhìn lại, và vâng, bức tượng mĩm cười. Tôi cảm thấy rằng Đức Mẹ Maria thế nào đấy đã cảm thông với cung cách không phân biệt tôn giáo của tôi! Tuy nhiên, nếu ở lâu hơn và thảo luận về triết lý với bà thì có thể nhiều vấn đề phức tạp hơn sẽ xảy ra!

Thế nào đi nữa, dính mắc ngay cả với tôn giáo của chính chúng ta cũng không tốt. Đôi khi tôn giáo tạo ra xung đột và chia rẻ và đây thật sự là một vấn đề nghiêm trọng. Tôn giáo đáng lẻ là một phương pháp để tăng trưởng từ bi và tha thứ, vốn là những biện pháp để chửa trị sân hận và thù oán. Thế nên, nếu tự tôn giáo tạo thêm thù hận đối những niềm tin tôn giáo khác, điều nay giống như một loại thuốc đáng lẻ để trị bệnh, nhưng thay vì thế lại tạo thêm nhiều bệnh tật. Làm gì bây giờ? Tất cả những thứ đáng buồn này một cách căn bản là qua một sự thiếu vắng niềm tin trong những nguyên tắc đạo đức, cho nên tôi tin rằng chúng ta cần những sự thực tập và những nhân tố đa dạng để hiện  thực một nổ lực chân thành để thúc đẩy những đạo đức thế tục.

Chủ Nghĩa Thế Tục Và Việc Tôn Trọng Người Khác

Bây giờ trên vấn đề đạo đức thế tục. Tôi biết rất rõ cựu quyền Thủ Tướng Ấn Độ, Advani. Có một lần ông đã đề cập rằng đoàn truyền hình Canada phỏng vấn đã hỏi ông là trên căn bản nào mà việc thực tập dân chủ ở Ấn Độ thành công. Ông đã trả lời rằng trong hàng nghìn năm ở Ấn Độ, truyền thống đã luôn luôn tôn trọng người khác, mặc cho những cuộc tranh cải hay những quan điểm khác nhau. Ông nói với tôi rằng khoảng ba nghìn năm trước, quan điểm của “triết lý hư vô”, the Charvaka, đã phát triển ở Ấn Độ. Những thủ lãnh của các quan điểm triết lý khác đã phê phán và lên án quan điểm của họ, nhưng thủ lãnh của triết lý hư vô vẫn được gọi là “rishi”, có nghĩa là hiền nhân. Đây là một biểu hiện cho thấy rằng mặc cho những bất đồng hay những cuộc thảo luận nóng bỏng, thì vẫn có sự tôn trọng. Nó có nghĩa là chúng ta cũng phải tôn trọng những người không tín ngưỡng.

Hôm qua tôi đã nói với một số người bạn của tôi, một số là người Ki tô và một số  là người Hồi giáo có hơi bảo lưu về chính chữ “chủ nghĩa thế tục”. Tôi nghĩ đó là vì trong cuộc cách mạng Pháp và cách mạng Xô Viết đã có một xu hướng chống lại tôn giáo. Nhưng tôi muốn làm rõ sự phân biệt giữa tôn giáo và thể chế tôn giáo, vốn là hai vấn đề khác nhau. Làm sao một người biết phải trái lại chống tôn giáo? Tôn giáo có nghĩa là từ ái và bi mẫn, và không ai có thể phê phán những thứ này. Tuy nhiên, thể chế tôn giáo là điều gì đó khác biệt. Trong thời kỳ cách mạng Pháp và Xô Viết, trong cả hai trường hợp, tầng lớp thống trị thật sự ngược đãi đám đông. Hơn thế nữa, tầng lớp thống trị được sự ủng hộ hoàn toàn của những thể chế tôn giáo, và thế cho nên một cách hợp lý, nhằm để phát triển sự quyết tâm chống lại tầng lớp thống trị thì nó cũng bao gồm cả việc chống lại những thể chế tôn giáo. Do vậy, có một loại xu hướng nào đó chống lại tôn giáo hay Thượng Đế.

Ngay cả ngày nay, nếu có một loại lợi dụng nào đó đang xảy trong những thể chế tôn giáo kể cả trong cộng đồng Phật giáo Tây Tạng, thì chúng ta phải chống lại điều này. Sự thực tập của tôi là hai năm trước tôi đã chấm dứt truyền thống bốn trăm năm của thể chế Đạt Lai Lạt Ma tự động trở thành lãnh tụ thế quyền và giáo quyền của người Tây Tạng. Tôi đã chấm dứt nó, một cách tự nguyện, vui vẻ và tự hào. Những thứ như vậy thật sự làm tổn hại giá trị chân chính của tôn giáo, hay giáo pháp. Thế nên, chúng ta phải thực hiện một sự phân biệt giữa những thể chế hay tổ chức tôn giáo, với những sự thực hành và những thông điệp tôn giáo thật sự.

Theo quan niệm của Ấn Độ về chủ nghĩa thế tục, thì chẳng bao giờ có cảm nhận tiêu cực về tôn giáo, mà đúng hơn là sự tôn trọng tất cả các tôn giáo, cũng như sự tôn trọng cho những người không tín ngưỡng. Tôi nghĩ điều này rất thông tuệ. Chúng ta thúc đẩy điều này như thế nào? Qua thuyết giảng? Không. Thế thì qua một sự cầu nguyện nào đó? Không. Nhưng qua giáo dục, vâng. Chúng ta tiếp nhận sự giáo dục về vệ sinh thân thể. Vậy thì tại sao chúng ta không giáo dục về vệ sinh cảm giác hay tinh thần, những kiến thức cơ bản về vấn đề chăm sóc một tâm hồn khoẻ mạnh như thế nào? Không cần  nói về Thượng Đế hay kiếp sống tới, hay Đức Phật hay niết bàn, nhưng chỉ đơn giản về vấn đề phát triển thành một con người hạnh phúc với một tâm thức. Một con người hạnh phúc làm nên một gia đình hạnh phúc, vốn làm nên một cộng đồng hạnh phúc. Do vậy, tôi nghĩ chúng ta cần một số bài học về vệ sinh cảm giác.

Vệ sinh cảm xúc

Vệ sinh cảm xúc là gì? Nó có nghĩa là chăm sóc những nhân tố vốn tàn phá tâm thức tĩnh lặng của chúng ta, hay sự hòa bình của tâm hồn. Những nhân tố này như những bệnh tật tinh thần, do bởi những cảm xúc tiêu cực này không chỉ tàn phá niềm hòa bình của chúng ta, tâm thức lành mạnh của chúng ta, mà chúng cũng tàn phá năng lực tinh thần của chúng ta để phán xét thực tại. Điều này tạo ra rất nhiều  tổn hại vì khi chúng ta đầy dẫy sân hận, thì chúng ta không thể thấy thực tại và tâm tư chúng ta trở nên thành kiến. Cũng thế với dính mắc, chúng ta không thể thấy thực tại một cách đúng đắn. Đây là một loại bệnh của tâm thức. Bản chất tâm thức của chúng ta tỉnh giác và vì thế bất cứ một loại nhân tố tinh thần nào làm giảm thiểu năng lực tỉnh giác này là một thứ tiêu cực.

Vệ sinh cảm xúc do vậy là việc làm giảm thiểu những loại cảm xúc này và việc nuôi dưỡng năng lực tinh thần của ta cho trong sáng và tĩnh lặng, đấy là một tâm thức lành mạnh. Nhằm để làm việc này, trước nhất chúng ta phải trau dồi và phát triển sự thích thú để làm việc này. Không có sự thích thú, chúng ta không thể bắt người khác thực thi như vậy được. Không có luật lệ hay thể chế bắt người ta phải làm như vậy. Cho nên việc này phải hình thành qua lòng nhiệt tình cá nhân, vốn hiện thực khi chúng ta thấy giá trị trong việc làm như vậy. Và những giá trị này là những thứ mà chúng ta phải giảng dạy.

Những Khám Phá Của Khoa Học Về Tâm Thức Và Cảm Xúc

Bây giờ chúng ta có thể tham khảo với khoa học. Trước đây, khoa học hiện đại tập trung trên vật chất, nơi mà chúng ta có thể đo lường. Tôi nghĩ là ở cuối thế kỷ 20 và bây giờ, bắt đầu thế kỷ 21, ngày càng nhiều các nhà khoa học đang thật sự cho thấy một sự thích thú trong tâm thức và những cảm xúc của nó, bởi vì có một sự nối kết gần gủi giữa tâm thức và cảm xúc của nó khi nói đến sức khỏe. Một số nhà khoa học đang nói “tâm thức khỏe mạnh, thân thể khỏe mạnh”. Những nhà y khoa cũng nói rằng sự sợ hãi, sân hận và thù oán liên tục thật sự tàn phá hệ thống miễn nhiễm của chúng ta, trong khi một tâm thức từ bi yêu thương duy trì một cách căn bản và thậm chí có thể gia tăng sức khỏe thân thể. Rõ ràng chúng ta biết rằng đối với những người có hạnh phúc tinh thần, những tác động tích cực cho thân thể của họ là rất lớn.

Việc Nhận Ra Những Hoàn Cảnh Tích Cực Và Tiêu Cực

Trong đời của tôi, vào lúc 16 tuổi, tôi đã tiếp nhận nhiều trách nhiệm, và hoàn cảnh trở nên rất khó khăn. Rồi thì vào lúc 24 tuổi, tôi đánh mất quê hương và bây giờ sống hầu hết cuộc đời tôi như một người tị nạn. Trong khi đó, có rất nhiều khổ đau và rắc rối bên trong Tây Tạng, và dân tộc đặt nhiều hy vọng và niềm tin ở tôi. Nhưng tôi thì bất lực. Tuy nhiên, niềm hòa bình của tâm thức đã cho phép tôi thấy  tất cả việc này một cách thực tế hơn. Như ngài Tịch Thiên đã nói, nếu những khó khăn có thể giải quyết thì không cần phải lo lắng. Và nếu có một hoàn cảnh khó khăn mà không có khả năng để vượt qua, thế thì lo lắng nhiều cũng vô ích. Điều này rất thực tế, cho nên tôi thực tập những thứ này.

Thật rất quan trọng để nhìn vào mọi việc trong một cách thực tế hơn và cũng để thấy tất cả mọi thứ là liên hệ với nhau. Bất cứ điều gì xảy ra, thì phải có một ảnh hưởng tích cực nào đó. Trong trường hợp của tôi, tôi đã trở thành một người tị nạn, nhưng do bởi điều này tôi đã có cơ hội để gặp gỡ nhiều người và học hỏi rất nhiều quan điểm. Tôi đã gặp những người hành khất, lãnh tụ, học giả từ những lãnh vực khác nhau, và những người chống đối tôn giáo. Điều này rất hữu ích, bởi vì nếu vẫn ở bên trong Tây Tạng, tôi nghĩ kiến thức của tôi chỉ bằng phân nửa so với bây giờ. Do thế, nói một cách, thì đó là một thảm kịch kinh khủng, nhưng nhìn vào cách khác nó đã cho tôi nhiều cơ hội tốt. Nếu chúng ta nhìn vào những khía cạnh đa dạng, rồi thì chúng ta thấy, à cũng tốt. Những điều xấu xí có thể xảy ra, nhưng có thể có những thứ tốt đẹp nào đó ở bên trong.

Dân tộc Tây Tạng trong quá khứ hơi cô lập, nhưng bây giờ sự suy nghĩ của họ đã rộng rải hơn nhiều. Qua hàng thế kỷ, người Tây Tạng đã sống trong trạng thái như ngủ, nhưng bây giờ họ đã thức dậy. Như vậy là tốt quá! Thế nên thấy đấy, nếu chúng ta nhìn từ những khía cạnh khác nhau, chúng ta có thể tìm thấy một số điều tích cực. Đây là một sự hổ trợ lớn lao trong việc duy trì sự an bình của tâm hồn. Hiện tại, nhiều người bạn già đã nói khuôn mặt của tôi vẫn trông trẻ như thế nào ấy khi tôi gặp họ, và vì thế một số người này đã hỏi bí mật của tôi. Tôi thường nói với họ rằng tám hay chín giờ ngủ giúp cho sự an bình của tâm hồn. Thật sự đây chắc chắn là một nhân tố, nhưng điều lợi lạc chân thật là những thể trạng tâm thức và tinh thần thế nào ấy hòa bình và tĩnh lặng.

Một tâm thức tĩnh lặng thậm chí giúp chúng ta hồi phục từ những việc như giải  phẩu. Khi tôi phải giải phẩu túi mật, thật sự rất nghiêm trọng. Những nhà giải phẩu sau đó nói với tôi rằng thông thường cuộc giải phẩu mất khoảng mười lăm đến hai mươi phút, nhưng trong trường hợp của tôi rất nghiêm trọng nên họ phải mất đến gần ba giờ, vì túi mật của tôi phình to đến gần gấp đôi, với nhiều mủ. Nhưng rồi thì tôi đã bình phục sau năm ngày như thế. Do vậy một tâm thức tĩnh lặng và một thái độ lạc quan thật sự hổ trợ cho việc duy trì một thân thể khỏe mạnh, và rồi nếu điều gì đấy không may xảy ra thì quý vị sẽ bình phục một cách mau chóng. Sự hòa bình của tâm thức thật sự là một nhân tố rất quan trọng của sức khỏe.

Vẻ Đẹp Bên Trong Chống Lại Vẻ Đẹp Bên Ngoài

Tôi cũng sẽ đề cập ở đây, phần thì đùa và phần thì trêu chọc, rằng một số người thich tiêu xài nhiều tiền vào son phấn. Một số người lại muốn sử dụng những màu sắc khác nhau trên khuôn mặt của họ - xanh dương, xanh lục và những màu khác. Nó trông không đẹp lắm, nhưng họ nghĩ là rất đẹp! Người ta dường như chú ý nhiều vào vẻ đẹp bên ngoài. Trong một lần nói chuyện công cộng, có một người tóc xanh dương, thật rất bất thường. Cho nên dĩ nhiên vẻ đẹp bên ngoài là quan trọng, nhưng điều quan trọng nhất là vẻ đẹp bên trong. Những người ấy tiêu rất nhiều tiền cho vẻ đẹp bên ngoài, nhưng xin hãy chú ý hơn với sự xinh đẹp bên trong, vốn là tốt đẹp hơn nhiều.

Tâm Thức Và Những Cảm Xúc Như Một Chủ Đề Học Thuật

Chúng ta đang nói về những khám phá khoa học. Sự hòa bình tinh thần thật sự của tâm thức là then chốt. Căn bản cho sự hòa bình của tâm thức là sự tự tin và sức mạnh nội tại, vốn đến từ sự thực tập từ ái và bi mẫn, với một ý nghĩa tôn trọng người khác và quan tâm cho sự cát tường của họ. Đây là đạo đức thế tục.

Từ nhà trẻ cho đến đại học, chúng ta có thể giáo dục về tâm thức và về vấn đề chăm sóc những cảm xúc của chúng ta như thế nào. Chủ đề thật là rộng lớn, và có nhiều giải thích về tâm thức và những cảm xúc của chúng ta cùng sự nối kết giữa chúng. Chúng ta có thể thấy một loại nguyên nhân và hệ quả, nơi mà nếu điều gì đó xảy ra ở phần này của tâm thức, thì sẽ có điều gì đấy xảy ra ở đâu đấy. Cho nên để đối phó với điều này, chúng ta cần một cung cách quan tâm nghiêm túc mà trong ấy tâm thức và toàn thể não bộ là liên kết với nhau.

Chủ đề rộng lớn này thật đáng giá để nghiên cứu học tập. Trong vài năm qua ở Hoa Kỳ, các nhà khoa học đã và đang thực hiện những thí nghiệm về căn bản của kiến thức này, và một số kết quả thật cụ thể đã hiện diện. Như một kết quả, bây giờ đã có những chương trình giáo dục về đạo đức thế tục. Giờ đây, chúng ta cũng cam kết để xây dựng một dự thảo chương trình quan tâm đến đạo đức phẩm hạnh căn cứ trên chủ nghĩa thế tục, vốn có thể thích hợp trong lãnh vực giáo dục thế tục.

Thính chúng, và đặc biệt có những nhà giáo dục và tư tưởng nào ở đây, nên suy nghĩ hơn về điều này và nếu có một cơ hội nào thuận tiện, chúng ta nên có những thảo luận nào đó về chủ đề này. Hệ thống giáo dục hiện tại dường như thiếu vắng những bài học về đạo đức phẩm cách, cho nên hầu hết mọi người đều phải dựa vào những giáo lý tôn giáo cho việc này. Dĩ nhiên điều này là tốt, nhưng có những người không thích thú với tôn giáo và thấy khó khăn để chấp nhận những khái niệm tôn giáo. Điều này làm nó khó khăn hơn. Do vậy, chúng ta cần một cung cách thế tục, để cho có một sự chấp nhận phổ quát.

Tôi xin tạm chấm dứt. Bây giờ xin đặt câu hỏi.

HỎI & ĐÁP

HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, trong bình luận sau cùng của ngài đã chạm đến câu hỏi mà tôi sắp hỏi, nhưng nhằm để có một câu trả lời trọn vẹn, tôi sẽ hỏi ngài một lần nữa nếu ngài không phiền. Với việc quan tâm đến sự giảng dạy đạo đức thế tục tại các trường học và đại học, thì ngài có đang hành động để phát triển một chương trình giáo huấn thích hợp với mọi người không? Nếu thế, ngài có bất cứ tổ chức giáo dục hay tài chính nào hổ trợ cho ngài không?

ĐÁP: Ở Ấn Độ, với sự hổ trợ của một vài trường đại học ở Delhi, chúng tôi đã bắt đầu làm việc để hình thành một chương trình phác thảo, như tôi đã đề cập ở phía trước. Rồi thì chúng tôi cũng có Viện Tâm Thức và Đời Sống. Ở Hoa Kỳ, những thành viên cá nhân trong lãnh vực của riêng họ ở những nơi như Đại học Wisconsin, Emory, Stanford và v.v… đã tiến hành việc giáo dục với đạo đức thế tục. Và những tổ chức này chúng tôi đã mở rộng sang Âu châu. Sắp tới chúng tôi sẽ thiết lập một trụ sở ở trong hay gần Delhi. Đến bây giờ đơn giản là chúng tôi đang làm việc này. Một khi chương trình đã sẳn sàng, rồi thì có lẻ chúng tôi có thể huấn luyện một số giáo viên, và điều gì đó sẽ xảy ra. Có thể nó hữu dụng và chúng ta sẽ thấy.

HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, tôi yêu hành tinh và mọi thứ tạo nên nó, trái đất, cây cỏ, và loài vật, và những con người hấp dẫn như chúng ta. Nhưng những con người này vẫn đang phá hoại hành tinh, với có lẻ nhiều thứ rất nhỏ và đơn giản như mua những chai nhựa, và rồi thì những thứ lớn và quan trọng hơn như tàn phá rừng. Tôi biết rằng tôi phải nhẫn nại hơn nhưng khi tôi thấy rằng sự sống đang chết và đau khổ, có rất nhiều sân hận từ trong lòng tôi và tôi muốn đấu tranh. Do vậy, câu hỏi của tôi là, có một loại sân hận lành mạnh chứ? Tôi có thể đấu tranh với sự yêu thương không?

ĐÁP: Sân hận như tôi đề cập trước đây, là liên hệ với động cơ. Do thế, sân hận vì quan tâm đến điều gì đó hay người khác là một thứ, và sân hận bị thúc đẩy bởi thù ghét là điều gì đấy rất khác biệt.

HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, cảm ơn ngài đã hiện diện ở đây. Thật là tuyệt vời để được thấy ngài và lắng nghe ngài. Tôi có một câu hỏi rất đơn giản. Nếu ngài có thời gian rổi rảnh ngày mai, ngài muốn làm gì? Cảm ơn.

ĐÁP: Thường thường, bất khi nào có thời gian thì tôi đọc kinh điển, chính yếu là kinh điển Tây Tạng. Trong Phật giáo Tây Tạng, chúng tôi có 300 bộ, 100 bộ là lời của chính Đức Phật, gần giống như Thánh kinh. Rồi thì chúng tôi có 200 bộ luận giải. Thế nên tôi thường nói với người Tây Tạng rằng những thứ này không phải là đối tượng để tôn thờ, nhưng là những tài liệu để học hỏi. Trong khi tôi nói với những người khác điều này, thì tự chính tôi cũng đang cố gắng để đọc những quyển sách này.  Vậy thì có rất nhiều sách chưa được học hỏi. Và có lẻ nếu tôi có hai ngày nghỉ ngơi, thế thì tôi muốn đi đến một nơi với những ngọn núi tuyết. Tôi muốn thấy tuyết hơn!

HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, ngài đang nói về 6 tỉ người có tín ngưỡng và có lẻ một tỉ người là vô thần trên hành tinh. Tôi có ấn tượng rằng có một nhóm thứ ba của những người không còn cảm thấy thoải mái với những tổ chức tôn giáo truyền thống nhưng cũng không là những người vô thần, và đang tìm kiếm tâm linh vượt ngoài hệ thống tôn giáo. Ngài sẽ khuyên bảo họ như thế nào?

ĐÁP: Nhiều năm trước đây ở Stockholm, tôi đã gặp một nhóm nhỏ. Họ không thích những truyền thống hay tôn giáo hiện tại nhưng vẫn đang tìm kiếm một loại tâm linh. Vâng, có những người như vậy. Tuy nhiên, tôi thấy rằng những gì quý vị gọi là “tân thời đại (new age)”, hay lấy nơi này một ít, nơi kia một ít và tạo nên một phối hợp mới, thì không hữu dụng lắm!

Tôi nghĩ thật là tốt khi không chỉ hài lòng với những nhu cầu vật chất, mà cố gắng và tìm kiếm những giá trị sâu xa hơn là rất tốt. Thật đáng giá để phân tích đời sống của chúng ta, và để thấy rằng sự hạnh phúc của chúng ta không đến từ một loại hài lòng cảm giác nào đấy. Như khi nhạc đang biểu diễn, chúng ta cảm thấy hài lòng, nhưng nếu nó ngừng lại thì sự hài lòng chấm dứt. Ở trình độ tinh thần, để có một cảm giác mênh mang của niềm tin hay từ bi yêu thương – sự toại nguyện đến từ điều này thì bền lâu hơn nhiều.

HỎI: Đối với ngài, điều quan trọng nhất trong đời sống của một con người là gì?

ĐÁP: Tôi luôn luôn nói với mọi người rằng mục tiêu cuộc sống của chúng ta là để có một đời sống hạnh phúc. Bây giờ nhằm để đạt được sự hạnh phúc hay sung sướng, thì nó không lệ thuộc vào những năng lực hay kinh nghiệm cảm quan, mà đúng hơn là nên lệ thuộc vào thể  trạng tinh thần của chúng ta. Do vậy, như tôi thường nói, chúng ta phải chú ý nhiều hơn vào những giá trị nội tại của chúng ta. Cảm ơn rất nhiều

Fribourg, Switzerland, April 2013 Slightly edited by Alexander Berzin

https://studybuddhism.com/en/buddhism-in-daily-life/universal-values/ethics-beyond-religion

Ẩn Tâm Lộ, Monday, July 17, 2017

Thứ Ba, 11 tháng 7, 2017

LỜI CẢM ƠN CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NHÂN LỄ SINH NHẬT THỨ 82


Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữTuệ Uyển
dalai lama
Tôi muốn cảm ơn mọi người đã gửi những lời chào mừng thân mật nhân ngày sinh 82 của tôi và những người đã tham gia buổi lễ này ở nhiều nơi trên thế giới.
Quý vị chắc chắn đã biết, cuộc đời tôi được hướng dẫn bằng ba chí nguyện  chính – đóng góp cho một thế giới yêu thương hơn; thúc đẩy sự hòa hiệp tôn giáo, và hành động để bảo tồn nền văn hóa Phật giáo Tây Tạng, vốn là một nền văn hóa hòa bình và bất bạo động, trong khi cũng chú ý đến nhu cầu bảo vệ môi trường thiên nhiên Tây Tạng. Vì Cao Nguyên Tây Tạng là nơi phát nguyên nhiều dòng sông quan trọng của Á châu, hơn một tỉ người lệ thuộc vào nguồn nước mà chúng cung cấp.
Nền văn hóa Phật giáo Tây Tạng xuất phát từ những truyền thống của trường Đại học Nalanda lịch sử của Ấn Độ, vốn khuyến khích sự lệ thuộcvào lý trí và logic hơn là chỉ dựa vào thẩm quyềncủa kinh điển. Nó tiếp nhận một sự tiếp cận thực tiển, như khoa học, vốn bao gồm một kiến thức toàn diện về những hoạt động của tâm thức và cảm xúc vẫn vô cùng liên hệ với thế giớingày nay.
Tôi tự trung thành với những chí nguyện này, nhưng tôi thường yêu cầu các anh chị em, những người biểu lộ tình cảm và sự tôn trọng tôi hãy quan tâm cùng tôi giữ gìn chúng.
Tóm lại, tôi xin yêu cầu quý vị hãy vui lòng giúp đở người khác bất cứ khi nào quý vị có thể và nếu vì một lý do nào đó quy vị không thể làm được, thì tối thiểu hãy tránh làm bất cứ điều gì tổn hại.
Với những lời cầu nguyện và mong ước tốt đẹp.
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Leh, Ladakh, 9 July 2017

I would like to thank everyone who sent kind greetings on the occasion of my 82nd birthday and who joined in celebrating the day in many parts of the world.
As you are probably already aware, my life is guided by three principal commitments — to contribute to bringing about a more compassionate world; to encourage inter-religious harmony, and to work to preserve Tibet’s Buddhist culture, which is a culture of peace and non-violence, while also drawing attention to the need to protect the natural environment of Tibet. Since the Tibetan Plateau is the source of Asia’s major rivers, more than one billion people depend on the water they provide.
Tibet’s Buddhist culture is derived from the traditions of India’s historic Nalanda University, which encouraged dependence on reason and logic over reliance on mere scriptural authority. It adopted an empirical approach, like science, which included a thorough knowledge of the workings of the mind and emotions that remains extremely relevant today.
These are commitments by which I abide myself, but I often ask brothers and sisters who show me affection and respect to consider joining me in upholding them.
In short, may I request you please to help others whenever you can and if for some reason you can’t do that, at least to refrain from doing anyone any harm.
With my prayers and good wishes,
The Dalai Lama
Leh, Ladakh, 9 July 2017