Thứ Tư, 12 tháng 12, 2018

THI KỆ QUÁN CHIẾU HÀNG NGÀY


                                                                                               


Nguyên bản: Daily Reflection on the Poem
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

-***-

Giống như dòng thác đổ mạnh mẽ
 Không thể chảy ngược lại
Cũng vậy chuyển dịch của một đời sống con người
Cũng không thể đảo ngược được.
-         ĐỨC PHẬT –

-***-

Đây là toàn bộ thi kệ của Đệ Nhất Ban Thiền Lạt Ma

Nguyện Ước Giải Thoát Khỏi Tình Cảnh Nguy Hiểm Của Thân Trung ấm,
Anh Hùng Thoát Ra Từ Sự Sợ Hãi.
Đệ Nhất Ban Thiền Lạt Ma
Losang Chokyi Gyeltsen

Thi kệ 1:

Con và tất cả chúng sanh trong khắp không gian, không loại trừ ai
Xin quy y cho đến khi Giác Ngộ tối hậu
Với chư Phật, giáo pháp, và cộng đồng tâm linh trong quá khứ, hiện tại và vị lai.
Nguyện cho chúng con được giải thoát khỏi sự khiếp sợ của kiếp sống này, thân trung ấm, và kiếp sống tới.

Thi Kệ 2

Xin cho chúng tôi rút ra ý nghĩa tinh hoa mà kiếp sống này hổ trợ
Không bị xao lãng với những mối quan hệ vô nghĩa của kiếp sống này,
Vì nền tảng tốt đẹp này, khó để đạt được và dễ bị suy tàn,
Hiện tại là một cơ hội của chọn lựa giữa được và mất, thoải mái và khổ đau.

Thi Kệ 3

Xin cho chúng tôi nhận ra rằng không có thời gian để lãng phí,
Sự chết là chắc chắn nhưng lúc nào chết là không xác định.
Những gì đã tập họp sẽ bị chia lìa, những gì đã được tích tập sẽ được tiêu thụ mà không dư thừa.
Điểm cuối của đỉnh cao là đi xuống, kết thúc của sự sinh là sự chết.

Thi Kệ 4

Xin cho chúng tôi được giải tỏa khỏi sự tràn ngập của đau khổ
Qua nhiều nguyên nhân của sự chết
Khi trong tập họp này của những nhận thức sai lầm về chủ thể và đối tượng
Thân thể của ảo tưởng được cấu thành bởi bốn yếu tố bất tịnh
Và tâm thức sắp chia ly

Thi Kệ 5

Xin cho chúng tôi được thoát khỏi những hiện tướng sai lầm phi đạo đức
Khi, bị lừa dối vào lúc nhu cầu kéo dài thân thể này quá thiết tha
Những kẻ thù kinh khủng – thần chết – biểu hiện
Và chúng ta tự giết mình
với những vũ khí của ba độc tố: tham luyến, thù oán, và bối rối.

Thi Kệ 6

Xin cho chúng tôi ghi nhớ những giáo huấn cho sự thực tập
Khi bác sĩ bỏ rơi chúng tôi và các nghi thức không có kết quả,
Bạn bè đã bó tay với sự sống của chúng tôi,
Và chúng tôi không còn gì nữa để làm.

Thi Kệ 7

Xin cho chúng tôi có sự tự tin hân hoan và hỉ lạc
Khi thực phẩm và tài sản được tích lũy với những sự đau khổ bị bỏ lại phía sau
Và chúng tôi chia lìa mãi mãi với những người thân yêu mến và ước mong,
Ra đi đơn độc tới một hoàn cảnh hiểm nghèo.

Thi Kệ 8

Xin cho chúng tôi phát sinh một tâm thức mạnh mẽ của đạo đức
Khi những yêu tố - đất, nước, gió, lửa – tan rã trong những giai đoạn
Và sức mạnh thân thể bị mất, miệng và mũi khô và co lại
Sức ấm rút lui, hơi thở hổn hển, và âm thanh khò khè nổi lên

Thi Kệ 9

Xin cho chúng tôi nhận ra phương thức bất tử của chúng sanh
Khi những hiện tướng sai lầm đủ thứ sợ hãi và kinh khiếp
Và trong ảo giác, làn khói, và đom đóm đặc thù xuất hiện
Và khung sườn của tám mươi nhận thức biểu thị chấm dứt

Thi Kệ 10

Xin cho chúng tôi phát sinh sự tỉnh thức và quán chiếu mạnh mẽ
Khi yếu tố gió bắt đầu hòa tan vào thức
Và sự tương tục của hơi thở bên ngoài chấm dứt,
các hiện tướng thô nhị nguyên tan rã,
Và một hiện tướng như ngọn đèn bơ cháy ló dạng.

Thi Kệ 11

Xin cho chúng tôi biết bản chất của chính chúng tôi
Qua du già việc nhận biết luân hồi và niết bàn như trống rỗng
Khi xuất hiện, gia tăng, và gần đạt đến hòa tan – thứ trước vào thứ sau –
Cùng những trải nghiệm như ánh sáng
của mặt trăng, mặt trời, và bình minh đen tối.


Thi Kệ 12

Xin cho linh quang của mẹ  và con gặp nhau
Khi gần thành tựu hòa tan vào trong tất cả trống không
Và tất cả các sự khuếch đại nhận thức dừng lại và
Một kinh nghiệm như bầu trời mùa thu
 thoát khỏi những điều kiện ô nhiễm ló dạng

Thi Kệ 13

Xin cho chúng con được thiết lập
 trong thiền nhất tâm thậm thâm
Trong tuệ trí quý báu của sự kết hợp
an lạc bẩm sinh và tánh không
Trong bốn sự trống rỗng trên sự tan biến
của thành phần giống như mặt trăng trắng
Bằng lửa giống như tia chớp nữ mạnh mẽ.

Thi Kệ 14

Xin cho tôi hoàn thiện thể trạng trung ấm thân
Thiền định về vọng tưởng vì thế trên việc rời khỏi linh quang
Chúng tôi thành đạt một Thọ dụng thân sáng chói với sự huy hoàng của những biểu hiện và hảo tướng của một Đức Phật
Phát sinh thuần khiết từ gió năng lượng và tâm linh quang của sự chết

Thi kệ 15

Nếu, qua nghiệp, một thể trạng trung ấm thân được thiết lập,
Nguyện cho những hiện tướng sai lầm được tịnh hóa
Qua sự phân tích tức thời và thực chứng việc vắng mặt của sự tồn tại cố hữu
Của những khổ đau của sanh, tử và thể trạng trung ấm thân.

Thi kệ 16

Nguyện cho chúng tôi được sinh ra trong một vùng đất tinh khiết
Qua việc chuyển hóa du già ngoại tại, nội tại và bí mật
Khi những dấu hiệu đa dạng – 4 âm thanh của sự đảo ngược của 4 yếu tố
Ba hiện tướng sợ hãi, và những điều không xác thực – xuất hiện

Thi Kệ 17

Xin cho chúng tôi được tái sanh với sự hổ trợ của sự sống siêu việt của một hành giả Mật thừa sử dụng bầu trời
Hay thân thể của một tu sĩ hay một cư sĩ hành giả sở hữu ba sự thực tập
Và xin cho chúng tôi hoàn thành sự thực chứng về những con đường của hai giai đoạn của sự phát sinh và hoàn thành,
Do thế thành tựu nhanh chóng những thân của một Đức Phật – Pháp thân, Báo thân và Hóa thân.

-***-
Ẩn Tâm Lộ, Wednesday, December 12, 2018










ĐÓN NHẬN SỰ TÁI SANH TÍCH CỰC




Nguyên bản: Taking a Positve Rebirth
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển


-***-

Bất chấp ta đã đạt được những may mắn nào đi nữa,
Khi ta bắt đầu cho một kiếp sống khác
Ta đơn độc không có người phối ngẫu hay con cái,
Không có áo quần, không có bè bạn,
Giống như một người nào đó bị chinh phục bởi một kẻ thù trong sa mạc
Nếu ta sẽ không có ngay cả một cái tên cho chính ta,
Thì cần gì lưu tâm đến bất cứ thứ gì khác nữa?
-         ĐỨC PHẬT –

           -***-

Thi Kệ 17

Xin cho chúng tôi được tái sanh với sự hổ trợ của sự sống siêu việt của một hành giả Mật thừa sử dụng bầu trời
Hay thân thể của một tu sĩ hay một cư sĩ hành giả sở hữu ba sự thực tập
Và xin cho chúng tôi hoàn thành sự thực chứng về những con đường của hai giai đoạn của sự phát sinh và hoàn thành,
Do thế thành tựu nhanh chóng những thân của một Đức Phật – Pháp thân, Báo thân và Hóa thân.

Việc nối kết kiếp sống tới khi ở trong thể trạng trung ấm là một tiến trình của sức hút và sức đẩy. Cả những súc sanh được sanh từ trứng bên ngoài thân thể và được sanh trong tử cung hoặc thấy cha mẹ chúng một cách thật sự trong tiến trình sinh dục, hay một ý tưởng về điều này, và rồi phát sinh tham luyến (sức hút) với cha hoặc mẹ đối ngược giới tính và sức đẩy [ra xa] với cha hoặc mẹ cùng giới tính. Khi chúng sanh trung ấm sắp ôm lấy cha hoặc mẹ mà nó tham luyến, đột nhiên tất cả nó chỉ thấy là bộ phận sinh dục của người ấy, và vì vậy nó nổi giận. Trong cách này, sức hút và sức đẩy mang đến sự chết cuối cùng của chúng sanh trung ấm.

Chúng ta phải nói rằng đây là cách mà đôi khi thể trạng trung ấm chấm dứt, vì sự thụ tinh trong ống nghiệm mâu thuẩn với những gì mà một số luận điển của chúng ta nói thì phải là như vậy – một cách đặc biệt, rằng cha mẹ phải ăn nằm dưới một điều kiện của sự kích thích tình dục mạnh mẽ. Ngày nay, tinh dịch của người cha có thể được giữ trong phòng thí nghiệm và được đưa vào tử cung bà mẹ mà không có sự kích thích tình dục nào. Tiến trình này mâu thuẩn với những luận điển nào đó với thực tế ngày nay, và chúng ta phải chấp nhận nó. Như những môn nhân của truyền thống Đại học tu viện Na Lan Đà Ấn Độ cổ xưa, chúng ta phải chấp nhận lý tính và khảo sát. Từ quan điểm ấy sự giải thích thông thường của chúng ta chưa hoàn toàn.

Ngay cả trong kinh điển Phật giáo có một câu chuyện về một đôi vợ chồng trở thành độc thân – một người là tăng và người kia là ni. Một ngày nọ vị tăng, bị ảnh hưởng bởi những ký ức quá khứ, đùa ghẹo người vợ cũ. Với việc xúc chạm thân thể, tinh dịch của ông bắn vào áo quần của bà ta. Sau này, bà cũng bị tác động với ký ức và để tinh dịch vào bộ phận của bà. Đúng thời gian, một đứa bé được sinh ra.. Cho nên, ngay cả kinh điển Phật giáo ban sơ này cũng mâu thuẩn với lý thuyết rằng sự thụ thai chỉ xảy ra trong khi đôi nam nữ ở trong tình trạng ôm ấp tình dục.

Trong một cách tương tự, được kể rằng dòng truyền thừa của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đi ngược đến một cá nhân tên là Sun-Friend do vì tinh dịch của cha ông rơi trên lá cây, được phát triển bởi sức nóng của mặt trời vì vậy hai đứa bé được hình thành. Hai câu chuyện này, một thời dường như là chuyện thần thoại, ngày nay được hiện thực trong khoa học. Mặc dù, một cách phổ quát đó là trường hợp mà việc thụ thai xảy ra dưới những điều kiện nào đó, nó không phải luôn luôn như thế. Tương tự, việc chấm dứt thể trạng trung ấm không nhất thiết đòi hỏi sức hút với cha mẹ khác giới tình và việc phản kháng vào lúc cuối cùng vì chỉ thấy bộ phận sinh dục.

Trong sự chết của trung ấm thân, chúng sanh nhanh chóng đi qua 8 giai đoạn trong trình tự tiến tới:
1-ảo giác
2-luồng khói
3-đom đóm
4-ngọn đèn dầu
5-tâm bầu trời sống động trắng
6-tâm bầu trời sống động đỏ-cam
7-tâm bầu trời sống động đen
8-linh quang

Vào thời điểm thụ thai, chúng sanh đi qua 7 giai đoạn còn lại theo trình tự ngược lại:
7-tâm bầu trời sống động đen
6-tâm bầu trời sống động đỏ-cam
5-tâm bầu trời sống động trắng
4-ngọn đèn dầu
3-đom đóm
2-luồng khói
1-ảo giác

Có những giải thích khác nhau cho vấn đề chúng sanh đi vào tử cung như thế nào. Một số luận điển nói rằng bằng việc đi vào miệng của đàn ông hay đỉnh đầu và đi qua thân thể của ông ấy và dương vật đi vào tử cung của người đàn bà. Một số sách khác nói rằng chúng sanh đi trực tiếp qua bộ phận nữ vào tử cung. Một người với đạo đức chiếm ưu thế sẽ có một cảm giác của việc đi vào một ngôi nhà êm đềm và nghe những âm thanh dễ chịu. Một người bị khống chế bởi phi đạo đức sẽ có một cảm giác đi vào một đầm lầy hay khu rừng tối tăm giữa những tiếng kêu la khàn khàn.

Gió và tâm rất vi tế của chúng sanh đi vào vật chất (trứng và tinh trùng) được cha mẹ góp phần. Trong bào thai, vốn vào lúc này là bằng một hạt mù tạt lớn, kinh mạch trung tâm hình thành với những kinh mạch bên trái và phải cuộn vào nhau ba lần. Sau đó luồng gió chuyển-lên và gió chuyển-xuống di chuyển vào những hướng tương ứng của chúng và ba kinh mạch trở thành mở rộng. Thân thể dần dần phát triển và cuối cùng xuất hiện trong tử cung.

Bằng việc tiếp tục duy trì sự thực tập tâm linh được giải thích trong những thi kệ trước của Đệ Nhất Ban Thiền Lạt Ma, ta có thể được tái sanh với một thân thể vật lý đặc biệt hổ trợ cho một kiếp sống mà trong đó ta sẽ có thể hoàn tất những con đường tu tập Mật thừa còn lại vốn đưa đến sự Giác Ngộ trọn vẹn. Ta có thể được tái sanh trong những nơi chốn lạ thường với những chúng sanh được gọi là “người sử dụng bầu trời” (sky-users), những người thực tập Mật thừa, hay trong những địa vực khác thông thường hơn nơi giáo huấn, đạo sư và sự tự do để thực tập hiện hữu. Trong một nơi tái sanh thuận lợi như vậy, ta sẽ phát những thệ nguyện của hành vi tinh khiết và đi đến sở hữu ba sự thực tập – đạo đức, thiền định, và tuệ trí – như gốc rễ cho sự tiến bộ tâm linh của ta. Với những điều này như nền tảng, ta sẽ tìm cầu để hoàn thành những thực chứng của hai giai đoạn cao nhất của Tantra Yoga Tối Thượng.

·        Bổn tôn du già cùng với thiền quán về tánh không và 8 dấu hiệu của sự chết.
·        Bổn tôn du già với thiền quán về tánh không, sự rút lui của những luồng gió trong kinh mạch trung tâm, và việc thực chứng về những trình độ thậm thâm của thức.

Qua những giai đoạn này, ta sẽ hoàn thành những bước còn lại đến Quả Phật, ở một thể trạng phục vụ hoàn toàn cho người khác. Nguyện ước cuối cùng trong thi kệ của Đức Ban Thiền Lạt Ma là chỉ cho một kiếp sống tương lai như vậy. Hãy nhớ, mục tiêu tối hậu trong sự thực tập của Phật giáo là để phụng sự người khác, và cho một tình trạng tác động nhất cho việc phụng sự là nhất thiết phải đạt được thân và tâm tinh khiết. Mục đích là để có thể hổ trợ một số lượng rộng lớn chúng sanh qua vô số phương tiện.

Khi ta thực tập, đừng để con đường [tu tập] chỉ đi bên ngoài chính ta, mà phải hướng tâm ta vào con đường tâm linh. Bằng khác đi, mặc dù ta cố gắng để thực tập, ta có thể trở thành mệt mõi và ngay cả làm phiền người khác sau một thời gian. Đừng chỉ lập lại những từ ngữ thi kệ của Đệ Nhất Ban Thiền Lạt Ma, Những Nguyện Ước Cho Việc Thoát Khỏi Những Tình Trạng Khó Khăn Của Trung ấm Thân, Người Anh Hùng Thoát Khỏi Sợ Hãi, mà hãy thực tập nó hàng ngày từ việc tiếp cận quán chiếu, đưa ý nghĩa và tâm. Đó là lời khuyên của tôi.

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

1-    Mục tiêu trong việc tái sanh của ta là được sanh ra với một thân thể trong một hoàn cảnh có thể hoàn thành những con đường tâm linh còn lại.
2-    Mục tiêu của việc trở thành Giác Ngộ hoàn toàn là để phụng sự người khác.

-***-

Ẩn Tâm Lộ, Wednesday, December 12, 2018
                                                                                       


Thứ Bảy, 8 tháng 12, 2018

PHẢN ỨNG VỚI TÌNH TRẠNG TRUNG ẤM THÂN





Nguyên bản: Reacting to the Intermediate State
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

-***-

Những người nào xác định “tôi sẽ chết” sẽ không lo sợ nữa
Làm thế nào họ kinh hãi ngay cả những viễn tượng của sự chết!
-ĐỨC PHẬT-

-***-

Thi Kệ 14

Xin cho tôi hoàn thiện thể trạng trung ấm thân
Thiền định về vọng tưởng vì thế trên việc rời khỏi linh quang
Chúng tôi thành đạt một Thọ dụng thân sáng chói với sự huy hoàng của những biểu hiện và hảo tướng của một Đức Phật
Phát sinh thuần khiết từ gió năng lượng và tâm linh quang của sự chết

Khi hành giả thành tựu việc thực chứng tánh không bằng tâm vi tế nhất, họ cũng thành đạt trong một thân tương ứng thuần khiết từ gió năng lượng và tâm, được tô điểm bằng những biểu hiện và hảo tướng của một Đức Phật. Đây không chỉ là sự quán tưởng hay giả tướng, nhưng thực tế. Thay vì đi vào một thể trạng trung ấm, hành giả vươn lên từ trạng thái chết trong những gì chúng ta gọi là thân giả huyển, đúng vị trí của thể trạng trung ấm thân. Có thể có hai loại khác nhau – hoặc là một thân giả huyển bất tịnh hay Thọ dụng thân của một Đức Phật. Thi kệ này là một nguyện ước để hoàn thành sự chuyển hóa thậm thâm như vậy.

Tâm linh quang và gió năng lượng phục vụ như khung giá của linh quang là một thực thể, nhưng chúng có thể được phân chia một cách khái niệm. Gió năng lượng phục vụ như nhân chính yếu của một thân giả huyển, trái lại tâm phục vụ như nhân bổ trợ của một thân giả huyển. Đây là hai nhân sản sinh một thân giả huyển tương tự trong phương diện thân thể của một bổn tôn mà hành giả đã từng quán tưởng qua sự thực hành về bổn tôn du già. Đó không phải là một thân thể của thịt và xương. Nó có một bản chất tương tự như gió và tâm, trong suốt và không cản trở như cầu vồng.

Sự xuất hiện của một chúng sanh lý tưởng, bổn tôn, được nói là giống như sự xuất hiện bất ngờ của một con cá nhảy ra khỏi hồ trong hình tướng trọn vẹn. Từ lâu rồi hành giả đã hành thiền về chính mình như một bổn tôn đặc thù, việc trau dồi hiện tướng ấy, việc quán tưởng thân lý tưởng này là việc chuẩn bị cho sự chuyển hóa này. Mục tiêu của sự thực tập này cuối cùng được nhận ra. Sự mô phỏng đã đưa đến hiện thực.

NHỮNG TRÌNH ĐỘ THỰC TẬP

Từ trước đến nay, tôi đã cố gắng để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hành ở trình độ tự nhiên của mỗi người. Trong Tantra Yoga Tối Thượng có 3 trình độ. Ở điểm này, chúng ta quan tâm đến những hành giả đã đạt được trình độ thành thạo cao cấp nhưng chưa thể thành tựu kỳ công tối thượng của Quả Phật trong kiếp sống này. Những người như vậy bắt đầu để chết vì năng lực của những nghiệp nhiễm ô và những cảm xúc phiền  não, nhưng nếu họ có thể chuyển hóa tâm linh quang mẹ của sự chết thành tâm linh quang con của con đường tu tập, thì họ có thể bỏ qua thể trạng trung ấm thông thường dẫn đến tái sanh, và thành tựu một thân giả huyển thật sự, không phải là thứ chỉ do tưởng tượng.

Hành giả của trình độ tiếp theo (được thảo luận trong thi kệ tiếp theo) thì không thể chuyển hóa tâm linh quang của sự chết thành một thể trạng tâm đạo – và do vậy không thể đưa đến việc thành tựu một thân giả huyển – nhưng vẫn không phải chịu một sự chết thông thường. Hành giả này có thể chuyển hóa tâm linh quang của sự chết thành một hình thức của con đường tu tập, mặc dù không thể sản sinh một thân giả huyển. Hành giả có thể biểu lộ, không phải thực tế mà trong sự quán tưởng, trong một thân giả huyển trong thời kỳ của một thể trạng trung ấm thân. Một hành giả ở trình độ này có thể chọn lựa hình thức của sự tái sanh qua năng lực của từ bi, nguyện ước, và chánh niệm.

Hành giả của trình độ tiếp theo (được thảo luận trong thi kệ 16) không thể chuyển hóa tâm linh của sự chết thành bất cứ con đường trọn vẹn phẩm chất nào nhưng có thể, sau thời điểm không tự giác trong phần sau của tâm đen gần thành tựu, để phát sinh chánh niệm về sự thực hành Mật tông trong một hình thức nào đó trong thời gian biểu hiện linh quang. Người này đi vào một thể trạng trung ấm thông thường và có sự tái sanh trong một cung cách thông thường, nhưng có thể phát sinh sự thực tập lợi ích qua những khuynh hướng lành – năng lực phóng chiếu của những hành vi quá khứ - và sự hội tụ của những hoàn cảnh nội tại và ngoại tại.

Tất cả ba trình độ đang mong cầu để phát sinh ý thức linh quang vào trong một tuệ giác thực chứng tánh không, do vậy trước những giai đoạn hòa tan, tất cả ba trình độ trở thành chánh niệm về tánh không. Một cách đặc biệt trong những sự hòa tan của đất, nước, lửa và gió và sự xuất hiện của 4 trống rỗng – tâm bầu trời trắng xuất hiện, bầu trời đỏ cam gia tăng xuất hiện, bầu trời đen gần thành tựu xuất hiện, và linh quang – chúng phát sinh năng lực của chánh niệm và quán chiếu về tánh không của sự tồn tại cố hữu, mô thức bất tử của chúng sanh vốn là bản chất của tất cả mọi hiện tượng.

Vì trình độ cao nhất của hành giả là có thể chuyển hóa linh quang của sự chết thành một ý thức nhận ra tánh không, cho nên điều này hành động như một sự đối trị với tính bất lực của sự chết. Từ lúc ấy, ta không còn bị xúc cảm với sự sanh và tử nữa. Bản chất chân thật của mọi hiện tượng, được quán chiếu trong cách này, sinh ra bất diệt (hậu quả, nó được gọi là “bất tử” trong thi ca).

Sự chết ló dạng trong các giai đoạn, từ sự hòa tan của đất thành nước, xuyên qua và bao gồm sự ló dạng của linh quang. Sau đấy, trong những trường hợp của sự chết bình thường (không phải sự chết của những hành giả tu tập cao siêu nhất) 8 giai đoạn xảy ra trong trình tự ngược lại: đi qua từ linh quang đến tâm bầu trời đen gần thành tựu, đến hiện tướng đỏ-cam, hiện tướng trắng, ngọn đèn, đom đóm, luồng khói, đến ảo giác. Vào lúc kết thúc của một sự chết bình thường, 3 sự kiện xảy ra đồng thời: (1) linh quang lụi tàn, (2) ta trổi dậy từ linh quang của sự chết vào trong tâm bầu trời đen linh động gần thành tựu, và (3) thể trạng trung ấm thân bắt đầu (sau điều mà những bước khác đi ngược lại xảy ra). Trong một cách tương tự, một hành giả du già - ở trình độ thứ nhất của sự thực hành Tantra Yoga Tối Thượng nhưng trú trong linh quang ẩn dụ - đồng thời sinh khởi từ linh quang thành gần-thành tựu, tạo nên một thân giả huyển. Tuy nhiên, một hành giả của trình độ thứ nhất của Tantra Yoga Tối Thượng vốn vươn lên từ linh quang thật sự không đi ngược lại tâm gần thành tựu và v.v…; tất cả những trình độ thô của tâm đã chấm dứt.

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

1-    Những hành giả phát triển cấp cao có thể sử dụng linh quang thông thường của sự chết và gió năng lượng mà nó cưỡi trên đó như những nhân chính yếu của tâm và thân thanh tịnh, một cách tương ứng.
2-    Để có thể vươn lên từ bên trong tâm linh quang trong một thân thể thanh tịnh được tạo hình từ gió năng lượng, thì cần thiết trước tiên phải thực tập quán tưởng tự ta như có thân và tâm với động lực vị tha. Là thứ được tiến hành trong sự mô phỏng cuối cùng đưa đến điều được hoàn thành trong thực tế.
3-    Việc đem đến sự chuyển hóa cuối cùng đòi hỏi không được di chuyển ngược lại từ tâm linh quang bẩm sinh căn bản đến một trình độ thô của tâm. Điều này này sinh ra một thể trạng bất tử.

-***-

Thi kệ 15

Nếu, qua nghiệp, một thể trạng trung ấm thân được thiết lập,
Nguyện cho những hiện tướng sai lầm được tịnh hóa
Qua sự phân tích tức thời và thực chứng việc vắng mặt của sự tồn tại cố hữu
Của những khổ đau của sanh, tử và thể trạng trung ấm thân.

Vào lúc kết thúc của thời điểm mà tâm tinh tế nhất còn trong thân thể, có một chuyển động nhẹ của gió năng lượng mà tâm linh quang cưỡi trên ấy, và gió vi tế nhất và thức vi tế nhất để lại những hạt trắng và đỏ đã mở tại trái tim và thoát khỏi thân thể. Một chút máu xuất hiện ở lỗ mũi và một chút tinh chất lỏng trắng nổi lên từ bộ phận sinh dục, biểu thị rằng cấp độ cuối cùng của thức đã rời thân thể; mặc dù những dấu hiệu này có thể không xảy ra đối với những người mà thân thể đã bị tàn phá bởi bệnh tật. Đến lúc này thân thể bắt đầu bị phân hủy và có mùi hôi.

Việc tốt nhất mà những hành giả du già không đạt được Quả Phật trong kiếp sống của họ là thành tựu một thân giả huyển thay cho thân trung ấm. Những người thông thường không thể sinh khởi trong một thân giả huyển vì họ chưa đạt được những sự thực chứng cao cấp [cho nên] đi vào một thể trạng trung ấm qua năng lực của nghiệp. Nếu điều này xảy ra, ta nên nhận biết và thấu hiểu tình trạng của ta.

Khi linh quang chấm dứt và 7 giai đoạn còn lại bắt đầu ló dạng trong trình tự ngược lại, việc này đánh dấu sự bắt đầu của thể trạng trung ấm. Ở đây, vào lúc mở đầu trạng thái của những kiếp sống, ta đi qua 8 giai đoạn giống như ta làm khi thức giấc, bắt đầu một giấc mơ, đi đến từ uể oải, và nổi lên từ cực điểm.

8- linh quang
7- tâm bầu trời đen sống động
6- tâm bầu trời đỏ-cam sống động
5- tâm bầu trời trắng sống động
4- ngọn lửa của cây đèn dầu
3- đom đóm
2- luồng khói
1- ảo giác

Giống như ta làm khi đi ngủ, ta tái xuất hiện với một thân mộng, cũng vậy trong thể trạng trung ấm ta đột nhiên có một thân thể giống như thân thể ta sẽ được tái sanh. Thân thể này thường giống như thân thể tương lai của ta khoảng 5 hay 6 tuổi. Giống như một thân mộng ảo, nó được làm từ sự phối hợp của gió năng lượng và tâm. Gió mà trên đó tâm linh quang cưỡi lên là nhân chính yếu của thân thể đó, nhưng cũng là một nhân bổ trợ góp phần cho tâm của thể trạng trung ấm. Tâm linh quang, ngược lại, là nhân chính yếu của tâm của trung ấm thân và nhân bổ trợ đóng góp cho thân của chúng sanh trong trạng thái trung ấm.

Có một tu sĩ công chức từ dòng Hoàng Mạo, một hành giả gương mẫu và cũng là can đảm. Khi quân Trung Cộng tiến vào Chamdo ở tỉnh Kham của Tây Tạng và “giải phóng” nó, ông là một thuộc hạ của đại diện chính quyền Tây Tạng gần vùng đó. Vị đại diện cảm thấy rằng thật quan trọng để gặp người Trung Cộng và hỏi các thuộc hạ của ông ta rằng có người nào sẳn lòng để gặp họ không, nhưng mọi người ngoại trừ vị tu sĩ công chức này và một người khác đều sợ đi. Người đáng tin cậy và can đảm này đã kể lại với tôi rằng trong một trường hợp mẹ ông ta đã nói với ông rằng, “tôi sẽ ngủ thật sâu và đừng chạm vào thân thể tôi.” Trong một tuần bà ta ngủ sâu, sau đó bà thức dậy. Trong tuần lễ đó, tâm linh của bà đã thăm viếng nhiều nơi. Con trai bà ta không có lý do gì để nói dối với tôi, và ông không chỉ báo cáo một tin đồn. Đây không phải là trường hợp của việc chết lâm sàng và trở lại từ sự chết nhưng giống nhất với một thân thể mộng ảo đặc biệt.

Trong thể trạng trung ấm, vì thân thể ta được tạo hình từ gió và tâm, cho nên ta có tất cả 5 giác quan, nhưng thân thể ta trong suốt như cầu vồng, không có bóng (trên nền), và ta không để lại dấu chân. Qua năng lực mầu nhiệm của nghiệp, ta tự nhiên được ban cho quyền năng du hành trong một thời gian rất ngắn chung quanh hay  xuyên qua hệ thống thế giới này không bị cản trở bởi đất, đá, núi non và nhà cửa, tuy thế, khi ta đi vào bào thai của bà mẹ mới thì ta không thể ra được. Mặc dù ta nói chuyện với người thân, bè bạn, và những người khác, nhưng họ không thể nghe và vì vậy trả lời lại. Ta không thấy mặt trời, mặt trăng, hay những vì sao. Mặc dù ta chưa từng có thần thông trước đây, nhưng ta bây giờ ta có thần thông một cách giới hạn.

Nếu ta thấy rằng ta biểu lộ những dấu hiệu của một chúng sanh trong thể trạng này, thì ta nên nghĩ rằng, “ta đã chết và bây giờ ta đang ở trong thể trạng trung ấm.” Hãy sử dụng năng lực của chánh niệm để nhận ra rằng những hiện tướng của vui và buồn trong thể trạng trung ấm là những tạo tác của một tâm sai lầm, và hãy sử dụng chánh niệm để thấu hiểu rằng không có gì để dính mắc vào niềm vui, hay sân hận bởi những điều không vừa ý. Thay vì thể hảy quán tưởng rằng ta đã vươn lên trong một thân giả huyển, việc nhận ra rằng những hiện tướng đủ loại và các khổ đau của sự chết, trung ấm thân, và tái sanh là không có sự tồn tại cố hữu, rằng chúng không là chân lý. Hãy biết rằng những hiện tướng này là do những hành động quá khứ (nghiệp), trong thực tế, vốn ngay cả không có một chút nào được thiết lập thật sự.

Giống như trong bổn tôn du già ta quán tưởng một cách năng động rằng mọi thứ là thuần khiết vô giới hạn, được tạo thành từ tuệ trí và từ bi, cho nên ở đây trong thể trạng trung ấm ta nhìn tất cả mọi hiện tướng của chúng sanh như chư thiên nam và thiên nữ và tất cả những hiện tướng của môi trường như những dinh thự  kỳ diệu, do vậy tự thoát khỏi bất cứ sự không thích nào vì xấu xí hay sự hấp dẫn của xinh đẹp. Ta đang tìm kiếm để làm bất cứ sự xuất hiện nào ló dạng như trống rỗng sự tồn tại cố hữu và bất cứ gì là trống rỗng hiện ra như sự vui đùa của an lạc, sự giải trí của một bổn tôn.

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

1-    Thật quan trọng để nhận ra những dấu hiệu rằng ta đang ở trong trạng thái trung ấm.
2-    Hãy xem tất cả những hiện tướng vui và  khổ và những trải nghiệm như các biểu lộ của chính nghiệp tốt và xấu của tự thân.
3-    Ở vị trí của những gì được trình bày cho ta, hãy quán tưởng rằng ta đã vươn lên trong một thân giả huyển, việc quán tưởng tất cả những hiện tướng của các chúng sanh như những biểu hiện lý tưởng của tuệ  trí và từ bi và tất cả những hiên tướng của môi trường như những lâu đài kỳ diệu.
4-    Tránh việc không thích xấu xí hay thích thú xinh đẹp.
5-    Hãy nhận ra rằng các hiện tướng đa dạng và khổ đau của sự chết, trung ấm thân, và tái sanh là trống rỗng sự tồn tại cố hữu; chúng không tồn tại trong năng lực của chính chúng.

-***-

Thi kệ 16

Nguyện cho chúng tôi được sinh ra trong một vùng đất tinh khiết
Qua việc chuyển hóa du già ngoại tại, nội tại và bí mật
Khi những dấu hiệu đa dạng – 4 âm thanh của sự đảo ngược của 4 yếu tố
Ba hiện tướng sợ hãi, và những điều không xác thực – xuất hiện

Trong khi ta sống, tất cả những luồng gió năng lượng và các nhận thức bị chìm trong những mô thức thông thường và không ở dưới sự kiểm soát của ta. Trong thể trạng trung ấm, các luồng gió, hay năng lượng, phối hợp với 4 yếu tố đảo ngược mô thức bình thường của chúng, và những âm thanh khiếp đảm nổi lên từ sự đảo ngược này.  Khi đất-gió tan ra, một âm thanh như các ngọn núi đổ sụp ầm ầm ồn ào. Khi nước-gió tan rả, một âm thanh như đại dương gảy vụn náo động. Khi lửa-gió tan rả, một âm thanh như lửa cháy trong một cánh rừng dày đặc giận dử. Trong sự tan rả của gió-gió, một âm thanh như sự tru tréo của cơn cuồng phong khủng khiếp. Cũng có những hiện tướng khiếp đảm của các chúng sanh ở địa ngục, ngạ quỷ, và thú vật vốn là sự phóng chiếu của chính nghiệp cảm của chúng ta. Một hiện tướng nào đó như Thần Chết, vung vũ khí của họ và hô lên, “Tấn công! Giết,” và ta sợ hãi.

Nơi chốn, lòng tin, thái độ, thực phẩm, bè bạn và cảm giác của ta hoàn toàn không chắc chắn. Sự không xác thật của nơi chốn có nghĩa rằng ta liên tục đến những nơi nào đó. Không chắc chắn lòng tin có nghĩa rằng ta tìm kiếm sự nương tựa trong chốc lát: những cây cầu, cái giếng, và v.v… Không xác thật thái độ có nghĩa rằng ta thay đổi đột ngột và phảng phất như một chiếc lông chim trong gió. Thực phẩm không chắc chắn có nghĩa rằng ta thấy thức ăn ngon lành nhưng không thể ăn ngoại trừ chúng được dành cho ta. Bạn bè không chắc chắn có nghĩa rằng ta kết giao chung đụng với những người nào đó ngẫu nhiên. Những cảm giác không chắc thật có nghĩa rằng ta trải nghiệm những thay đổi đột ngột trong tâm trạng – khi thì vui vẻ, thỉnh thoảng đau đớn, lúc thì buồn, giận, và v.v…

Thêm nữa, trong thể trạng trung ấm có 3 thứ khe núi sợ hãi xuất  hiện – một khe núi đỏ nếu ta bị khống chế bởi tham dục, một khe núi xám nếu ta bị khống chế bởi si mê, và một khe núi đen nếu ta bị không chế bởi thù hận. Cũng có 4 con đường biểu thị cho kiếp sống tới. Nếu ta đi vào đó là một con đường với ánh sáng trắng, đó là dấu hiệu rằng ta sẽ được sanh ra như một vị thiên tử hay a tu la. Nếu con đường màu vàng, kiếp tới của ta sẽ là một con người hay một con thú. Nếu con đường ánh sáng đen, biểu thị rằng sự tái sanh sẽ là địa ngục. Nếu con đường với ánh sáng đỏ, cho thấy rằng sự tái sanh sẽ là ngạ quỷ.

Trong thể trạng trung ấm, màu sắc thân thể của một người nào đó được tái sanh vào địa ngục như khúc gỗ cháy; như một con thú, giống luồng khói; như ngạ quỷ, giống nước; như thiên tử của dục giới hay như một con người, giống màu vàng kim; như thiên tử ở sắc giới, màu trắng. Những phương hướng chuyển động của ta cũng phản chiếu sự tái sanh của ta. Những hình thể trung ấm của chúng sanh địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh đầu cúi xuống phía trước. Những hình thể chư thiên dục giới (những tình trạng tái sanh được đặc trưng bởi sự thụ hưởng cao) và con người đi thẳng phía trước. Những thể trạng trung ấm của chư thiên sắc giới (những trạng thái tái sanh được đặc trưng bởi xu hướng thiền định) đi [ngước] lên.

Thể trạng trung ấm có thể ngắn như một khoảnh khắc, đặc biệt nếu nghiệp đạo đức của ta mạnh mẽ đầy đủ, như sẽ là trường hợp khi ta đã phát lòng từ ái và bi mẫn đầy năng lực, hay phát triển một nguyện ước mạnh mẽ để được tái sanh vào cõi Tịnh Độ, hay khi xu hướng của ta là được tái sanh vì lợi ích của những người khác là có sức mạnh. Trung ấm thân cũng có thể ngắn như một khoảnh khắc nếu nghiệp không đạo đức của ta là mạnh mẽ đặc biệt, thí dụ, giết cha hoặc mẹ. Trái lại, bị lèo lái bởi nghiệp trong những mức độ hay thay đổi của tối tăm hay sáng sủa, thì ta sẽ lao vào việc tìm kiếm một hoàn cảnh cho tái sanh. Nếu không tìm được trong 7 ngày, trung ấm thân sẽ chết. Giống như khi ta bắt đầu thức dậy từ giấc ngủ, thân mộng ảo tan biến như hơi thở trên tấm gương, thân-gió [năng lượng] của ta trong thể trạng trung ấm tan biến từ dưới cùng và trên cùng, chấm dứt tại tim. Trong sự chết nhỏ này, ta nhanh chóng qua 8 giai đoạn của sự chết trong trình tự tiến tới, nhưng ta tái xuất hiện trong một thể trạng trung ấm mới – một lần nữa đi qua trình tự ngược lại. Trong phần lớn, tiến trình 7 ngày này có thể tiếp tục qua 7 “sự tái sanh” như vậy trong thể trạng trung ấm, diễn ra trong 49 ngày. Một số người nói rằng một ngày ở đây tương ứng với một ngày cho loại chúng sanh mà ta sẽ được tái sanh – điều này là cực kỳ dài cho một số chúng sanh – nhưng những người khác nói rằng nó là chiều dài của một ngày của con người.

Trở lại thi kệ: Ở giữa những hiện tướng đa dạng này, ta đang tìm cầu để duy trì tĩnh lặng và để làm (1) môi trường bên ngoài của ta xuất hiện những lâu đài và vùng lân cận kỳ diệu vô giá, (2) những chúng sanh nội tại (chẳng hạn như chúng sanh địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh, loài người, a tu la, và chư thiên) xuất hiện như những bổn tôn (những chúng sanh mà bản chất của họ là từ bi và trí tuệ), (3) bí mật (sự tỉnh thức và các tư tưởng của chính ta) xuất hiện như thiền định hỉ lạc thực chứng về tánh không. Vì vậy, bất chấp dấu hiệu gì xuất hiện đi nữa, thì chúng có thể được đảo ngược bằng sự thực tập, qua điều mà không nghi ngờ gì ta sẽ được tái sanh trong một kiếp sống tốt đẹp. Qua năng lực của của ba quán tưởng du già ngoại tại, nội tại, và bí mật là tinh khiết, ta đang mong cầu để đóng lại cánh cửa với kiếp sống nhiễm ô trong cõi luân hồi, và, thay vì thế được tái sanh trong vùng đất siêu việt đặc biệt vượt khỏi nghiệp nhiễm ô và những cảm xúc phiền não, nơi ta có thể tiếp tục thực tập.

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

1-    Hãy chuẩn bị rằng trong thể trạng trung ấm có thể có nhiều hiện tướng bất thường, cả diệu kỳ lẫn khủng khiếp. Hãy thấu hiểu rằng bây giờ bất cứ hiện tướng nào đều có thể được chuyển hóa bởi sự quán tưởng của ta.
2-    Hãy tĩnh lặng. Hãy quán tưởng môi trường như những dinh thự xinh đẹp trải dài trong một phong cảnh thanh bình. Hãy thấy các chúng sanh như có bản chất của từ bi và trí tuệ. Hãy xem sự tỉnh thức của chính ta như một tâm an lạc thực chứng tánh không.
3-     Điều này sẽ mang lại một sự tái sanh trong một nơi mà ta có thể tiếp tục sự thực tập đối với sự thực chứng tâm linh sâu xa hơn.

Ẩn tâm lộ, Saturday, December 8, 2018

-***-



LINH QUANG CỦA SỰ CHẾT




Nguyên bản: The Clear Light of Death
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
-***-

Hãy nhận ra thân thể vô thường như chiếc chậu đất
Hãy biết rằng các hiện tượng không có sự tồn tại cố hữu, như ảo ảnh.
Đã phá hủy những vũ khí độc hại của dính măc – hấp dẫn như những bông hoa –
Bạn sẽ vượt khỏi thậm chí những cảnh tượng của sự chết

-***-

Thi Kệ Số Mười Hai

Xin cho linh quang của mẹ  và con gặp nhau
Khi gần thành tựu hòa tan vào trong tất cả trống không
Và tất cả các sự khuếch đại nhận thức dừng lại và
Một kinh nghiệm như bầu trời mùa thu thoát khỏi những điều kiện ô nhiễm ló dạng

Theo Tantra Yoga Tối Thượng, thì không có tâm nào vi tế hơn tâm linh quang; nó phục vụ như căn bản của tất cả mọi hiện tướng của luân hồi và niết bàn. Tâm linh quang đã tồn tại liên tục từ vô thỉ luân hồi. Vì nó không nhất thời, nên nó được gọi là tâm nền tảng, trái lại những tâm đen gần thành tựu, hiện tướng gia tăng đỏ cam, hiện tướng trắng, và v.v… là mới được sanh ra và bắt buộc phải chấm dứt qua năng lực của những điều kiện và vì vậy được gọi là nhất thời và tự sinh. Tâm bẩm sinh nền tảng và hoàn toàn trống rỗng của linh quang là tâm tận cùng.

Tất cả những tâm khác có thể được xem như thô, mặc dù có nhiều trình độ của thô và tế trong chúng. Có liên quan với tâm linh quang, ngay cả những tâm hiện tướng trắng, hiện tướng gia tăng đỏ cam và đen gần thành tựu – vốn là vi tế hơn các thức thông thường – là thô. So sánh với tâm bẩm sinh nền tảng của linh quang, thì chúng là nhất thời, như là những thức thông thường.

Từ nhận thức này,  trung tâm của những nhận thức sai lầm về chủ thể và đối tượng (được đề cập trước đây trong thi kệ số 4) có thể chuyển đến những hiện tượng đó vốn được sản sinh từ các hành động (nghiệp), mà tự chính chúng sinh khởi từ khái niệm thô của những trình độ thô hơn của thức. Khi ta có thể an trụ không thay đổi mãi mãi trong tâm linh quang bẩm sinh mà không thoái hóa qua những trình độ thô hơn, thì không có cơ hội cho việc tích tập nghiêp chướng. Tuy nhiên, để duy trì liên tục trong tâm linh quang thì ta phải tiêu trừ các chướng ngại đến toàn giác, vốn là những nhiễm ô về sự xuất hiện sai lầm của chủ thể và đối tượng giống như chúng tồn tại một cách cố hữu. Khi ta có thể duy trì trong tâm linh quang, thì ý thức khái niệm chấm dứt. Cho đến lúc đó, thì ta ở dưới sự xoay chuyển của một trình độ thô của thức, của nhận thức nhất thời, và ta tích lũy nghiệp chướng.

Trong giai đoạn cuối cùng của lâm chung, khi tất cả những thức thô hòa tan vào trong tất cả trống rỗng, vốn là linh quang hay tâm nền tảng bẩm sinh, thì vô số đối tượng của thế giới cũng như các nhận thức chẳng hạn như giống nhau và khác nhau đã được lắng xuống trong tâm vi tế nhất này. Tất cả các hiện tướng của những môi trường và chúng sanh đã rút lui sự tương xứng của chính chúng. Nếu ta có thể chuyển hóa tâm linh quang của sự chết vào trong một thức đầy đủ toàn vẹn phẩm chất, thì tâm thực chứng bộ mặt của chính nó, tính bản nhiên của chính nó: thực thể của tâm nền tảng.

Đối với những người không thực hành, những hiện tướng thô cũng rút lui. Sự rút lui này của những hiện tướng quy ước, tuy nhiên, không qua một nhận thức của thành tựu thực tại qua hành thiền. Trong bốn giai đoạn cuối cùng của lâm chung, các luồng gió [năng lượng] phục vụ như khung giá của thức trở nên gia tăng vi tế. Khi, trong giai đoạn cuối cùng, những luồng gió nhất thời chuyên chở thức phải hoàn toàn hòa tan, tâm (cho dù là của người tu tập hay không) trở thành giống như không phân biệt, và một bình minh nguyên thể hiển bày.

Nhưng như một hành giả, ta tìm cầu để vượt khỏi tánh không thông thường này
, đây chỉ là một sự vắng mặt của các hiện tướng quy ước. Khi linh quang ló dạng, hãy mưu tìm để thực chứng tánh không phi thường của sự tồn tại cố hữu với chính tâm linh quang. Điều này sẽ không hình thành qua việc gắng sức tại chính thời điểm của linh quang, nhưng sinh khởi từ năng lực của sự quen thuộc có được từ trước đến những giai đoạn của hòa tan, và từ sự chánh niệm mạnh mẽ về tánh không trong thời gian xuất hiện của ba tâm trắng, đỏ và đen xuất hiện. Điều này làm vững chắc tầm quan trọng của việc thực hành liên tục.

Cốt lõi việc thực hành của tôi là việc quán chiếu về bốn giáo lý căn bản là vô thường, khổ đau, tánh không, và vô ngã. Ngoài ra như một bộ phận của tám nghi thức thực hành hằng ngày, tôi đã hành thiền về những giai đoạn của sự chết. Tôi đã quán tưởng sự hòa tan của yếu tố đất vào nước, nước vào lửa, và v.v… Mặc dù tôi không tự cho là có bất cứ kinh nghiệm sâu xa nào, nhưng có một sự ngừng chỉ nho nhỏ của hơi thở vào lúc nghi thức gọi là sự quán tưởng cho sự hòa tan của tất cả mọi hiện tướng. Tôi bảo đảm một biểu hiện hoàn hảo hơn nếu một hành giả quán tưởng những sự hòa tan trong một  cung cách ung dung và triệt để hơn. Vì những sự thực tập hàng ngày về bổn tôn du già của tôi hoàn toàn liên hệ đến việc quán tưởng về sự chết, cho nên tôi đang làm quen với tiến trình này, và vì vậy vào thời điểm lâm chung thật sự những bước này phải là quen thuộc. Nhưng tôi sẽ thành công hay không, thì tôi không biết.

Một số thiện hữu, kể cả những hành giả của hệ thống được gọi là Đại Hoàn Thiện trong phái Nyingma của Phật giáo Tây Tạng, đã thuật lại những kinh nghiệm sâu thẩm của sự hòa tan, nhưng vẫn trong những sự tương đồng của cảnh giới của những thực tế. Một số người Tây Tạng, được tuyên bố rằng đã chết lâm sàng, đã duy trì mà không trải qua sự phân hủy cơ thể trong một thời gian nào đó. Chỉ mới năm qua, thân thể của một lạt ma trong phái Sakya đã vẫn tươi nhuận mà không bị phân hủy trong 20 ngày. Ngài “qua đời” ở Dharamsala nhưng ngài vẫn duy trì trong trạng thái thiền định trong khi vẫn ở đây, Dharamsala; sau đó nhục thân của ngài được đưa đến Rajpur ở khu vực Dehra Dun, nơi ngài vẫn tươi nhuận. Đó là một điều ấn tượng. Tôi biết khoảng15 người Tây Tạng mà thân thể của họ vẫn tươi nhuận như vậy mà không bị phân hủy – một số người trong vài ngày, một số lâu hơn, tối đa là ba tuần lễ. Vị giáo thọ của chính tôi, Ling Rinpochay, đã duy trì trong 30 ngày.

Trong một hình thức tuyệt vời nhất của nó, trạng thái này, khi được chuyển hóa vào trong một kinh nghiệm tâm linh, được gọi là một sự gặp gở tâm linh quang của mẹ và con. Tâm linh quang mẹ xuất hiện một cách tự nhiên khi sự chết xảy ra qua năng lực của nghiệp. Tâm linh quang con được phát sinh bằng việc trau dồi con đường tâm linh, thành tựu bởi sự cố gắng của hành giả trong việc hành thiền trước đây. Việc gặp gở của tâm linh quang mẹ và con không thật sự là một sự gặp gở của hai thực thể; đúng hơn, tâm linh quang mẹ của sự chết, vốn ló dạng qua nghiệp, biến thành một thức tâm linh, tâm linh quang con. Đây là một sự gặp gở của tâm linh quang mẹ và con.

Trong một sự giảng giải khác, tâm linh quang con được đưa đến tánh không, và sự gặp gở của hai tâm linh quang có nghĩa là không để tâm linh quang mẹ là một tâm thông thường của sự chết mà sử dụng nó để lấy đối tượng của nó là tánh không của sự tồn tại cố hữu – tâm linh quang con. Việc xem tâm linh quang mẹ như một tâm thông thường của sự chết là một sự diễn giải thông thường hơn, nhưng ý nghĩa cốt lõi là giống nhau.

NHỮNG HẠT VI TẾ NHƯ CĂN BẢN CỦA TÂM VI TẾ

Như được diễn tả ở trên, sự biểu hiện ở những trình độ sâu hơn của thức lệ thuộc mật thiết với tiến trình vật lý của bốn yếu tố - đất, nước, lửa, gió – đặc biệt là gió [năng lượng], vì các luồng gió phục vụ như căn bản của thức. Cũng liên hệ trong tiến trình của sự chết là một hạt vật chất vi tế tại trái tim, vốn chứa đựng thức vi tế nhất của trạng thái thông thường.

Trong Mật pháp Thời Luân, một Tantra Yoga Tối Thượng khác được Đức Phật diễn thuyết được biết một cách rộng rãi ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ 10, có một trình bày hấp dẫn về 8 hạt của vật chất vi tế ở những vị trí quan trọng trong thân thể.  Đây là những vị trí mà nhiễm ô được tịnh hóa và tiềm năng được sử dụng. Giống như hạt tại trái tim trong Bí Mật Tập Hội (vốn, như được đề cập trước đây, là hệ thống chính được diễn tả trong quyển sách này), 8 hạt này là vật chất vi tế cở một hạt cải và được cấu thành bởi những phần tử trắng và đỏ cơ bản. Những khuynh hướng được hình thành bởi các hành động đạo đức và không đạo đức được trút vào những thức vi tế này. Những hoạt động của thân thể, lời nói và tâm ý ký gửi những xu hướng tiềm ẩn trong những thức vốn lưu trú trong những hạt vật chất này, nơi mà chúng được cất chứa cho đến khi những điều kiện nào đó làm cho chúng biểu hiện như vui sướng, khổ đau, và những sự kiện khác trong cõi luân hồi sanh tử.

Có hai bộ của mỗi 4 hạt: mỗi cặp hoạt động với nhau để tạo nên những trạng thái khác nhau của thức. Bộ thứ nhất tọa lạc tại (1) trán (hay đỉnh đầu), (2) cổ họng, (3) trái tim và (4) lỗ rốn; bộ thứ hai tọa lạc tại (1) lỗ rốn, (2) nơi bí mật (gốc xương sống), (3) trung tâm của bộ phận sinh dục, và (4) chóp của bộ phận sinh dục. Những hạt tại trán và lỗ rốn sản sinh trạng thái tỉnh giác, những hạt tại cổ họng và gốc xương sống sản sinh trạng thái mộng tưởng, những hạt tại trái tim và trung tâm của bộ phận sinh dục sản sinh trạng thái giấc ngủ sâu, những hạt tại lỗ rốn và chóp của bộ phận sinh dục sản sinh trạng thái hạnh phúc tình dục. Như bạn thấy, một hạt tại lỗ rốn chứa đựng trong nó hai khuynh hướng: một sản sinh thể trạng tỉnh giác trong vai trò thứ tư của nó thuộc bộ các hạt phía trên, và thứ kế sản sinh trạng thái hạnh phúc tình dục trong vai trò thứ nhất của nó thuộc bộ các hạt phía dưới.

Mỗi hạt chứa đựng hai loại tiềm lực, thanh tịnh và bất tịnh. Khi chúng ta tỉnh giấc, các luồng gió [năng lượng] của phần trên thân thể tích lũy tại trán, và các luồng gió tích lũy tại lỗ rốn của phần dưới thân thể; những tiềm lực thanh tịnh sản sinh chỉ những  hiện tướng của các đối tượng và những tiềm lực bất tịnh sản sinh những hiện tướng của các đối tượng bất tịnh. Trong giấc mộng, những luồng gió phía trên tích lũy tại cổ họng và những luồng gió phía dưới tích lũy tại gốc xương sống, và những tiềm lực thanh tịnh sản sinh những âm thanh tuyệt đối trái lại những tiềm lực bất tịnh sản sinh những lời nói xáo trộn. Trong giấc ngủ sâu, những luồng gió phía trên tích lũy tại trái tim và những luồng gió phía dưới tích lũy trung tâm bộ phận sinh dục, và những tiềm lực thanh tịnh sản sinh sự trong sáng vô thức và những tiềm năng bất tịnh sản sinh trạng thái tối tăm. Trong sự kích thích tình dục mạnh mẽ, những luồng gió phía trên tích lũy tại lỗ rốn và những luồng gió phía dưới tích lũy tại chóp của bộ phận sinh dục, theo đó các tiềm năng thanh tịnh sản sinh phúc lạc và những tiềm năng bất tịnh sản sinh sự xuất tinh hay sự phân tiết tình dục (cho nam và nữ).

Sự rèn luyện tâm linh trong truyền thống Thời Luân Mật Pháp là hướng đến việc tịnh hóa bốn bộ hạt này. Qua tịnh hóa những hạt của trán và lỗ rốn vốn sản sinh hiện tướng của những đối tượng bất tịnh trong khi tỉnh táo, các đối tượng trở thành những hiện tướng của các hình sắc trống rỗng – các hình sắc vượt khỏi vật chất đơn thuần. Như những hình sắc trống rỗng những hiện tướng này có thể được sử dụng trên con đường tu tập để Giác Ngộ. Những hạt tại cổ họng và gốc của xương sống có năng lực để phát sinh lời nói sai lầm, nhưng qua tịnh hóa chúng thì có thể trở thành “những âm thanh siêu xuất” cho việc sử dụng trên con đường tâm linh. Những hạt tại trái tim và cơ quan sinh dục có năng lực để sản sinh tối tăm, nhưng bằng việc tịnh hóa chúng, nó trở thành có thể sử dụng tuệ trí vô niệm trên con đường tâm linh. Những hạt tại lỗ rốn và chóp của cơ quan sinh dục có năng lực để sản sinh nhiễm ô, và qua việc tịnh hóa thì an lạc có thể được chuyển hóa thành đại diệu lạc bất biến vô nhiễm và được sử dụng cho những mục tiêu tâm linh. Những năng lực tích cực được phát triển thành những hình sắc cao hơn và cao hơn, cuối cùng biến thành thân thể, lời nói, tâm thức và diệu lạc kim cương đặc biệt của một Đức Phật.

Trong hệ thống Thời Luân, tất cả những chướng ngại ràng buộc các chúng sanh trong một trạng thái khổ đau và giới hạn vốn ngăn trở họ thành chiến sĩ vị tha được chứa đựng trong bốn loại hạt này. Không phải vật chất của tự những hạt này phục vụ như căn bản cho sự trao truyền nghiệp cảm của các chướng ngại, đúng hơn,  những luồng gió [năng lượng] và tâm rất vi tế cư ngụ trong hai bộ của bốn hạt này được trao truyền với các tiềm năng của nghiệp chướng, cả đạo đức và không đạo đức. Những hạt vật chất là những sự hổ trợ cho các tâm và các luồng gió vi tế theo cùng một cách như thân thể vật chất thô phù của chúng ta hổ trợ cho tâm chúng ta.

Hai năm trước đây một hành giả du già Tây Tạng, người thực tập Đại Hoàn Thiện  thiền quán của truyền thống Nyingma đã đạt được một thể trạng của việc hoàn toàn biến mất thân thể vật chất thô phù của ngài mà chúng tôi gọi là “thành tựu thân ánh sáng cầu vồng”. Tên của ngài là Achok, và ngài đến từ Nyarong. Ngài đã học hỏi triết lý theo thời gian tại một đại học tu việc Geluk gần Lhasa gọi là Sera, và ngài cũng đã tiếp nhận giáo huấn từ vị giáo thọ của tôi là Trijang Rinpochay, nhưng vị thầy chính của ngài là một lạt ma Nyingma, Dujom Rinpochay. Mặc dù ngài thực tập Mật thừa theo cả hai truyền thống cựu và tân của Phật giáo Tây Tạng, nhưng sự thực hành chính của ngài là việc trì tụng Om Mani Padme Hum và thiền định đi kèm với nó.

Cho đến khoảng ba năm trước, ngài thường nói rằng ngài hy vọng có cơ hội để gặp gở Đức Đạt Lai Lạt Ma trong kiếp sống này. Rồi thì, một ngày nọ, ngài gọi các môn đồ của ngài hiến cúng cầu nguyện cho sự trường thọ của Đức Đạt Lai Lạt  Ma. Sau lễ cúng dường, ngài ngạc nhiên họ bằng việc tuyên bố rằng ngài sẽ ra đi. Ngài đã quấn y màu vàng nghệ vào thân và nói họ niêm phong ngài trong phòng trong một tuần lễ. Đệ tử của ngài đã tuân theo lời dạy của ngài và sau một tuần, họ mở phòng ra và thấy ngài hoàn toàn biến mất ngoại trừ chiếc y của ngài. Một trong những đệ tử và một môn đồ của ngài đã đến Dharamsala, và họ đã thuật lại câu chuyện và đưa cho tôi một mãnh y của ngài.

Trong Tantra Yoga Tối Thượng, những năng lực – mà trong đời sống bình thường sản sinh các môi trường và chúng sanh bất tịnh bằng luồng gió [năng lượng] và tâm vi tế - được tịnh  hóa qua việc thực hành con đường tâm linh, theo đó chúng được chuyển hóa thành tâm ý, lời nói, và thân thể vị tha thanh tịnh của một vị Phật. Mục tiêu của chúng ta biểu hiện tâm nền tảng bẩm sinh của linh quang, trình độ vi tế nhất của thức, và để duy trì trong trình độ ấy của tâm mà không bị thoái bộ trở lại những trình độ thô hơn. Tuy nhiên, thể trạng tinh khiết này không chỉ là tinh thần; nó liên hệ đến thân thể, nhưng một thân thể được tạo thành từ luồng gió [năng lượng], luồng gió vốn là khung giá của tâm linh quang. Mục tiêu tối hậu của những sự biểu hiện này là để giúp đở người khác trong việc thành tựu cùng sự giải thoát khỏi khổ đau và hạn chế.

Trung tâm của tiến trình tịnh hóa này là việc thực chứng bản chất sáng suốt và hiểu biết của tâm – sự thông hiểu mà các cảm xúc phiền não chẳng hạn như tham dục, oán hận, thù địch, ghen ghét, và hiếu chiến không cư ngụ trong chính cốt lõi của tâm mà ở ngoại vi của nó. Khi tâm biết bản chất của chính nó và khi sự hiểu biết này được phối hợp với sự tập trung đầy năng lực, nó dần dần trở thành có thể giảm thiểu và cuối cùng vượt thắng các trạng thái phiền não vốn lèo lái tiến trình của luân hồi khổ đau. Đây là quan điểm Phật giáo về mối quan hệ giữa tâm và vật chất, và vấn đề chúng hoạt động như thế nào trong tiến trình tịnh hóa theo hướng vị tha.

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

1-    Giai đoạn cuối cùng của tiến trình lâm chung xảy ra khi tâm nền tảng bẩm sinh của linh quang ló dạng. Tâm này đã tồn tại liên tục từ vô thỉ và sẽ tiếp tục tồn tại mãi mãi.
2-    Cuối cùng, ở Quả Phật, ta trở thành có thể duy trì trong tâm bẩm sinh của linh quang mà không đi qua tiến trình ngược lại những trình độ thô của thức. Ở chỗ ấy, không có cơ hội cho việc tích lũy nghiệp chướng.
3-    Thậm chí đối với một người bình thường không tu tập, thì cũng có một sự vắng mặt của các hiện tướng thô xuất hiện  lúc chết, nhưng một hành giả đã dày công tu tập thì mong cầu sử dụng hữu ích tâm này để thực chứng lẽ thật, tánh không của sự tồn tại cố hữu, qua năng lực của việc quen thuộc đạt được từ thiền quán về tánh không.
4-    Một tâm linh quang bình thường vốn biểu hiện trong giai đoạn cuối cùng của sự chết  cuđược gọi là tâm linh quang mẹ, và linh quang phát sinh qua năng lực của việc trau dồi con đường tâm linh được gọi là tâm linh quang con.
5-    Khi tâm linh mẹ của sự chết, vốn ló dạng qua nghiệp lực biến thành thức tâm linh hiểu biết tánh không – tâm linh quang con – sự chuyển hóa này được gọi là sự gặp gở của tâm linh quang mẹ và con.

Thi Kệ Mười Ba

Xin cho chúng con được thiết lập
 trong thiền nhất tâm thậm thâm
Trong tuệ trí quý báu của sự kết hợp
an lạc bẩm sinh và tánh không
Trong bốn sự trống rỗng trên sự tan biến
của thành phần giống như mặt trăng trắng
Bằng lửa giống như tia chớp nữ mạnh mẽ.

Qua những kỷ thuật tập trung du già phát sinh sức nóng bên trong, được gọi là nội hỏa nữ (tumo trong Tạng ngữ), vốn di chuyển đi lên trong kinh mạch trung tâm từ vị trí chính của nó trong chấn thủy. Sức nóng bên trong này tan chảy thành phần trắng trong phức hợp của các kinh mạch tại đỉnh đầu (luân xa đại diệu lạc). Một cách ẩn dụ, thành phần trắng quan yếu được so sánh với mặt trăng và được gọi là tâm của sự Giác Ngộ. Khi thành phần trắng tan chảy, nó đi xuống bên trong kinh mạch trung tâm; khi nó dần dần đi gần đến những luân xa của cổ họng, trái tim, lỗ rốn, và vùng bí mật, bốn trình độ của hỉ lạc được trải nghiệm – hỉ lạc, siêu hỉ lạc, hỉ lạc đặc biệt, và hỉ lạc bẩm sinh.

Bốn loại hỉ lạc này là các tuệ trí quý báu của đại diệu lạc. Những tuệ trí hỉ lạc này lấy tánh không như đối tượng thực chứng của chúng, vì vậy diệu lạc và tánh không được nói là được hòa hợp. Qua tuệ trí tu thiền đại diệu lạc trong Tantra Yoga Tối Thượng, khi tâm linh quang mẹ dó dạng vào lúc chết qua nghiệp, thì có thể chuyển hóa nó thành một thức tâm linh (tâm linh quang con). Mong ước trong thi kệ này của Đức Ban Thiền Lạt Ma – câu cuối cùng quan tâm đến trạng thái chết – được hướng dẫn để có năng lực này.

Một số người thực tập Tantra Yoga Tối Thượng hàng ngày quán tưởng 8 hiện tướng của sự chết - ảo giác, luồng khói, đom đóm, ánh sáng của ngọn đèn bơ, hiện tướng sinh động trắng, hiện tướng sinh động đỏ cam, sinh động đen gần thành tựu, và linh quang – trong sự kết với việc quán chiếu về tánh không. Điều này được hoàn tất trong ba phần chánh niệm: Ta xác định dấu hiệu đang xuất hiện, sau đó xác định dấu hiệu trước đó, và rồi xác định dấu hiệu tiếp theo. Thí dụ, “Đom đóm đang xuất hiện. Luồng khói đã qua. Một ngọn đèn sắp xuất hiện.” Mặc dù 8 hiện tướng không xuất hiện thật sự trong hành thiền ngoại trừ những hành giả cao cấp, nhưng ta duy trì ba chánh niệm trong sự quán tưởng của ta vì lợi ích của việc phát triển sự quen thuộc với các dấu hiệu này. Trong việc thực tập chính thức, khi ta đến trình độ của sự tu tập đúng thật, thì ta duy trì trong sự tập trung về tánh không và những dấu hiệu xuất hiện phù hợp với chúng.

BỔN TÔN DU GIÀ

Trong sự thực tập Mật tông, quán tưởng được sử dụng để tăng tốc sự phát triển tâm linh. Bổn tôn du già đòi hỏi ta (1) quán tưởng trong tâm ta (mặc dù thông thường bị quấy rầy bởi các cảm xúc phiền não) là một tâm của tuệ trí thanh tịnh được động viên bởi bi mẫn; (2) để thay thế hiện tướng của thân thể thông thường (cấu thành bởi thịt, máu, và xương) với một thân thể được hiện lên từ lòng trắc ẩn được động viên bởi tuệ trí; (3) để phát triển một cảm nhận của bản ngã thanh tịnh căn cứ trên một hiện tướng thân và tâm thanh tịnh trong một môi trường lý lưởng, hoàn toàn liên hệ với việc giúp đở người khác. Trong những cách này, ta quán tưởng tự thân như có một thân thể, những hành hoạt, những phương tiện, và thân cận xứ của một vị Phật. Quán tưởng là chìa khóa. Trong hành thiền về chính ta trong điều kiện lý tưởng này, ta bắt đầu với việc quán chiếu về tánh không, phát triển tối đa tỉnh thức về tánh không của sự tồn tại cố hữu. Chính từ sự tỉnh thức này mà bổn tôn xuất hiện. Tâm, thực chứng tánh không, xuất hiện như bổn tôn, thân cận xứ, phương tiện và hành hoạt của vị ấy. Trong cách này, bổn tôn du già là hợp thể của tuệ trí và động cơ bi mẫn; một thức thực chứng tánh không và cũng xuất hiện trong hình thể của một bổn tôn bi mẫn và năng động.

Trong một sự thực tập đặc thù về bổn tôn du già thấy trong Tantra Yoga Tối Thượng, tiến hành 6 lần hàng ngày, các hành giả một cách tương tự quán chiếu về tánh không, nhưng sau đó kết hợp với bất cứ trình độ nào của việc thấu hiểu về tánh không mà họ có với việc phơi bày dần dần 8 hiện tướng của sự chết. Như một bước cuối cùng, họ dùng tâm linh quang thực chứng tánh không – hay một thức bắt chước một thể trạng tâm như vậy – như căn bản từ thứ mà chúng xuất hiện trong hình thể lý tưởng, bi mẫn của một bổn tôn.

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

1-    Trình độ cao nhất mà hành giả có thể chuyển hóa linh quang mẹ thành một con đường tâm thức, vốn ló dạng vào lúc chết là do bởi nghiệp.
2-    Ở những trình độ thấp hơn thì những ai vốn có sự thực tập hàng ngày về bổn tôn du già của Tantra Yoga Tối Thượng quán tưởng sự xuất hiện của 8 dấu hiệu của sự chết trong một chánh niệm 3 tầng, xác định dấu hiệu đang xuất hiện, dấu hiệu trước, và dấu hiệu đang xảy ra. Thực tập một loạt 8 dấu hiệu trong sự kết hợp với sự quán chiếu về tánh không. Mỗi thứ có 3 phần, ngoại trừ thứ nhất và thứ cuối cùng, vốn có 2:

·        Ảo giác đang xuất hiện. Luồng khói sắp ló dạng.
·        Luồng khói đang xuất hiện. Ảo giác vừa qua đi. Đom đóm sắp ló dạng.
·        Đom đóm đang xuất hiện. Luồng khói vừa qua đi. Ngọn đèn sắp xuất hiện.
·        Ngọn đèn đang xuất hiện. Đom đóm vừa qua đi. Tâm bầu trời trắng sống động sắp ló dạng.
·        Tâm bầu trời trắng sống động đang xuất hiện. Ngọn đèn vừa qua đi. Tâm bầu trời đỏ-cam sống động gia tăng sắp xuất hiện.
·        Tâm bầu trời đỏ-cam sống động gia tăng đang xuất hiện. Tâm bầu trời trắng sống động vừa qua đi. Tâm bầu trời đen sống động sắp xuất hiện.
·        Tâm bầu trời đen sống động đang xuất hiện. Tâm bầu trời đỏ-cam sống động gia tăng vừa qua đi. Tâm linh quang sắp xuất hiện.
·        Tâm linh quang đang xuất hiện. Tâm bầu trời đen sống động vừa qua đi.

3-    Trong sự thực hành đặc thù về bổn tôn du già của Tantra Yoga Tối Thượng, các hành giả kết hợp với bất cứ trình độ nào của sự thông hiểu về tánh không mà họ đã có với việc hiển bày 8 dấu hiệu của sự chết. Sau đó họ sử dụng tâm linh quang thực chứng tánh không – hay một thức bắt chước một thể trạng tâm như vậy – như căn bản từ điều gì chúng xuất hiện trong lý tưởng, hình thể bi mẫn như một bổn tôn.
4-    Những hành giả phát triển cao độ đã có lòng từ bi và tuệ trí vững vàng có thể có thể làm cho việc giao tiếp sinh dục một kỷ năng để tập trung tâm một cách mạnh mẽ và biểu hiện tâm bẩm sinh căn bản của linh quang. Với tâm sâu thẩm nhất này hành giả thực chứng tánh không của sự tồn tại cố hữu trong một cung cách gây ấn tượng sâu sắc đầy năng lực.

Ẩn tâm lộ ngày 2/12/2018