Thứ Hai, 30 tháng 1, 2023

HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC TỪ SỰ TRUYỀN KHẨU THẬM THÂM CỦA CHU KỲ KIM CANG VĀRĪHĪ CỦA KHO BÁU TÂM BẦU TRỜI-PHÁP BẢO

 




Dedication of Merit from the Profound Aural Transmission of the Sky-Dharma Mind Treasure's Vajravārāhī Cycle

Tác giả: Mingyur Dorje(phát hiện)
Anh dịch: Gyurme Avertin, 2014.

Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính
***

 

གུ་རུ་དྷེ་ཝ་དྷཱ་ཀི་ནི་ཧཱུྃ༔
guru-deva-ḍākinī hūṃ

Chư Phật, Bồ tát khắp không gian và thời gian, hãy hướng lòng về chúng con!
Con hân hoan trước sự viên mãn của hai tích lũy.
Tất cả công đức con từng tích lũy trong ba thời
Con xin cúng dường Tam Bảo;
Nguyện cho những lời dạy của Đấng Chiến Thắng được truyền bá rộng khắp!
Con hồi hướng tất cả công đức cho tất cả chúng sanh;
Nguyện cho tất cả chúng sanh lang thang đạt được Phật quả!
Nguyện tất cả cội nguồn công đức hội tụ
Và làm chín muồi dòng sinh mệnh của con!
Và có một cuộc sống lâu dài, không có bệnh tật; có thể thực hành kinh nghiệm và thực chứng phát triển!
Nguyện cho con đạt đến địa thứ mười ngay trong kiếp này!
Khi con rời khỏi cuộc sống này,
Nguyện cho con lập tức được sanh vào Cực Lạc,
Và khi hoa sen của con mở ra sau khi sanh,
Nguyện cho con đạt được Phật quả trong chính cơ thể đó!
Đã đạt đến sự giác ngộ, con có thể luôn luôn có mặt,
Biểu hiện để hướng dẫn chúng sanh lang thang!

ས་མ་ཡ༔ རྒྱ་རྒྱ་རྒྱ༔
samaya gya gya gya
Samaya. Seal. Seal. Seal.

 ***

 

Đức Phật A Di Đà đã nói những lời này với Tulku Mingyur Dorje khi ông được mười ba tuổi vào ngày đầu tiên của tháng thứ tám năm con chim (1657). 

| Translated by Gyurme Avertin, 2014.
Version: 1.2-20221114
Ẩn Tâm Lộ,2023

 

Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2023

HỒI HƯỚNG (SANGYE TENPA...)

 



Dedication | Lotsawa House
Tác giả: Longchen Rabjam
Anh dịch:
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính,2023
***
 

Nguyện cho giáo lý của Đức Phật ngày càng phát triển và lan rộng!
Nguyện cho tất cả chúng sinh tìm thấy hạnh phúc và niềm vui!
Nguyện cho họ ngày đêm thực hành Pháp!
Và nguyện cho mục tiêu của chính chúng ta và của những người khác được hoàn thành một cách tự nhiên!

***

 

Version: 1.3-20230121

HỒI HƯỚNG CỰC KỲ SÚC TÍCH

 



Extremely Concise Dedication | Lotsawa House

Tác già: Ācārya Aśvaghoa
Anh dịch:
Adam Pearcey, 2021.
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính
***


Nhờ công đức của sự rộng lượng của tôi
Cầu mong tôi đạt được Phật quả, thật rất hiếm thấy.
Và sau đó tôi nguyện giải thoát tất cả chúng sanh
Từ đại dương không thể vượt qua của sự tồn tại luân hồi.

 ***

Đây là lời hồi hướng cực kỳ ngắn gọn do Ācārya Aśvaghoa sáng tác. Nó được dịch bởi Paṇḍita Dānaśila.

 

 

| Translated by Adam Pearcey, 2021.

 

BA NGUYÊN TẮC TÔN QUÝ

 



Nguyên tác: The Three Noble Principles | Lotsawa House
Tác giả: Khenpo Shenga
Anh dịch:  Adam Pearcey, 2007.
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính, 2023
***


Như đã nói, “Gốc rễ của con đường Đại thừa nằm trong ba nguyên tắc cao thượng.”

Tôn Quý Đầu Tiên: Phát Bồ Đề Tâm

Chúng ta bắt đầu bằng việc quy y vì Tam Bảo—Phật, Pháp và Tăng—hoàn toàn phụ thuộc và bất biến. Sau đó chúng ta xem xét sẽ tuyệt vời biết bao nếu tất cả chúng sanh, số lượng vô hạn, được giải thoát khỏi những đau khổ của ba cõi luân hồi, và sẽ tuyệt vời biết bao nếu họ đạt được cấp độ toàn tri và toàn thiện của Phật Quả. Nếu chúng ta rèn luyện trau dồi những tư tưởng như vậy lặp đi lặp lại, đến một lúc nào đó chúng ta sẽ phát triển lòng nhân từ chân thành đối với tất cả chúng sanh. Khi đó, chúng ta không được bằng lòng với nguyện ước muốn giúp đỡ. Chúng ta phải tự nhủ: “Để dẫn dắt những chúng sanh này, những người đã chăm sóc tôi với lòng từ bi như vậy trong suốt những cuộc đời từ vô thủy của tôi trong luân hồi, đến mức giác ngộ viên mãn, tôi sẽ thực hành Pháp, không quan tâm đến lợi ích của cơ thể hoặc thậm chí là cuộc sống của chính tôi. Với suy nghĩ này, chúng ta phải tự nỗ lực, bằng thân, khẩu và ý, trong việc thực hành đức hạnh.

Tôn Quý Chính Yếu: Không Quy Chiếu

Chúng ta phải quyết định, với niềm tin chắc chắn, rằng tất cả những gì xuất hiện với chúng ta chẳng là gì khác ngoài nhận thức bị lừa dối của chính chúng ta, và thậm chí không có một chút giá trị thực tại nào của một nguyên tử nhỏ nhất. Nó không là gì ngoài nhận thức ảo tưởng của tâm trí. Sau khi đi đến kết luận này, chúng ta phải nhắc đi nhắc lại về nó. Tâm trí cũng có thể cảm nhận được nhưng thiếu sự tồn tại thật sự, và ngay cả khi nó xuất hiện với chúng ta, nó vẫn mơ hồ và không có thực tế cụ thể. Khi chúng ta nhận ra điều này, chúng ta phải an trú trong chính tri giác nhận biết đó, không có bất kỳ ý nghĩ nào khác—chỉ đơn giản an trụ trong trạng thái cởi mở và rõ ràng sống động đó.

Giữa các thời thiền, chúng ta phải cân nhắc rằng vì mọi thứ chỉ là nhận thức ảo tưởng của chính chúng ta, nên việc phản ứng với các sự kiện và hoạt động thông thường như thể chúng có sự tồn tại cụ thể, thật sự là vô nghĩa. Đồng thời, mặc dù những điều đó là không thật, nhưng chúng ta phải duy trì bồ đề tâm, tình yêu thương và lòng bi mẫn đối với chúng sinh đang trải qua đau khổ không ngừng. Sau đó, một lần nữa, chúng ta phải nghỉ ngơi trong thiền định thoát khỏi những suy nghĩ. Bằng cách rèn luyện dòng thực hành liên tục này, chúng ta sẽ cắt đứt chuỗi si mê và mang lại lợi ích cho chính chúng ta và những người khác.

Kết luận tôn quý: Sự hồi hướng

Bất cứ nguồn công đức nào mà chúng ta đã tích lũy được—dù lớn hay nhỏ—chúng ta phải hồi hướng cho sự thành tựu giác ngộ viên mãn của tất cả chúng sanh. Với ý nghĩ rằng chúng ta đang hồi hướng giống như Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền tôn kính và những bậc vĩ đại khác đã làm trong quá khứ, chúng ta có thể trì tụng những lời cầu nguyện chẳng hạn như Phổ Hiền Hạnh Nguyện[1] (
Samantabhadra’s Prayer for Good Actions.)

An trú trong điều kiện tự nhiên, vượt khỏi tâm bình thường, là Pháp thân,
Luôn bận bịu với hoạt động là nguyên nhân của luân hồi.
Tại thời điểm quan trọng này, ranh giới phân chia giữa sự tồn tại có điều kiện và sự bình yên của niết bàn,
Hãy hướng tâm về Pháp, hành giả của tôi!

***
Một tu sĩ-môn đồ của Gyalwang Karmapa đã yêu cầu một vài lời hướng dẫn, và vì vậy tôi, Shenpen Nangwa, đưa ra lời khuyên ngắn gọn này.


| Translated by Adam Pearcey, 2007.

 

Bibliography

Tibetan Edition

gzhan phan chos kyi snang ba. Zhal gdams 'bel gtam gyi skor. Rewalsar, Distt. Mandi, H.P., India: Zigar Drukpa Kargyud Institute, 1985, pp. 33–35 (17a–18a)

 

Version: 1.2-20220112

 

Thứ Bảy, 28 tháng 1, 2023

CẦU NGUYỆN ĐỂ THẤY ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ TRONG GIẤC MƠ

 





Prayer to Behold Amitābha in Dreams | Lotsawa House

Tác giả: the terma of Tertön Mingyur Dorje
Anh dịch:
Adam Pearcey, 2020.
Việt dịch:Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính
***

Emaho!
Pháp thân kỳ diệu A Di Đà Phật —'Ánh sáng vô lượng',
Quán Thế Âm và Kim Cang Thủ - Đại Thế Chí,
Con cầu nguyện các ngài với ý định nhất tâm:
Xin hãy truyền cảm hứng cho con với sự gia hộ của các ngài, để con có thể đi du lịch trong giấc mơ của con
Đến thế giới Cực Lạc và ở đó gặp A Di Đà.

 

***

| Translated by Adam Pearcey, 2020.
https://www.lotsawahouse.org/tibetan-masters/terton-mingyur-dorje/dream-prayer

 

 

CẦU NGUYỆN ĐỂ NHẬN RA LINH QUANG TRONG GIẤC MƠ



TINH HOA VÀ HIỆN THÂN CỦA TẤT CẢ CÁC PHẬT

Nguyên tác: Essence and Embodiment of All the Buddhas[1]
Prayer to Recognize Clear Light in Dreams | Lotsawa House

Tác giả: Dudjom Rinpoche
Anh dịch:
Adam Pearcey, 2021.
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính

***

Tinh hoa và hiện thân của tất cả chư Phật quá khứ, hiện tại và tương lai,
Đấng chủ tể hiện diện khắp các mạn đà la đại dương và các gia đình Phật, bậc thầy gốc quý báu của lòng từ bi vô song, hãy quán sát con!
Hãy để những sự gia hộ của ngài truyền vào tâm trí của con, con cầu nguyện.

Xin gia hộ cho con, con cầu nguyện, để con có thể nhận ra những giấc mơ của mình chỉ là những giấc mơ.
Xin gia hộ cho con, con cầu nguyện, để con có thể tạo ra những hiện thân trong những giấc mơ và chuyển hoá chúng.
Xin gia hộ cho con, con cầu nguyện, để những giấc mơ của con có thể xuất hiện như linh quang (ánh sáng trong suốt).
Xin gia hộ cho con, con cầu nguyện, để con có thể liên tục hợp nhất với ánh sáng!

 ***

By Jñāna.

 

| Translated by Adam Pearcey, 2021.

 

Source: 'jigs bral ye shes rdo rje. "gsol 'debs phyogs bsdebs nang gses le tshan brgya dang brgyad/" in gsung 'bum/_'jigs bral ye shes rdo rje. BDRC W20869. 25 vols. Kalimpong: Dupjung Lama, 1979–1985. Vol. 25: 40–41

 

Version 1.1-20220808

1.     The original text is untitled; this title consists simply of the opening syllables of the prayer.

https://www.lotsawahouse.org/tibetan-masters/dudjom-rinpoche/prayer-to-recognize-clear-light-in-dreams

 



[1] Văn bản gốc không có tiêu đề; tiêu đề này chỉ bao gồm các âm tiết mở đầu của lời cầu nguyện.

Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2023

NHỮNG THI KỆ SÁM HỐI

 




Nguyên tác:
Verses of Confession
Tác giả: the Immaculate Confession Tantra
Anh dịch:
Adam Pearcey, 2003.
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính, 2023
***
Các Đấng Thiện Thệ chiến thắng trong quá khứ, hiện tại và tương lai, cùng với hải hội của các Ngài,
Và tất cả những bậc hộ vệ ràng buộc bởi thệ nguyện kim cang của các ngài, hãy hướng sự chú ý của các ngài về phía chúng
con!
Đầu tiên chúng tôi khơi dậy Bồ đề tâm và đặt tâm mình vào sự giác ngộ tối thượng.
Sau đó, để đạt đến giai đoạn giác ngộ của một thủ trì tình giác thành tựu,
Và đạt được thân, khẩu và ý kim cang,
Chúng
con ghi nhớ từng loại cam kết mật giới (samaya)
Đối với bổn tôn tánh thể và đạo sư kim cang, cùng với tất cả những cam kết bí mật,
Và cam kết không bao giờ vi phạm mệnh lệnh,
Hoặc nếu không thì bị sanh vào địa ngục tùy theo nghiệp báo của chúng
con.
Đi lạc vào tham muốn, giận dữ, thờ ơ, kiêu hãnh,
Ganh tị v.v., chúng
con đã phạm phải lỗi lầm:
Tới vị Thầy giống như ngọn đuốc, bậc đạo sư kim cang,
Chúng
con đã vô cùng thiếu tôn trọng, và làm suy yếu các mật giới của chúng tôi,
Hướng tới các anh chị em kim cang của chúng
con, những người có cùng cam kết,
Chúng
con đã có những ý định độc ác, những quan điểm sai lầm và vân vân—
Tất cả những khiếm khuyết này trong các mật nguyện của thân giác ngộ, giờ đây chúng
con xin thú nhận!

Chúng
con chưa quán tưởng rõ ràng thủ ấn[1] của bổn tôn tâm thể,
Chúng
con đã làm gián đoạn việc trì tụng mật ngôn tiếp cận,
Và thất bại trong việc thực hành sáu lần, nhưng, đặc biệt,
Chúng
con đã không thực hiện các nghi thức hoàn thành tiếp cận và thành tựu,
Và không có khả năng tuân theo mệnh lệnh hoặc hướng dẫn bằng văn bản—
Tất cả những khiếm khuyết này trong các mật nguyện của ngôn ngữ giác ngộ, giờ đây chúng
con xin thú nhận!

Nhờ lòng từ bi của đạo sư kim cang,
Lời Ngài rót qua tai chúng
con vào tận tâm can chúng con,
Nhưng chúng
con làm ô nhiễm mật giới bằng cách tiết lộ những chỉ dẫn của tâm trí tuệ,
Và vượt qua ranh giới của bí mật với cuộc trò chuyện vô tâm của chúng tôi và vân vân—
Tất cả những khiếm khuyết này trong các mật giới của tâm giác ngộ, giờ đây chúng
con xin thú nhận!

Chúng
con đã không nhận ra sự bình đẳng của mọi hiện tượng—
Những khuyết điểm của mật giới chi nhánh, bây giờ chúng
con xin thú nhận!

Chúng
con đã bị chế ngự bởi sự lười biếng, dửng dưng và thờ ơ—
Những khiếm khuyết của các mật giới về tiếp cận và thành tựu, giờ đây chúng
con xin thú nhận!

Chúng
con đã thất bại trong việc giữ các cam kết với thân, khẩu và ý—
Những khiếm khuyết các mật giới về thân, khẩu và ý giác ngộ, giờ đây chúng
con xin sám hối!

Trước sự hiện diện giác ngộ của những vị Thầy đáng kính của chúng
con,
Của cải vật chất cúng dường của chúng
con rất ít ỏi và không đáng kể—điều này giờ đây chúng con xin thú nhận!

Trong sự hiện diện giác ngộ của các bổn tôn tâm thể,
Chúng
con đã có những sở thích, ủng hộ một số người trong khi từ chối những người khác - điều này bây giờ chúng con xin thú nhận!

Trong sự hiện diện giác ngộ của bốn lớp ḍākinī,
Chúng
con đã vi phạm các cam kết và chí nguyện của mình—điều này giờ đây chúng con xin thú nhận!

Trong sự hiện diện giác ngộ của các hộ pháp và những vị bảo vệ,
Chúng
con đã để hàng tháng và hàng năm trôi qua mà không cúng dường phẩm vật [2]– giờ đây chúng con xin thú nhận điều này!

Trước sự hiện diện của cha mẹ chúng tôi từ quá khứ, hiện tại và tương lai,
Chúng
con đã không đền đáp lòng tốt của họ - điều này bây giờ chúng con thú nhận!

Trước sự hiện diện của các anh chị em kim cang và các phối ngẫu của chúng
con,
Chúng
con thú nhận rằng cam kết và tình cảm của chúng con đã yếu kém!

Trước sự hiện diện của chúng sanh trong sáu cõi,
Chúng
con thú nhận rằng lòng từ bi và lòng vị tha của chúng con đã yếu kém!

Bất kỳ khiếm khuyết và vi phạm nào trong giới luật giải thoát cá nhân,
Giới nguyện của chư bồ tát,
Những cam kết mật ngôn của các vị thủ trì tỉnh giác, v.v.
Tất cả những điều này bây giờ chúng
con thú nhận mà không giấu diếm hoặc che đậy bất cứ điều gì.
Từ giờ trở đi chúng
con sẽ kiềm chế tất cả những hành vi như vậy và nguyện sẽ không bao giờ tái phạm nữa.
Khi chúng
con sám hối tất cả những hành động có hại và những chướng ngại của chúng con trong quá khứ, hiện tại và tương lai,
Hãy để tất cả chúng được thanh tẩy hoàn toàn, và vì vậy hãy ban cho chúng
con, chúng con cầu nguyện,
Những thành tựu, bình thường và tối thượng, của thân, khẩu và ý!

Từ chương cuối cùng của Mật điển Sám Hối Vô nhiễm.
From the final chapter of the Immaculate Confession Tantra.

 

| Translated by Adam Pearcey, 2003.

 

https://www.lotsawahouse.org/words-of-the-buddha/verses-of-confession

 

SÁM HỐI RỐT RÁO KHÔNG THỂ TẢ

 



Nguyên tác: The Ultimate Inexpressible Confession

Tác giả: the Immaculate Confession Tantra
Anh dịch:
Adam Pearcey 2019,
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính, 2023
***

 
Hūṃ. Mạn đà la tự nhiên của thân trí tuệ tối cao
Không cầu kỳ phức tạp, giống như trăng tròn,
Tuy nhiên, lòng từ bi của nó tỏa chiếu đều như ánh sáng mặt trời.
Hãy đến gần bây giờ, con cầu nguyện: hãy quan tâm đến con, và ở lại!

Trí tuệ không thể diễn tả, đó là pháp thân bất động;
Chủ tể của năm gia đình, báo thân của đại lạc;
Và các vị bổn tôn biểu lộ lòng từ bi bao la và phương tiện thiện xảo,
Hoá thân, hoà bình và phẫn nộ: con xin đảnh lễ ngài!

Những cúng dường thật sự và những gì được tạo ra trong trí quán tưởng,
Như sự bố thí vô song như đám mây của Phổ Hiền,
Được bố trí rộng rãi khắp không gian thuần khiết—
Với một đại dương phẩm vật bên ngoài, bên trong và bí mật, con cúng dường!

Qua kinh nghiệm nhất vị, vượt khỏi hợp nhất và phân ly,
Trong đó tất cả các mạn đà la vô tận của chư Phật chiến thắng
Có mặt trong bhaga bí mật của phối ngẫu Phổ Hiền (Samantabhadrī) —
Nguyện cho Bồ đề tâm bất nhị làm ngài hài lòng!

Bản tánh của tâm là không gian rộng lớn của pháp tánh;
Các hiện tượng, hoàn toàn thanh tịnh, luôn luôn là ánh sáng trong suốt;
Và lĩnh vực của yoga này vượt khỏi lời nói và suy nghĩ—
Đối với Bồ đề tâm bình đẳng này, con xin kính lễ thường xuyên!

Trong sự hoàn hảo tuyệt vời ban đầu mở rộng
Là mạn đà la sắp xếp với các khía cạnh bên ngoài, bên trong và bí mật;
Sự tồn tại rõ ràng thuần khiết là phạm vi của các vị bổn tôn nam và nữ;
Và các yếu tố và các cặp Phật nguyên tố, hoàn hảo một cách tự nhiên.

Vị phối ngẫu vĩ đại tiết lộ trong bí mật tuyệt vời;
Và trong hoa sen của người phụ nữ có chủ quyền, không gian bao la,
Trong bindu vĩ đại bất nhị, có ánh sáng rõ ràng
Và thân bồ đề, không giả tạo và không phức tạp.

Tất cả những gì xuất hiện là bổn tôn trường cửu của đại lạc.
Trong mandala bí mật vượt khỏi sự hợp nhất và tách biệt
Là những đấng tối cao, chư Phật nam và nữ của năm gia đình,
Các vị Bồ tát và các chúng thần phẫn nộ, nam và nữ.

Chủ tể của các nữ thần kim cang, chủ nhân của hội đồng,
Những bậc vinh quang trong năm gia đình, mười vị vua phẫn nộ và phối ngẫu,
Nữ hộ vệ của những vùng đất và địa điểm linh thiêng, bốn nữ gác cổng,
Vô số chư Bổn tôn là những hóa thân trí tuệ,

Những người chăm sóc như mẹ và hỗ trợ như chị em,
Những người xác định tốt xấu và đánh giá mật nguyện (samaya),
Đoàn quân của các dākinī bên ngoài và bên trong và những yoginī,
Các nhân chứng và những người nắm giữ các cam kết kim cang, hãy xem xét con!

Hūṃ. Chúng con những thủ trì tỉnh giác, những người kế vị của lòng từ bi,
Phát bồ đề tâm vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
Và, để tiến tới thể trạng vô thượng,
Duy trì các giới luật khác nhau từ các giáo lý đại dương:

Cam kết tối cao về sự hợp nhất với thân, khẩu và ý giác ngộ,
Mật nguyện kim cang, thật đáng sợ khi vi phạm, mãi mãi được duy trì,
Cả phổ thông và đặc biệt, cam kết cao cấp
Chúng con đã nhận hết lần này đến lần khác và thề sẽ giữ vững.

Chúng con không cố ý lơ là hoặc vi phạm giới nguyện của mình,
Dao động trong mục đích của chúng con hoặc quay lưng lại với nó hoàn toàn,
Tuy nhiên, qua sự lười biếng của việc trì hoãn hành động,
Chúng con không giành được quyền làm chủ và có rất ít dũng khí,

Chúng con thiếu cảnh giác và đi lạc vào sự bất cẩn.
Chúng con không nỗ lực trong thiền định, bỏ qua cách tiếp cận và thành tựu, v.v.
Vô tình và hữu ý, thông qua sự thiếu hiểu biết của chính chúng con,
Chúng con trái lời thầy dạy, làm trái cam kết.

“Một thiền sinh không bao giờ được liên tưởng, dù chỉ trong chốc lát,
Với người đã vi phạm mật nguyện (samaya).”
Đó là mệnh lệnh, nhưng chúng con không tuân theo nó.
Lầm lẫn về lối vào của mật ngôn bí mật, sự phân biệt tỏ ra khó khăn;

Không có nhận thức cao hơn, chúng con không nhận ra những người có lỗi.
Chúng con hòa nhập với những người vi phạm trong hội chúng và khôi phục những vi phạm của họ;
Chúng con dạy Pháp cho những kẻ vi phạm và những người thọ nhận không thích hợp;
Chúng con không tránh những người vi phạm, nhưng phạm lỗi và hơn thế nữa;

Vì vậy, chúng con đã giữ bầu bạn với những kẻ vi phạm
Và bị vấy bẩn bởi ảnh hưởng hư hỏng, ngang ngược của họ.
Những thất bại như vậy, ảnh hưởng đến cuộc sống này và gây ra sự che chướng lâu dài,
Nay chúng con sám hối với tâm vô cùng ăn năng và hối hận.

Hãy xem xét chúng con với lòng nhân ái và từ bi,
Và bảo đảm chúng con vững chắc trong cõi bất nhị.
Khi ngài an trụ trong tâm xả không tham chiếu,
Xin ban cho chúng con sự giải thoát tối thượng, bất nhị!

Cuối cùng, vượt khỏi tham chiếu và tạo tác,
Không có bất kỳ ý nghĩ khái niệm hóa nào;
Tuy nhiên, liệu chúng con có nên lầm lạc qua cái tương đối, chỉ thuần là ảo tưởng,
Điều này chúng con vô cùng hối tiếc: xin hãy tha thứ cho chúng con, chúng con cầu nguyện!

***

Từ Chương Thứ Tư của Tantra Sám Hối Vô Nhiễm, Sám Hối Bất Hòa Với Các Bổn Tôn Trí Tuệ.

 

 

| Translated by Adam Pearcey 2019, with reference to commentaries by Katok Yeshe Gyaltsen, Jigme Lingpa and Rigdzin Gargyi Wangchuk.

 

Version: 1.2-20211001

https://www.lotsawahouse.org/words-of-the-buddha/yeshe-kuchokma

 

Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2023

KINH TÔN QUÝ CÓ TỰA ĐỀ GIÁO HUẤN VỀ BỐN NHÂN TỐ

 



Nguyên tác: The Noble Sūtra entitled Teaching the Four Factors
Tác giả: the Words of the Buddha
Anh dịch:
Adam Pearcey, 2013.
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính,2023
***

Ấn Ngữ: Ārya caturdharmanirdeśa nāma mahāyāna sūtra
Tạng Ngữ: Pakpa chö shi tenpa shejawa tekpa chenpö do ('phags pa chos bzhi bstan pa zhes bya ba theg pa chen po’i mdo)
Anh Ngữ: The Noble Mahāyāna Sūtra entitled Teaching the Four Factors
***

Kính lễ tất cả chư Phật và chư Bồ Tát!

Như vậy, tôi đã nghe vào một thời. Đức Thế Tôn đang trú tại hội trường Diệu Pháp ở cõi trời Tam Thập Tam, cùng với đại chúng năm trăm vị tỳ kheo, và rất nhiều đại bồ tát, trong đó có Di Lặc và Văn Thù.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với Bồ tát Ma ha tát Di Lặc: “Này Di Lặc, Bồ tát Ma ha tát, nếu ông có đủ bốn yếu tố, những ác hạnh ông đã phạm và tích lũy sẽ được khắc phục.

“Bốn thứ này là gì? Hành động sám hối, hành động đối trị, năng lực kiềm chế và năng lực hỗ trợ.

“Hành động sám hối là cảm thấy hối hận mãnh liệt về bất kỳ hành động bất thiện nào mà ông đã phạm phải.

“Hành động đối trị là nỗ lực rất nhiều để thực hiện các hành động đức hạnh một khi ông đã phạm phải một hành động bất thiện.

“Năng lực của sự kiềm chế là đưa ra một cam kết và do đó kiềm chế mọi hành động tương tự.

“Năng lực của sự hỗ trợ là quy y Phật, Pháp và Tăng, và không từ bỏ  tâm bồ đề hay tâm giác ngộ. Bằng cách nương tựa vào những lực lượng mạnh mẽ như vậy, ông sẽ miễn nhiễm với những hành vi sai trái.

“Hỡi Di Lặc, bồ tát ma ha tát, nếu ông có đủ bốn yếu tố này, ông sẽ vượt qua bất kỳ hành vi sai trái nào mà ông đã phạm phải và tích lũy. Bồ-tát Ma-ha-tát nên thường xuyên đọc kinh này, lớn tiếng đọc tụng, suy tư và thiền quán về nó, làm như vậy nhiều lần. Qua đó, những ảnh hưởng của hành vi tiêu cực sẽ không xảy ra.”

Đức Thế Tôn vừa nói lời này xong, cả đại chúng gồm Bồ-tát Ma-ha-tát Di-lặc, chư Tỳ-kheo, Bồ-tát và chư thiên như trời Đế Thích, đều vô cùng hoan hỷ tán thán lời Đức Thế Tôn đã dạy.

***

Điều này kết thúc Kinh Đại Thừa Cao Quý có tựa đề Giáo Huấn về Bốn Nhân Tố.

Được dịch, biên tập và hiệu đính bởi bậc thầy Ấn Độ Surendrabodhi và nhà biên dịch-biên tập chính, nhà sư Yeshé Dé.

Translated by 
Adam Pearcey, 2013. Revised under the supervision of 84000: Translating the Words of the Buddha, 2018. With many thanks to Alak Zenkar Rinpoche for his kind assistance.

 

NHỮNG SUY TƯ

 


Nguyên tác: Musings
Tác giả: Jeffrey Hopkins
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính
***

Khi chính quyền cộng sản Trung Quốc ở Bắc Kinh nghe tin Đức Đạt Lai Lạt Ma được mời đến thăm một quốc gia, họ lập tức phản đối quốc gia đó. Do đó, thường thì chuyến thăm của Ngài trở nên bất tiện, bị giảm tầm quan trọng, trở thành một chuyến thăm “cá nhân”. Những quốc gia này lo sợ điều gì?

Đức Đạt Lai Lạt Ma không có quân đội, không có áp lực kinh tế, không có quân bài chính trị để biểu diễn. Ngài ủng hộ bất bạo động và lòng trắc ẩn. Họ sợ điều gì?

Chính phủ cộng sản Trung Quốc ở Bắc Kinh đã đề nghị đàm phán bất cứ lúc nào nếu Đức Đạt Lai Lạt Ma không đưa ra chủ đề độc lập. Ngài đồng ý, nhưng lại đã trả lời đã từ chối nói chuyện. Họ sợ điều gì?

Ngài đã truyền cảm hứng cho việc xây dựng lại các cơ sở văn hóa Tây Tạng bên ngoài Tây Tạng. Ngài đã yêu cầu các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị trên thế giới nhìn xa hơn những lợi ích hẹp hòi vì lợi ích lớn hơn. Ngài đã ủng hộ sự quan tâm đến các nhu cầu cơ bản của xã hội bất kể tôn giáo hay chính trị. Đây có phải là những gì đáng sợ hãi?

Sức mạnh của Ngài đến từ một cuộc sống có đạo đức, sức mạnh của sự thật. Bằng tiếng Tây Tạng, Ngài nói với phạm vi, chiều sâu, cảm hứng, sự hài hước và chân thành, truyền cảm hứng cho cái nhìn sâu sắc và thúc đẩy sự cống hiến cho lợi ích của người khác. Tôi thường ước rằng cả thế giới có thể nghe thấy điều kỳ diệu này bằng chính ngôn ngữ của Ngài.

Tên dài hơn của Đức Đạt Lai Lạt Ma là rje btsun 'jam dpal ngag dbang bio bzang ye shes bstan' dzin rgya mtsho srid gsum dbang bsgyur mtshungs pa med pa31 sde dpal bzang po.

Trong tiếng Anh, theo từng âm tiết, nó có nghĩa là 'lãnh đạo, thánh thiện, tế nhị, nổi tiếng, lời nói, quyền thống trị, tâm trí, lòng tốt, nguyên sơ, trí tuệ, giáo huấn, giữ vững, bao la, đại dương, thị hiện, bộ ba, kiểm soát, vô song, vinh quang, sự chính trực.'

Nhà Lãnh Đạo của thế giới được công nhận cho sự thánh thiện thật sự,
Sự Tế Nhị được nhân cách hóa trong tiếng tăm có sức thuyết phục,
Lời Nói của lòng trắc ẩn tràn ngập hành tinh trong quyền lực của nó,
Tâm nỗ lực vị tha vươn tới tất cả trong sự tốt lành của nó,
Nguyên Sơ trong chiều sâu và phạm vi của trí tuệ thâm sâu,
Giáo Lý bao gồm tất cả các hiện tượng trong phạm vi nắm giữ của nó,
Sự Bao La của những việc làm của từ ái lan toả khắp đại dương cuộc đời,
Thị Hiện rất nhân từ hiện hữu trong bộ ba đau khổ[1],
Kiểm Soát kẻ ngang ngược nhờ lòng ân cần vô song,
Vinh Quang trong các hình thức nỗ lực được niêm phong trong tình trạng toàn vẹn,
Nguyện cho bậc thầy thế gian mang lòng từ bi
Và trí tuệ bất khả phân ly thấy mọi chướng ngại tan biến.

Trình Bày Trung Bình Về Các Giai Đoạn Của Con Đường*

Tại các bài giảng của bậc thánh thiện
Những quan niệm sai lầm được loại bỏ,
Những thực chứng trước đó tăng lên,
Và những điều chưa thực hiện mới xuất hiện trong tâm trí.
Tại các bài giảng của Ngài về Các Giai Đoạn của Con Đường,
Hai mươi hai bình minh mới xảy ra với tôi.

Cũng giống như quá khứ là nhanh chóng,
Vì vậy, người ta nên xem xét tương lai sẽ được.

* Viết năm 1972 nhân dịp Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết pháp về Dzong-ka-ba.

Mục đích của thiền quán về vô thường
Là để nhận ra rằng đau khổ nhanh chóng đến.

Giống như bị thất vọng bởi một món quà nhỏ,
Tất cả các pháp duyên hợp đều là những hiện tượng lừa dối

Thân thể là cực dương của những cảm xúc phiền não,
Hỗ trợ phát sinh các cảm xúc phiền não.

Những cảm xúc phiền não đó rất khó từ bỏ
Là bởi vì chúng dường như hành động như những kẻ bảo vệ cho chính chúng.

Khi sanh ra một mình
Không có người giúp đỡ và bạn bè, một thời gian thảm hại.

Nếu một người nhớ đến sự ra đời của mình,
Người ta sẽ nghĩ, ‘Mong điều này không cần thiết!’

Những thú vui bị ô nhiễm
Hoàn toàn không phải là những niềm vui không bịa đặt.

Chức năng của hành vi đạo đức
Là chấm dứt những ác nghiệp thô thiển.

Giáo pháp là đối tượng thật sự của quy y,
Nhận ra bằng cách thực hành nó.

Khi đi quy y là cần thiết
Đối với sự chấm dứt thật sự để bình minh tốt lành cho tâm trí.

Long Thọ và Vô Trước dựa vào Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa
Như nguồn cội cho sâu thẳm và bao la.

Tất cả chúng sanh đầy khắp không gian
Đều bình đẳng trong việc muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ.

Người ta nên nghĩ rằng vì những người khác số nhiều vô lượng
Họ quan trọng hơn tự thân mình rất nhiều.

Bởi vì một ý thức biết điều gì đó,
Tánh Không tuy khó mà biết được.

Cách mọi thứ dường như tồn tại một cách cố hữu
Có phải là chúng xuất hiện để che đậy cơ sở mệnh danh của chúng.

Cần phải xác định những cảm xúc phiền não gốc rễ
Và những cảm xúc phiền não thứ yếu phát sanh từ vô minh.

Có quan niệm về sự tồn tại cố hữu của chính mình,
Người ta nổi giận với một con chuột đã ăn lúa mạch.

Một dấu hiệu nhận ra sự không tồn tại của một người tự cung tự cầu,
Đó là tuỳ trên việc khi tìm kiếm các uẩn tinh thần và vật chất, chúng vẫn được tìm thấy.

Người ta nên thiền định về con người, phẩm chất,
Và thực tại của tánh Không như phụ thuộc lẫn nhau.

Mặc dù thân cao quý của một vị Phật là tối thượng
Nhưng nó hoàn toàn trống rỗng về sự tồn tại cố hữu.

Những phẩm chất tốt đẹp của một vị Phật
Là một nguồn của nhận thức vô lượng.

Vì theo cách nhận thức tôn giáo đó
Phát sanh phụ thuộc vào lời dạy của Ngài,

Con kính lạy Đức Ngài.
Bậc Thầy nào khác ngoài Ngài ở đó!

Sáu Bộ Sưu Tập Các Lý Luận *

Tại bài giảng về Lục Bộ Luận và quán đảnh Quán Thế Âm,
Nghe những lời chuyển hóa tâm đã giúp từ sâu thẳm.
Như trước, hai mươi hai bộ ý nghĩa phát sinh.
Để ghi nhớ chúng, tôi sẽ đặt chúng xuống đây.

Trong kiếp người ngắn ngủi này
Khó tìm được lời nói khiến thấu hiểu sâu xa.

Bản tánh cố hữu bị bác bỏ trong Trí Tuệ Căn Bản[2]
Là với mọi hiện tượng.

Phương thức xuất hiện như thể che phủ chỗ của cơ sở mệnh danh
Là xuất hiện như hiện hữu một cách cụ thể nơi vị tu sĩ đang ngồi.

Nếu cảm giác về tính di động xuất hiện đều đặn,
Người ta sẽ nghĩ, 'Có gì đúng hơn thế này!'

Nếu một cái gì đó là khác từ phía của chính nó,
Nó phải khác mà không lệ thuộc vào cái khác.

Nếu một người phân tích, phương thức hiện hữu tồn tại ngay tại đó.
Người ta hoàn toàn không cần phải tìm kiếm ở nơi khác.

Mặc dù rất dễ trải nghiệm dấu hiệu không tìm thấy sự vật,
Thật khó để nhận ra ranh giới của tình trạng tự thiết lập bị bác bỏ bởi nó.

*Viết năm 1972 nhân dịp Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết pháp về Long Thọ.

Giống như khi tìm kiếm một con người xuất hiện trong một giấc mơ, nó không phải là
Nền tảng cho Trách nhiệm Toàn cầu nhưng sự xuất hiện của nó không mâu thuẫn, với con người cũng vậy.

Thông qua lý luận phân tích kẻ hại và người bị hại
Một ý thức quan niệm sự tồn tại thật sự của chúng là bác bỏ chứ không phải là quy ước.

Mặc dù quan niệm hiện tại về sự tồn tại cố hữu là mạnh mẽ,
Trau dồi  tâm vô ngã sẽ khiến nó trở nên vô lượng.

Ánh sáng trong suốt bao trùm toàn bộ phạm vi đối tượng của tri thức
Siêu việt bất cứ điều gì được tạo ra bởi tâm trí.

Nếu không mau đạt Phật quả,
Cơ hội để giúp đỡ người khác sẽ bị lãng phí.

Vì chúng sanh là đối tượng đặc biệt của Phật,
Ta không nên xem họ thấp hơn chính mình.

Vì chúng sanh là ruộng tích tập công đức,
Người ta nên buộc phải xem họ cao hơn chính mình.

Nên tận dụng từng giây phút ngắn ngủi
Vì lợi ích của việc giúp đỡ người khác.

Trong số nhiều phẩm chất tốt đẹp của một vị Phật,
Khó nhất là đạt được những phẩm chất của lời nói hữu ích cho người khác.

Trong một cung điện có 'thực thể' là trí tuệ cao siêu
Vầng trăng từ bi bừng lên trong tim.

Sự trống rỗng của điều đó hiện ra như một chày kim cang.
Nếu vậy, người ta chắc chắn trở nên xác định trong dòng Đại thừa.

Thông qua các 'thực thể' của thân, khẩu và ý rất vi tế
Một người trở nên hoàn toàn thanh tịnh trong Phật quả.

Sự khác biệt giữa kinh điển và mật ngôn được tạo ra bởi sự thiền tập ổn định.
Sự khác biệt về tốc độ là trong mật ngôn, là sự nhận thức về tánh không mạnh mẽ hơn.

Ý nghĩa bất nhị của ba thân cao cả và của sự sâu xa và hiển lộ
Được tượng trưng bởi Om mani padme hum.

Bởi vì giáo thuyết về sự hợp nhất của sự thâm sâu và bao la
Đã đến để được lắng nghe trong sự hiện diện của Ngài,
Thật khó để diễn tả lợi ích của việc gặp Ngài.
Con cúi lạy Đức Thánh Thiện từ trong sâu thẳm./.

Ẩn Tâm Lộ - 2023
Trích từ quyển 
Understanding the Dalai Lama - Rajiv Mehrotra 

 



[1] Bộ ba bi kịch: Nỗi đau, Tội lỗi và Cái chết.

[2] The Fundamental Wisdom of the Middle Way: Nāgārjuna's Mūlamadhyamakakārikā/ Trí Tuệ Căn Bản Của Trung Đạo

 

Thứ Tư, 18 tháng 1, 2023

HÀNH TRÌNH QUA BYLAKUPPE

 



Nguyên tác: A Journey Through Bylakuppe
Tác giả: Anees Jung
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính
***

Tôi chưa bao giờ nhìn thấy Tây Tạng khi nó là Tây Tạng. Bây giờ tôi muốn, thìnó không còn là Tây Tạng nữa. Cung điện Potala, biểu tượng choáng ngợp không thể xóa nhòa trong trí tưởng tượng của mọi người Tây Tạng, ngày nay là 'một con tàu đắm đen tối dạt vào bờ biển của một thành phố xa lạ' theo lời của Sonam Tenzin, một người Tây Tạng trở về. Những đường nét thần thoại của nó lờ mờ như bóng ma, không có sự sống, trống rỗng nếu không có sự hiện diện của vị hiền nhân đã sống trong đó và cho nó mượn phép thuật của con người Ngài. Tôi không muốn đến Tây Tạng và tham gia vào đám đông đàn ông và phụ nữ mua vé vào thăm những căn phòng nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng sống. Để xem Cung điện Potala với tư cách là một khách du lịch có vẻ là một sự báng bổ. Có vẻ như một người đang đến thăm một tượng đài bị bỏ hoang và thất sủng.

Điều gì dường như mắc cạn ở Lhasa là bộ xương của con tàu bị đắm. Những gì nó chứa đựng đã giong buồm, một cách vô hình, tìm thấy một nơi neo đậu cách xa hàng dặm, ở một vùng đất không có cung điện nguy nga, không có những ngọn đồi hùng vĩ, không có tuyết rơi lung linh. Nhưng sự hiện diện từng ngự trị ở Lhasa giờ ngự trị Bylakuppe ở một góc xa xôi của miền nam Ấn Độ, nơi trời không bao giờ có tuyết mà chỉ có mưa. Bylakuppe theo tên gọi của nó có nghĩa là 'một nơi mưa'. Trước sự hiện diện của Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngay cả những cơn mưa dường như cũng quyết định lùi lại.

Lớn hơn những cơn mưa là chuyến thăm hàng năm của Đức Đạt Lai Lạt Ma đến Bylakuppe. Tôi may mắn được ở trong số hàng ngàn người Tây Tạng đã vượt qua quãng đường dài để đến darshan[1] của Ngài. Họ xếp hàng dọc các tuyến đường mà Ngài đi, đứng thành một hàng - hàng trăm đàn ông, phụ nữ và trẻ em, cúi đầu, ôm chặt những chiếc khăn trắng của hòa bình, những bó hoa dại, những lễ vật được gói gọn trong lòng thành kính. Mắt họ sáng lên, khuôn mặt rạng rỡ chờ đợi. Họ trình bày một bức tranh không phải sôi nổi mà là hoạt hình yên tĩnh. Để thấy sự yên tĩnh như vậy trong một đám đông là một cảnh tượng hiếm có. Nhìn người Tây Tạng luôn mang lại cho tôi một cảm giác tốt. Tôi tìm thấy trên khuôn mặt của họ một sự bình yên không hề nao núng trước sự khắc nghiệt của những khó khăn mà họ đã phải gánh chịu một cách anh dũng và kiên cường. Tôi đã từng chứng kiến những đám đông trước đây, loại tụ tập hoặc bị tập họp để cổ vũ các nhà lãnh đạo chính trị. Họ có nhiều bản chất của một cảnh tượng, vô tổ chức, điên cuồng, tò mò hơn là mong đợi. Nhưng chứng kiến một đám đông người Tây Tạng đứng hàng giờ dưới mưa là chứng kiến một bức tranh thanh thản, khiêm tốn và kiên nhẫn sinh ra từ một đức tin kiên cường. Thật là một cảnh tượng cảm động khi nhìn thấy những người già, người sắp chết và người tàn tật được đưa ra ngoài, nằm trên giường, nước mắt lưng tròng, tay run run nắm chặt một hoặc hai bông hoa, lễ vật cuối cùng của họ. Như thể Đức Phật đã trở lại.

Như thật sự Ngài có. Nhưng vị Phật này dường như thuộc về một thời khác. Ngài khoác nhẹ chiếc áo choàng của mình, ít giống một vị thần, mà giống một người bạn hơn. Sự lộng lẫy và hùng vĩ gợi nhớ đến các sắc thái của tu viện Sera-je của Hoàng đế cuối cùng, một bản sao của những gì đã tồn tại ở Tây Tạng. Nhưng người ngồi trên chiếc ghế giống như bảo toà là một tu sĩ khiêm tốn, giống như những người tụ tập xung quanh Ngài. Không khí tràn ngập hơi nghi lễ, cộng hưởng với những âm thanh gợi nhớ đến những bài thánh ca Gregorian. Hòa lẫn với những giai điệu thê lương của tiếng kèn clarinet Tây Tạng và tiếng chập choã vang lên như sấm sét, chúng tạo ra một sự tương phản kỳ lạ với sự yên bình của biển đỏ tĩnh lặng mà sự hiện diện của các lạt ma gợi lên. Đức Đạt Lai Lạt Ma mặc áo choàng màu hạt dẻ, đang mỉm cười, vẫy tay, nhìn một cách khoan dung vào hàng dài tín đồ đi ngang qua ngài, mang theo những lễ vật từ hoa đến khăn quàng trắng cho đến bao gạo và ngô, hoa quả của trái đất mới của họ. Nhìn mặt họ, tôi nghẹn ngào.

Khi Ngài nói chuyện với đám đông đã tụ tập suốt đêm (một số đã mang theo bộ đồ giường của họ và ngủ trong mưa phùn), Ngài dường như lại nói chuyện với từng người. Ngài thậm chí còn nhận ra trong những khuôn mặt bối rối mà Ngài đã gặp, mỉm cười với họ, thỉnh thoảng vẫy tay khẳng định, vui sướng nhìn một đứa trẻ đang đuổi theo quả bóng bay màu vàng. Trong khi chờ micrô bắt đầu hoạt động, Ngài nhìn thẳng vào mắt đám đông đang hào hứng. Đức Thánh Thiện cũng không ngơi nghỉ. Sự chờ đợi là vô định nhưng dường như không dài bởi sự thanh thản chiếm ưu thế. Các micro từ chối làm việc. “Tại sao không đi ăn trưa, duỗi chân và trở về,” Ngài cười gợi ý. ‘Khi bạn quay lại, micrô có thể bắt đầu hoạt động.’ Đám đông phá lên cười vang vọng lại tiếng cười ngắn của Ngài. Không có một dấu hiệu phản đối nào từ một đám đông đã chờ đợi cả đêm để nghe Ngài.

Một cách nghiêm túc và hài hước, họ lại quay trở lại, kiên nhẫn ngồi giữa mưa nắng thất thường. Một biển người, mặt tối sầm lại dưới ánh nắng gay gắt của Karnataka, những ông già bà lão đang quay bánh xe cầu nguyện, lần tràng hạt, nhiều người trong số họ có lẽ đã bất chấp cuộc hành trình từ Tây Tạng. Đối diện với họ là những đứa trẻ trong một đám đông có kỷ luật mặc đồng phục màu xanh tươi tắn. Và hạnh phúc như những đứa trẻ là các lạt ma mặc áo choàng màu hạt dẻ và vàng nghệ tập trung trong một đám đông khác. Hàng trăm chiếc dù đầy màu sắc bung ra khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhẹ nhàng khuyên họ nên bảo vệ đầu khỏi ánh nắng chói chang. Họ bám vào từng từ Ngài thốt ra. Khi Ngài nói chuyện, giọng điệu không phải của một người đàn ông tán thành một bài thuyết pháp mà là của một người đang suy tư và tự mình tìm kiếm câu trả lời. Ngài dường như liên tục đặt câu hỏi về những thực tế đang thay đổi trong thời đại của mình và tìm kiếm những câu trả lời và giải pháp mới. Đức Phật đã làm điều đó vào thời của Ngài, để lại một con đường mà Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện đang đi. Đối với Ngài, cũng như đối với người dân của Ngài, một con đường dài gian khổ mà họ đã cùng nhau đi tìm một nền tự do tràn ngập ánh nắng và tiếng cười.

Lớn hơn một địa điểm là những người đưa ra định nghĩa cho địa điểm đó, lấp đầy nó bằng hào quang sinh ra từ ký ức và nỗi nhớ chủng tộc tập thể. Tôi chưa được chứng kiến sự hùng vĩ trong thần thoại của Tây Tạng nhưng đã may mắn được chứng kiến điều kỳ diệu về cách một dân tộc, rõ ràng là đã bị tiêu diệt, có thể xây dựng lại không chỉ cuộc sống của họ mà còn cả một nơi gắn liền với vận mệnh và chính sự tồn tại của họ. Đó là những gì người Tây Tạng đã làm, biến Bylakuppe thành Tây Tạng của những giấc mơ và trí tưởng tượng của họ. Khi đợt đầu tiên trong số họ đến góc hoang vắng này của Karnataka, nơi được chính quyền tiểu bang ban tặng rất hào phóng, họ đã cúi đầu, như người Tây Tạng vẫn làm một cách tự nhiên, với lòng biết ơn sâu sắc. Đó là một cảnh quan xa lạ, một vùng hoang dã nơi voi sinh sống và lang thang, những loài động vật mà họ chưa từng thấy ở quê hương Tây Tạng. Một số chịu thua các loài động vật hoang dã nhưng nhiều người thì không. Họ đã học cách thách thức con vật to lớn bằng cách tụ tập thành nhóm và đập hộp thiếc. Chẳng mấy chốc đàn voi rút đi. Nhưng rắn và bọ cạp thì không. Một số người trong số họ đã chết khi bị cắn, một số trở nên cảnh giác và thận trọng, dần dần học cách chống đỡ chúng. Đàn ông phát rừng, đàn bà lượm củi đốt.

Chẳng mấy chốc đã có những khoảng đất trống, nơi những cánh đồng có thể được cày xới và trồng những loại ngũ cốc không quen thuộc—ngô, thuốc lá, bông vải và gừng. Xung quanh những cánh đồng mọc lên những ngôi nhà, những ngôi nhà nhỏ lợp ngói đỏ, kiểu nhà mà những người Ấn Độ láng giềng của họ ở. Giống như họ, người Tây Tạng đã học cách khai thác những con bò đực. Không còn con bò yak quen thuộc, con vật gánh vác của họ, thịt của nó mang lại cho họ sức mạnh và hơi ấm. Ở vùng đất xa xôi này, xanh tươi với những cơn mưa lâu năm, họ làm vườn rau, làm quen với màu sắc và hương vị của chúng, và không nhận ra rằng họ dần dần trở thành những người ăn chay. Họ phù hợp với khí hậu và lối sống. Ít bạo lực hơn, như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói với họ. Một lần chứng kiến cảnh một con gà bị giết và bị biến thành bữa ăn cho mình, Ngài đã từ bỏ việc ăn thịt gà. Ngài khuyên người Tây Tạng không nên nuôi gia cầm và lợn mà hãy trồng những loại thực phẩm ít bạo lực hơn. Ngày nay, trang trại gia cầm ở Bylakuppe là một ngôi nhà dành cho người già. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn đến thăm những người cao tuổi mỗi khi Ngài đến Bylakuppe. Ngài không bao giờ không dừng lại ở ao trên đường để cho những con cá dạt vào bãi cạn để ăn ngoài tầm tay của Ngài. Ngài dừng lại bất ngờ trên đường để đặt một chiếc khăn trắng trên mộ của một người đàn ông Trung Quốc đã rời Tây Tạng để lập gia đình ở đây. Đây là những cử chỉ nói rộng và to. Chúng nói lên lòng bi mẫn của Ngài đối với chúng sinh hữu tình và vô tình, đối với bạn bè và những kẻ được gọi là kẻ thù.

Tôi nhớ đến một câu chuyện mà Sonam Tenzin trích dẫn về việc một phụ nữ từ Lhasa mặc tạp dề sọc truyền thống và
chuba[2] đi trên xe buýt đã hỏi anh ta rằng anh ta đã bao giờ nhìn thấy Kundun chưa, ám chỉ Đức Đạt Lai Lạt Ma bằng cái tên mà Ngài được gọi khi là một trẻ em. “Anh thật may mắn,” cô nói với anh. ‘Chúng tôi không có tự do gì cả. . . Cứ như thể chúng tôi đang nằm trên một chiếc giường gai – chúng tôi không bao giờ biết khi nào mọi thứ có thể thay đổi theo chiều hướng xấu hơn.’ Thực tế đáng buồn này đã thoát khỏi 10.000 người Tây Tạng đã mất một ngôi nhà nhưng đã có được một ngôi nhà khác—một ngôi nhà tỏa sáng khi có sự hiện diện của Kundun người sống giữa họ. Không giống như người phụ nữ ở Lhasa, họ cho rằng mình thật may mắn khi được thoáng nhìn thấy Ngài và được ban phước bởi sự hiện diện của Ngài. Ngài không chỉ là ánh sáng tinh thần mà còn là một nhà lãnh đạo theo đúng nghĩa, người đã dìu dắt hành trình của họ, dõi theo từng chặng đường trưởng thành, phát triển và tiến bộ của họ, và là một người bạn cho họ lời khuyên, sự quan tâm và chăm sóc, chứ không phải theo cách của một nhà lãnh đạo. làm khi Ngài được bầu, nhưng với tư cách là một người yêu thương họ nhiều như họ tôn kính và tin tưởng Ngài. Hạnh phúc của họ là chiến thắng của Ngài./.

Ẩn Tâm Lộ - 2023
Trích từ quyển 
Understanding the Dalai Lama - Rajiv Mehrotra 



[1] darshan, (tiếng Phạn: “xem”) cũng được đánh vần là darshana, trong triết học và tôn giáo Ấn Độ, đặc biệt là trong Ấn Độ giáo, việc nhìn thấy một vị thần (đặc biệt là ở dạng hình ảnh), người được tôn kính hoặc vật linh thiêng. Trải nghiệm được coi là có đi có lại và dẫn đến việc người xem nhận được một phước lành.

[2] Chuba: áo dài phụ nữ Tây Tạng

CA NGỢI ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

 



Nguyên tác: In Praise of His Holiness Lama
Tác giả: Thubten Zopa Rinpoche
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính
***

Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma là kho tàng vĩ đại của lòng từ bi vô hạn bao trùm tất cả chúng sinh, là nguồn lợi ích và hạnh phúc duy nhất, và là nơi nương tựa duy nhất.
Đức Thánh Thiện đối xử tử tế với chúng ta không gì so sánh được, những đệ tử may mắn trong nhiều quốc gia được thấy thánh thân và nghe được thánh ngữ của Ngài, hơn tất cả chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhân từ, vì lòng đại bi, đã giáng thế xuống thế giới Diêm Phù (Dzambu) này ở xứ sở Tôn quý (Arya) của Ấn Độ với mục đích duy nhất là mang lại lợi ích và hạnh phúc cho chúng sinh lưu chuyển bằng cách đưa chúng ta đến giải thoát và giác ngộ viên mãn.

Trong Kinh Hoa Sen Trắng có nói:

Một thời, khi Đức Phật ngự tại vườn MilkPlant, Ngài quay mặt về phương Bắc và mỉm cười. Năm tia sáng phát ra từ mái tóc xoăn giữa hai lông mày. Khi bồ tát Viên Nghĩa Kiến[1] hỏi tại sao, Đức Phật trả lời: ‘Này người con của loại Đại thừa, có một vùng đất ở phía bắc được gọi là Xứ tuyết, nơi chư Phật ba đời chưa đặt chân thánh. Tuy nhiên, trong tương lai, Thánh Pháp sẽ lan rộng và phát triển ở đó như mặt trời mọc và tất cả chúng sinh ở đó sẽ được giải thoát bởi Đức Quán Thế Âm, người đã từng phát nguyện như sau:

Nguyện con giải thoát tất cả chúng sinh trong xứ tuyết khó điều phục. Nguyện tôi điều phục họ. Cầu mong tôi dẫn dắt chúng sinh ở đất nước man rợ xa xôi đó [Tây Tạng] trên con đường giải thoát và giác ngộ viên mãn. Có thể ngay cả đất nước man rợ đó cũng trở thành một cánh đồng bị khuất phục bởi tôi. Nguyện cho tất cả thánh Pháp do tất cả chư Như Lai thuyết giảng được truyền bá và hưng thịnh lâu dài trong quốc gia đó. Nguyện cho chúng sinh nơi đó được nghe danh hiệu Tam Bảo, được hưởng Thánh Pháp, được quy y và được thân an lạc.

Vị bồ tát Viên Nghĩa Kiến, người mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tiên đoán về sự truyền bá Pháp ở Tây Tạng, nói rằng: 'Trong tương lai khi giáo lý của tôi bị suy đồi ở Ấn Độ, chúng sinh ở Vùng đất tuyết ở phương bắc sẽ là đối tượng để hàng phục bởi ông, vị bồ tát,' và Đức Phật Từ bi, người đã làm lợi ích cho tất cả mọi người bằng ánh sáng của Pháp, không ai khác chính là Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện tại.

Ngay cả những người bình thường cũng có thể nhận ra rằng những phẩm chất vô song và những hành động thánh thiện của thân, khẩu và ý của Ngài nhằm mang lại lợi ích cho chúng sinh khác biểu thị cho tâm nguyện từ bi vô hạn mà Ngài đã thực hiện trong quá khứ. Ngài không chỉ ban những lời cầu nguyện để làm lợi lạc rộng rãi cho Tây Tạng bằng cách điều phục chúng sinh ở đó, mà ngày nay Ngài còn chiếu ánh sáng của Pháp để loại bỏ bóng tối của vô minh và mang lại ánh nắng hòa bình và hạnh phúc cho cả thế giới phương Tây.

Người ta chứng minh rằng Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma chính là Đức Phật Quán Thế Âm đang sống hiện tại, Quán Thế Âm, thậm chí từ dòng truyền thừa hóa thân, bắt đầu từ Quán Thế Âm và, trong thời Đức Phật, Bồ tát Viên Nghĩa Kiến, Vua Jigten Ngawang và Bà la môn Khyeu Nan -che; rồi tiếp tục qua Sangye Gyalwa; Nyatri Tsenpo; vị vua đầu tiên của Tây Tạng, Chogyal Trisong Duetsen; Chogyal Songsten Gampo;
Dịch giả của Lama Atisha, Dromtonpa vĩ đại, hóa thân thứ bốn mươi lăm; Đức Đạt Lai Lạt Ma đầu tiên, Gendun Trupa, người sáng lập tu viện Tashi Lhunpo; Gendun Gyatso; Sonam Gyatso; Yonten Gyatso; Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm; Tsangyang Gyatso; Kelsang Gyatso; Jampal Gyatso; Lungtok Gyatso; Tsultrim Gyatso; Khedrup Gyatso; Trinley Gyatso; Thubten Gyatso; và Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện tại, Tenzin Gyatso, hóa thân thứ sáu mươi tư.

Đức Serkong Dorje Chang, người đã viên tịch ở Tây Tạng, có một giấc mơ trong đó một bức tượng Quán Thế Âm với năm khuôn mặt xuất hiện một cách tự nhiên, dự đoán rằng ông sẽ nhìn thấy Đức Phật Từ bi vào ngày hôm sau. Ngày hôm sau, anh ấy đã nhìn thấy Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma.

Một ngày nọ, học giả-yogi vĩ đại Tehor Kyoerpen Rinpoche, nổi tiếng ở các tu viện Sera, Gaden và Drepung, nói với tất cả các đệ tử của mình rằng họ sắp gặp Dromtonpa, một hóa thân của Đức Phật Từ Bi. Sau đó họ đến gặp Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Đức Đạt Lai Lạt Ma bảo tồn toàn bộ giáo lý của Đức Phật, ba rèn luyện cao hơn về giới luật, thiền định và trí tuệ trong tam tạng giáo lý, đó là tinh túy của giáo lý Tiểu thừa và là nền tảng của con đường Đại thừa Ba la mật nhân và Kim cang thừa bí mật quả.
Nhờ đó, Đức Thánh Thiện mới có thể liên tục sản sinh ra hàng trăm nghìn học giả thánh thiện và hành giả đạt được những thành tựu cao, giống như những vì sao trên bầu trời. Ngày nay, ở phương Tây và một số quốc gia khác trên thế giới, mọi người tiếp nhận giáo lý từ những hành giả có trình độ cao—các vị thầy từ các tu viện Sera, Gaden và Drepung, cũng như từ các tu viện của các truyền thống khác—và có thể nghiên cứu chuyên sâu với họ. Bằng cách áp dụng những lời dạy này vào thực hành, họ có thể làm cho cuộc sống của mình có ý nghĩa và tìm thấy sự viên mãn. Họ có rất nhiều cơ hội để tận hưởng hòa bình và hạnh phúc và có thể hướng cuộc sống của họ đến sự giải thoát và giác ngộ, và điều này đang gia tăng hàng năm. Điều này hoàn toàn là do lòng ân cần của Ngài.

Nếu không có Đức Thánh Thiện, Phật giáo sẽ đau khổ, và sẽ vô cùng khó khăn để tiếp tục bảo tồn toàn bộ Phật pháp. Không có lời dạy của Đức Phật, chúng sinh đau khổ vì nó là liều thuốc duy nhất để chữa lành mọi bệnh tật, mê lầm, ác nghiệp và những dấu vết của chúng. Ngài hoàn toàn giải thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi của luân hồi - những tập hợp uẩn quanh quẩn vốn là đau khổ trong bản chất - và có kỹ năng cao trong việc giải thoát người khác khỏi mọi đau khổ. Vì vậy, từ tận đáy lòng, chúng ta hãy luôn cầu nguyện cho Đức Thánh Thiện có một cuộc sống ổn định cho đến khi luân hồi chấm dứt.

Thân, ngữ và ý linh thiêng của Ngài là nguồn an lạc cho tất cả chúng sinh. Vị ấy tối thượng giữa những người có học, tối thượng trong những người có đạo đức trong sạch, và tối thượng trong những người có trái tim ấm áp. Vị ấy không bị ô nhiễm bởi ảo tưởng và tìm kiếm hạnh phúc cho bản ngã. Ngài không bị ô nhiễm bởi ngay cả những che chướng vi tế nhất.

Đối với chúng ta, chúng sinh, cả con người và động vật, chỉ cần nhìn thấy hoặc chạm vào cơ thể linh thiêng của Ngài sẽ thanh lọc tâm trí của chúng ta và làm cho cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa. Nó mang lại sự bình yên và hạnh phúc không thể nào quên và gieo những hạt giống giải thoát và giác ngộ trong dòng tâm thức của chúng ta. Nó mang lại nguồn cảm hứng đáng kinh ngạc và hy vọng cho một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Nụ cười luôn từ ái và nét mặt bi mẫn của Ngài tỏa ra những tia sáng ấm áp làm dịu đi mọi sợ hãi và lo âu, mọi nghiệp chướng và mê lầm của chúng sinh. Cho dù ta có nhìn vào thánh thân của Đức Phật Từ bi bao nhiêu đi chăng nữa, ta cũng không bao giờ cảm thấy thỏa mãn. Không có giới hạn nào đối với những phẩm chất của thân thánh thiện không tì vết và lợi ích bao la mà chúng sinh nhận được từ đấy.

Một giờ, hay thậm chí vài phút, trong lời thánh ngôn nhẹ nhàng, êm dịu cam lồ của Ngài cũng đủ để người ta hiểu ngay cốt lõi của đạo Phật và làm cho cuộc sống của họ thêm lợi ích và có ý nghĩa. Những lời thánh thiện của Ngài, chỉ xuất phát từ tư tưởng vô ngã, từ bi, bác ái, trình bày mọi thứ rất đơn giản, rõ ràng, hợp lý và theo đúng tâm ý của mỗi người nghe. Cho dù cả trăm nghìn người lắng nghe Đức Thánh Thiện nói, thì mỗi người đều dâng lên niềm vui khôn tả và tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi của mình. Các vấn đề trong cuộc sống của họ ngay lập tức được giải quyết.

Trong một thời gian rất ngắn để nghe một vài lời thánh thiện của Ngài, họ nhận được một trí tuệ thâm sâu soi sáng bóng tối vô minh che khuất bản chất trong sáng của tâm họ. Họ phát triển trí tuệ để biết điều gì đúng và nên thực hành, điều gì sai và nên từ bỏ. Họ có thể thực hành Pháp và mang lại lợi ích cho người khác, cũng như đạt được hạnh phúc tối thượng của sự giải thoát khỏi luân hồi và giác ngộ viên mãn.

Mặc dù các nước phương Tây tuy rất phát triển về khoa học kỹ thuật, tâm lý học, v.v., nhưng họ không thể tìm ra câu trả lời cho nhiều vấn đề phức tạp của cuộc sống, đặc biệt liên quan đến sanh tử, cũng như các vấn đề kinh tế, luật pháp và xã hội. Mỗi lời nói của Ngài là một nhát kiếm xuyên qua ngay lập tức những vấn đề này. Ngài đưa ra những giải pháp đơn giản, không giải pháp nào tách rời khỏi Phật Pháp, không chỉ cho những vấn đề liên quan đến thực hành tôn giáo mà còn cho công việc kinh doanh, các mối quan hệ gia đình và các khía cạnh khác trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Mọi lời khuyên của Ngài đều dựa trên việc không làm hại người khác và làm lợi cho họ. Không có mâu thuẫn giữa tâm linh và chính trị bởi vì lời khuyên của Ngài không chỉ xuất phát từ động cơ thuần túy của lòng từ bi mà còn từ trí tuệ nữa.

Lời phát biểu của Đức Thánh Thiện chăm sóc trái đất và các sinh vật sống trên trái đất. Nếu mọi người đưa bài phát biểu của Ngài vào thực hành, nó thậm chí sẽ bảo vệ môi trường khỏi sự tàn phá. Ngài bố thí bao nhiêu tình thương và từ bi khiến tâm mỗi người đều được chuyển hóa.
Mỗi người nghe Ngài nói và sau đó áp dụng những lời này vào thực hành sẽ chuyển hóa tâm mình thành những phẩm chất mà Ngài nói đến, do đó mang lại hòa bình và hạnh phúc cho thế giới. Hàng triệu người đã được truyền cảm hứng theo cách này. Họ trở nên nhạy cảm hơn với người khác, với tư tưởng từ bi yêu thương quan tâm đến quyền lợi và nhu cầu của người khác. Chỉ cần một người trong cử tọa ngừng gây hại cho người khác là đủ—ví dụ, kiềm chế không sát sanh hoặc nổi giận. Nó mang lại hòa bình cho tất cả chúng sanh khác. Do đó, thật dễ hiểu vì sao Ngài là cội nguồn của mọi niềm vui và hòa bình tạm thời và tối thượng cho tất cả chúng sanh.

Về những phẩm chất của tâm thánh thiện, Ngài có những phẩm chất vô hạn, chẳng hạn như mười sức mạnh, bốn vô úy, mười tám Pháp bất cộng, v.v., điều mà ngay cả một vị Bồ tát mười địa cũng không thể hiểu được chứ đừng nói đến một vị thánh nhị thừa, hay chúng sanh bình thường. Mỗi lỗ chân lông trên cơ thể của Ngài có thể thực hiện chức năng của tâm Ngài và trực tiếp nhìn thấy tất cả sự tồn tại và mang lại lợi ích cho tất cả chúng sanh. Trí tuệ thánh thiện của Ngài hiển lộ và hoạt động cho mỗi chúng sanh một cách chính xác theo nghiệp của họ.

Một phẩm chất đặc biệt của Ngài mà mọi người bình thường đều có thể nhận thấy là Ngài tìm cách làm lợi cho cả những người làm hại Ngài. Ngài ấy càng cảm thấy thương xót họ hơn và trân trọng họ nhất trong trái tim mình. Ngài ca ngợi những phẩm chất của họ và chỉ cầu nguyện cho họ được an lành, cho hạnh phúc tạm thời và tối hậu của họ, cho đến giác ngộ. Điều này khiến chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa rằng Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma là một vị Bồ tát, Đức Phật Từ bi.

"Khi những người cộng sản Trung Quốc xâm lược Tây Tạng, họ đã gây ra sự tàn phá không thể tin được đối với các tòa nhà, đặc biệt là các tu viện và môi trường, tra tấn và giết hại không chỉ những người dân thường mà cả các lạt ma và các tăng ni có học thức cao. Họ thậm chí còn ngăn cản các tăng ni giảng dạy Phật giáo , đặc biệt là việc rèn luyện đạo đức cao cấp.

Trong tình huống như vậy, một nhà lãnh đạo thế giới bình thường sẽ có ác cảm và coi Trung Quốc là kẻ thù. Tuy nhiên, Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ quan tâm đến tự do, hòa bình và hạnh phúc của sáu triệu người dân Tây Tạng và tương lai của nền văn hóa sâu sắc, quý giá nhất trên thế giới, nơi bảo tồn giáo lý của Đức Phật. Ngài yêu mến người Trung Quốc sâu sắc và rất quan tâm đến những đau khổ của họ. Ngài cầu nguyện cho tự do, hòa bình và hạnh phúc của họ, đồng thời cảm thấy mối quan tâm đặc biệt và lòng trắc ẩn không nguôi đối với Mao Trạch Đông.

Nếu người Tàu Cộng  không thể mở lòng với Đức Thánh Thiện và chấp nhận mong muốn của Ngài, thì đó sẽ là một điều đáng tiếc và mất đi cơ hội lớn.
Nếu họ có thể mở rộng trái tim, điều đó không chỉ mang lại tự do, hòa bình và hạnh phúc cho sáu triệu người dân Tây Tạng, mà còn là cơ hội để tiếp tục bảo tồn và củng cố toàn bộ Phật giáo. Điều đó cũng có nghĩa là phần còn lại của thế giới sẽ có thể hiểu sâu hơn về nguyên nhân của hạnh phúc và đau khổ, và có được cơ hội đạt được giác ngộ, đó là nguồn gốc của hòa bình và hạnh phúc tối thượng cho tất cả mọi người.

Ngoài ra, hàng triệu người Trung Quốc sẽ nhận được sự bình an và hạnh phúc không thể tin được từ Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nếu những nhân vật chủ chốt trong chính phủ Trung Quốc sử dụng Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma để giao tiếp và giúp đỡ người dân của họ, thì sẽ có được lợi ích đáng kinh ngạc về hòa bình và hạnh phúc, điều mà các quan chức phi tôn giáo không thể mang lại vì họ thiếu phẩm chất của Ngài. Trong quá khứ, các hoàng đế của các triều đại Trung Quốc đã mời các lạt ma Tây Tạng nổi tiếng đến Trung Quốc để học hỏi từ họ. Họ nhận các giáo lý và quán đỉnh và nghiên cứu con đường dẫn đến giác ngộ để mang lại lợi ích lớn nhất cho cuộc sống của họ.

Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện tại đã mang lại lợi ích cho phương Tây, nơi mà Ngài đã mở rộng trái tim của hàng triệu người. Ngài thể hiện sự hiểu biết của mình về thế giới và văn hóa phương Tây, đồng thời có thể giải quyết các vấn đề theo cách thực tế với sự hài hước giúp nâng cao tinh thần. Những người theo đạo được hưởng lợi từ lời khuyên thiết yếu và thiết thực của Ngài về cách làm cho cuộc sống của họ có lợi và thú vị nhất. Ngài cũng chỉ ra những cách thực tế phi tôn giáo để làm cho cuộc sống của họ có ý nghĩa.

Lợi ích rộng lớn như vậy không phải là đặc điểm của các Đức Đạt Lai Lạt Ma trước đây. Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đạt được nhiều thành tựu trên thế giới hơn là chỉ làm việc cho nền độc lập của Tây Tạng. Khía cạnh này cực kỳ quan trọng đối với chúng ta, chúng sanh, những người đang gặp nguy cơ chiến tranh hạt nhân, có nguy cơ tử vong vì những căn bệnh mới, và những người phải chịu đựng dục vọng, bạo lực, giận dữ và bóng tối của vô minh.

Quý giá nhất là tâm lý học của Đức Phật, con đường diệt khổ đạt vui của Đức Phật.
Không có cách nào để chúng ta có thể báo đáp lòng ân cần của Đức Thánh Thiện, người gìn giữ giáo lý, ngay cả khi chúng ta cúng dường Ngài cả thế giới chứa đầy những viên ngọc như ý trong nhiều kiếp. Từ lời dạy của Ngài, chúng ta có thể chuẩn bị dòng tâm thức cho mọi hạnh phúc, kể cả giải thoát và giác ngộ. Vì vậy, chúng ta nên thực hành lời khuyên thiết yếu của Ngài về lòng từ ái và bi mẫn, quan tâm đến người khác nhiều hơn và phục vụ họ. Chúng ta nên thực hành những lời dạy thiêng liêng của Ngài, và hoàn thành những ước nguyện thiêng liêng của Ngài, đặc biệt là ước nguyện giải thoát người Tây Tạng khỏi đau khổ và sợ hãi mà họ đang phải đối mặt và giúp họ hướng tới sự tự do mà họ từng được hưởng.

Chắp tay, chúng ta nên không ngừng cầu nguyện Đức Thánh Thiện hướng dẫn chúng ta trong suốt cuộc đời cho đến khi chúng ta đạt được giác ngộ.

Khi chúng ta nhìn thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma, điều mà chúng ta đang thật sự nhìn thấy là thân thể linh thiêng của Đức Phật Từ bi trong hình dạng con người. Vì vậy, bên cạnh việc nghe bài giảng của Ngài, chỉ cần nhìn thấy thân thể của Ngài cũng là sự thanh lọc tuyệt vời—nó chuẩn bị tâm trí chúng ta để giải thoát khỏi đại dương đau khổ luân hồi và gieo trồng hạt giống giác ngộ.

Ngay cả một hành giả du già chưa giác ngộ cũng không thể tin được là có ý nghĩa đối với chúng sanh hữu tình chúng ta.
Bên cạnh một hành giả du già, một chúng sanh chưa giác ngộ có những chứng ngộ đó, hay thậm chí một hành giả của Bổn tôn Heruka, đều trở nên có ý nghĩa đối với chúng sinh. Không có câu hỏi nào về lợi ích của việc nhìn thấy một bậc giác ngộ hay Quán Thế Âm như Đức Thánh Thiện.

Không chỉ nhìn thấy cơ thể của Ngài, mà với mỗi giờ chúng ta nghe thánh ngữ của Ngài, chúng ta tiến gần hơn đến việc đạt được giải thoát và giác ngộ. Bài phát biểu của Ngài được đơn giản hóa và dễ hiểu, nhưng nó chứa đựng chiều sâu và sự bao quát của tất cả những gì được giải thích trong các thánh điển của Đức Phật.

Mỗi lời nói giống như một quả bom nguyên tử tiêu diệt kẻ thù bên trong chúng ta, những vọng tưởng của chúng ta và đánh tan tâm vị kỷ mạnh mẽ. Những lời của Ngài cũng tiêu diệt kẻ tạo ra không chỉ những vấn đề của con người mà còn tất cả những đau khổ trong luân hồi, thứ tạo ra cái chết và tái sanh, tuổi già và bệnh tật, sự bất mãn, nỗi đau tinh thần và những nỗi đau khổ khác.

Vì cam lồ tô đà là thức uống tinh khiết nhất, nên bài phát biểu của Đức Đạt Lai Lạt Ma là cam lồ tối cao cho tâm trí chúng ta.
Và mặc dù bất cứ lúc nào chúng ta có thể không thấy được những phẩm chất vô hạn của Ngài, nhưng chúng ta biết rằng Ngài tràn đầy trí tuệ, đưa ra những giải pháp cho mọi khó khăn trong mọi khía cạnh của cuộc sống và cho tất cả những ai nghĩ rằng cuộc sống của họ không có gì ý nghĩa và không có hy vọng làm thế nào để cuộc sống của họ có ý nghĩa nhất. Chúng ta cũng có thể thấy rằng Đức Thánh Thiện tràn đầy lòng từ bi và tôn trọng tất cả mọi người, dù họ khen hay chê Ngài, dù họ giàu hay nghèo.

Bằng cách nhìn thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma, đặc biệt là bằng cách nghe bài phát biểu của Ngài, và bằng cách nhìn thấy tất cả những phẩm chất của Ngài, trái tim của hàng triệu người trên thế giới đã tràn đầy hy vọng, niềm vui và hòa bình. Tất nhiên, chúng ta nên nhìn thấy Đức Thánh Thiện trong khía cạnh thanh tịnh của Đức Phật Quán Thế Âm, nhưng như trong giáo lý đã đề cập, 'Cho dù tất cả chư Phật có thật sự giáng xuống trước mặt chúng ta, hành giả cũng không có may mắn được nhìn thấy thánh thân với các dấu hiệu và biểu tượng linh thiêng ngoại trừ hình tướng hiện tại (vẻ ngoài bất tịnh thông thường do tâm bất tịnh thông thường phóng chiếu) cho đến khi một người thoát khỏi nghiệp chướng.' sự biểu hiện dưới hình hài con người đầy cảm hứng này hoàn toàn phù hợp với nghiệp lực của chúng ta, giúp chúng ta có cơ hội trực tiếp nghe và nhìn thấy khía cạnh này. Lòng tốt này của Đức Thánh Thiện là không có giới hạn hay thước đo, giống như bầu trời vô hạn. Bằng cách có thể nhìn thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma và nghe bài phát biểu linh thiêng của Ngài, chúng ta có thể thức tỉnh hoặc khai sáng tâm trí của mình – đây là món quà tuyệt vời nhất mà chúng ta có thể nhận được trong cuộc đời này.

Bằng cách chỉ ra Tứ Diệu Đế, Ngài giới thiệu về đau khổ thật sự và nguồn gốc của nó - nguyên nhân thật sự của đau khổ. Sao có thể như thế được? Vì có con đường chân chính, và bằng cách chỉ cho chúng ta Tứ Diệu Đế, Ngài đã giải thoát chúng sanh khỏi bể khổ luân hồi và đưa chúng ta đến giải thoát. Đây là sự giáo huấn quan trọng nhất mà một vị thầy có thể cung cấp.

Nhiều người trong chúng ta không biết cái tôi là gì, tâm trí là gì; chúng ta không có ý niệm về chân lý tối hậu và chân lý quy ước. Tâm trí chúng ta hoàn toàn tối tăm. Mặc dù mọi thứ—kể cả cái Tôi, cái Ngã—tồn tại chỉ do tâm trí gán nhãn và vì điều đó hoàn toàn trống rỗng, nhưng chúng ta liên tục bị choáng ngợp bởi một niềm tin sai lầm về những hình tướng rõ ràng là chân thật do vô minh phóng chiếu. Tất cả những gì chúng ta thấy là có thật, Ngài thấy là trống rỗng; Ngài coi tất cả các hiện tượng là tồn tại bởi vì chúng chỉ được tâm trí gán nhãn như vậy. Tất cả các đối tượng giác quan xuất hiện một cách thuần khiết nhất đối với Ngài. Chúng ta liên tục đau khổ, bị choáng ngợp bởi những tư tưởng cảm xúc tiêu cực, nếu không phải sân hận thì vô minh hay tham ái, giống như một thành phố bị sóng biển bao phủ. Nhưng tâm thánh thiện của Ngài hoàn toàn thoát khỏi sự che chướng, khỏi những tư tưởng cảm xúc phiền não như dục vọng.

Chúng ta giống như vết dầu loang trên giấy. Bất cứ điều gì chúng ta làm, chúng ta hoàn toàn bị lấn át bởi tư tưởng vị kỷ. Nhưng từ nhiều kiếp trước, Đức Thánh Thiện đã thoát khỏi tư tưởng vị kỷ, không có ý nghĩ, dù chỉ một giây, về việc tìm kiếm hạnh phúc cho bản thân.

Đức Đạt Lai Lạt Ma thậm chí đã thực hiện vai trò của mình với tư cách là nhà lãnh đạo chính trị của toàn bộ Giáo Pháp Tây Tạng, nghĩa là làm lợi lạc những người khác. Trên thế giới này, chính trị gia giỏi nhất, người không gây hại cho bất kỳ chúng sanh nào mà chỉ mang lại lợi ích cho họ, là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Đức Quán Thế Âm—Đức Thánh Thiện. Ngài cũng thuần khiết nhất về đạo đức, hay đạo đức, và là Đấng Toàn Tri có lòng từ bi bao trùm vô số chúng sanh, không bao giờ từ bỏ họ dù chỉ một giây.

Không có cách nào đền đáp được ân đức từng lời khuyên bảo, hay dạy dỗ. Thực hành bất cứ lời khuyên nào mà chúng ta được ban cho, cầu nguyện cho tự do của người dân Tây Tạng, một trong những ước nguyện chính của Ngài, và làm những gì có thể để giúp đỡ sự nghiệp này và cuối cùng, liên tục thỉnh cầu Ngài sống cho đến khi luân hồi kết thúc luôn dìu dắt chúng tôi, đó là cách tốt nhất để báo đáp ân đức của Người./.

Ẩn Tâm Lộ - 2023
Trích từ quyển 
Understanding the Dalai Lama - Rajiv Mehrotra 

 



[1] bodhisattva Meaningful to Behold