Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2022

MỘT VỊ VUA HAY MỘT NHÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA



Nguyên tác: A Monarch or a Socialist?
Tác giả: Ela Gandhi
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển nhuận văn


***

Kể từ khi lưu vong, Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma đã cố gắng đàm phán một giải pháp hòa bình với Tàu Cộng . Ngài tiếp tục đấu tranh cho đất nước và dân tộc của mình trên con đường phản kháng bất bạo động của Gandhi, chịu đựng mọi đau khổ trong khi tiếp tục yêu thương và cầu nguyện cho những kẻ thù của mình rằng một ngày nào đó họ có thể nhìn thấy ánh sáng.
Ấn Độ, một thành viên hàng đầu của phong trào không liên kết, đã cho Đức Đạt Lai Lạt Ma tị nạn. Nhưng ngoài ra, nó cũng cung cấp một nơi ở cho hàng ngàn người Tây Tạng lưu vong hiện đã xây dựng một ngôi làng lưu vong Tây Tạng tại Dharmasala. Khối phương Tây về nhiều mặt đã ủng hộ cuộc đấu tranh đòi tự do của người dân Tây Tạng. Bao nhiêu sự ủng hộ dành cho chính nghĩa của Tây Tạng và bao nhiêu trong số đó chống lại cột trụ cuối cùng của thế giới cộng sản là một vấn đề tranh luận. Ngài vẫn đang có bước đột phá trong việc nhận được sự ủng hộ của Thế Giới Thứ Ba. Việc giới thiệu cuộc tranh luận về vấn đề Tây Tạng đã bị thất bại tại Liên Hiệp Quốc. Việc thiếu sự hỗ trợ từ các quốc gia mới nổi trên thế giới làm nảy sinh vấn đề tiến thoái lưỡng nan được tạo ra bởi nguồn gốc lịch sử của các hệ thống cai trị quân chủ đã bị lật đổ thông qua các cuộc cách mạng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Phải chăng Tây Tạng cũng có chế độ quân chủ do một người được cho là tái sinh của Đức Phật? Ý tưởng về sự tái sinh của Đức Phật không thể chấp nhận được đối với các nhà khoa học hiện đại, đối với nền văn hóa dân túy, đối với những người không tín ngưỡng và những người không tin vào luân hồi. Do đó, những người như vậy sẽ cảm thấy rằng đây chỉ là một giáo phái khác, một chế độ bóc lột khác và sẽ không có thiện cảm với người dân. Những người ủng hộ chính nghĩa của Tây Tạng bao gồm từ các học giả Trung Hoa đến những người lao động Trung Hoa bình thường, từ những người thuộc các phong trào cánh tả ở nhiều quốc gia khác nhau cho đến những người thuộc phe cực hữu. Trong đó, các nhóm khác nhau đặt ra nhiều động cơ khác nhau để ủng hộ cuộc đấu tranh này, cũng như không ủng hộ nó.

Trong khi có rất nhiều người lo ngại sâu sắc về những vi phạm nhân quyền trắng trợn và cảm thấy mạnh mẽ về sự đàn áp mà người dân Tây Tạng phải gánh chịu, thì cũng có những người bị thúc đẩy bởi những động cơ riêng của họ.
Những điều này có thể bao gồm từ bảo tồn chủ nghĩa tư bản đến bảo vệ một số lợi ích cá nhân hạn hẹp đến lợi ích rộng lớn hơn nhiều trong việc duy trì nắm giữ một vị trí chiến lược. Toàn cầu hóa và các phong trào chống toàn cầu hóa đã tiết lộ cho chúng ta một sự thật: những nhóm tư lợi đó có mối liên hệ rất chặt chẽ và mặc dù được điều khiển bởi một nhóm nhỏ nhưng chúng thường sử dụng quyền lực theo nhiều cách.

Chúng ta đang sống trong một thế giới hiện đại. Một thế giới đã trở thành một khu phố. Tuy nhiên, đó là một thế giới bị chia cắt bởi nhiều loại khác nhau—sự khác biệt về tôn giáo, sự khác biệt về hệ tư tưởng, sự giàu có và nghèo khó, màu đen và trắng và hàng triệu sắc thái ở giữa, nông thôn và thành thị, hiện đại và truyền thống, danh sách này có thể tiếp tục.
Nhưng thay vì làm phong phú thế giới bằng bức tranh khảm phong phú của sự đa dạng này, con người đang giết người, các quốc gia đang giết các quốc gia, và giữa tất cả những điều này, có hàng triệu người mong muốn hòa bình. Họ đang tuyệt vọng tìm kiếm hòa bình. Đức Thánh Thiện là một trong những nhà lãnh đạo đang cố gắng hết sức để thay đổi tiến trình mà nhân loại đã đặt ra cho chính mình. Liệu Ngài có thành công?

Lần theo lịch sử Trung Hoa người ta thấy trật tự xã hội phong kiến ​​áp bức, giáo quyền ở Trung Hoa được thay thế bằng phong trào xã hội chủ nghĩa. Những ưu điểm và nhược điểm của phong trào này không phải là chủ đề của cuốn sách này, và vì vậy chỉ cần nói rằng một phong trào phổ biến đã thu hút các nhà quý tộc giàu có của Trung Hoa.

Câu chuyện kể rằng những người nông dân ở Trung Hoa đã vùng lên dưới sự lãnh đạo của các nhà lãnh đạo xã hội chủ nghĩa liên tiếp và cuối cùng đã lật đổ đế chế Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông. Đế chế được thay thế bằng cộng hòa nhân dân. Một trật tự xã hội mới được thiết lập. Câu chuyện tiếp tục khẳng định rằng lần đầu tiên những người nông dân nghèo khổ và bị áp bức có thể sống với lòng tự trọng.

Tuy nhiên, lịch sử đã nhiều lần ghi lại rằng những người từng đối mặt với sự đàn áp thuộc loại khủng khiếp nhất lại không hề hối hận khi đàn áp người khác. Điều này xảy ra là khó hiểu như thế nào. Nhưng có hàng triệu ví dụ trong suốt các thời đại của những người tiếp tục đàn áp và quên đi sự áp bức của chính họ dưới bàn tay của người khác. Vì vậy, người Trung Hoa đã không ngần ngại chinh phục Tây Tạng. Rõ ràng là họ đang mang lại một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Tây Tạng, những người mà họ cho rằng đang sống dưới chế độ phong kiến. Họ đang mang đến một trật tự cộng sản, xã hội chủ nghĩa mới để thay thế hệ thống phong kiến ​​mà người dân Tây Tạng đang sống dưới đó. Trên thực tế, họ muốn chiếm Tây Tạng. Ngài nhận ra điều này nhưng chưa bao giờ lên án người Trung Quốc. Ở đó ẩn chứa sự cao thượng và khiêm tốn của Ngài.

Khi một người bắt đầu đọc nhiều cuốn sách viết về ông, câu chuyện về cuộc đời Ngài và câu chuyện về dân tộc của Ngài, một bức tranh hiện lên về một người có tầm nhìn xa trông rộng, một tinh thần từ ái và một tâm hồn hoàn toàn giải thoát. Chẳng hạn, trong Những Lời Dạy Thiết Yếu, Ngài nói, 'Hãy nhìn xung quanh chúng ta, thế giới này mà chúng ta gọi là “văn minh” và rằng trong hơn 2000 năm đã tìm cách đạt được hạnh phúc và tránh đau khổ bằng những phương tiện sai lầm, thủ đoạn, tham nhũng, hận thù, lạm dụng quyền lực , và bóc lột người khác.'

Đức Thánh Thiện là một nhà sư đơn giản, hay cười và không bị ảnh hưởng bởi sự xâm lược vô nhân đạo của  Tàu Cộng. Người ta thấy nỗi đau và sự tổn thương sâu sắc khi Ngài nói về sự tàn phá vùng đất thân yêu của mình, cái chết của gần một triệu người dân của Ngài, và việc tiếp tục giam cầm và tra tấn hàng trăm người Tây Tạng. Tuy nhiên, mối quan tâm của Ngài không dựa trên lợi ích cá nhân hẹp hòi hay chỉ lợi ích của dân tộc Ngài; đối với Ngài thế giới và vũ trụ là những vấn đề đáng quan tâm.Nước trong núi bị ô nhiễm, suy thoái môi trường do phá rừng bản địa, san bằng núi bằng thuốc nổ, giết chóc, tra tấn và giam giữ, tất cả những điều này không chỉ ảnh hưởng đến Ngài và người dân của Ngài, Ngài liên tục nhắc nhở chúng ta, nhưng cũng trên hệ sinh thái của thế giới. Mặc dù khuôn mặt luôn tươi cười và bản chất vui vẻ của Ngài có thể che giấu nỗi đau và sự tổn thương sâu sắc của sự hủy diệt liên tục này, nhưng có những lúc người ta có thể nhìn thấy trong những nếp nhăn sâu trên khuôn mặt Ngài tiếng kêu cứu, tiếng kêu cứu của Ngài với thế giới để chú ý đến những cảnh báo của thiên nhiên.

Đối với một số người, Ngài chỉ là một nhà sư, đối với những người khác, Ngài là người đứng đầu một xã hội phong kiến, và đối với nhiều người, Ngài là một nhân cách đặc biệt, người thật sự có thể là tái sinh của Đức Phật, mặc dù bản thân Ngài bác bỏ khả năng này. Trong bài luận này, tôi muốn xua tan huyền thoại về Ngài với tư cách là một lãnh chúa phong kiến. Ngài đã nói trong Những Lời Dạy Thiết Yếu, ‘Nếu ở Ấn Độ, Châu Phi và các quốc gia khác mà khốn khổ và nạn đói hoành hành, thì đó không phải là do thiếu tài nguyên thiên nhiên, cũng không phải do các phương tiện mang lại hạnh phúc lâu dài bị thiếu sót. Đó là vì mỗi người chỉ tìm lợi cho mình mà không sợ chèn ép người khác vì những mục tiêu ích kỷ. . .’

Đức Thánh Thiện, với loại quyền lực mà Ngài nắm giữ, muốn sử dụng quyền lực của mình để bắt đầu một quá trình cải cách chính trị của mình. Năm 1963, Ngài từ bỏ quyền lực để ủng hộ dân chủ. Một người, một phiếu bầu đã được giới thiệu. Một quốc hội dân chủ được bầu ra trong cuộc sống lưu vong. Người dân Tây Tạng dưới sự thúc đẩy của Ngài đã soạn thảo một bản hiến pháp phản ánh các nguyên tắc dân chủ. Ngài tuyên bố rằng một khi được tự do, một chính phủ lâm thời sẽ được thành lập với mục đích cụ thể là thành lập một quốc hội lập hiến để soạn thảo một hiến pháp mới. Ngài còn tuyên bố rằng sau khi hoàn thành nhiệm vụ này, Ngài sẽ nghỉ hưu và sống như một nhà sư bình thường, chuyển giao toàn bộ quyền lực của mình cho chính phủ mới được bầu.

Kế hoạch Hòa bình Năm điểm của Ngài như sau:

1. Biến đổi toàn bộ Tây Tạng thành một vùng hòa bình.
2. Từ bỏ chính sách di chuyển dân số của  Tàu Cộng vốn đe dọa đến chính sự tồn tại của dân tộc Tây Tạng.
3. Tôn trọng các quyền con người và tự do dân chủ cơ bản của người dân Tây Tạng.
4. Phục hồi môi trường tự nhiên của Tây Tạng và từ bỏ việc Tàu Cộng  sử dụng Tây Tạng để sản xuất vũ khí hạt nhân và đổ chất thải hạt nhân.
5. Bắt đầu đàm phán nghiêm túc về tình trạng tương lai của Tây Tạng và mối quan hệ giữa nhân dân Hoa - Tạng.

Giờ đây, Ngài đã bổ sung thêm việc ngừng khai thác dầu mỏ và khoáng sản.

Kế hoạch này phản ánh bản chất hợp lý trong lời đề nghị của Ngài nhằm chấm dứt cuộc xâm lược tàn bạo và lâu dài này của  Tàu Cộng đối với dân tộc Ngài. Trên thực tế, Ngài đang mở rộng vòng tay hữu nghị với những người Trung Hoa mà Ngài gọi là anh chị em của mình. Ngài nhận ra rằng họ có chung một tôn giáo, một lịch sử chung và là những người hàng xóm phụ thuộc vào nhau. Nhiều người Trung Hoa vô cùng ngưỡng mộ Ngài và cảm thấy vô cùng tôn kính Ngài. Bất chấp sự đàn áp mà người dân của mình phải gánh chịu, Ngài tin rằng hai quốc gia có thể chung sống hòa bình với tư cách là láng giềng.

Đức Đạt Lai Lạt Ma trong các bài viết của mình ủng hộ lòng từ bi, chia sẻ sự đơn giản, sống gần gũi với trái đất, bảo tồn môi trường và sống một cuộc sống lành mạnh. Trong khi vẫn giữ niềm tin truyền thống của mình, Ngài có hiểu biết sâu sắc về thế giới hiện đại. Cũng giống như Mahatma Gandhi, Ngài chủ trương tôn trọng những giá trị truyền thống tốt đẹp và loại bỏ những phong tục tập quán mang tính áp bức, kìm hãm sự phát triển.

Trong cuốn sách Nghệ thuật của Hạnh phúc, Ngài nói về con người,

Nói chung, bạn có thể có hai cá nhân khác nhau. Một mặt, bạn có một người thành đạt giàu có, được bao quanh bởi những người thân, v.v. Nếu nguồn gốc của phẩm giá và ý thức về giá trị của người đó chỉ là vật chất, thì miễn là tài sản của anh ta vẫn còn, có thể người đó có thể duy trì cảm giác an toàn. Nhưng khi tài vận suy yếu, người đó sẽ đau khổ vì không có nơi nương tựa nào khác. Mặt khác, bạn có thể có một người khác cũng có địa vị kinh tế và thành công tài chính tương tự, nhưng đồng thời người đó cũng ấm áp, trìu mến và có lòng trắc ẩn. Bởi vì người đó có một nguồn giá trị khác, một nguồn khác mang lại cho người ấy cảm giác về phẩm giá, một nơi nương tựa khác, nên người đó sẽ ít có khả năng trở nên chán nản nếu tài sản của người đó biến mất. Thông qua kiểu lập luận này, bạn có thể thấy giá trị rất thực tế của sự ấm áp và tình cảm của con người trong việc phát triển ý thức giá trị bên trong.

Ngài thấy rõ ràng chủ nghĩa duy vật hiện đại là nguồn gốc của sự hủy diệt. Ngài đã nói rằng hạnh phúc thật sự đến từ bên trong, từ sự hài lòng và hòa giải với chính mình, chứ không phải bằng cách đạt được các đối tượng vật chất. Rõ ràng là Ngài giải thích các lý tưởng xã hội chủ nghĩa chứ không phải phong kiến, và phải được nhớ rằng mặc dù thuộc về một xã hội truyền thống, nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói về quyền của phụ nữ, điều mà hiến pháp Tây Tạng ủng hộ.

Các động thái đang được thực hiện để thu hút sự tham gia của phụ nữ ở mọi tầng lớp trong xã hội và mang lại cho họ địa vị bình đẳng. Phụ nữ Tây Tạng đóng một vai trò nổi bật trong các tổ chức phụ nữ quốc tế và tại địa phương trong xã hội Tây Tạng. Họ cũng đang đảm nhận các vị trí lãnh đạo trong phong trào giải phóng và nhiều người đã bị cầm tù vì tham gia đấu tranh. Tuy nhiên, khi cố gắng giải thích lý do tại sao người Tàu Cộng chiếm đóng Tây Tạng, tại sao một số người ủng hộ cuộc đấu tranh của người Tây Tạng và những người khác thì không, và điều gì đã thu hút mọi người đến với Đức Đạt Lai Lạt Ma ngay cả khi mọi người đã đến với Mahatma Gandhi, người ta cần phát triển một sự hiểu biết sâu sắc hơn về Phật giáo. Đức Đạt Lai Lạt Ma là một học giả xuất sắc về triết học Phật giáo và trong các tác phẩm của mình, Ngài giải thích bằng những thuật ngữ đơn giản về bản chất của nó. Đó là khi chúng ta bắt đầu hiểu triết lý này, chúng ta có cái nhìn thoáng qua về một tâm trí rất nhạy bén và đầy lòng trắc ẩn, rất quan tâm đến tương lai và hài lòng với hiện tại, rất năng động nhưng vẫn tĩnh lặng. Một chúng sinh như vậy không bao giờ có thể phù hợp với chiếc áo choàng của một vị vua. Tư tưởng của Ngài mang bản chất xã hội chủ nghĩa và cuộc đời cũng như tác phẩm của Ngài sẽ tiếp tục truyền cảm hứng cho các thế hệ mai sau./.

Ẩn Tâm Lộ - 2022
Trích từ quyển
Understanding the Dalai Lama - Rajiv Mehrotra 

Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2022

NGUYỆN VỌNG PHÁT BỒ ĐỀ TÂM, HOÀN TOÀN THANH KHIẾT VÀ TỐI CAO

 



Nguyên tác: Aspiration to Generate Bodhicitta, Utterly Pure and Supreme
Tác giả: Patrul Rinpoche
Việt dịch: Quảng Cơ  /  Tuệ Uyển hiệu đính

***

ན་ མོ་ གུ་ རུ །
Namo guru!

Tâm trí của ngài,vô lượng kiếp trước đây, tự loại bỏ mọi lừa dối,
Lời nói của ngài trung thực và chân thật, không có bất kỳ hình thức giả tạo nào,
Các hành vi của cơ thể ngài là nguyên tắc và khiêm tốn—
Hiền nhân vĩ đại, chân thành và thông tuệ, tôi kính lễ đến ngài!

Những bậc thừa kế của Đức Phật, những bậc đã nhìn thấy ý nghĩa tối hậu,
Những bậc nói sự thật, có lời nói của sức mạnh tiên tri,
Những người đang trên đường giải thoát qua ba thừa —
Trước tất cả các ngài, trong lòng thành kính, tôi xin đảnh lễ !

Kể từ bây giờ, trong tất cả những lần tái sinh trong tương lai, trong suốt những cuộc đời của tôi,
Chư Phật và chư bồ tát, xin cho tôi không bao giờ rời xa các Ngài !
Chư Phật và chư bồ tát, xin hãy nhận tôi làm môn đồ của các Ngài!
Chư Phật và chư bồ tát, hãy để tôi đạt được thành tựu giống như các Ngài!

Hành động của cơ thể tôi — nguyện chúng có nguyên tắc và khiêm tốn,
Lời nói của tôi — nguyện cho nó là trung thực, không sai lạc hoặc lừa bịp,
Tâm trí của tôi — nguyện cho nó là chân thành, không có giả tạo hay dối trá,
Và nguyện cho tôi có thể dựa vào những người hướng dẫn tâm linh và những người bạn pháp chân chính!

Lối vào đầu tiên của con đường giải thoát,
Con đường đầu tiên thoát khỏi hiểm nguy của luân hồi ,
Sơ khởi đầu tiên cho tất cả các thực hành Pháp:
Sự viễn ly chân chính — nguyện cho nó xuất hiện trong tâm trí tôi!

Với nó, tôi có tất cả những gì cần thiết để đạt được giác ngộ,
Và không có nó, không có cách nào để tìm thấy sự tỉnh giác,
Hạt giống không thể chối cãi mà từ đó đạt được Phật quả,
Nguyện cho tôi phát bồ đề tâm, hoàn toàn thuần khiết và cao siêu!

Hơn nữa và xa hơn nữa, nguyện phát triển Bồ đề tâm tối cao,
Trong suốt các cuộc đời tôi, nguyện Bồ đề tâm không bao giờ bị lãng quên,
Hết lần này đến lần khác, nguyện tôi có thể hành thiền về Bồ đề tâm,
Và luôn luôn rèn luyện theo cung cách của bồ tát!

Bất cứ những hành động giác ngộ nào của Hiền nhân vĩ đại,
Anh hùng Văn Thù Sư Lợi hay Phổ Hiền,
Trong tất cả các cuộc đời của tôi, nguyện cho những việc làm của tôi bằng với các ngài,
Và một cách tự nhiên, nguyện cho tôi có thể đạt được phúc lạc cho chính mình và cho người khác!

Con đường tuyệt vời, mang lại Phật quả trong trong một đời duy nhất,
Với những phương pháp khéo léo để đồng thời mang lại lợi ích cho bản thân và những người khác,
Và cái nhìn về một thực tại duy nhất trong đó luân hồi và niết bàn không thể tách rời—
Tôi nguyện dấn thân vào con đường vô song này của cỗ xe kim cang !

Những bậc thủ trì kim cang, những người trau dồi cách tiếp cận của con đường này,
Tiếp nhận như những bậc đồng hành, những người mang lại hạnh phúc tánh không ,
Như một cách để giới thiệu trí tuệ đồng xuất hiện—
Nguyện cho con đường độc đáo này được tận hưởng trong thế giới của các ḍākinī!

Khuôn mặt bản chất nguyên sơ của tôi, chính tâm trí, hãy để nó không thay đổi,
Bản chất rất riêng của tôi, vượt ngoài tạo tác — nguyện cho tôi có thể thấy nó trọn vẹn!
Duy trì thiền định mà không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ dấu vết thay đổi nào,
Nguyện cho cho tôi đạt được quả vị tối thượng thoát khỏi mọi tạo tác!

Trong khi chờ đợi, nguyện cho mọi mong muốn của tôi có thể được hiện thực!
Miễn là tôi còn sống, nguyện cho tôi không có ý định tiêu cực,
Và khi tôi chết, xin cho tôi không phải chịu một cái chết đau đớn,
Đã chết, nguyện không sợ hãi những hiện tướng vọng tưởng!

Nguyện cho tất cả những ai nhìn thấy tôi, nghe thấy tôi, nghĩ về tôi hoặc tiếp xúc với tôi theo bất kỳ cách nào,
Phát triển sự viễn ly, tâm bồ đề và trí tuệ đồng xuất hiện
Theo bất kỳ cách nào phù hợp trong tâm thức của họ,
Vì vậy, nhanh chóng, họ có thể đạt đến Phật quả hoàn hảo!

Nguyện cho tôi được chiêm ngưỡng Đức Phật giống như mặt trời với những hảo tướng và dấu ấn của Ngài,
Nguyện cho tôi được thưởng thức cam lồ của Pháp bảo giống như mặt trời trong trái tim tôi,
Và nguyện cho Tăng già giống như mặt trời đi cùng tôi đến sự giải thoát—
Từ ánh sáng của ba Đấng Tối Cao giống như mặt trời này, xin cho tôi không bao giờ rời xa! 1


Để đáp ứng mong muốn của học viên Nyima, điều này được viết bởi Palge, phản ánh đơn thuần của một nhà sư chân chính. Cầu mong phúc đức dồi dào!

| Bản dịch của Adam Pearcey 2010. Rất cám ơn Alak Zenkar Rinpoche. Sửa đổi 2012 & 2020.
1. ↑ Ở đây Patrul Rinpoche chơi chữ nyima, nghĩa là mặt trời, là tên của người đã thỉnh cầu lời cầu nguyện.
 

To fulfil the wishes of the practitioner Nyima, this was written by Palge, the mere reflection of a genuine monk. May virtue abound!
 
| Translated by Adam Pearcey 2010. Many thanks to Alak Zenkar Rinpoche. Revised 2012& 2020.
1. ↑ Here Patrul Rinpoche plays on the word nyima, meaning sun, which is the name of the person who requested the prayer.

 

Ẩn Tâm Lộ, 2022

 

 

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2022

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NHƯ MỘT NHÀ CHIẾN LƯỢC CHÍNH TRỊ

 


Nguyên tác: The Dalai Lama as a Political Strategist
Tác giả: Senthil Ram
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển nhuận văn

***

“Chàng trai trẻ thông minh hơn nhiều và nắm rõ thông tin về các vấn đề thế giới hơn các cố vấn của anh ta. . . [và là người] ý thức sâu sắc về nhu cầu cải cách xã hội và các cải cách khác ở Tây Tạng,” Loy Henderson, đại sứ Hoa Kỳ tại Ấn Độ năm 1951, nhận xét về Đức Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi. Từ Lhasa đến Dharamsala, trong suốt thời kỳ khó khăn sau khi Tàu Cộng chiếm đóng Tây Tạng vào năm 1950, quan điểm chính trị của Đạt Lai Lạt Ma phản ánh quan niệm của Phật giáo về sự hiểu biết thực tại, hay nói cách khác là chủ nghĩa thực dụng.

Trong bài tiểu luận này, tôi phân tích triết lý chính trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma, người được hàng triệu người Tây Tạng tôn kính. Trong khi vẫn đang ở đỉnh cao quyền lực của mình với tư cách là nhà lãnh đạo chính trị và thế tục của Tây Tạng, việc bổ nhiệm Kalon Tripa - tương đương với thủ tướng Tây Tạng - về mặt lý thuyết, ít nhất đã đặt ông vào ghế sau của phương tiện dân chủ của Chính phủ Tây    Tạng lưu vong đó là hướng tới một Tây Tạng tự do về chính trị. Do đó, tại thời điểm này, việc nắm bắt những đóng góp chính trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma là rất quan trọng để hiểu được bản chất của chính thể Tây Tạng ngoài việc hình dung ra hướng đi trong tương lai của nó. Do có vấn đề trong việc tách biệt tôn giáo và chính trị, bài luận này tiến hành với mục tiêu khiêm tốn là nêu bật vai trò chính trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma mà không làm suy yếu ảnh hưởng của Phật giáo Tây Tạng.

Bối Cảnh Của Vấn Đề Tây Tạng

Thế kỷ 20 là một bước ngoặt trong cuộc xung đột Tây Tạng, được biết đến rộng rãi với cái tên 'vấn đề Tây Tạng', bắt nguồn từ chiều sâu khó dò của các chi tiết lịch sử hàng thế kỷ như được tuyên bố và xây dựng bởi cả hai bên chính: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (gọi tắt là CHND Trung Hoa) và Chính phủ lưu vong Tây Tạng (gọi tắt là TGE). Cuộc xâm lược và chinh phục Tây Tạng của người Anh dưới thời Younghusband vào năm 1903 và 1904 đã đánh dấu sự khởi đầu của sự kết thúc sự cô lập của vương quốc Tây Tạng. Triều đại nhà Thanh ở Trung Hoa, vốn có đại diện ở Tây Tạng và coi Tây Tạng là 'phụ thuộc về mặt chính trị', coi đây là hành động xâm lược của đế quốc chống lại quyền bá chủ của mình và cố gắng tăng cường kiểm soát đối với Tây Tạng. Trước đó rất lâu, cuộc lật đổ bất ngờ của nhà Thanh vào năm 1911 dẫn đến việc Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba tuyên bố độc lập. Từ năm 1911 đến năm 1951, Tây Tạng hoạt động như một quốc gia độc lập trên thực tế và tiến hành tất cả các mối quan hệ địa phương và quốc tế của mình mà không có sự can thiệp từ Trung Hoa hoặc bất kỳ quốc gia nào khác. Ngược lại, việc Trung Hoa tuyên bố Tây Tạng là một phần lãnh thổ của mình, việc Hoa Kỳ và Vương quốc Anh công nhận quyền thống trị của Trung Hoa đối với Tây Tạng, và việc các nước này đồng thời từ chối công nhận nền độc lập của Tây Tạng đã dẫn đến việc xâm lược và chiếm đóng Tây Tạng. bởi Cộng sản Trung Hoa vào tháng 10 năm 1950.

Cho dù ý định của Tàu Cộng là giải phóng sau đó chiếm đóng, hay chiếm đóng sau đó giải phóng, thì chiến lược ‘hòa bình’ của Mao đã đánh tan quân đội Tây Tạng được trang bị kém với khoảng 10.000 quân và buộc người Tây Tạng phải thương lượng và từ bỏ chủ quyền chính trị của họ lần đầu tiên trong lịch sử Tây Tạng. Đổi lại, thỏa thuận mười bảy điểm hứa sẽ bảo tồn địa vị chính trị và tôn giáo của Đạt Lai Lạt Ma và không đưa ra các cải cách chính trị và kinh tế cho đến khi người Tây Tạng yêu cầu. Nhưng các cuộc cải cách tôn giáo và kinh tế của  Tàu Cộng ở miền đông Tây Tạng và các cuộc biểu tình sau đó từ từ lan sang miền trung Tây Tạng và tạo ra sự sợ hãi và ngờ vực trong người dân Tây Tạng. Kết quả là cả người Tàu Cộng  và Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn đều không thể tôn trọng thỏa thuận. Cuối cùng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đào thoát khỏi Tây Tạng vào tháng 3 năm 1959 sau một cuộc nổi dậy lớn ở Lhasa, tiếp theo là một cuộc di cư của gần 80.000 người Tây Tạng đến Ấn Độ. Sau đó, Ngài thành lập Chính Phủ Lưu Vong Tây và tuyên bố bãi bỏ thoả ước mười bảy điểm, đồng thời tuyên bố quyền tự quyết và độc lập của Tây Tạng. CHND Trung Hoa cũng từ bỏ thỏa thuận và thành lập chính quyền nhân dân ở Tây Tạng. Đây là căn nguyên của sự bất đồng về vấn đề vị trí chính trị của Tây Tạng so với Trung Hoa. Trong những năm qua, xung đột đã trở nên phức tạp bởi bao gồm nhiều vấn đề khác nhau, từ tồn tại văn hóa, bản sắc, quản trị, nhân quyền, môi trường và phát triển.

Từ khi sống lưu vong, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã theo đuổi nhiều cải cách mang tính bước ngoặt khác nhau, một mặt nhằm dân chủ hóa chính thể Tây Tạng và mặt khác để xử lý xung đột với Tàu Cộng một cách bất bạo động. Mặc dù các sáng kiến ​​dân chủ hóa của Ngài bị hạn chế bởi các lý do thực tế như 'bất an kinh tế, nghi thức chuẩn mực truyền thống và thiếu giáo dục', về cơ bản, nó vẫn được chấp nhận như một phương pháp của chính thể do tính công bằng của Ngài trong việc đối phó với các tông phái và khu vực khác nhau cũng như lòng trung thành và tình cảm của dân tộc Tây Tạng. Không có đấu tranh hay thiệt hại về nhân mạng, nền dân chủ Tây Tạng bắt nguồn từ những ý tưởng của nhà lãnh đạo và đi vào lòng quần chúng được gọi một cách thích hợp là nền dân chủ của Đức Đạt Lai Lạt Ma hay 'nền dân chủ của một người'. Quan trọng hơn, tầm nhìn dân chủ đơn nhất của Ngài đã thống nhất ba khu vực Tây Tạng đa dạng là U-Tsang, Kham và Amdo, và đã kiểm soát thành công cuộc xung đột để không đạt đến mức quá mức trong 50 năm qua.

Mặc dù bất bạo động như một công cụ chính trị của chính sách Tây Tạng nghe có vẻ rất tự nhiên, nhưng với tiềm năng bất bạo động của người Tây Tạng cũng như truyền thống và văn hóa Phật giáo, nó không nên được nhấn mạnh quá mức. Đầu tiên, điều quan trọng là không được bỏ qua khả năng bạo lực của người dân Tây Tạng. Giống như bất kỳ nền văn hóa nào khác, mặc dù ít nổi bật hơn sau khi Phật giáo trở thành quốc giáo vào thế kỷ 13, người Tây Tạng cũng vậy, đã nắm giữ vũ khí, tiến hành chiến tranh và tàn hại nhau vì đất đai và của cải. Có một số ngoại lệ bạo lực trong 'chế độ không cưỡng chế' của Tây Tạng, đặc biệt là chống lại các cuộc xâm lăng của nước ngoài, bao gồm cả cuộc xâm lược của Anh vào năm 1904. Người Tây Tạng đã dũng cảm chiến đấu với Quân Giải phóng Nhân dân Tàu Cộng  tiến vào năm 1950. Thường thì các nhà sư cũng tham gia vào các trận chiến chống lại người Trung Hoa để giành lại lãnh thổ, và cũng chiến đấu với các nhà sư khác thuộc các môn phái khác nhau. Cuộc nổi dậy ở Lhasa năm 1959 chứng kiến nhiều nhà sư mang súng sát cánh cùng người Khampa. Sau đó, người Khampa sử dụng chiến thuật du kích 'đánh và chạy' với sự hỗ trợ bí mật của CIA, lặp đi lặp lại cho đến năm 1974. Thứ hai, những chuyển đổi chính trị sang dân chủ ở các quốc gia Phật giáo đã không diễn ra một cách bất bạo động. Ví dụ, ở Thái Lan, Miến Điện và Sri Lanka, Phật giáo đã (và đang) được sử dụng để biện minh cho bạo lực của các nhà hoạt động chính trị theo chủ nghĩa dân tộc. Do đó, ở cấp độ chính trị, bất bạo động Tây Tạng là một sự lựa chọn hơn là cố hữu. Điều tôi muốn nhấn mạnh là sự lựa chọn có chủ ý để bất bạo động trở thành một phương tiện chính trị bắt nguồn từ Phật giáo Tây Tạng trong những nghịch cảnh, và vai trò chính của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong việc đóng góp vào nền tảng triết học gọi là con đường trung đạo với các yếu tố chính trị thực tế. Đặc biệt từ những năm 1980, chính sách của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tạo thành cột trụ cho các chính sách trung đạo của chính phủ lưu vong - TGE và trở thành động lực của phong trào bất bạo động Tây Tạng nhằm ngăn chặn chính sách di cư dân số người Hoa của Tàu Cộng đang đe dọa thành phần dân tộc Tây Tạng.

Chính Sách Trung Đạo Của Đức Đạt Lai Lạt Ma

Con đường trung đạo không phải là mục đích hay mục tiêu của phong trào Tây Tạng. Nó cũng không phải là một đề xuất hòa bình. Theo Thubten Samphel, con đường trung đạo do Đức Đạt Lai Lạt Ma quan niệm là một phương pháp tiến hành cuộc đấu tranh cho tự do và công lý cho người Tây Tạng. Do đó, trung đạo không đại diện hoặc phản ánh hệ thống toàn thể niềm tin của người Tây Tạng. Thay vào đó, nó là một kỹ thuật bất bạo động được ủng hộ bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma, có thể được so sánh một cách thô thiển với kỷ thuật phản đối  bất bạo động công cộng của Gandhi (the Gandhian satyagraha). Bản chất của con đường trung đạo là tránh những điều cực đoan. Một bên là sự cần thiết không phục tùng các chính sách của  Tàu Cộng chống lại sự tồn tại của văn hóa và tôn giáo Tây Tạng. Mặt khác là biện pháp cực đoan để đạt được một Tây Tạng tự do với cái giá là vòng luẩn quẩn bạo lực có thể chống lại văn hóa và tôn giáo Tây Tạng. Như vậy, trung đạo là một lập trường vừa phải, có thể đảm bảo lợi ích chung tối thiểu của tất cả các bên liên quan. Đối với người Tây Tạng, đó là sự bảo vệ và gìn giữ văn hóa và tôn giáo Tây Tạng; đối với người Trung Hoa, đó là an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của mẫu quốc; và đối với các nước láng giềng và bên thứ ba, hòa bình ở biên giới của họ và quan hệ quốc tế hòa bình. Về bản chất, con đường trung đạo trở thành một công cụ chính sách thực tế để xử lý một cách hòa bình cuộc xung đột với Tàu Cộng nhằm đạt được mục tiêu của người Tây Tạng. Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, mục tiêu của cuộc đấu tranh của người Tây Tạng là đạt được tự do tinh thần, tôn giáo và văn hóa, thuận lợi cho người Tây Tạng thực hiện trách nhiệm phổ quát của họ trong việc bảo tồn, duy trì và phổ biến các truyền thống văn hóa cao cả của khoa học nội tâm độc đáo vì lợi ích của toàn thế giới trong một sự hoà giải chính trị tự trị trong Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC).

Mặc dù xung đột Tây Tạng được nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa là 'xung đột dân tộc khó giải quyết', 'xung đột dân tộc chủ nghĩa', 'xung đột bất bạo động' và vấn đề 'bản sắc và quyền tự trị', đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma, nó không có bất kỳ động cơ chính trị nào. Theo lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma, vấn đề giữa Tây Tạng và Trung Quốc 'không phải là sự khác biệt về hệ tư tưởng, hệ thống xã hội hay các vấn đề do xung đột giữa truyền thống và hiện đại. Đây không phải là vấn đề vi phạm nhân quyền cũng không phải là cuộc đấu tranh dựa trên yêu sách sắc tộc. Gốc rễ của vấn đề Tây Tạng nằm ở lịch sử lâu dài và riêng biệt của Tây Tạng, nền văn hóa lâu đời và khác biệt cũng như bản sắc độc đáo của nó.’ Dưới sự lãnh đạo của Ngài, phong trào Tây Tạng có một động lực tinh thần để bảo vệ truyền thống tôn giáo của Tây Tạng bắt nguồn từ lòng từ bi và bất bạo động, đồng thời tạo điều kiện cho người Tây Tạng thực hiện các trách nhiệm rộng lớn hơn của họ đối với nhân loại. Mặc dù người Tây Tạng đã có lúc nhấn mạnh trên các diễn đàn chính trị rằng vấn đề này là một vấn đề chính trị, thủ tướng chính phủ lưu vong hiện tại đã nhắc lại lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma:

Người dân Tây Tạng đã kế thừa trong nhiều thế kỷ trách nhiệm bảo tồn, phát huy và phổ biến một nền văn hóa và truyền thống tâm linh độc đáo vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Để cho phép người dân Tây Tạng hoàn thành các nhiệm vụ này, chúng tôi yêu cầu một tình hình xã hội, chính trị, kinh tế và môi trường thuận lợi. Trí tuệ con người không thể thức tỉnh đến mức tối đa trong bầu không khí áp bức và khủng bố. Một di sản văn hóa đã bị bật gốc không thể được bảo tồn và phát huy đúng mức thông qua việc trồng lại ở nơi khác. Do đó, tự do chính trị là một phương tiện để người Tây Tạng hoàn thành nghĩa vụ ràng buộc của họ.

Đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma, mặc dù tự do tôn giáo và chính trị không thể tách rời và cái này không thể tồn tại mà không có cái kia, nhưng trong phong trào bất bạo động Tây Tạng, tự do tôn giáo trở thành trung tâm và tự do chính trị trở thành phụ. Ngài tin chắc rằng tự do chính trị thoả đáng sẽ là giải pháp cho tình trạng khó khăn hiện tại của người Tây Tạng. Do đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đề xuất một thỏa thuận tự trị trong CHND Trung Hoa như một giải pháp. Ngài nói:

Tôi không tìm kiếm độc lập cho Tây Tạng. Tôi hy vọng rằng các cuộc đàm phán có thể bắt đầu và chúng sẽ mang lại quyền tự trị thật sự cho người dân Tây Tạng và việc bảo tồn và phát huy tính toàn vẹn về văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ cũng như sự phát triển kinh tế xã hội của họ. Tôi chân thành tin tưởng rằng “Phương pháp Trung đạo” của tôi sẽ góp phần vào sự ổn định và thống nhất của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và đảm bảo quyền cho người dân Tây Tạng được sống trong tự do, hòa bình và nhân phẩm (tuyên bố đưa ra vào ngày 10 tháng 3 năm 1999).

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ủng hộ yêu cầu chính trị về quyền tự trị thực sự một cách không chính thức từ năm 1979 khi Đặng Tiểu Bình mời người Tây Tạng thảo luận bất cứ điều gì ngoại trừ nền độc lập, và chính thức từ năm 1989, khi ông đưa ra Đề xuất Strasbourg như một đề xuất thực tế để giải quyết vấn đề thông qua đàm phán. Đề xuất 'quyền tự trị lớn hơn' của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã được các bên khác nhau trong cuộc xung đột đánh giá là hợp lý. Hơn nữa, đề xuất của Ngài nằm trong quy trình quản lý xung đột do các chuyên gia giải quyết xung đột khuyến nghị. Đặc biệt khi nói đến các xung đột xã hội kéo dài tương tự như Tây Tạng liên quan đến việc bảo vệ các bản sắc văn hóa độc đáo và tìm kiếm một hình thức quản trị phù hợp, Edward Azar đã đề xuất các hình thức cấu trúc chính trị khác nhau trong các cơ cấu quốc gia hiện có. Tedd Gurr và Deepa Khosla đã tiến thêm một bước trong việc đề xuất quyền tự trị như một giải pháp thực tế cho vấn đề Tây Tạng.

Yếu tố cấu thành quan trọng nhất của một phong trào bất bạo động là các mục tiêu chính xác và đã được thống nhất. Đặt ra các mục tiêu không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, như lịch sử đã chỉ ra - từ phong trào Gandhian bị kẹt giữa những người ôn hòa và những người cực đoan trong việc quyết định lộ trình của phong trào, cho đến phe đối lập dân chủ ở Serbia không thể đưa ra quyết định khi tiến hành cuộc bầu cử năm 2000 chống lại Milosevic cho đến một vài tháng trước ngày. Việc ra quyết định về các mục tiêu thường chia rẽ ngôi nhà đoàn thể trong những thời điểm khó khăn. Tương tự như vậy trong trường hợp của Tây Tạng, dòng suy nghĩ không chính thức ủng hộ một Tây Tạng dân chủ và độc lập về chính trị. Lập luận trọng tâm của họ là TGE đã thất bại thảm hại trong việc thuyết phục Tàu Cộng không sẵn lòng đàm phán ngay cả khi từ bỏ nền độc lập trong gần hai thập niên. Do đó, các nhóm như Đại hội Thanh niên Tây Tạng (TYC) chống lại việc từ bỏ chủ quyền của Tây Tạng và yêu cầu độc lập hoàn toàn cho toàn bộ dân tộc Tây Tạng, bao gồm ba tỉnh truyền thống U-Tsang, Kham và Amdo. Căn nguyên của lập trường gây chia rẽ này nằm ở quá trình ra quyết định hơn là ở các luận điểm. Tuy nhiên, lập trường của TGE, sẵn sàng đàm phán, về yêu cầu quyền tự trị, ít nhất là về mặt lý thuyết, thực tế vì nó đáp ứng các nhu cầu cơ bản của cả người Tây Tạng và người Trung Hoa mà không có sự tách biệt. Đối với người Tây Tạng, nó đảm bảo các quyền cơ bản của con người và quyền bảo vệ các truyền thống văn hóa độc đáo của họ. Đối với người Trung Hoa, nó tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ và đóng góp cho một mẫu quốc ổn định và mạnh mẽ. Vì vậy, bằng cách giải quyết các mối quan tâm quốc gia của người Tây Tạng và Trung Hoa, mục tiêu này dường như có thể đạt được về mặt chính trị.

Yếu Tố Cần Thiết Của Trung Đạo

Đối với phong trào phản đối bất bạo động công cộng (Gandhian satyagraha), các phương châm cơ bản là: sự thật, bất bạo động (ahimsa) và tự chịu đựng. Đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma, phương châm cơ bản của trung đạo là bất bạo động và đối thoại. Ngài có nói: . . .

để sống với ít xung đột và đổ máu hơn và để đạt được điều này, điều quan trọng là phải tuân theo bất bạo động và đối thoại. . . nếu cuộc đấu tranh của chúng ta thông qua bất bạo động với một cảm giác từ bi thành công, chúng ta sẽ tạo ra một cách mới để giải quyết các vấn đề và xung đột và do đó phục vụ lợi ích của toàn nhân loại.

Như rõ ràng từ lời nói của mình, Đức Đạt Lai Lạt Ma tin rằng bất bạo động và đối thoại có thể là cơ sở duy nhất để giải quyết xung đột một cách hòa bình. Trong những năm qua, bất bạo động và đối thoại đã chiếm vị trí trung tâm trong chính sách trung đạo của Ngài. Không còn nghi ngờ gì nữa, đối thoại lưu ý vào các cuộc đàm phán với Tàu Cộng. Do đó, Ngài coi các sáng kiến hòa bình như Kế hoạch Hòa bình Năm điểm và Đề xuất Strasbourg là cơ sở linh hoạt cho các cuộc đàm phán với Tàu Cộng. Mặc dù Đức Đạt Lai Lạt Ma đã không nói rõ ràng ý của Ngài là bất bạo động trong bối cảnh của con đường trung đạo, nhưng về cơ bản nó chỉ ra hành động bất bạo động.

Đối thoại là một thành phần trung tâm của Phật giáo Tây Tạng và hoá ra là con đường trung đạo. Trong bối cảnh chính trị, Ngài ủng hộ mạnh mẽ đối thoại như một cách tiếp cận thực tế để giải quyết vấn đề Tây Tạng. Ngài nhấn mạnh đối thoại ở hai cấp độ: một là giữa chính phủ lưu vong TGE và CHND Trung Hoa và hai là giữa người Tây Tạng và người Trung Hoa. Ngài đã nói:

Sau nửa thế kỷ 'giải phóng', sự kiện Tây Tạng vẫn còn rất sống động và vẫn chưa được giải quyết. Rõ ràng tình trạng này không có lợi cho bất kỳ ai, cho cả Tây Tạng lẫn Trung Hoa. Tiếp tục đi theo con đường này không làm giảm bớt đau khổ của người dân Tây Tạng, cũng không mang lại sự ổn định và thống nhất cho Trung Hoa hoặc giúp nâng cao hình ảnh và vị thế quốc tế của Trung Hoa. Cách hợp lý và có trách nhiệm duy nhất để giải quyết vấn đề này là đối thoại. Không có sự thay thế thực tế nào cho nó (tuyên bố ngày 10 tháng 3 năm 1998).

Ngài thường nhấn mạnh tầm quan trọng của đối thoại trong các bài phát biểu và tuyên bố của mình. Theo Ngài, sự ngờ vực giữa người Trung Hoa và người Tây Tạng có thể được khắc phục ‘chỉ thông qua các cuộc gặp mặt trực tiếp và đối thoại chân thành’. Về phần mình, Ngài đã nói, 'Tôi vẫn cam kết với tiến trình đối thoại như một phương tiện để giải quyết vấn đề Tây Tạng. Tôi không tìm kiếm độc lập cho Tây Tạng. Tôi hy vọng rằng các cuộc đàm phán có thể bắt đầu và chúng sẽ mang lại quyền tự trị thật sự cho người dân Tây Tạng cũng như việc bảo tồn và phát huy tính toàn vẹn về văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ cũng như sự phát triển kinh tế xã hội của họ.’ Trong tuyên bố ngày 10 tháng 3 năm 1996, Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng khuyến khích đối thoại giữa người Tây Tạng và người Trung Hoa để thúc đẩy 'sự hiểu biết tốt hơn về các mối quan tâm và lợi ích chung của chúng ta'. Do đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma tin tưởng chắc chắn rằng có thể tìm thấy một giải pháp lâu dài cho vấn đề Tây Tạng thông qua tiếp xúc giữa người với người giữa người Tây Tạng và người Trung Hoa.

Đức Đạt Lai Lạt Ma, kiến trúc sư trưởng của nền chính trị bất bạo động Tây Tạng, là một tín đồ trung thành của Mahatma Gandhi. Sự ủng hộ của Ngài đối với Tuyên bố chung về bất bạo động trong đó tuyên bố rằng “tất cả các hình thức bạo lực, đặc biệt là chiến tranh, là hoàn toàn không thể chấp nhận được như một phương tiện để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia, nhóm và người với nhau” khiến Ngài trở nên cấp tiến trong số các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị khác. Ngài tin tưởng mạnh mẽ rằng phản kháng bất bạo động dành cho những người có ý chí mạnh mẽ và nguyên tắc, những người từ chối dựa vào thứ phi logic méo mó là ngăn chặn bạo lực xấu của kẻ thù bằng bạo lực tốt của mình. Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố rằng thật thiển cận khi tin rằng có thể tìm ra giải pháp lâu dài thông qua việc sử dụng vũ lực. Ngài luôn thể hiện niềm tin chắc chắn của mình khi đi theo con đường bất bạo động. Theo Ngài, sức mạnh và sự đối đầu chỉ có thể mang lại lợi ích tạm thời. Do đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma khuyến khích phản kháng bất bạo động bên trong Tây Tạng. Mặc dù Ngài đã thừa nhận rằng 'người dân Tây Tạng thể hiện nỗi buồn sâu sắc của họ thông qua bất bạo động là cách đúng đắn', nhưng Ngài không nói một cách đơn giản về động lực hoặc hoạt động của phản kháng bất bạo động ở Tây Tạng. Điều này đã làm cho sự hiểu biết tổng thể về phong trào bất bạo động đang diễn ra ở Tây Tạng trở nên khó nắm bắt, không giống như các phong trào Gandhian hoặc Kingian (Martin Luther). Do đó, tôi đang tập trung ở đây vào các yếu tố thực dụng ít được biết đến của phong trào bất bạo động Tây Tạng hơn là vào những ảnh hưởng nổi tiếng của Phật giáo và Gandhi.

Trước tiên, đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma, bất bạo động là phương pháp hiệu quả và thích hợp nhất để giải quyết xung đột. Ngài tin chắc vào bất bạo động như một kỹ thuật chính trị. Ngài chỉ ra rằng, ‘những sự kiện như sự kết thúc của chế độ độc tài Marcos ở Philippines và Pinochet ở Chilê, cũng như những thay đổi ở Moscow và các nước khác, cho thấy khá rõ ràng rằng những biến động trong lòng dân chúng. . . kết quả của hành động bất bạo động.’ Hơn nữa, Ngài hiểu tầm quan trọng của bất bạo động đối với một láng giềng thân thiện. Vì Trung Hoa và Tây Tạng là láng giềng của nhau—quá khứ, hiện tại và tương lai—Ngài lập luận rằng họ phải có một mối quan hệ hòa bình và hài hòa. Do đó, điều thiết yếu là những vấn đề chia rẽ họ nên được giải quyết một cách bất bạo động. Sử dụng bạo lực trong những tình huống như vậy khiến người ta có cảm giác khinh thường và thù hận trong nhiều thế hệ và do đó dẫn đến bạo lực hơn nữa. Ngài đưa ra những ví dụ về các cuộc xung đột kéo dài như Israel và Palestine, và Bosnia nơi bạo lực được sử dụng để ngăn chặn bạo lực. Ngài cũng đưa ra các ví dụ về Philippines, Chilê và Liên Xô trước đây, nơi nền dân chủ đã được thiết lập thông qua các biện pháp bất bạo động.

Thứ hai, bất bạo động được sử dụng trong chính trị do hiểu rằng các phương tiện đấu tranh không được mâu thuẫn với các mục tiêu hoặc mục đích xã hội của nó. Bạo lực không thể được sử dụng để tạo ra một hệ thống chính trị dựa trên sự tự quản và sự tham gia của thường dân và mang lại hòa bình. Chỉ thông qua các phương pháp bất bạo động, người ta mới có thể đạt được kết quả bất bạo động. Cũng cần lưu ý các mối liên hệ giữa bất bạo động và dân chủ như được thiết lập bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma. Một yếu tố quan trọng khác của cách tiếp cận bất bạo động thực dụng là sự thừa nhận rằng cả hai bên đều có những nhu cầu cần được giải quyết. Do đó, người Tây Tạng tận tâm theo đuổi các cuộc đàm phán giải quyết vấn đề, được minh họa bằng các sáng kiến hòa bình như Kế hoạch Hòa bình Năm điểm để đạt được một giải pháp có lợi như nhau cho cả người Tây Tạng và Trung Hoa.

Thứ ba, trong tình hình Tây Tạng, bạo lực không được coi là một lựa chọn thực tế để chống lại Tàu Cộng và được coi là phản tác dụng đối với mục tiêu của người Tây Tạng. Mặc dù các tổ chức phi chính phủ như Đại hội Thanh niên Tây Tạng (TYC) ủng hộ 'phương pháp đấu tranh bạo lực', nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma tin tưởng mạnh mẽ rằng bất bạo động là phương tiện hiệu quả nhất để đối phó với  Tàu Cộng trong hoàn cảnh hiện tại. Ngài cũng cảm thấy rằng một cuộc đấu tranh bạo lực chống lại  Tàu Cộng hùng mạnh về quân sự là một nhiệm vụ bất khả thi. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói, 'Tôi yêu cầu những người nóng nảy, hãy để họ hình dung điều này. Nếu chúng ta làm theo phương pháp bạo lực, vài trăm khẩu súng sẽ không hiệu quả. Ít nhất chúng ta cần vài nghìn, ít nhất vài nghìn. . . khoảng 100.000. Bây giờ chúng ta sẽ lấy những vũ khí này từ đâu? Có quốc gia nào sẵn sàng cung cấp chúng cho chúng ta không?’ Ở một nơi khác, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhắc lại rằng không ai sẽ cung cấp vũ khí cho người Tây Tạng, và ngay cả khi một quốc gia làm như vậy, việc chuyển vũ khí cho Tây Tạng sẽ không dễ dàng. ‘Nếu nửa triệu người Tây Tạng cầm vũ khí chống lại Trung Quốc, đó sẽ là hành động tự sát.’ Ngài tin rằng một cuộc nổi dậy vũ trang sẽ là cái cớ tốt nhất để  Tàu Cộng tiêu diệt người Tây Tạng. Hơn nữa, dân số Tây Tạng đang suy giảm chắc chắn không khuyến khích lựa chọn bạo lực và thúc đẩy bất bạo động, vì bất bạo động sẽ cứu được nhiều mạng người.

Cuối cùng, lập trường bất bạo động của người Tây Tạng huy động được sự ủng hộ từ nhiều phía, kể cả người dân Trung Hoa. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói, 'vì thái độ bất bạo động của chúng tôi, người Hoa cả ở Trung Quốc và nước ngoài đều bày tỏ sự cảm thông và quan tâm đến chính nghĩa của chúng tôi và kết quả là công khai thể hiện sự ủng hộ của họ đối với cuộc đấu tranh giành độc lập của Tây Tạng.' Ông tin tưởng chắc chắn rằng thông qua bất bạo động, họ có thể đạt được một giải pháp có lợi cho cả người Hoa lẫn người Tạng. Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, sự hỗ trợ to lớn của quốc tế mà người Tây Tạng hiện đang được hưởng là do đặc tính bất bạo động của phong trào. Đức Đạt Lai Lạt Ma thường thừa nhận sự thông cảm của giới truyền thông đối với phong trào bất bạo động và tầm quan trọng của nó đối với chính nghĩa của Tây Tạng. Ngài đã nói rằng sự quan tâm của giới truyền thông về Tây Tạng đã thu hút ‘mọi người trên toàn thế giới. . . [đến] chính nghĩa Tây Tạng.’ Do đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma rất coi trọng lợi ích này. . . [và] thực tế là chính nghĩa của chúng tôi sẽ được công nhận theo cách này, tôi tin rằng, sẽ truyền cảm hứng cho chính phủ Trung Hoa thể hiện sự kiềm chế nhiều hơn trong các giao dịch với người dân Tây Tạng và quan tâm đến nhu cầu của họ.’ Do đó, cuộc đấu tranh bất bạo động của người Tây Tạng có những yếu tố thực dụng không thể thiếu, trong đó bất bạo động được sử dụng trên thực tế chỉ là một trong một số phương pháp khả thi để ứng phó với tình huống xung đột với Trung Hoa nhằm đạt được một giải pháp đôi bên cùng có lợi.

Chiến Lược Đấu Tranh Bất Bạo Động Của Người Tây Tạng

Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma đến thăm Ấn Độ vào năm 1956, Ngài đã gặp nhiều người theo Gandhi và thảo luận về tình hình Tây Tạng. Họ khuyên Đức Đạt Lai Lạt Ma trở về Tây Tạng và tiếp tục đấu tranh cho tự do. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã làm chính xác điều đó. Nhưng không có kết quả. Vì vậy, cuối cùng vào năm 1959, khi không còn lựa chọn nào khác, Ngài phải đi lưu vong. Từ nơi lưu vong, Ngài đã cố gắng giải quyết vấn đề thông qua đàm phán bằng cách bắt đầu liên hệ trực tiếp với Bắc Kinh. Việc thiếu tiến bộ trong các sáng kiến trực tiếp và mối đe dọa nghiêm trọng đối với văn hóa Tây Tạng dưới hình thức chính sách di chuyển dân số của  Tàu Cộng đã buộc Ngài phải đưa phong trào bất bạo động Tây Tạng lên một tầm cao mới mà không dao động khỏi con đường bất bạo động và đối thoại đã chọn: quốc tế hóa vấn đề Tây Tạng trong hy vọng rằng nó sẽ gây áp lực buộc Tàu Cộng phải ngồi vào bàn đàm phán. Trong bài phát biểu tại hội nghị lần thứ hai của Nhóm Hỗ trợ Tây Tạng tại Đức vào tháng 6 năm 1996, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã giải thích rõ ràng rằng sự bế tắc trong các cuộc đàm phán Hoa - Tạng đã buộc Ngài phải quốc tế hóa vấn đề Tây Tạng. Ngài nói:

Vì không có phản hồi từ phía Trung Hoa, tôi buộc phải tuyên bố công khai Kế hoạch Hòa bình Năm điểm của mình cho Tây Tạng. Đây là kết quả của việc thiếu đáp ứng từ phía Trung Hoa và do đó không có lựa chọn nào khác ngoài việc tìm kiếm sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế.

Ở đây, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh việc phía Tàu Cộng không có phản hồi đàm phán và thiếu các giải pháp thay thế để đối phó với Tàu Cộng là những lý do quan trọng để quốc tế hóa vấn đề Tây Tạng. Vì mục tiêu trước mắt của ngài khi đó là đối thoại với Trung Quốc để bảo tồn văn hóa Tây Tạng khỏi các chính sách của Trung Quốc, Đức Đạt Lai Lạt Ma tin chắc rằng áp lực đạo đức, chính trị và kinh tế quốc tế là lựa chọn khả thi duy nhất mà người Tây Tạng còn lại để tìm ra giải pháp kịp thời.

Do đó, với hành động bất bạo động và đối thoại là các thành phần trung tâm, chính sách trung đạo cố gắng vận động áp lực quốc tế để buộc Tàu Cộng đồng ý với một sự hoà giải chính trị thương lượng đối với Tây Tạng. Áp lực đã được gây ra đối với Tàu Cộng thông qua nỗ lực lập pháp, tức là đưa Tây Tạng vào diễn đàn của các chính phủ, đặc biệt là các ngành lập pháp, và tạo ra những thay đổi trong chính sách của các chính phủ trên toàn thế giới. Điều này đã trở thành chiến lược cốt lõi của việc quốc tế hóa. Chiến lược này đã phát triển từ năm 1987 bằng cách bao gồm bốn khía cạnh: phản kháng bất bạo động bên trong Tây Tạng, đối thoại với CHND Trung Hoa, Chương trình xây dựng trong lưu vong để bảo vệ văn hóa và tôn giáo Tây Tạng, và quốc tế hóa cùng vận động truyền thông về vấn đề Tây Tạng. Trong khi phản kháng bất bạo động bên trong Tây Tạng chuyển tải sự bất bình thật sự của người dân Tây Tạng tới CHND Trung Hoa và thế giới bên ngoài, cuộc đối thoại thông qua các sáng kiến hòa bình đã hình thành cơ sở cho các cuộc đàm phán với Bắc Kinh. Chương trình Xây dựng của Chính Phủ Lưu Vong Tây Tạng  nhằm mục đích bảo vệ và thúc đẩy tôn giáo và văn hóa Tây Tạng và hiện thực hóa một Tây Tạng tự do dân chủ lưu vong. Cuối cùng, việc quốc tế hóa vấn đề Tây Tạng huy động sự hỗ trợ của công chúng, chính trị và truyền thông quốc tế để gây áp lực lên Tàu Cộng về một giải pháp hòa bình.

Trong khi các học giả thuộc trường phái hiện thực hoặc thực tiển lên án chiến lược quốc tế hóa, thì nhóm học giả thứ hai theo chủ nghĩa lý tưởng chính trị và chủ nghĩa đa nguyên lại đánh giá cao việc quốc tế hóa vấn đề Tây Tạng. Mặc dù cả hai nhóm đều đồng ý rằng Tây Tạng là một mối quan tâm chiến lược đối với Tàu Cộng và sự tồn tại văn hóa của người Tây Tạng đang gặp nguy hiểm, nhưng họ đưa ra các giải pháp hoàn toàn khác nhau. Những người theo chủ nghĩa hiện thực đề xuất sự tham gia tích cực của chính phủ bên thứ ba (đặc biệt là Hoa Kỳ) vào quá trình hòa giải và sự trở lại của Đức Đạt Lai Lạt Ma để bảo vệ cuộc sống của người Tây Tạng mà không thực hiện bất kỳ thay đổi cấu trúc nào đối với quan điểm chính trị của Tây Tạng đối với Trung Hoa. Ngăn chặn sự tẩy chay xã hội và kinh tế quốc tế như một phương tiện để gây sức ép buộc Tàu Cộng phải đàm phán, những người theo chủ nghĩa lý tưởng đề xuất một sự can dự tích cực bất bạo động của người Tây Tạng với Tàu Cộng để cứu người dân và nền văn hóa Tây Tạng khỏi sự hủy diệt. Tuy nhiên, cả hai nhóm, trong nhiệm vụ rõ ràng là xử lý xung đột theo cách có thể đáp ứng nhu cầu của cả hai bên, đã bỏ lỡ yếu tố quan trọng trong việc giải quyết xung đột bất đối xứng, đó là cân bằng mối quan hệ quyền lực giữa Chính Phủ Lưu Vong Tây Tạng và CHND Trung Hoa trong dài hạn, hòa bình bền vững. Ý tưởng của họ làm nổi bật tính hiệu quả của hành động bất bạo động và sự tham gia của bên thứ ba như những yếu tố quan trọng để thay đổi cán cân quyền lực và tác động đến sự thay đổi hòa bình trong mối quan hệ chính trị xã hội Hoa - Tạng. Về mặt lý thuyết, hai hoạt động này đóng góp rất nhiều vào việc quản lý bất kỳ cuộc xung đột bất đối xứng nào: hành động bất bạo động sẽ nâng xung đột lên mức rõ ràng và sự hỗ trợ của bên thứ ba có thể giúp cân bằng mối quan hệ quyền lực của các bên. Một cách phù hợp, hai yếu tố này tạo thành cốt lõi của chính sách trung đạo của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Do đó, trung đạo không chỉ là một nguyên tắc tôn giáo hay đạo đức. Đó cũng là chính trị và thực tế. Mặc dù chiến lược bốn chiều này đã không đưa CHND Trung Hoa đến bàn đàm phán, nhưng khi xem xét thành công chính trị của việc giành được sự ủng hộ và đoàn kết quốc tế cũng như các việc được mất liên quan, có thể nói rằng chiến lược chính trị bất bạo động này đã đạt được nhiều thành tựu như một số xung đột bạo lực đương đại ở châu Á. Nó đã đặc biệt thành công trong việc ngăn chặn cuộc xung đột trở nên bạo lực ở Tây Tạng. Không còn nghi ngờ gì nữa, bạo lực ở Tây Tạng sẽ khơi mào cho một vòng xoáy bạo lực gây thiệt hại to lớn về người và vật chất cho tất cả các bên khi, người ta xem xét sự kháng cự lâu dài ở Tây Tạng và các dân tộc thiểu số khác trong CHND Trung Hoa. Bạo lực ở Tây Tạng trong bối cảnh toàn cầu hóa cũng sẽ ảnh hưởng đến hiện trạng xung đột và kích động sự can thiệp ở cấp khu vực, đặc biệt là từ Ấn Độ nơi có gần 80.000 người tị nạn Tây Tạng sinh sống và ở cấp quốc tế, chủ yếu là từ Hoa Kỳ, nơi người Tây Tạng sinh sống hoạt động hành lang rất sôi nổi.

Tuy nhiên, tình trạng xung đột bất đối xứng được thắt nút trong mối quan hệ chính trị và xã hội không cân bằng giữa CHND Trung Hoa hùng mạnh và Chính Phủ Lưu Vong Tây Tạng bất lực đặt ra những thách thức to lớn đối với việc giải quyết xung đột. Vì cấu trúc giúp phe ưu thế và mạnh mẽ giành chiến thắng và thiểu số hoặc bất lực thua cuộc, nên xung đột chỉ có thể được giải quyết bằng cách thay đổi cấu trúc và nâng xung đột lên mức rõ ràng. Hành động bất bạo động là phương pháp hiệu quả duy nhất để làm điều này, và mặc dù hành động bất bạo động của Tây Tạng cho đến nay vẫn chưa thành công trong việc giải quyết bạo lực tiềm ẩn đang tồn tại ở Tây Tạng và giữ cho xung đột ở mức độ tiềm ẩn, với những ngoại lệ nhỏ như các cuộc biểu tình năm 1959, 1987 và năm 1989, đó là chìa khóa duy nhất để gia tăng xung đột đến mức rõ ràng, mang lại những thay đổi về cấu trúc, ngăn chặn bạo lực trong tương lai ở Tây Tạng và dẫn dắt cuộc xung đột ở Tây Tạng tới một giải pháp hòa bình.

Kết Luận

Như đã trình bày, mục đích của bài tiểu luận này không phải là để thách thức hay phân giải cấu trúc của Đức Đạt Lai Lạt Ma, người chia sẻ quan điểm của những người theo Gandhi về bản chất không thể tách rời của tôn giáo và chính trị. Thay vào đó, đấy là một nỗ lực khiêm tốn nhằm làm nổi bật những khía cạnh thực tế trong hoạt động chính trị của Ngài vốn được thúc đẩy bởi các giá trị tinh thần Phật giáo. Phân tích quan trọng này về chính sách trung đạo của Đức Đạt Lai Lạt Ma có tầm quan trọng đối với phong trào bất bạo động đang diễn ra và nền chính trị dân chủ đang phát triển. Mặt khác, trường hợp Tây Tạng đưa ra một phương tiện giải quyết xung đột mới, hiệu quả và bất bạo động, có thể được điều chỉnh để đáp ứng các tình huống tương tự hoặc khác nhau chống lại chế độ độc tài hoặc các chính phủ độc đoán. Do đó, theo truyền thống do các triết gia hòa bình như Tolstoy, Gandhi và King thiết lập, Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã thách thức các quan niệm bạo lực của Machiavellian và lên tiếng cũng như hành động để cải thiện các điều kiện hòa bình của thế giới. Mặc dù Ngài là người không tưởng trong mong muốn phá vỡ các quy ước cho nền chính trị lý tưởng hóa, nhưng Ngài cũng rất thực tế vì đã hiện thực hóa tầm nhìn của mình trong 'thế giới này' bằng cách xử lý hòa bình cuộc xung đột với Tàu Cộng và dân chủ hóa chính thể Tây Tạng. Mặc dù các chính sách của Ngài thiên về sự lạc quan, nhưng Ngài lấy cảm hứng từ hy vọng chứ không phải những tổn thương và phát triển các giải pháp thay thế chứ không phải giả định. Việc Ngài xử lý vấn đề Tây Tạng và cách mạng hóa nền chính trị Tây Tạng phản ánh rõ ràng động lực của Ngài nhằm cải thiện toàn bộ hệ thống, nơi mà người Tây Tạng, Trung Hoa và các nước láng giềng của họ cùng có lợi. Do đó, triết lý chính trị của ông, đặc biệt là chính sách trung đạo, bắt nguồn từ Phật giáo, phản kháng bất bạo động của Gandhi và hiểu biết thực tế về chính trị quốc tế trở thành tài liệu vững chắc cho nghiên cứu hòa bình./.


Ẩn Tâm Lộ - 2022
Trích từ quyển Understanding the Dalai Lama - Rajiv Mehrotra 


Chủ Nhật, 20 tháng 11, 2022

NHỮNG BÀI KỆ ĐỂ LOẠI BỎ NHỮNG CHƯỚNG NGẠI VÀ DUY TRÌ SỰ CHỨNG NGỘ BẢN TÁNH CỦA TÂM

 



Nguyên tác: Verses to Remove Hindrances and Sustain Realization of the Nature of Mind
Tác giả: Khenpo Gangshar Gangshar
Anh dịch: Sean Price, 2016
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển hiệu đính

***

Tôi đảnh lễ dưới chân của Đạo Sư, Bậc Hướng Dẫn Tối Cao.
Bản thân việc thực hành là xem vị đạo sư như một vị Phật thật sự, khẩn cầu ngài như vậy với lòng sùng mộ mãnh liệt, để nhận bốn quán đảnh và kết hợp trí tuệ của ngài với tâm trí của bạn.

Lúc này nhìn thẳng vào tâm trí bình thường, sự tỉnh giác rõ ràng về thời điểm này, không bị ràng buộc bởi những ý tưởng cưỡng bách và tiêu cực. Đừng buồn khi tâm xúc động hoặc vui khi tâm tĩnh lặng. Tương tự như vậy, không áp dụng các biện pháp để nới lỏng hoặc kềm chế tâm trí của bạn; chỉ đơn giản là cho phép tất cả tan vở và thư giãn trong tự nhiên.

Nếu những suy nghĩ vẩn vơ bên ngoài, thì không cần phải nghĩ, ‘Tôi nên mang tỉnh thức về nhà.’ v.v., không cần phải sửa đổi tâm trí như vậy. Không cần thiết phải làm điều này hoặc dừng điều nọ; đơn giản là vẫn mở rộng và tự do mà không có bất kỳ tiêu điểm chú ý nào.

Không thể nhìn thấy tâm chân như , vì vậy hãy từ bỏ bất kỳ ý tưởng nào về việc 'nhìn thấy' nó. Bất cứ điều gì phát sinh chỉ đơn giản là sự liên tục kỳ diệu của pháp thân, không có bất kỳ và mọi giới hạn. Đơn giản chỉ cần ‘buông bỏ’ trong sự lan tỏa liên tục của cảm giác thư thái hoàn toàn.

Đứa trẻ nhỏ, tâm trí, không ai khác chính là sáu thức an nhàn. Đừng nắm bắt điều phát sinh, dù tốt hay xấu; xem nó như cầu vồng trên bầu trời. Những suy nghĩ và cảm xúc mang tính hủy diệt giải thoát trong và của chính chúng, giống như một con rắn tự mở ra những nút thắt của chính nó. Đừng làm theo thói quen của bạn — nếu bạn khao khát điều gì đó, hãy cắt bỏ gốc rễ của người khao khát. Nếu bạn cảm thấy nghiện, hãy loại bỏ gốc rễ của chứng nghiện. Nếu tâm trí bạn đang buồn nãn, hãy trau dồi nó và sử dụng kinh nghiệm để nâng cao thực hành của bạn.

Mang tinh tuý buổi thiền của bạn vào hậu thiền. Nếu bạn cảm thấy liên tục từ bỏ, mệt mỏi và chán nản đối với luân hồi, đây là những dấu hiệu ổn định trong thực hành của bạn, cũng như lòng sùng mộ sâu sắc [đối với đạo sư và những chỉ dẫn của ngài], lòng từ bi, sự ổn định trong giai đoạn sáng tạo và hoàn thành thực hành và khả năng chết đi không hối hận.

Đây là bài phát biểu của một Kẻ lang thang đức hạnh. Tôi đã viết nó dựa trên kinh điển, những chỉ dẫn truyền miệng của đạo sư tôi, cũng như kinh nghiệm của chính tôi. Cầu mong cho bất kỳ đức tính nào tiếp theo sẽ có ích cho bạn!

***
| Translated by Sean Price, 2016. First published on Lotsawa House, 2019.

Bibliography
Tibetan Edition Used
Gang shar dbang po. "gegs sel sems ngo skyong lugs kyi mgur" in gsung 'bum/_gang shar dbang po. TBRC W2CZ6597. 1 vols. Kathmandu: Thrangu Tashi Choling, 2008. http://tbrc.org/link?RID=W2CZ6597 Vol. 1: 39–40
Secondary Sources
Khenchen Thrangu, Vivid Awareness: The Mind Instructions of Khenpo Gangshar, with commentary by Khenchen Thrangu Rinpoche. Boston, MA: Shambhala Publications, 2011.

Ẩn Tâm Lộ, 2022


Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2022

CÁC GIỚI KHINH CỦA BỒ TÁT GIỚI TÂY TẠNG

 


Nguyên tác: Secondary Bodhisattva Vows
Tác giả: Alexander Berzin /August 1997
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

 

I- Giới thiệu

Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại, mỗi nhóm, liên hệ đến việc rèn luyện của chúng ta trong sáu ba la mật và với việc làm lợi ích cho người khác của chúng ta.

Sáu ba la mật là:

1.         Thí (dana), rộng rải ban cho.

2.         Giới (shila), đạo đức tự giác.

3.         Nhẫn (kshanti), nhẫn nại bao dungchịu đựng.

4.         Tấn (virya), kiên trì vui vẻ, nhiệt tình tích cực.

5.         Thiền (dhyana), tĩnh lự

6.         Tuệ (prajna), tỉnh giác phân biệt

Mặc dù những hành vi lỗi lầm đối nghịch và ngăn trở tiến tình của chúng ta đối với Giác Ngộ, vi phạm chúng, ngay cả với bốn nhân tố ràng buộc (kun-dkris bzhi) hoàn toàn, cũng không cấu thành việc đánh mất giới nguyện Bồ tát. Tuy nhiên, càng ít vi phạm những nhân tố này thì càng ít tổn hại vấn đề chúng ta tiến hành việc phát triển tâm linh trên con đường Bồ tát. Nếu chúng ta tình cờ vi phạm bất cứ những hành vi lỗi  lầm này, thì chúng ta biết sai sót của chúng ta và áp dụng những năng lực đối trị, như trong trường hợp của các giới trọng của Bồ tát giới.

[Xem chi tiết bốn nhân tố ràng buộc và những năng lực đối trị trong: Căn Bản Giới Bồ tát của Phật Giáo Tây Tạng]

Có nhiều chi tiết để học hỏi về 46 giới này, với nhiều ngoại lệ khi không có lỗi trong việc vi phạm chúng. Tuy nhiên, tổng quát mà  nói, vấn đề tổn hại đến việc phát triển những thái độ ba la mật và đến việc làm lợi ích mà chúng ta có thể ban cho người khác lệ thuộc vào động cơ tiềm tàng trong những hành vi lỗi lầm của chúng ta. Nếu động cơ ấy là một thể trạng phiền não của tâm thức, chẳng hạn như dính mắc, sân hận, thù oán hay kiêu căng, thì sự tổn hại lớn hơn nếu nó là một thể trạng không phiền não mặc dù là thứ bất lợi, chẳng hạn như dửng dưng, lười biếng, hay quên lãng. Với dửng dưng, chúng ta thiếu niềm tin hay tôn trọng tương xứng trong việc tu tập là bị làm phiền việc dấn thân trong ấy. Với lười biếng, chúng ta quên lãng việc thực hành của chúng ta bởi vì chúng ta thấy thích thú và dễ dàng hơn với việc không làm gì. Khi chúng ta thiếu chánh niệm, thì chúng ta hoàn toàn quên mất về chí nguyện giúp đở người khác. Nhiều giới trong 46 giới ấy, chúng ta không có lỗi nếu chúng ta có xu hướng cuối cùng loại trừ chúng khỏi thái độ của chúng ta, nhưng những cảm xúc và thái độ phiền não vẫn rất mạnh mẽ đối với việc thực tập đầy đủ sự kiểm soát.

 Sự trình bày này là những gì của đại sư Tông Khách Ba nói trong Diễn Giải về Đạo Đức của chư Bồ tát: Con Đường Chính đến Giác Ngộ (Byang-chub sems-dpa'i tshul-khrims-kyi rnam-bshad byang-chub gzhung-lam)

II- Bảy Hành Vi Lỗi Lầm Bất Lợi Cho Việc Tu Tập Thí Ba La Mật

Thí ba la mật (sbyin-pa, Skt. dana) được định nghĩa như thái độ của việc sẳn sàng ban cho. Nó bao gồm việc sẳn sàng ban cho vật chất (tài thí), bảo hộ khỏi những hoàn cảnh sợ hãi (vô úy thí) và giáo huấn (pháp thí).

Trong bảy hành vi lỗi lầm này ảnh hưởng đến việc phát triển bố thí, hai tổn hại việc sẳn sàng ban cho người khác vật chất, hai tổn hại chí nguyện ban cho người khác sự bảo hộ khỏi những hoàn cảnh sợ hãi, hai liên hệ đến việc không cung cấp những hoàn cảnh để người khác trau dồi và thực tập bố thí, và một làm tổn hại việc phát triển rộng lượng việc ban phát giáo huấn.

a- Hai hành vi lỗi lầm bất lợi đến việc phát triển sự sẳn lòng ban cho người khác vật chất (tài thí).

1- Không cúng dường Tam Bảo qua ba cánh cổng thân thể, lời nói và tâm ý của chúng ta. (Giới khinh thứ 1)

Vì buồn giận, bị quấy rầy về điều gì đó, hay vì lười biếng, dửng dưng, hay đơn giản là quên lãng, không cúng dường đến Phật, Pháp, Tăng ba lẫn mỗi ngày và ba lần mỗi đêm, tối thiểu lễ lạy với thân thể chúng ta, ca ngợi với lời nói chúng ta, và ôn lại những phẩm chất tốt đẹp của các Ngài với tâm thức và trái tim của chúng ta. Nếu chúng ta không thể tối thiểu ân cần đủ để cúng dường những thứ này một cách vui mừng mỗi ngày và mỗi đêm đến Tam Bảo, thì làm chúng ta có thể kiên định đúng đắn sự nhiệt tình của chúng ta để bố thí mọi thứ cho mọi  người?

2- Hành động vì tâm khao khát của chúng ta (Giới khinh thứ 2)

Do bởi lòng tham dục, dính mắc lớn, hay thiếu toại nguyện, nuông chiều bất cứ loại nào trong năm đối tượng tham dục cảm giác - hình sắc, âm thinh, mùi hương, vị nếm, hay xúc giác. Thí dụ, do bởi dính mắc vào những vi ngon, chúng ta cắn từng chút vào cái bánh trong tủ lạnh ngay cả khi chúng ta không đói. Điều này bất lợi cho việc chống lại sự tham lam của chúng ta. Chúng ta rồi sẽ thấy chính chúng ta tích trử cái bánh, và ngay cả dấu nó phía sau chiếc kệ, để chúng ta không phải chia sẻ nó với bất cứ người nào khác. Nếu chúng ta hoàn toàn muốn vượt thắng thói xấu này nhưng chưa thể khống chế nó bởi vì sự dính mắc của chúng ta với thực phẩm quá mạnh, thì chúng ta không có lỗi khi ăn một miếng bánh. Tuy thế, chúng ta cố gắng để làm tăng sự tự kiểm soát của chúng ta bằng việc lấy một miếng bánh nhỏ và không quá thường.

b- Hai hành vi lỗi lầm bất lợi cho việc phát triển sự nhiệt tình bố thí sự bảo hộ cho người khác khỏi những hoàn cảnh sợ hãi

3- Không biểu lộ sự tôn trọng đến những người lớn tuổi (Giới khinh thứ 3)

Những đối tượng của hành vi này kể cả cha mẹ, giáo viên, những ai với các phẩm chất tuyệt hảo và trong tổng quát, bất cứ người nào thâm niên hay đơn giản là lớn tuổi hơn chính chúng ta. Khi chúng ta không nhường chỗ ngồi trên xe buýt, gặp họ ở phi trường, không giúp mang hành lý của họ, do bởi sự tự kiêu, sân hận, thù oán, lười biếng, dửng dưng hay quên lãng, chúng ta để mặc họ với một hoàn cảnh sợ hãi và lo lắng khó khăn để đối phó.

4- Không trả lời khi người hỏi chúng ta (Giới khinh thứ 4)

Do bởi sự kiêu ngạo, sân hận, thù oán, lười biếng, dửng dưng, hay quên lãng, không trả lời một cách vui vẻ với những câu hỏi chân thành của người khác. Bằng việc tảng lờ họ, chúng ta để họ trong tình trạng lúng túng mà không ai để ý tới - và cũng ở trong một tư thế sợ hãi và không an toàn.

Như một sự soi sáng chi tiết thấy trong luận giải của Tông Khách Ba về những giới nguyện này, chúng ta hãy nhìn vào những ngoại lệ khi không có lỗi trong việc giữ im lặng hay hoãn lại sự đáp ứng của chúng ta. Trong dạng thức của chính chúng ta như căn bản cho hành vi này, chúng ta không cần trả lời nếu chúng ta quá bệnh hay người hỏi đã cố ý đánh thức ta vào nửa đêm. Ngoại trừ trường hợp khẩn cấp, thì không lỗi lầm gì trong việc nói với người chờ đợi cho đến khi chúng ta khỏe hơn hay đến sáng.

Có những ngoại lệ tùy theo trường hộp, thí dụ, khi người nào đó cắt lời chúng ta với một câu hỏi trong khi chúng ta đang giảng dạy người khác, đang thuyết giảng, tiến hành một  nghi lễ, nói lời an ủi người nào đó, đang nghe bài, hay lắng nghe trong một khóa tu nào đó. Chúng ta nói với họ một cách lịch sự để hoãn câu hỏi của họ sau đó.

Những hoàn cảnh nào đó, nhất thiết, đòi hỏi im lặng hãy hoãn lại câu trả lời. Thí dụ, nếu chúng ta trả lời trong chiều sâu của một câu hỏi về các địa ngục trong một buổi thuyết giảng công cộng ở phương Tây về Phật Giáo, thì chúng ta có thể làm mọi người khựng lại, tạo ra một trở ngại trong việc liên hệ của họ với giáo Pháp. Việc im lặng thích hợp hơn, thí dụ thế, nếu trong việc trả lời câu hỏi của người nào đó là việc chất vấn định kiến về hoàn cảnh chủng tộc,… của chúng ta, thì chúng ta có thể làm cho người đó không thích chúng ta và do thế không tiếp thu sự giúp đở của chúng ta. Im lặng cũng tốt hơn nếu nó sẽ làm người khác dừng lại việc hành động một cách tàn phá và hướng họ đến một thái độ xây dựng hơn - thí dụ, khi người ta lệ thuộc một cách tâm lý vào chúng ta và đòi hỏi chúng ta trả lời mọi câu hỏi trong đời sống của họ và chúng ta mong muốn dạy họ thực hiện những quyết định và nghĩ ra mọi thứ cho chính họ.

Xa hơn nữa, nếu chúng ta đang ở trong một khóa tu thiền với một quy tắc im lặng và nếu ai đó hỏi chúng ta một câu hỏi, thì không cần phải nói. Cuối cùng, tốt nhất là kết luận bằng phần hỏi và trả lời vào lúc cuối buổi thuyết giảng vì tiếp tục khi thính chúng đã mệt mõi và quá trể, thì chúng ta có thể tạo ra sự bực bội và tức giận.

c- Hai hành vi lỗi lầm của việc không cung ứng những hoàn cảnh cho người khác trau dồi và thực hành bố thí

5- Không chấp nhận khi được mời như một vị khách (Giới khinh thứ 5)

Nếu chúng ta từ chối một cuộc viếng thăm hay một bửa ăn do vì ngã mạn, sân hận, thù oán, lười biếng, hay dửng dưng, chúng ta lấy mất đi cơ hội cho người khác xây đắp năng lực tích cực phước đức (punya), từ việc mến mộ hiến tặng. Ngoại trừ có những lý do chính đáng để từ chối, thì chúng ta chấp nhận bất chấp việc ngôi nhà có thể khiêm tốn như thế nào.

6- Không nhận những tặng phẩm vật chất (Giới khinh thứ 6)

Cùng lý do như trường hợp thứ 5.

d- Một hành vi lỗi lầm bất lợi cho việc phát triển bố thí giáo huấn

7- Không ban bố giáo Pháp cho những người mong muốn học hỏi (Giới khinh thứ 7)

Ở đây động cơ cho  việc từ chối giảng dạy Phật giáo, cho mượn sách Phật giáo, chia sẻ tập vở của chúng ta và v.v…, là sân hận, thù oán, ganh tỵ rằng người khác cuối cùng sẽ vượt xa chúng ta, lười biếng, hay dửng dưng. Trong trường hợp của Bồ tát giới trọng thứ hai, chúng ta từ chối do bởi dính mắc và bỏn xẻn.

III- Chín Hành Vi Lỗi Lầm Bất Lợi Cho Việc Tu Tập Giới Ba La Mật

Nguyên tắc đạo đức tự giác, trì giới (sila) là thái độ kiềm chế khỏi những hành vi tiêu cực. Nó cũng bao gồm nguyên tắc để dấn thân trong những hành vi tích cực và giúp đở người khác.

Trong chín hành vi lỗi lầm ngăn trở sự phát triển nguyên tắc đạo đức tự giác, bốn liên hệ đến những hoàn cảnh mà trong ấy sự quan tâm chính của chúng ta là người khác, ba liên hệ hoàn cảnh của chính chúng ta, và hai liên hệ cả tự chúng ta và người khác.

a- Bốn hành vi lỗi lầm liên hệ đến những hoàn cảnh mà trong ấy sự quan tâm chính của chúng ta là người khác

1- Tảng lờ những người với đạo đức đổ vở (Giới khinh thứ 8)

Nếu, do bởi sân hận, thù oán, lười biếng, dửng dưng hay quên lãng, chúng ta phớt lờ, thờ ơ, hay xem thường những ai đã vi phạm giới nguyện của họ hay ngay cả phạm phải những tội ác ghê tởm, thì chúng ta đã làm yếu đi nguyên tắc giới đức của chúng ta để dấn thân trong những hành vi tích cực và để giúp đở người khác. Những người như vậy đặc biệt cần sự quan tâm và chú ý của chúng ta vì họ đã xây đắp những nguyên nhân cho khổ đau và bất hạnh trong hiện tại và tương lai. Không có sự tự mãn hay phẩn nộ về đạo đức, chúng ta cố gắng giúp đở họ, thí dụ bằng việc giảng dạy việc hành thiền cho những tù nhân quan đến trong những trại giam.

2- Không bảo vệ sự tu tập đạo đức vì mục tiêu đối với những người khác tín ngưỡng (Giới khinh thứ 9)

Đức Phật đã cấm nhiều hành vi mà mặc dù không tàn phá một cách tự nhiên, nhưng bất lợi cho tiến trình tâm linh của chúng ta - thí dụ, những cư sĩ và tu sĩ uống rượu, và tu sĩ chung phòng với một thành viên khác phái. Việc kềm chế khỏi thái độ như vậy là việc tu tập thông thường của cả những hành giả Thanh Văn Thừa và Bồ tát đạo, chúng ta phớt lờ những cấm đoán này do bởi thiếu sự tôn trọng hay tin tưởng trong những giáo huấn đạo đức của Đức Phật, hay do bởi lười biếng để thực tập sự tự kiểm soát, chúng ta làm người khác thấy thái độ của chúng ta và đánh mất niềm tin và sự ngưỡng mộ đối Phật tử và Phật Giáo. Do thế, với việc quan tâm cho cảm giác về phẩm hạnh của chúng ta làm đối với người khác, chúng ta kiềm chế, thí dụ, với việc dùng những thứ thuốc men tiêu khiển.

3- Biểu hiện nhỏ nhen khi quan tâm đến lợi ích của những người khác (Giới khinh thứ 10)

Đức Phật lập ra nhiều quy tắc thứ yếu cho những tu sĩ để rèn luyện thái độ của họ, thí dụ, luôn luôn có ba y nơi chúng ta ngủ. Tuy nhiên, đôi khi nhu cầu của người khác gạt qua một bên sự cần thiết tuân theo việc tu tập thứ yếu này, thí dụ, nếu người nào đấy ngã bệnh và chúng ta cần chăm sóc cả đêm cho người ấy. Nếu do bởi sân hận hay kiêu ngạo đối với người ấy, hay đơn giản là lười biếng để ở cả đêm, chúng ta từ chối rằng vì không có ba y với chúng ta, thì chúng ta vi phạm với hành động lỗi lầm này. Thể hiện như một kẻ giáo điều với những giới luật làm cản trở sự phát triển cân bằng đạo đức tự giác của chúng ta.

4- Không vi phạm một hành vi tiêu cực khi từ ái và bi mẫn kêu gọi cho việc ấy (Giới khinh thứ 11)

Thảng hoặc, những hoàn cảnh cực đoan nào đó sinh khởi mà trong ấy lợi ích của người khác bị nguy hại nghiêm trọng và không có một các nào khác có thể ngăn chặn thảm họa hơn là việc vi phạm một trong bảy hành vi tàn phá của thân thể hay lời nói. Có 7 thứ loại này là lấy một mạng sống, lấy thứ không được cho, nuông chiều trong một thái độ tình dục không thích đáng, nói dối, nói lời chia rẻ, sử dụng ngôn ngữ độc ác, hay bàn tán một cách vô nghĩa. Nếu chúng ta thực hiện một hành vi như vậy mà không với bất cứ cảm xúc phiền não nào vào lúc ấy, chẳng hạn như sân hận, tham dục, hay ngu ngơ về nhân và quả, mà được động viên chỉ bởi nguyện ước để ngăn ngừa sự khổ đau của người khác - hoàn toàn tự nguyện chấp nhận cho chính chúng ta bất cứ hậu quả tiêu cực nào có thể xảy đến, thậm chí đau đớn như địa ngục - thì chúng ta không làm tổn hại đến nguyên tắc đạo đức tự giác hoàn thiện  hay giới ba la mật. Trong thực tế, chúng ta xây đắp vô lượng phước đức (năng lực tích cực) mà nó sẽ đẩy nhanh tiến độ trên con đường tâm linh của chúng ta.

Việc từ chối làm những hành vi tàn phá này khi nhu cầu cần thiết là phạm lỗi lầm, tuy nhiên, chỉ nếu chúng ta đã tiếp nhận và giữ gìn những giới Bồ tát một cách thuần khiết. Sự thận trọng của chúng ta để hoán đổi hạnh phúc của chúng ta vì lợi ích của người khác luôn luôn làm chướng ngại sự hoàn thiện đạo đức tự giác hay giới ba la mật của chúng ta để giúp đở người khác. Sẽ không có lỗi lầm gì nếu chúng ta chỉ có một lòng bi mẫn hời hợt và không giữ giới Bồ tát hay tu tập trong hạnh kiểm được vạch ra bởi các giới ấy. Chúng ta nhận ra rằng vì lòng bi mẫn của chúng ta là yếu kém và không vững vàng, kết quả khổ đau chúng ta có thể trải nghiệm từ những hành vi bất thiện ấy có thể dễ dàng làm cho chúng ta miễn cưỡng với hạnh kiểm của Bồ tát. Chúng ta có thể ngay cả từ bỏ con đường hành động để giúp đở kẻ khác. Giống huấn thị rằng Bồ tát trong những giai tầng thấp nếu họ thử tiến hành những sự tu tập của các vị Bồ tát ở những giai tầng cao hơn thì chỉ có thể làm tổn hại chính họ và những năng lực của họ để giúp đở người khác - chẳng hạn như cho cọp ăn thịt của họ - thật tốt hơn là chúng ta nên hãy thận trọng và nén lại.

Vì có thể có lầm lẫn về những hoàn cảnh nào kêu gọi một hành động của Bồ tát như vậy, cho nên chúng ta hãy nhìn vào những thí dụ được trích từ những luận giải. Xin hãy nhớ trong tâm rằng đây là hành vi cuối cùng được dùng đến khi tất cả những phương tiện khác không thể sử dụng hữu hiệu để làm nhẹ bớt hay để ngăn ngừa sự khổ đau của người khác. Như một vị Bồ tát mầm non triển vọng, chúng ta sẳn sàng lấy đi mạng sống của một người nào đó sắp thực hiện một sự giết hại nhiều người. Chúng ta không do dự trong việc tịch thu sung công thuốc men dành cho nổ lực cứu trợ một đất nước chiến tranh mà người nào đó đã lấy để đi bán chợ đen, hay tịch thu một quỹ từ thiện mà người quản lý nào đó đang biển thủ hay sử dụng lãng phí.  Chúng ta sẳn sàng, nếu là đàn ông, có chuyện ấy với vợ người khác - hay với một người nữ chưa có gia đình mà cha mẹ người ấy cấm cản, hay với bất cứ một người phối ngẫu không thích đáng nào khác - khi người kia có mong ước mạnh mẽ trong việc phát tâm giác ngộ nhưng bị tràn ngập với tham muốn tình dục với chúng ta và người ấy nếu chết vì không có chuyện tình dục với chúng ta, sẽ mang mối ác cảm như một bản năng vào những kiếp sống tương lai. Như một kết quả, người ấy sẽ cực kỳ thù địch đối với chư vị Bồ tát và con đường Bồ tát.

Chư Bồ tát chí nguyện tham dự trong những hành vi tình dục không thích đáng khi tất cả những thứ khác thất bại trong việc cứu giúp người nào đó khỏi phát triển một thái độ tiêu cực quá độ đối với con đường tâm linh vị tha sinh khởi một quan điểm quan trọng cho những cặp đôi vợ chồng trên con đường Bồ tát quan tâm. Đôi khi một cặp đôi trở thành liên hệ trong Phật Pháp và một trong người trong họ, mong ước độc thân, chấm dứt mối quan hệ tình dục với người phối ngẫu của họ khi người ấy không cùng tư tưởng. Người kia vẫn còn dính mắc với tình dục và xem quyết định của người kia như sự từ chối cá nhân. Đôi khi sự cuồng nhiệt với Phật Pháp của người kia và thiếu sự nhạy cảm làm cho người phối ngẫu đổ thừa sự thất vọng của người ấy và không vui với Phật Pháp.  Người ấy lìa bỏ hôn nhân và quay lưng lại với Phật Pháp với sự phẩn nộ cay đắng. Nếu không có cách nào để tránh phản ứng thù địch của người kia đối với con đường tâm linh và người phối ngẫu hâm mộ Phật Pháp đang giữ giới Bồ tát, người ấy sẽ làm tốt trong việc đánh giá lòng bi mẫn của người ấy để quyết định có đủ mạnh để cho phép người ấy có chuyện tình dục thỉnh thoảng với người phối ngẫu mà không làm tổn hại nghiêm trọng đối với năng lực giúp đở người khác của người phối ngẫu hâm mộ Phật Pháp. Điều này rất liên hệ trong dạng thức của những thệ nguyện mật tông quan tâm đến thái độ trong sáng.

Như những vị Bồ tát mầm non triển vọng, chúng ta sẳn sàng lừa dối khi nó có thể cứu được mạng sống của người khác hay ngăn ngừa người khỏi bị tra tấn và bị làm thương tật. Chúng ta không do dự để nói chia rẻ để tách biệt con cái chúng ta khỏi đám đông bè bạn hư hỏng - hay các đệ tử khỏi những vị thầy hướng dẫn sai lạc - những người đang sử dụng những ảnh hưởng tiêu cực đối với chúng và thúc đẩy những thái độ và hành vi tổn hại. Chúng ta không kềm chế trong việc sử dụng những ngôn ngữ thô lỗ để đưa con cái chúng ta khỏi những cung cách tiêu cực, như không làm bài tập ở nhà, khi chúng không lắng nghe lý do. Và khi những người khác, hấp dẫn trong Phật Giáo, hoàn toàn say mê trong tán gẫu, uống rượu, tiệc tùng, ca hát, nhảy múa, hay kể lễ đùa bợt với những câu chuyện bạo lực, thì chúng ta sẳn sàng tham dự vì nếu từ chối sẽ làm những người này cảm thấy rằng chư Bồ tát, và các Phật tử nói chung, không bao giờ vui đùa và rằng con đường tâm linh là không phải dành cho họ.

b- Ba hành vi lỗi lầm liên hệ đến hoàn cảnh của chính chúng ta

(5) Sinh sống qua cách sống sai lầm- tà mạng (Giới khinh thứ 12)

Lối sống như vậy là những phương tiện không trung thực, một cách chính yếu là 5 loại quan trọng: (a) giả vờ hay đạo đức giả, (b) tâng bốc hay dùng lời ngọt ngào để đánh lừa kẻ khác, (c) dọa dẫm, tống tiền, hay đùa cợt trên tội lỗi của người ta, (d) đòi hỏi hối lộ hay tiền phạt chính xác cho những lỗi lầm tưởng tượng, và (e) đưa hối lộ để đạt được điều gì đó nhiều hơn. Chúng ta dùng đến những phương tiện như vậy do bởi hoàn toàn thiếu vắng một cảm nhận tự trọng đạo đức hay dè dặt.

(6) Trở nên hào hứng và đi đến một hành động phù phiếm nào đó (Giới khinh thứ 13)

Do bởi việc không toại nguyện, rỗi rảnh, chán chường, hay hiếu động thái quá, và thèm muốn một sự phấn khích nào đó, rồi chạy đến một trò chơi tiêu khiển vô bổ nào đó - như đi quẩn quanh trong một trung tâm mua bán, bật hết đài tivi này qua đài tivi khác, chơi trò chơi điện tử và v.v… Chúng ta mê mẫn hoàn toàn và không thể kiểm soát. Nếu chúng ta dấn thân trong những hành vi như vậy với những người khác nhằm để dằn cơn giận dữ của họ hay làm giải tỏa cơn chán chường của họ, để giúp họ nếu họ bị ghiền với những thứ như vậy, để có lòng tin với họ nếu chúng ta nghĩ rằng họ thù địch với chúng ta, hay để củng cố mối thân hữu vốn có, thì chúng ta không làm tổn  hại việc tu tập kỷ luật tự giác của chúng ta để hoạt động một cách tích cực và để giúp đở người khác. Tuy nhiên, nếu chúng ta chạy đến những hành vi như vậy và cảm thấy không có điều gì khá hơn để làm, thì chúng ta đang tự lừa dối mình. Luôn luôn có những điều gì đó khá hơn để làm. Tuy nhiên, đôi khi chúng ta cần khoảng thời gian giúp để làm mới lòng nhiệt tình và năng lượng của chúng ta khi chúng ta trở nên mệt mõi hay chán nản. Không có lỗi lầm gì trong ấy, chừng nào chúng ta có thiết lập những giới hạn hợp lý.

(7) Chỉ nhắm đến việc lang thang trong cõi luân hồi (Giới khinh thứ 14)

Nhiều kinh điển giải thích rằng các vị Bồ tát mong muốn ở lại trong cõi luân hồi hơn là đạt đến giải thoát cho chính họ. Thật là một lỗi lầm để hiểu điều này theo ngôn ngữ có nghĩa là không hành động để vượt thắng những cảm xúc và thái độ phiền não và đạt đến giải thoát, mà chỉ giữ những vọng tưởng và hoạt động với chúng để giúp đở người khác. Điều này khác với giới trọng thứ 10 của Bồ tát giới là việc từ bỏ tâm giác ngộ, mà với nó chúng ta quyết định hoàn toàn chấm dứt việc hành động cho việc giải thoát và Giác Ngộ. Ở đây, chúng ta quả thật xem nó không quan trọng và không cần thiết trong việc giải thoát chính chúng ta khỏi các cảm xúc phiền não, là thứ làm yếu kém một cách nghiêm trọng đạo đức tự giác hay giới ba la mật của chúng ta. Mặc dù trên con đường Bồ tát, một cách đặc biệt là khi tu tập trong Tantra Yoga Tối Thượng (Anuttarayoga Tantra), chúng ta chuyển hóa và sử dụng năng lượng của tham dục để nâng cao tiến trình tâm linh của chúng ta, nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta để sự tham dục tự do thống trị chúng ta và không hành động để thoát khỏi chúng.

c- Hai lỗi lầm liên hệ đến cả chúng ta và người khác

(8) Không từ bỏ thái độ làm chúng ta tai tiếng (Giới khinh thứ 15)

Giả sử chúng ta thích ăn thịt. Nếu chúng ta ở trong những Phật tử ăn chay và chúng ta đòi  ăn thịt bít tết, thì chúng ta mời người ta phê phán và không tôn trọng. Họ sẽ không quan tâm những lời về Phật Pháp của chúng ta một cách nghiêm túc và sẽ lan truyền những câu chuyện về chúng ta, và cũng làm cho người khác không tiếp thu sự giúp đở của chúng ta. Như những Bồ tát triển vọng, nếu chúng ta không tự từ bỏ thái độ như vậy, thì đó là một lỗi lầm lớn.

(9) Không điều chỉnh những ai hành động với những cảm xúc và thái dộ phiền não (Giới khinh thứ 16)

Nếu chúng ta ở trong một vị thế có thẩm quyền trong một văn phòng, trường học, tu viện hay gia đình, do bởi dính mắc đến những thành viên nào đó hay mong muốn như vậy, chúng ta không rầy la hay trừng phạt những ai với thái độ và cảm xúc phiền não là những người đang hành động một cách rối loạn, thì chúng ta làm tổn hại kỷ luật và đạo đức của cả nhóm.

IV- Bốn Hành Vi Lỗi Lầm Bất Lợi Cho Việc Tu Tập Nhẫn Ba La Mật

Nhẫn nại bao dung (Kshanti) là việc tự nguyện để đối phó, mà không sân hận với những ai đang làm tổn hại, với sự gian khó liên hệ trong việc thực hành Phật Pháp, và với sự khổ đau của chính chúng ta.

(1) Từ bỏ bốn rèn luyện tích cực (Giới khinh thứ 17)

Những tu tập này là không trả lại một sự làm hại khi (a) bị gièm pha hay bình phẩm, (b) bị làm mục tiêu cho sự sân hận của kẻ khác, (c) bị đánh đập, (d) bị làm nhục. Vì việc tu tập của chính chúng ta là không trả lại một sự làm hại trong bốn hoàn cảnh cố gắng này hoạt động như một nguyên nhân cho việc nhẫn nhục của chúng ta lớn mạnh,  nếu chúng ta bỏ điều này qua một bên thì chúng ta làm tổn hại việc phát triển đặc điểm tích cực này.

(2) Phớt lờ những ai sân hận với chúng ta (Giới khinh thứ 18)

Nếu người khác bị quấy rầy với chúng ta và ôm ấp mối ác cảm, nếu không làm gì với việc này và không cố gắng để làm khuây khỏa sự sân hận của họ, do bởi kiêu hảnh, thù oán, ganh tỵ, lười biếng, dửng dưng, hay không quan tâm, thì chúng ta làm cản trở sự hoàn thiện nhẫn ba la mật bởi vì chúng ta cho phép sự đối kháng của nhẫn nhục, cụ thể là sân hận, tiếp tục sức mạnh. Để tránh lỗi lầm này, chúng ta xin lỗi cho dù chúng ta có gây mất lòng hay làm bất cứ điều gì sai hay không.

(3) Từ chối sự xin lỗi của người khác (Giới khinh thứ 19)

Giới trọng thứ ba của Bồ tát giới là không lắng nghe sự xin lỗi của người khác khi họ cầu xin sự tha thứ vào thời khắc khi chúng ta sân hận với họ. Ở đây, chúng ta không chấp nhận sự xin lỗi của họ sau duyên sự, khi chúng ta đang ôm ấp một mối ác cảm.

(4) Sống trong sân hận (Giới khinh thứ 20)

Một khi chúng ta sân hận trong bất cứ hoàn cảnh nào, thì chúng ta hành động trái ngược với sự phát triển của nhẫn nại bao dung nếu chúng ta sống với nó, ôm ấp mà không áp dụng những năng lực đối trị để chống lại nó.

V- Ba Hành Vi Lỗi Lầm Bất Lợi Cho Việc Tu Tập Tấn Ba La Mật

Tinh tấn ba la mật hay nhiệt tình tích cực (virya) là tiếp nhận sự vui mừng lớn trong việc làm những gì xây dựng.

(1) Tập hợp một phạm vi những môn nhân do bởi tham muốn sự sùng bái và tôn kính (Giới khinh thứ 21)

Khi chúng ta tập hợp một nhóm những  người bạn, những người thán phục, hay học trò, hay quyết định để kết hôn hay sống với người nào đó, nếu động cơ của chúng ta là nguyện ước cho người khác biểu lộ sự tôn kính chúng ta, cho chúng ta yêu thương và tình cảm, cho chúng ta phẩm vật, phục vụ chúng ta, xoa bóp lưng chúng ta, và làm việc hàng ngay cho chúng ta, thì chúng ta đánh mất nhiệt tình hay làm bất cứ điều gì tích cực , chẳng hạn như giúp đở người khác. Chúng ta hấp dẫn với một kiểu mẫu vận hành thấp kém, cụ thể là nói người khác làm điều gì đó cho chúng ta.

(2) Không làm bất cứ việc gì, vì lười biếng và v.v…(Giới khinh thứ 22)

Nếu chúng ta chìm trong lười biếng, dửng dưng, lãnh đạm, đỏng đảnh và không cảm thấy muốn làm bất cừ điều gì, hay hoàn toàn không thích thú trong bất cứ việc gì, hay say mê ngủ nghĩ dài giờ, nằm trên giường cả ngày, ngủ nghĩ thường xuyên, thơ thẩn quanh quẩn không làm gì cả, thì chúng ta đam mê điều này và đánh mất nhiệt tình giúp đở người khác. Dĩ nhiên, chúng ta nghĩ ngơi khi chúng ta bệnh hay kiệt lực, nhưng thật là một lỗi lầm lớn để làm hư thân chúng ta bằng việc quá ngờ nghệch.

(3) Sắp xếp để thời gian trôi qua với những câu chuyện, vì sự dính mắc (Giới khinh thứ 23)

Chướng ngại thứ ba ngăn trở sự phát triển nhiệt tình giúp đở người khác là lãng phí thời gian trong những kiểu thức vô  nghĩa. Điều này liên hệ đến việc nói, nghe, đọc, xem tivi hay phim ảnh, hay tìm trên Internet những câu chuyện về tình dục, bạo động, nhân vật danh tiếng, âm mưu chính trị, và v.v…

VI- Ba Hành Vi Lỗi Lầm Bất Lợi  Cho Việc Rèn Luyện Trong Thiền Ba La Mật

Thiền định ba la mật, hay tập trung, tĩnh lự (dhyana), là thể trạng của tâm thức không đánh mất sự cân bằng hay tập trung vì những cảm xúc phiền não, tán loạn hay trạo cử.

(1) Không tìm kiếm những phương tiện để đạt đến nhất tâm hay tam muội (Giới khinh thứ 24)

Nếu do bởi kiêu hảnh, thù oán, lười biếng, hay dửng dưng, cho nên chúng ta không tham dự việc giảng dạy vấn đề ổn định tâm thức chúng ta trong tam muội, nhất tâm (samadhi) khi một vị thầy thuyết giảng về chúng, chúng ta làm sao có thể trau dồi hay làm nổi bật sự ổn định tâm thức của chúng ta? Nếu chúng ta bệnh hoạn, nghi ngờ rằng những sự hướng dẫn là không đúng, hay đã đạt được sự tập trung hoàn hảo, thì chúng ta không cần đến.

(2) Không giải thoát chúng ta khỏi những chướng ngại ngăn trở sự ổn định tinh thần (Giới khinh thứ 25)

Khi thực tập thiền để đạt đến tam muội nhất tâm, chúng ta chạm trán nhiều chướng ngại quan trọng. Nếu chúng ta chịu thua và không cố gắng để loại trừ chúng, chúng ta làm tổn  hại việc phát triển sự ổn định tinh thần của chúng ta. Nếu chúng ta đang cố gắng để loại bỏ chúng, nhưng chưa thành công, thì chúng ta không có lỗi lầm gì. Năm chướng ngại là (a) những xu hướng theo đuổi bất cứ thứ nào trong năm loại tham muốn của giác quan - tham dục, (b) những tư tưởng của kiêu mạn, (c) uể oải, buồn ngủ - hôn trầm, (d) gàn bướng và hối hận, và (e) do dự nghi ngờ.

(3) Xem những hương vị an lạc từ việc định tâm như tiến bộ chính của nó (Giới khinh thứ 26)

Thông thường, chúng ta gắn chặc năng lượng chúng ta rất nhiều trong căng thẳng, lo lắng, do dự, những tư tưởng oán giận hay khao khát, và v.v…, hay đè nặng chúng xuống với hôn trầm và mê ngủ. Khi chúng ta tập trung và hòa nhập tâm thức chúng ta càng sâu hơn, thì chúng ta sẽ giải phóng càng nhiều hơn những năng lượng này. Chúng ta trải nghiệm điều này như một cảm giác an lạc của tâm thức và thân thể. Sự an lạc càng mạnh mẽ, nó càng đưa chúng ta vào sự nhất tâm xa hơn. Vì lý do này, trong Tantra Yoga Tối Thượng chúng ta sản sinh và sử dụng thậm chí những thể trạng diệu lạc mạnh mẽ  hơn của tâm thức hơn là những người chỉ đơn thuần có được từ sự tập trung hoàn hảo, nhằm để đạt đến hoạt động tinh thần linh quang vi tế nhất và hòa nhập nó trong sự thấu hiểu về tánh không. Nếu chúng ta bị dính mắc với hương vị an lạc mà chúng ta có được ở bất cứ giai tầng nào của việc phát triển sự ổn định tinh thần, cho dù nó có liên kết với sự thực hành mật tông hay không, và chúng ta xem việc thụ hưởng niềm vui sướng có được từ sự an lạc như mục tiêu chính yếu của sự thực hành, thì chúng ta sẽ gây trở ngại nghiêm trọng cho việc phát triển thiền ba la mật của chúng ta.

VII- Tám Hành Vi Lỗi Lầm Bất Lợi Cho Việc Rèn Luyện Trong Tuệ Ba La Mật

Phân biệt tỉnh giác hay tuệ ba la mật (prajna), là nhân tố tinh thần phân biệt một cách chính xác giữa những gì đúng và không đúng, thích đáng và không thích đáng, lợi ích và tổn hại, và v.v…

(1) Từ bỏ con đường Thanh văn thừa (Giới khinh thứ 27)

Giới trọng thứ sáu của Bồ tát giới là cho rằng những giáo điển của Thanh văn thừa không phải là lời của Phật, trong khi giới thứ 14 là nói rằng những hướng dẫn trong ấy là không hiệu quả cho việc loại trừ dính mắc, chấp trước và v.v… Giới thứ 13 là nói rằng chư Bồ tát giữ gìn những giới điều ba la đề mộc xoa (giải thoát cá nhân) - một phần của giáo huấn Thanh văn thừa - rằng không cần chúng, như những vị Bồ tát, để giữ gìn những giới điều này. Ở đây, hành vi lỗi lầm đơn giản chỉ là nghĩ và nói với người khác rằng chư vị Bồ tát không cần nghe những giáo huấn của Thanh văn thừa - một cách đặc biệt liên quan đến những giới điều của Thanh văn thừa - hay giữ gìn hay tu tập với chúng. Không ai thật sự cần phải từ bỏ những giới điều của họ.  

Trong việc học hỏi và giữ gìn giới luật, chúng ta tăng trưởng năng lực của chúng ta để phân biệt giữa những loại thái độ nào là nên tiếp nhận và từ bỏ. Bằng việc phủ nhận nhu cầu tu tập với những giới luật ba la đề mộc xoa, chúng ta làm yếu kém sự phát triển tỉnh giác phân biệt, tuệ giác. Chúng ta cũng phán xét một cách sai lầm giáo huấn Thanh văn thừa như chỉ cần thiết cho hàng Thanh văn, và vô giá trị với những vị Bồ tát.

(2) Sử dụng nổ lực trong ba la đề mộc xoa trong khi có những phương pháp riêng của chúng ta (Giới khinh thứ 28)

Nếu chúng ta sử dụng toàn bộ những nổ lực của chúng ta trong việc chỉ học hỏi và giữ gì những giới luật giải thoát cá nhân (của Thanh văn thừa), để quên lãng việc học hỏi và tu tập trong những giáo huấn Bồ tát rộng rãi quan tâm đến từ ái và bi mẫn, thì chúng ta cũng làm yếu đi tuệ giác của chúng ta. Khi chúng ta dùng nổ lực trong giáo huấn của Thanh văn thừa thì đồng thời chúng ta cũng phải hoạt động trong những giáo huấn của Bồ tát đạo.

(3) Sử dụng nổ lực trong việc học hỏi những sách vở không phải Phật Giáo khi nó không được hoàn thành (Giới khinh thứ 29)

Theo những luận giải, những sách vở không phải Phật Giáo liên hệ đến những hoạt động về luận lý và văn phạm. Chúng ta có thể bao gồm không nghi ngờ gì về những sách vở học hỏi ngoại ngữ hay bất cứ chủ đề nào chương trình giáo dục hiện đại, chẳng hạn như toán học, khoa học, tâm lý học và triết học. Lỗi lầm ở đây là đặt toàn bộ nổ lực của chúng ta vào việc nghiên cứu những môn này và quên lãng việc học hỏi và thực hành Đại Thừa vì thế cuối cùng quên hết cả. Nếu chúng ta cực kỳ thông minh, có thể học mọi thứ một cách nhanh chóng, có sự thông hiểu vững chải và ổn định về giáo huấn Đại Thừa căn cứ trên luận lý và lý trí, và có thể ghi nhớ những giáo huấn này trong tâm thức một thời gian dài, thì không có lỗi lầm gì trong việc học hỏi những sách vở không Phật Giáo nếu mỗi ngày chúng ta duy trì việc học tập và thực hành Đại Thừa của chúng ta.

Những sinh viên Phật Giáo không phải người Tây Tạng mong ước học Tạng ngữ sẽ làm tốt nếu giữ lời hướng dẫn này trong tâm. Nếu họ có thể học hỏi ngôn ngữ một cách nhanh chóng và dễ dàng, thì họ đã có một nền tảng vững vàng trong Phật Giáo, và có đủ thời giờ để học hỏi cả ngôn ngữ và Phật Pháp, họ sẽ đạt được nhiều lợi lạc từ việc học hỏi Tạng ngữ. Họ có thể sử dụng nó như một khí cụ để làm sâu sắc cho việc học tập. Tuy thế, nếu chúng ta thấy rằng ngôn ngữ là khó khăn, chỉ thời gian và năng lực thuận lợi hạn chế, và chưa có một sự thấu hiểu tốt về Phật Giáo hay một sự tu thiền ổn định mỗi ngày, thì họ sẽ làm tổn hại và trở ngại cho việc phát triển tâm linh của họ qua việc học Tạng ngữ. Thật quan trọng để phán xét những gì ưu tiên.

(4) Ngay cả nếu có thể sử dụng năng lực của chúng, (nhưng) trở thành say mê (Giới khinh thứ 30)

Nếu chúng ta có khả năng để học hỏi những thứ không phải Phật Giáo, chẳng hạn như ngôn ngữ Tây Tạng, với tất cả những quy định ở trên, nếu chúng ta trở thành say mê với chủ đề ấy, thì chúng ta có thể từ bỏ sự thực hành tâm linh và tập trung hoàn toàn vào chủ đề kém quan trọng này. Tinh thông tiếng Tạng hay toán học không thể đưa chúng ta đến sự giải thoát khỏi những cảm xúc và thái độ phiền não, cũng như những rắc rối và khổ đau mà chúng gây ra. Nó không cho chúng ta năng lực để hổ trợ người khác một cách tròn vẹn như có thể. Chỉ việc hoàn thiện tâm giác ngộ và các ba la mật, một cách đặc biệt tuệ giác về tánh không mới có thể đưa chúng ta đến mục tiêu này. Cho nên, để bảo đảm chống lại sự say mê với những chủ đề không Phật Giáo - là những thứ chắc chắn lợi lạc để học hỏi, nhưng không là những thứ chính yếu để chúng ta tập trung - thì chúng ta phải học hỏi chúng một cách đúng mức, giữ một quan điểm thích đáng. Trong cách này, chúng ta phân biệt một cách đúng đắn những gì là thiết yếu và bảo vệ chính chúng ta khỏi việc bị lôi cuốn với những vấn đề kém quan trọng hơn.

(5) Từ bỏ cổ xe Đại Thừa (Giới khinh thứ 31)

Giới trọng thứ sáu của Bồ tát là cho rằng kinh luận Đại Thừa không phải là lời Phật. Ở đây, giới nhẹ này, chúng ta chấp nhận rằng, trong tổng quát, chúng là có giá trị, nhưng chúng ta bình phẩm những khía cạnh nào đấy của chúng, một cách đặc biệt những kinh luận liên hệ đến những việc làm bao la không thể tưởng tượng được của chư Bồ tát và những giáo huấn thậm thâm không thể nghĩ bàn về tánh không. Giới trọng bao gồm những miêu tả về việc chư Phật phân thân trong vô lượng hình tướng đồng thời để cứu độ vô số chúng sanh trong vô biên thế giới, trong khi giới nhẹ này bao gồm những tập hợp kệ tụng ngắn gọn súc tích cực kỳ khó khăn để suy lường. Chúng ta làm thoái hóa tuệ giác của chúng ta bằng việc khước từ chúng trong bất cứ 4 cách này, (a) nội dung của chúng là thấp kém - chúng nói đến những thứ tuyệt đối vô nghĩa, (b) cung cách biểu lộ của chúng là thấp kém - văn cú của chúng là tệ hại và không có ý nghĩa gì, (c) tác giả của chúng là thấp kém - chúng không phải là lời của một Đức Phật Giác Ngộ, (d) sự sử dụng của chúng là thấp kém - chúng không có lợi cho bất cứ người nào. Bằng việc phân tích một cách sai lầm như thế này, trong một thái độ hẹp hòi và nóng vội, chúng ta làm tổn hại năng lực của chúng ta để phân biệt bất cứ thứ gì một cách đúng đắn.

Khi chúng ta đối diện với những giáo huấn hay kinh luận mà chúng ta không hiểu, chúng phải duy trì sự cởi mở. Chúng ta nghĩ rằng mặc dù chúng ta không thể đánh giá đúng hay suy lường chúng bây giờ, chư Phật và chư Bồ tát thân chứng cao độ thấu hiểu lời của chúng và, qua sự thực chứng về ý nghĩa của chúng, các ngài làm lợi ích người khác trong vô lượng cách. Trong cách này, chúng ta phát triển sự quyết tâm vững vàng (mos-pa) để cố gắng thấu hiểu chúng trong tương lai. Không có lỗi lầm gì nếu chúng ta thiếu sự quyết tâm vững vàng này, nhưng cho đến khi mà chúng ta không xem thường và phỉ báng các giáo huấn, thì chúng ta tối thiểu duy trì sự bình thản, nhận biết rằng chúng ta không thể thấu hiểu chúng.

(6) Đề cao chính mình và/ hay xem thường người khác (Giới khinh thứ 32)

 Giới trọng thứ nhất của Bồ tát giới là làm việc này với động cơ tham muốn lợi lạc hay ganh tỵ. Ở đây động cơ là kiêu hảnh, tự hào, ngạo mạn, hay giận dữ. Những động cơ như vậy sinh khởi khi chúng ta tự xem sai lầm như tốt hơn những người khác.

(7) Không đi vì lợi ích của Phật Pháp (Giới khinh thứ 33)

Giới trọng thứ hai của Bồ tát giới là không ban bố giáo Pháp do bởi chấp trước hay bỏn xẻn. Ở đây, lỗi lầm là không đi giảng dạy, hay tiến hành nghi thức Phật Giáo , tham dự các nghi lễ Phật Giáo, hay lắng nghe những bài giảng do bởi kiêu ngạo, giận dữ, thù oán, lười biếng, hay dửng dưng. Với động cơ như vậy, chúng ta không phân biệt một cách đúng đắn những gì có giá trị. Tuy nhiên, sẽ không có lỗi, nếu chúng ta không đi do bởi cảm thấy chúng ta không là một vị thầy hay bị bệnh nặng, hay bởi vì chúng ta nghĩ rằng giáo huấn chúng ta sẽ nghe hay bộ phận nào đó là không đúng, hay chúng ta biết rằng thính chúng nghe chúng đã nghe rồi hay đã biết chúng, hay chúng ta đã tiếp nhận chúng trọn vẹn hay lãnh hội và tinh thông chúng hoàn toàn vì thế chúng ta không cần lắng nghe xa hơn, hay chúng ta đã tập trung và thâm nhập vào giáo huấn cho nên không cần nhắc lại chúng, hay chúng đã tràn ngập đầu óc chúng ta và chúng ta chỉ rối rắm thêm nếu nghe nữa. Xa hơn, nếu những vị thầy của chúng ta sẽ không vui lòng nếu chúng ta đi - chẳng hạn nếu vị ấy bảo chúng ta làm điều gì khác - chúng ta chắc chắn không đi.

(8) Tin vào những ngôn ngữ để chế nhạo một vị thầy (Giới khinh thứ 34)

Chúng ta làm yếu kém các năng lực của chúng ta để phân biệt một cách đúng đắn khi chúng ta phán xét những vị thầy tâm linh bằng ngôn ngữ của các vị ấy. Chúng ta nhạo báng và phủ nhận những ai nói năng với một giọng nặng nề, có nhiều lỗi lầm văn phạm, mặc dù những gì họ giải thích là đúng, và chạy theo những ai nói năng thanh lịch nhưng hoàn toàn vô  nghĩa.

VIII- Mười Hai Hành Vi Lỗi Lầm Mâu Thuẩn Với Việc Làm Lợi Ích Cho Người Khác

(1) Không giúp đở những người đang cần (Giới khinh thứ 35)

Do bởi giận dữ, thù oán, lười biếng, hay dửng dưng, không đi hổ trợ một trong tám loại người đang cần giúp đở: (a) trong việc thực hiện một quyết định về điều gì đó tích cực, thí dụ tại một cuộc hội họp, (b) trong việc du lịch, (c) trong việc học hỏi một ngoại ngữ mà chúng ta biết, (d) trong việc tiến hành một nhiệm vụ nào đó không có lỗi lầm đạo đức, (e) trong việc coi sóc một ngôi nhà, chùa viện, hay tài sản của họ, (f) trong việc chấm dứt một cuộc xung đột hay tranh luận, (g) trong việc kỷ niệm một sự kiện, như một đám cưới, hay (h) trong việc làm việc từ thiên. Tuy nhiên, không chịu đi không làm tổn hại những năng lực của chúng ta để giúp đở người khác nếu chúng ta bệnh hoạn, chúng ta đã hứa hẹn giúp đở nơi khác, cử người nào khác thích hợp với công việc, dấn thân trong một nhiệm vụ tích cực nào khác quan trọng hơn, hay bất lực để giúp đở. Cũng không có lỗi lầm gì nếu nhiệm vụ là tổn hại người khác, mâu thuẩn với Phật Pháp hay vô lý, hay nếu những người yêu cầu sự giúp đở của chúng ta có thể tìm kiếm sự giúp đở nơi khác hay người nào đó đáng tin cậy hơn cho họ.

(2) Phớt lờ việc phục vụ người bệnh (Giới khinh thứ 36)

Do bởi giận dữ, thù oán, lười biếng, hay dửng dưng.

(3) Không làm giảm bớt khổ đau (Giới khinh thứ 37)

Cũng cùng những lý do ấy. Bảy loại người khổ não với những khó khăn đòi hỏi sự chăm sóc đặc biệt: (a) mù, (b) điếc, (c) người tàn tật và què quặt, (d) khách du lịch mõi mệt, (e) những người khổ đau từ bất cứ loại nào trong năm chướng ngại[1] ngăn trở việc ổn định tinh thần, (f) những người với ý xấu và thành kiến mạnh mẽ, và (g) những người vừa mới bị mất đi địa vị cao.

(4) Không giảng dạy 'người bất chấp' phù hợp với đặc tính của họ (Giới khinh thứ 38)

Những người bất chấp liên hệ đến những kẻ không quan tâm đến tiến trình nhân quả và, do vậy, thái độ của họ sẽ đem đến khổ đau và rắc rối cho họ trong kiếp này và những kiếp sống tương lai. Chúng ta không thể giúp đở những người như vậy nếu chúng ta bất bình và không tán thành tự cho là đúng. Để đến gần họ, chúng ta cần thiện xảo và điều chỉnh sự tiếp cận của chúng ta thích hợp với những hoàn cảnh đặc thù của họ. Thí dụ, nếu láng giềng của chúng ta là một ham mê săn bắn, chúng ta sẽ không diễn giảng ồn ào rằng người ấy sẽ bị thiêu đốt nơi địa ngục. Người ấy chắc chắn sẽ không bao giờ gần chúng ta một lần nữa. Đúng hơn chúng ta hãy đối xử tốt với người láng giềng bằng việc nói với người ấy loại phục vụ tốt lành mà người ấy làm là cung cấp thịt cho gia đình và thân hữu của người ấy. Một khi người ấy cởi mở với sự khuyến tấn của chúng ta, thì chúng ta từ từ đề nghị những cách tốt đẹp hơn để thư giản và làm người khác vui vẻ mà không lấy đi mạng sống của những chúng sanh khác.

(5) Không đền đáp sự giúp đở đã nhận (Giới khinh thứ 39)

Không muốn giúp đở người khác nhằm để đền trả sự giúp đở mà người khác đã cho chúng ta, hay không nhớ hay ngay cả nghĩ đến việc báo đáp. Tuy nhiên, không có lỗi lầm gì nếu trong khi chúng ta cố gắng để làm việc đền đáp, chẳng hạn như khi họ sửa chửa xe cộ của họ, chúng ta không có kiến thức và khả năng, hay quá yếu. Hơn thế nữa, nếu những  người giúp đở chúng ta không mong ước được đền trả gì cả, thì chúng ta không ép họ chấp nhận sự đề nghị của chúng ta.

(6) Không làm nhẹ nổi khổ não tinh thần của người khác (Giới khinh thứ 40)

Do bởi thù oán, lười biếng, hay dửng dưng, nếu chúng ta không cố gắng để an ủi những ai mất  người thân, tiền bạc, tài sản, thì chúng ta có lỗi. Những ai đau khổ hay thất vọng đòi hỏi tình cảm, sự tử tế, hay sự thấu hiểu chân thành của chúng ta nhưng chắc chắn không phải lòng thương hại.

(7) Không ban cho những ai cần thiết sự từ thiện (Giới khinh thứ 41)

Do bởi giận dữ, thù oán, lười biếng, hay dửng dưng. Nếu chúng ta bỏn xẻn, thì đó là một giới trọng.

(8) Không chăm sóc những nhu cầu trong chu vi của chúng ta (Giới khinh thứ 42)

Sẽ là một lỗi lầm lớn nếu phớt lờ, do bởi thù oán, lười biếng, hay dửng dưng, trong chu vi của những người thân, bạn bè, đồng nghiệp, người làm công, đệ tử, và v.v…, đặc biệt khi dấn thân trong việc xã hội để giúp đở người khác. Chúng ta cần cung cấp nhu cầu vật chất của họ và chăm sóc lợi lạc tâm linh của họ. Làm thế nào chúng ta có thể giả bộ hổ trợ tất cả chúng sanh nếu chúng ta lãng quên nhu cầu của những người gần gũi nhất đối với chúng ta?

(9) Không đồng hành cùng với những sở thích của người khác (Giới khinh thứ 43)

Vậy thì cho đến khi nào những gì người khác mong ước chúng ta làm hay những gì họ thích không làm tổn hại họ hay người khác, nó là một lỗi lầm không đồng ý. Mọi người làm những thứ khác biệt nhau hay có những sở thích cá nhân riêng. Nếu chúng ta không tôn trọng điều này, do bởi thù oán, lười  biếng, hay dửng dưng, thì chúng ta bắt đầu những tranh luận nhỏ nhen về những thứ như ăn chỗ nào, hay không nhạy cảm với những sở thích của họ và sinh ra khó chịu hay giận hờn khi gọi thức ăn.

(10) Không nói năng trong việc ca ngợi tài năng hay những phẩm chất tốt đẹp của người khác (Giới khinh thứ 44)

Nếu chúng ta không ca  ngợi người khác khi họ đã làm điều gì đó tốt lành hay đồng ý với sự hoan nghênh của người nào đó về họ, do bởi giận hờn, thù oán, dửng dưng, hay lười biếng, thì chúng ta làm yếu kém sự thích thú và nhiệt tình của chúng ta cho chúng tiếp tục lớn mạnh. Nếu người khác thẹn thùng khi được ca ngợi, cho dù lúc riêng tư hay công cộng, hay sẽ trở thành kiêu hảnh hay tự phụ nếu ca ngợi trước mặt họ, thì chúng ta kềm giữ lời lẽ của chúng ta  lại.

(11) Không thi hành trừng phạt phù hợp với những hoàn cảnh (Giới khinh thứ 45)

Để giúp người khác, thật quan trọng để nguyên tắc với họ nếu họ hành động trong thái độ vô kỷ luật. Nếu không làm như thế, do bởi những vấn nạn cảm xúc, hay lười biếng, dửng dưng, hay không quan tâm thì chúng ta làm tổn hại năng lực của chúng ta để hướng dẫn hiệu quả.

(12) Không sử dụng những thứ như vậy như những quyền năng vật lý phụ trội hay năng lực để đánh ngã sự quyến rũ (Giới khinh thứ 46)

Trong những hoàn cảnh nào đó cần những phương pháp để  giúp đở người khác, chẳng hạn như việc sử dụng những quyền năng vật lý phụ trội (rdzu-'phrul). Nếu chúng ta sở hữu những phương tiện này, nhưng không sử dụng chúng khi chúng có thể là thích đáng và hiệu quả, thì chúng ta làm tổn hại năng lực để giúp đở người khác của chúng ta. Chúng ta cố gắng để sử dụng bất cứ tài năng nào, năng lực nào, và thành tựu nào mà chúng ta có để làm lợi ích cho người khác.

***

Ẩn Tâm Lộ, Wednesday, July 01, 2015

Bài liên hệ

Tu tập từ việc phát tâm giác ngộ nguyện vọng

Căn Bản Giới Bồ Tát Của Phật Giáo Tây Tạng

http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/