Nguyên
tác: The Dalai Lama as a Political Strategist
Tác giả: Senthil Ram
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển nhuận văn
***
“Chàng trai trẻ thông minh hơn nhiều và nắm rõ thông tin về các vấn đề thế giới
hơn các cố vấn của anh ta. . . [và là người] ý thức sâu sắc về nhu cầu cải cách
xã hội và các cải cách khác ở Tây Tạng,” Loy Henderson, đại sứ Hoa Kỳ tại Ấn Độ
năm 1951, nhận xét về Đức Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi. Từ Lhasa đến
Dharamsala, trong suốt thời kỳ khó khăn sau khi Tàu Cộng chiếm đóng Tây Tạng
vào năm 1950, quan điểm chính trị của Đạt Lai Lạt Ma phản ánh quan niệm của Phật
giáo về sự hiểu biết thực tại, hay nói cách khác là chủ nghĩa thực dụng.
Trong bài tiểu luận này, tôi phân tích triết lý chính trị của Đức Đạt Lai Lạt
Ma, người được hàng triệu người Tây Tạng tôn kính. Trong khi vẫn
đang ở đỉnh cao quyền lực của mình với tư cách là nhà lãnh đạo chính trị và thế
tục của Tây Tạng, việc bổ nhiệm Kalon Tripa - tương đương với thủ tướng Tây Tạng
- về mặt lý thuyết, ít nhất đã đặt ông vào ghế sau của phương tiện dân chủ của
Chính phủ Tây Tạng lưu vong đó là hướng
tới một Tây Tạng tự do về chính trị. Do đó, tại thời điểm này, việc nắm bắt
những đóng góp chính trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma là rất quan trọng để hiểu được
bản chất của chính thể Tây Tạng ngoài việc hình dung ra hướng đi trong tương
lai của nó. Do
có vấn đề trong việc tách biệt tôn giáo và chính trị, bài luận này tiến hành với
mục tiêu khiêm tốn là nêu bật vai trò chính trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma mà không
làm suy yếu ảnh hưởng của Phật giáo Tây Tạng.
Bối Cảnh Của Vấn Đề Tây Tạng
Thế kỷ 20 là một bước ngoặt trong cuộc xung đột Tây Tạng, được biết đến rộng
rãi với cái tên 'vấn đề Tây Tạng', bắt nguồn từ chiều sâu khó dò của các chi tiết
lịch sử hàng thế kỷ như được tuyên bố và xây dựng bởi cả hai bên chính: Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa (gọi tắt là CHND Trung Hoa) và Chính phủ lưu vong Tây Tạng (gọi tắt
là TGE). Cuộc xâm lược và chinh phục Tây Tạng của người Anh dưới thời
Younghusband vào năm 1903 và 1904 đã đánh dấu sự khởi đầu của sự kết thúc sự cô
lập của vương quốc Tây Tạng. Triều đại nhà Thanh ở Trung Hoa, vốn có đại diện ở
Tây Tạng và coi Tây Tạng là 'phụ thuộc về mặt chính trị', coi đây là hành động
xâm lược của đế quốc chống lại quyền bá chủ của mình và cố gắng tăng cường kiểm
soát đối với Tây Tạng. Trước
đó rất lâu, cuộc lật đổ bất ngờ của nhà Thanh vào năm 1911 dẫn đến việc Đức Đạt
Lai Lạt Ma thứ mười ba tuyên bố độc lập. Từ năm 1911 đến năm 1951, Tây Tạng hoạt
động như một quốc gia độc lập trên thực tế và tiến hành tất cả các mối quan hệ
địa phương và quốc tế của mình mà không có sự can thiệp từ Trung Hoa hoặc bất kỳ
quốc gia nào khác. Ngược
lại, việc Trung Hoa tuyên bố Tây Tạng là một phần lãnh thổ của mình, việc Hoa Kỳ
và Vương quốc Anh công nhận quyền thống trị của Trung Hoa đối với Tây Tạng, và
việc các nước này đồng thời từ chối công nhận nền độc lập của Tây Tạng đã dẫn đến
việc xâm lược và chiếm đóng Tây Tạng. bởi Cộng sản Trung Hoa vào tháng 10 năm
1950.
Cho dù ý định của Tàu Cộng là giải phóng sau đó chiếm đóng, hay chiếm đóng sau
đó giải phóng, thì chiến lược ‘hòa bình’ của Mao đã đánh tan quân đội Tây Tạng
được trang bị kém với khoảng 10.000 quân và buộc người Tây Tạng phải thương lượng
và từ bỏ chủ quyền chính trị của họ lần đầu tiên trong lịch sử Tây Tạng.
Đổi lại,
thỏa thuận mười bảy điểm hứa sẽ bảo tồn địa vị chính trị và tôn giáo của Đạt
Lai Lạt Ma và không đưa ra các cải cách chính trị và kinh tế cho đến khi người
Tây Tạng yêu cầu. Nhưng
các cuộc cải cách tôn giáo và kinh tế của Tàu Cộng ở miền đông Tây Tạng và các cuộc biểu
tình sau đó từ từ lan sang miền trung Tây Tạng và tạo ra sự sợ hãi và ngờ vực
trong người dân Tây Tạng. Kết quả là cả người Tàu Cộng và Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn đều không
thể tôn trọng thỏa thuận. Cuối cùng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đào thoát khỏi Tây
Tạng vào tháng 3 năm 1959 sau một cuộc nổi dậy lớn ở Lhasa, tiếp theo là một cuộc
di cư của gần 80.000 người Tây Tạng đến Ấn Độ. Sau đó, Ngài thành lập Chính Phủ
Lưu Vong Tây và tuyên bố bãi bỏ thoả ước mười bảy điểm, đồng thời tuyên bố quyền
tự quyết và độc lập của Tây Tạng. CHND Trung Hoa cũng từ bỏ thỏa thuận và
thành lập chính quyền nhân dân ở Tây Tạng. Đây là căn nguyên của sự bất đồng về
vấn đề vị trí chính trị của Tây Tạng so với Trung Hoa. Trong những năm
qua, xung đột đã trở nên phức tạp bởi bao gồm nhiều vấn đề khác nhau, từ tồn tại
văn hóa, bản sắc, quản trị, nhân quyền, môi trường và phát triển.
Từ khi sống lưu vong, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã theo đuổi nhiều cải cách mang tính
bước ngoặt khác nhau, một mặt nhằm dân chủ hóa chính thể Tây Tạng và mặt khác để
xử lý xung đột với Tàu Cộng một cách bất bạo động. Mặc dù các sáng
kiến dân chủ hóa của Ngài bị hạn chế bởi các lý do thực tế như 'bất an kinh tế,
nghi thức chuẩn mực truyền thống và thiếu giáo dục', về cơ bản, nó vẫn được chấp
nhận như một phương pháp của chính thể do tính công bằng của Ngài trong việc đối
phó với các tông phái và khu vực khác nhau cũng như lòng trung thành và tình cảm
của dân tộc Tây Tạng. Không
có đấu tranh hay thiệt hại về nhân mạng, nền dân chủ Tây Tạng bắt nguồn từ những
ý tưởng của nhà lãnh đạo và đi vào lòng quần chúng được gọi một cách thích hợp
là nền dân chủ của Đức Đạt Lai Lạt Ma hay 'nền dân chủ của một người'. Quan trọng hơn,
tầm nhìn dân chủ đơn nhất của Ngài đã thống nhất ba khu vực Tây Tạng đa dạng là
U-Tsang, Kham và Amdo, và đã kiểm soát thành công cuộc xung đột để không đạt đến
mức quá mức trong 50 năm qua.
Mặc dù bất bạo động như một công cụ chính trị của chính sách Tây Tạng nghe có vẻ
rất tự nhiên, nhưng với tiềm năng bất bạo động của người Tây Tạng cũng như truyền
thống và văn hóa Phật giáo, nó không nên được nhấn mạnh quá mức. Đầu tiên, điều
quan trọng là không được bỏ qua khả năng bạo lực của người dân Tây Tạng. Giống
như bất kỳ nền văn hóa nào khác, mặc dù ít nổi bật hơn sau khi Phật giáo trở
thành quốc giáo vào thế kỷ 13, người Tây Tạng cũng vậy, đã nắm giữ vũ khí, tiến
hành chiến tranh và tàn hại nhau vì đất đai và của cải. Có một số ngoại
lệ bạo lực trong 'chế độ không cưỡng chế' của Tây Tạng, đặc biệt là chống lại
các cuộc xâm lăng của nước ngoài, bao gồm cả cuộc xâm lược của Anh vào năm
1904. Người
Tây Tạng đã dũng cảm chiến đấu với Quân Giải phóng Nhân dân Tàu Cộng tiến vào năm 1950. Thường thì các
nhà sư cũng tham gia vào các trận chiến chống lại người Trung Hoa để giành lại
lãnh thổ, và cũng chiến đấu với các nhà sư khác thuộc các môn phái khác nhau.
Cuộc nổi dậy
ở Lhasa năm 1959 chứng kiến nhiều nhà sư mang súng sát cánh cùng người Khampa.
Sau đó,
người Khampa sử dụng chiến thuật du kích 'đánh và chạy' với sự hỗ trợ bí mật của
CIA, lặp đi lặp lại cho đến năm 1974. Thứ hai, những chuyển đổi chính trị sang
dân chủ ở các quốc gia Phật giáo đã không diễn ra một cách bất bạo động.
Ví dụ, ở
Thái Lan, Miến Điện và Sri Lanka, Phật giáo đã (và đang) được sử dụng để biện
minh cho bạo lực của các nhà hoạt động chính trị theo chủ nghĩa dân tộc.
Do đó, ở cấp
độ chính trị, bất bạo động Tây Tạng là một sự lựa chọn hơn là cố hữu. Điều tôi muốn nhấn
mạnh là sự lựa chọn có chủ ý để bất bạo động trở thành một phương tiện chính trị
bắt nguồn từ Phật giáo Tây Tạng trong những nghịch cảnh, và vai trò chính của Đức
Đạt Lai Lạt Ma trong việc đóng góp vào nền tảng triết học gọi là con đường
trung đạo với các yếu tố chính trị thực tế. Đặc biệt từ những năm 1980, chính sách của
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tạo thành cột trụ cho các chính sách trung đạo của chính
phủ lưu vong - TGE và trở thành động lực của phong trào bất bạo động Tây Tạng
nhằm ngăn chặn chính sách di cư dân số người Hoa của Tàu Cộng đang đe dọa thành
phần dân tộc Tây Tạng.
Chính Sách Trung Đạo Của Đức Đạt Lai Lạt
Ma
Con đường trung đạo không phải là mục đích hay mục tiêu của phong trào Tây Tạng.
Nó cũng
không phải là một đề xuất hòa bình. Theo Thubten Samphel, con đường trung đạo do
Đức Đạt Lai Lạt Ma quan niệm là một phương pháp tiến hành cuộc đấu tranh cho tự
do và công lý cho người Tây Tạng. Do đó, trung đạo không đại diện hoặc phản
ánh hệ thống toàn thể niềm tin của người Tây Tạng. Thay vào đó, nó
là một kỹ thuật bất bạo động được ủng hộ bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma, có thể được so
sánh một cách thô thiển với kỷ thuật phản đối
bất bạo động công cộng của Gandhi (the Gandhian satyagraha). Bản chất của con
đường trung đạo là tránh những điều cực đoan. Một bên là sự cần thiết không phục
tùng các chính sách của Tàu Cộng chống lại
sự tồn tại của văn hóa và tôn giáo Tây Tạng. Mặt khác là biện pháp cực đoan để
đạt được một Tây Tạng tự do với cái giá là vòng luẩn quẩn bạo lực có thể chống
lại văn hóa và tôn giáo Tây Tạng. Như vậy, trung đạo là một lập trường vừa
phải, có thể đảm bảo lợi ích chung tối thiểu của tất cả các bên liên quan.
Đối với
người Tây Tạng, đó là sự bảo vệ và gìn giữ văn hóa và tôn giáo Tây Tạng; đối với
người Trung Hoa, đó là an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của mẫu quốc; và đối với
các nước láng giềng và bên thứ ba, hòa bình ở biên giới của họ và quan hệ quốc
tế hòa bình. Về
bản chất, con đường trung đạo trở thành một công cụ chính sách thực tế để xử lý
một cách hòa bình cuộc xung đột với Tàu Cộng nhằm đạt được mục tiêu của người
Tây Tạng. Theo
Đức Đạt Lai Lạt Ma, mục tiêu của cuộc đấu tranh của người Tây Tạng là đạt được
tự do tinh thần, tôn giáo và văn hóa, thuận lợi cho người Tây Tạng thực hiện
trách nhiệm phổ quát của họ trong việc bảo tồn, duy trì và phổ biến các truyền
thống văn hóa cao cả của khoa học nội tâm độc đáo vì lợi ích của toàn thế giới
trong một sự hoà giải chính trị tự trị trong Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC).
Mặc dù xung đột Tây Tạng được nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa là 'xung đột dân
tộc khó giải quyết', 'xung đột dân tộc chủ nghĩa', 'xung đột bất bạo động' và vấn
đề 'bản sắc và quyền tự trị', đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma, nó không có bất kỳ động
cơ chính trị nào. Theo
lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma, vấn đề giữa Tây Tạng và Trung Quốc 'không phải là sự
khác biệt về hệ tư tưởng, hệ thống xã hội hay các vấn đề do xung đột giữa truyền
thống và hiện đại. Đây
không phải là vấn đề vi phạm nhân quyền cũng không phải là cuộc đấu tranh dựa
trên yêu sách sắc tộc. Gốc
rễ của vấn đề Tây Tạng nằm ở lịch sử lâu dài và riêng biệt của Tây Tạng, nền
văn hóa lâu đời và khác biệt cũng như bản sắc độc đáo của nó.’ Dưới sự lãnh đạo
của Ngài, phong trào Tây Tạng có một động lực tinh thần để bảo vệ truyền thống
tôn giáo của Tây Tạng bắt nguồn từ lòng từ bi và bất bạo động, đồng thời tạo điều
kiện cho người Tây Tạng thực hiện các trách nhiệm rộng lớn hơn của họ đối với
nhân loại. Mặc
dù người Tây Tạng đã có lúc nhấn mạnh trên các diễn đàn chính trị rằng vấn đề
này là một vấn đề chính trị, thủ tướng chính phủ lưu vong hiện tại đã nhắc lại
lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma:
Người
dân Tây Tạng đã kế thừa trong nhiều thế kỷ trách nhiệm bảo tồn, phát huy và phổ
biến một nền văn hóa và truyền thống tâm linh độc đáo vì lợi ích của tất cả
chúng sinh. Để cho phép người
dân Tây Tạng hoàn thành các nhiệm vụ này, chúng tôi yêu cầu một tình hình xã hội,
chính trị, kinh tế và môi trường thuận lợi. Trí
tuệ con người không thể thức tỉnh đến mức tối đa trong bầu không khí áp bức và
khủng bố. Một di sản văn
hóa đã bị bật gốc không thể được bảo tồn và phát huy đúng mức thông qua việc trồng
lại ở nơi khác. Do đó, tự do
chính trị là một phương tiện để người Tây Tạng hoàn thành nghĩa vụ ràng buộc của
họ.
Đối
với Đức Đạt Lai Lạt Ma, mặc dù tự do tôn giáo và chính trị không thể tách rời
và cái này không thể tồn tại mà không có cái kia, nhưng trong phong trào bất bạo
động Tây Tạng, tự do tôn giáo trở thành trung tâm và tự do chính trị trở thành
phụ. Ngài
tin chắc rằng tự do chính trị thoả đáng sẽ là giải pháp cho tình trạng khó khăn
hiện tại của người Tây Tạng. Do đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đề xuất một thỏa thuận
tự trị trong CHND Trung Hoa như một giải pháp. Ngài nói:
Tôi
không tìm kiếm độc lập cho Tây Tạng. Tôi hy vọng rằng các cuộc đàm phán có thể
bắt đầu và chúng sẽ mang lại quyền tự trị thật sự cho người dân Tây Tạng và việc
bảo tồn và phát huy tính toàn vẹn về văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ cũng như sự
phát triển kinh tế xã hội của họ. Tôi
chân thành tin tưởng rằng “Phương pháp Trung đạo” của tôi sẽ góp phần vào sự ổn
định và thống nhất của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và đảm bảo quyền cho người
dân Tây Tạng được sống trong tự do, hòa bình và nhân phẩm (tuyên bố đưa ra vào
ngày 10 tháng 3 năm 1999).
Đức
Đạt Lai Lạt Ma đã ủng hộ yêu cầu chính trị về quyền tự trị thực sự một cách
không chính thức từ năm 1979 khi Đặng Tiểu Bình mời người Tây Tạng thảo luận bất
cứ điều gì ngoại trừ nền độc lập, và chính thức từ năm 1989, khi ông đưa ra Đề
xuất Strasbourg như một đề xuất thực tế để giải quyết vấn đề thông qua đàm
phán. Đề
xuất 'quyền tự trị lớn hơn' của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã được các bên khác nhau
trong cuộc xung đột đánh giá là hợp lý. Hơn nữa, đề xuất của Ngài nằm trong quy
trình quản lý xung đột do các chuyên gia giải quyết xung đột khuyến nghị.
Đặc biệt
khi nói đến các xung đột xã hội kéo dài tương tự như Tây Tạng liên quan đến việc
bảo vệ các bản sắc văn hóa độc đáo và tìm kiếm một hình thức quản trị phù hợp,
Edward Azar đã đề xuất các hình thức cấu trúc chính trị khác nhau trong các cơ
cấu quốc gia hiện có. Tedd
Gurr và Deepa Khosla đã tiến thêm một bước trong việc đề xuất quyền tự trị như
một giải pháp thực tế cho vấn đề Tây Tạng.
Yếu tố cấu thành quan trọng nhất của một phong trào bất bạo động là các mục
tiêu chính xác và đã được thống nhất. Đặt ra các mục tiêu không phải là một
nhiệm vụ dễ dàng, như lịch sử đã chỉ ra - từ phong trào Gandhian bị kẹt giữa những
người ôn hòa và những người cực đoan trong việc quyết định lộ trình của phong
trào, cho đến phe đối lập dân chủ ở Serbia không thể đưa ra quyết định khi tiến
hành cuộc bầu cử năm 2000 chống lại Milosevic cho đến một vài tháng trước ngày.
Việc ra
quyết định về các mục tiêu thường chia rẽ ngôi nhà đoàn thể trong những thời điểm
khó khăn. Tương
tự như vậy trong trường hợp của Tây Tạng, dòng suy nghĩ không chính thức ủng hộ
một Tây Tạng dân chủ và độc lập về chính trị. Lập luận trọng tâm của họ là TGE
đã thất bại thảm hại trong việc thuyết phục Tàu Cộng không sẵn lòng đàm phán
ngay cả khi từ bỏ nền độc lập trong gần hai thập niên. Do đó, các nhóm
như Đại hội Thanh niên Tây Tạng (TYC) chống lại việc từ bỏ chủ quyền của Tây Tạng
và yêu cầu độc lập hoàn toàn cho toàn bộ dân tộc Tây Tạng, bao gồm ba tỉnh truyền
thống U-Tsang, Kham và Amdo. Căn nguyên của lập trường gây chia rẽ này nằm ở quá
trình ra quyết định hơn là ở các luận điểm. Tuy nhiên, lập trường của TGE, sẵn sàng
đàm phán, về yêu cầu quyền tự trị, ít nhất là về mặt lý thuyết, thực tế vì nó
đáp ứng các nhu cầu cơ bản của cả người Tây Tạng và người Trung Hoa mà không có
sự tách biệt. Đối
với người Tây Tạng, nó đảm bảo các quyền cơ bản của con người và quyền bảo vệ
các truyền thống văn hóa độc đáo của họ. Đối với người Trung Hoa, nó tôn trọng sự
toàn vẹn lãnh thổ và đóng góp cho một mẫu quốc ổn định và mạnh mẽ. Vì vậy, bằng
cách giải quyết các mối quan tâm quốc gia của người Tây Tạng và Trung Hoa, mục
tiêu này dường như có thể đạt được về mặt chính trị.
Yếu Tố Cần Thiết Của Trung Đạo
Đối với phong trào phản đối bất bạo động công cộng (Gandhian satyagraha), các phương
châm cơ bản là: sự thật, bất bạo động (ahimsa) và tự chịu đựng. Đối với Đức Đạt
Lai Lạt Ma, phương châm cơ bản của trung đạo là bất bạo động và đối thoại. Ngài
có nói: . . .
để
sống với ít xung đột và đổ máu hơn và để đạt được điều này, điều quan trọng là
phải tuân theo bất bạo động và đối thoại. . . nếu cuộc đấu tranh của chúng ta
thông qua bất bạo động với một cảm giác từ bi thành công, chúng ta sẽ tạo ra một
cách mới để giải quyết các vấn đề và xung đột và do đó phục vụ lợi ích của toàn
nhân loại.
Như
rõ ràng từ lời nói của mình, Đức Đạt Lai Lạt Ma tin rằng bất bạo động và đối
thoại có thể là cơ sở duy nhất để giải quyết xung đột một cách hòa bình.
Trong những
năm qua, bất bạo động và đối thoại đã chiếm vị trí trung tâm trong chính sách
trung đạo của Ngài. Không còn nghi ngờ gì nữa, đối thoại lưu ý vào các cuộc đàm
phán với Tàu Cộng. Do
đó, Ngài coi các sáng kiến hòa bình như Kế hoạch Hòa bình Năm điểm và Đề xuất
Strasbourg là cơ sở linh hoạt cho các cuộc đàm phán với Tàu Cộng. Mặc dù Đức Đạt
Lai Lạt Ma đã không nói rõ ràng ý của Ngài là bất bạo động trong bối cảnh của
con đường trung đạo, nhưng về cơ bản nó chỉ ra hành động bất bạo động.
Đối thoại là một thành phần trung tâm của Phật giáo Tây Tạng và hoá ra là con
đường trung đạo. Trong bối cảnh chính trị, Ngài ủng hộ mạnh mẽ đối thoại như một
cách tiếp cận thực tế để giải quyết vấn đề Tây Tạng. Ngài nhấn mạnh đối thoại ở
hai cấp độ: một là giữa chính phủ lưu vong TGE và CHND Trung Hoa và hai là giữa
người Tây Tạng và người Trung Hoa. Ngài đã nói:
Sau
nửa thế kỷ 'giải phóng', sự kiện Tây Tạng vẫn còn rất sống động và vẫn chưa được
giải quyết. Rõ ràng tình trạng
này không có lợi cho bất kỳ ai, cho cả Tây Tạng lẫn Trung Hoa. Tiếp tục đi theo con đường này không làm giảm bớt
đau khổ của người dân Tây Tạng, cũng không mang lại sự ổn định và thống nhất
cho Trung Hoa hoặc giúp nâng cao hình ảnh và vị thế quốc tế của Trung Hoa.
Cách hợp lý và có trách nhiệm duy nhất để
giải quyết vấn đề này là đối thoại. Không có sự thay thế thực tế nào cho nó
(tuyên bố ngày 10 tháng 3 năm 1998).
Ngài
thường nhấn mạnh tầm quan trọng của đối thoại trong các bài phát biểu và tuyên
bố của mình. Theo
Ngài, sự ngờ vực giữa người Trung Hoa và người Tây Tạng có thể được khắc phục
‘chỉ thông qua các cuộc gặp mặt trực tiếp và đối thoại chân thành’. Về phần mình, Ngài
đã nói, 'Tôi vẫn cam kết với tiến trình đối thoại như một phương tiện để giải
quyết vấn đề Tây Tạng. Tôi không tìm kiếm độc lập cho Tây Tạng. Tôi hy vọng rằng
các cuộc đàm phán có thể bắt đầu và chúng sẽ mang lại quyền tự trị thật sự cho
người dân Tây Tạng cũng như việc bảo tồn và phát huy tính toàn vẹn về văn hóa,
tôn giáo và ngôn ngữ cũng như sự phát triển kinh tế xã hội của họ.’ Trong tuyên bố
ngày 10 tháng 3 năm 1996, Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng khuyến khích đối thoại giữa
người Tây Tạng và người Trung Hoa để thúc đẩy 'sự hiểu biết tốt hơn về các mối
quan tâm và lợi ích chung của chúng ta'. Do đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma tin tưởng chắc
chắn rằng có thể tìm thấy một giải pháp lâu dài cho vấn đề Tây Tạng thông qua
tiếp xúc giữa người với người giữa người Tây Tạng và người Trung Hoa.
Đức Đạt Lai Lạt Ma, kiến trúc sư trưởng của nền chính trị bất bạo động Tây Tạng,
là một tín đồ trung thành của Mahatma Gandhi. Sự ủng hộ của Ngài đối với Tuyên
bố chung về bất bạo động trong đó tuyên bố rằng “tất cả các hình thức bạo lực,
đặc biệt là chiến tranh, là hoàn toàn không thể chấp nhận được như một phương
tiện để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia, nhóm và người với nhau” khiến Ngài
trở nên cấp tiến trong số các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị khác. Ngài tin tưởng mạnh
mẽ rằng phản kháng bất bạo động dành cho những người có ý chí mạnh mẽ và nguyên
tắc, những người từ chối dựa vào thứ phi logic méo mó là ngăn chặn bạo lực xấu
của kẻ thù bằng bạo lực tốt của mình. Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố rằng thật
thiển cận khi tin rằng có thể tìm ra giải pháp lâu dài thông qua việc sử dụng
vũ lực. Ngài
luôn thể hiện niềm tin chắc chắn của mình khi đi theo con đường bất bạo động.
Theo Ngài,
sức mạnh và sự đối đầu chỉ có thể mang lại lợi ích tạm thời. Do đó, Đức Đạt
Lai Lạt Ma khuyến khích phản kháng bất bạo động bên trong Tây Tạng. Mặc dù Ngài đã
thừa nhận rằng 'người dân Tây Tạng thể hiện nỗi buồn sâu sắc của họ thông qua bất
bạo động là cách đúng đắn', nhưng Ngài không nói một cách đơn giản về động lực
hoặc hoạt động của phản kháng bất bạo động ở Tây Tạng. Điều này đã làm
cho sự hiểu biết tổng thể về phong trào bất bạo động đang diễn ra ở Tây Tạng trở
nên khó nắm bắt, không giống như các phong trào Gandhian hoặc Kingian (Martin
Luther). Do
đó, tôi đang tập trung ở đây vào các yếu tố thực dụng ít được biết đến của
phong trào bất bạo động Tây Tạng hơn là vào những ảnh hưởng nổi tiếng của Phật
giáo và Gandhi.
Trước tiên, đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma, bất bạo động là phương pháp hiệu quả và
thích hợp nhất để giải quyết xung đột. Ngài tin chắc vào bất bạo động như một kỹ
thuật chính trị. Ngài
chỉ ra rằng, ‘những sự kiện như sự kết thúc của chế độ độc tài Marcos ở
Philippines và Pinochet ở Chilê, cũng như những thay đổi ở Moscow và các nước
khác, cho thấy khá rõ ràng rằng những biến động trong lòng dân chúng. . . kết
quả của hành động bất bạo động.’ Hơn nữa, Ngài hiểu tầm quan trọng của bất
bạo động đối với một láng giềng thân thiện. Vì Trung Hoa và Tây Tạng là láng giềng của
nhau—quá khứ, hiện tại và tương lai—Ngài lập luận rằng họ phải có một mối quan
hệ hòa bình và hài hòa. Do
đó, điều thiết yếu là những vấn đề chia rẽ họ nên được giải quyết một cách bất
bạo động. Sử
dụng bạo lực trong những tình huống như vậy khiến người ta có cảm giác khinh
thường và thù hận trong nhiều thế hệ và do đó dẫn đến bạo lực hơn nữa. Ngài đưa ra những
ví dụ về các cuộc xung đột kéo dài như Israel và Palestine, và Bosnia nơi bạo lực
được sử dụng để ngăn chặn bạo lực. Ngài cũng đưa ra các ví dụ về Philippines,
Chilê và Liên Xô trước đây, nơi nền dân chủ đã được thiết lập thông qua các biện
pháp bất bạo động.
Thứ hai, bất bạo động được sử dụng trong chính trị do hiểu rằng các phương tiện
đấu tranh không được mâu thuẫn với các mục tiêu hoặc mục đích xã hội của nó.
Bạo lực
không thể được sử dụng để tạo ra một hệ thống chính trị dựa trên sự tự quản và
sự tham gia của thường dân và mang lại hòa bình. Chỉ thông qua các phương pháp bất
bạo động, người ta mới có thể đạt được kết quả bất bạo động. Cũng cần lưu ý các
mối liên hệ giữa bất bạo động và dân chủ như được thiết lập bởi Đức Đạt Lai Lạt
Ma. Một
yếu tố quan trọng khác của cách tiếp cận bất bạo động thực dụng là sự thừa nhận
rằng cả hai bên đều có những nhu cầu cần được giải quyết. Do đó, người Tây
Tạng tận tâm theo đuổi các cuộc đàm phán giải quyết vấn đề, được minh họa bằng
các sáng kiến hòa bình như Kế hoạch Hòa bình Năm điểm để đạt được một giải pháp
có lợi như nhau cho cả người Tây Tạng và Trung Hoa.
Thứ ba, trong tình hình Tây Tạng, bạo lực không được coi là một lựa chọn thực tế
để chống lại Tàu Cộng và được coi là phản tác dụng đối với mục tiêu của người
Tây Tạng. Mặc
dù các tổ chức phi chính phủ như Đại hội Thanh niên Tây Tạng (TYC) ủng hộ
'phương pháp đấu tranh bạo lực', nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma tin tưởng mạnh mẽ rằng
bất bạo động là phương tiện hiệu quả nhất để đối phó với Tàu Cộng trong hoàn cảnh hiện tại. Ngài cũng cảm thấy
rằng một cuộc đấu tranh bạo lực chống lại
Tàu Cộng hùng mạnh về quân sự là một nhiệm vụ bất khả thi. Đức Đạt Lai Lạt
Ma đã nói, 'Tôi yêu cầu những người nóng nảy, hãy để họ hình dung điều này. Nếu
chúng ta làm theo phương pháp bạo lực, vài trăm khẩu súng sẽ không hiệu quả.
Ít nhất
chúng ta cần vài nghìn, ít nhất vài nghìn. . . khoảng 100.000. Bây giờ chúng ta
sẽ lấy những vũ khí này từ đâu? Có quốc gia nào sẵn sàng cung cấp chúng cho
chúng ta không?’ Ở
một nơi khác, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhắc lại rằng không ai sẽ cung cấp vũ khí
cho người Tây Tạng, và ngay cả khi một quốc gia làm như vậy, việc chuyển vũ khí
cho Tây Tạng sẽ không dễ dàng. ‘Nếu nửa triệu người Tây Tạng cầm vũ khí chống lại
Trung Quốc, đó sẽ là hành động tự sát.’ Ngài tin rằng một cuộc nổi dậy vũ trang
sẽ là cái cớ tốt nhất để Tàu Cộng tiêu
diệt người Tây Tạng. Hơn
nữa, dân số Tây Tạng đang suy giảm chắc chắn không khuyến khích lựa chọn bạo lực
và thúc đẩy bất bạo động, vì bất bạo động sẽ cứu được nhiều mạng người.
Cuối cùng, lập trường bất bạo động của người Tây Tạng huy động được sự ủng hộ từ
nhiều phía, kể cả người dân Trung Hoa. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói, 'vì thái độ bất
bạo động của chúng tôi, người Hoa cả ở Trung Quốc và nước ngoài đều bày tỏ sự cảm
thông và quan tâm đến chính nghĩa của chúng tôi và kết quả là công khai thể hiện
sự ủng hộ của họ đối với cuộc đấu tranh giành độc lập của Tây Tạng.' Ông tin tưởng chắc
chắn rằng thông qua bất bạo động, họ có thể đạt được một giải pháp có lợi cho cả
người Hoa lẫn người Tạng. Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, sự hỗ trợ to lớn của quốc tế
mà người Tây Tạng hiện đang được hưởng là do đặc tính bất bạo động của phong
trào. Đức
Đạt Lai Lạt Ma thường thừa nhận sự thông cảm của giới truyền thông đối với
phong trào bất bạo động và tầm quan trọng của nó đối với chính nghĩa của Tây Tạng.
Ngài đã
nói rằng sự quan tâm của giới truyền thông về Tây Tạng đã thu hút ‘mọi người
trên toàn thế giới. . . [đến] chính nghĩa Tây Tạng.’ Do đó, Đức Đạt
Lai Lạt Ma rất coi trọng lợi ích này. . . [và] thực tế là chính nghĩa của chúng
tôi sẽ được công nhận theo cách này, tôi tin rằng, sẽ truyền cảm hứng cho chính
phủ Trung Hoa thể hiện sự kiềm chế nhiều hơn trong các giao dịch với người dân
Tây Tạng và quan tâm đến nhu cầu của họ.’ Do đó, cuộc đấu tranh bất bạo động của
người Tây Tạng có những yếu tố thực dụng không thể thiếu, trong đó bất bạo động
được sử dụng trên thực tế chỉ là một trong một số phương pháp khả thi để ứng
phó với tình huống xung đột với Trung Hoa nhằm đạt được một giải pháp đôi bên
cùng có lợi.
Chiến Lược Đấu Tranh Bất Bạo Động Của
Người Tây Tạng
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma đến thăm Ấn Độ vào năm 1956, Ngài đã gặp nhiều người
theo Gandhi và thảo luận về tình hình Tây Tạng. Họ khuyên Đức Đạt Lai Lạt Ma trở
về Tây Tạng và tiếp tục đấu tranh cho tự do. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã làm chính
xác điều đó. Nhưng không có kết quả. Vì vậy, cuối cùng vào năm 1959, khi không
còn lựa chọn nào khác, Ngài phải đi lưu vong. Từ nơi lưu vong, Ngài đã cố gắng
giải quyết vấn đề thông qua đàm phán bằng cách bắt đầu liên hệ trực tiếp với Bắc
Kinh. Việc
thiếu tiến bộ trong các sáng kiến trực tiếp và mối đe dọa nghiêm trọng đối với
văn hóa Tây Tạng dưới hình thức chính sách di chuyển dân số của Tàu Cộng đã buộc Ngài phải đưa phong trào bất
bạo động Tây Tạng lên một tầm cao mới mà không dao động khỏi con đường bất bạo
động và đối thoại đã chọn: quốc tế hóa vấn đề Tây Tạng trong hy vọng rằng nó sẽ
gây áp lực buộc Tàu Cộng phải ngồi vào bàn đàm phán. Trong bài phát biểu
tại hội nghị lần thứ hai của Nhóm Hỗ trợ Tây Tạng tại Đức vào tháng 6 năm 1996,
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã giải thích rõ ràng rằng sự bế tắc trong các cuộc đàm phán
Hoa - Tạng đã buộc Ngài phải quốc tế hóa vấn đề Tây Tạng. Ngài nói:
Vì
không có phản hồi từ phía Trung Hoa, tôi buộc phải tuyên bố công khai Kế hoạch
Hòa bình Năm điểm của mình cho Tây Tạng. Đây là kết quả của việc thiếu đáp ứng
từ phía Trung Hoa và do đó không có lựa chọn nào khác ngoài việc tìm kiếm sự hỗ
trợ từ cộng đồng quốc tế.
Ở
đây, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh việc phía Tàu Cộng không có phản hồi đàm phán
và thiếu các giải pháp thay thế để đối phó với Tàu Cộng là những lý do quan trọng
để quốc tế hóa vấn đề Tây Tạng. Vì mục tiêu trước mắt của ngài khi đó là
đối thoại với Trung Quốc để bảo tồn văn hóa Tây Tạng khỏi các chính sách của
Trung Quốc, Đức Đạt Lai Lạt Ma tin chắc rằng áp lực đạo đức, chính trị và kinh
tế quốc tế là lựa chọn khả thi duy nhất mà người Tây Tạng còn lại để tìm ra giải
pháp kịp thời.
Do đó, với hành động bất bạo động và đối thoại là các thành phần trung tâm,
chính sách trung đạo cố gắng vận động áp lực quốc tế để buộc Tàu Cộng đồng ý với
một sự hoà giải chính trị thương lượng đối với Tây Tạng. Áp lực đã được
gây ra đối với Tàu Cộng thông qua nỗ lực lập pháp, tức là đưa Tây Tạng vào diễn
đàn của các chính phủ, đặc biệt là các ngành lập pháp, và tạo ra những thay đổi
trong chính sách của các chính phủ trên toàn thế giới. Điều này đã trở
thành chiến lược cốt lõi của việc quốc tế hóa. Chiến lược này đã phát triển từ
năm 1987 bằng cách bao gồm bốn khía cạnh: phản kháng bất bạo động bên trong Tây
Tạng, đối thoại với CHND Trung Hoa, Chương trình xây dựng trong lưu vong để bảo
vệ văn hóa và tôn giáo Tây Tạng, và quốc tế hóa cùng vận động truyền thông về vấn
đề Tây Tạng. Trong
khi phản kháng bất bạo động bên trong Tây Tạng chuyển tải sự bất bình thật sự của
người dân Tây Tạng tới CHND Trung Hoa và thế giới bên ngoài, cuộc đối thoại
thông qua các sáng kiến hòa bình đã hình thành cơ sở cho các cuộc đàm phán với
Bắc Kinh. Chương
trình Xây dựng của Chính Phủ Lưu Vong Tây Tạng nhằm mục đích bảo vệ và thúc đẩy tôn giáo và
văn hóa Tây Tạng và hiện thực hóa một Tây Tạng tự do dân chủ lưu vong. Cuối cùng, việc
quốc tế hóa vấn đề Tây Tạng huy động sự hỗ trợ của công chúng, chính trị và
truyền thông quốc tế để gây áp lực lên Tàu Cộng về một giải pháp hòa bình.
Trong khi các học giả thuộc trường phái hiện thực hoặc thực tiển lên án chiến
lược quốc tế hóa, thì nhóm học giả thứ hai theo chủ nghĩa lý tưởng chính trị và
chủ nghĩa đa nguyên lại đánh giá cao việc quốc tế hóa vấn đề Tây Tạng. Mặc dù cả hai
nhóm đều đồng ý rằng Tây Tạng là một mối quan tâm chiến lược đối với Tàu Cộng và
sự tồn tại văn hóa của người Tây Tạng đang gặp nguy hiểm, nhưng họ đưa ra các
giải pháp hoàn toàn khác nhau. Những người theo chủ nghĩa hiện thực đề xuất sự tham
gia tích cực của chính phủ bên thứ ba (đặc biệt là Hoa Kỳ) vào quá trình hòa giải
và sự trở lại của Đức Đạt Lai Lạt Ma để bảo vệ cuộc sống của người Tây Tạng mà
không thực hiện bất kỳ thay đổi cấu trúc nào đối với quan điểm chính trị của
Tây Tạng đối với Trung Hoa. Ngăn chặn sự tẩy chay xã hội và kinh tế quốc tế như
một phương tiện để gây sức ép buộc Tàu Cộng phải đàm phán, những người theo chủ
nghĩa lý tưởng đề xuất một sự can dự tích cực bất bạo động của người Tây Tạng với
Tàu Cộng để cứu người dân và nền văn hóa Tây Tạng khỏi sự hủy diệt. Tuy nhiên, cả
hai nhóm, trong nhiệm vụ rõ ràng là xử lý xung đột theo cách có thể đáp ứng nhu
cầu của cả hai bên, đã bỏ lỡ yếu tố quan trọng trong việc giải quyết xung đột bất
đối xứng, đó là cân bằng mối quan hệ quyền lực giữa Chính Phủ Lưu Vong Tây Tạng
và CHND Trung Hoa trong dài hạn, hòa bình bền vững. Ý tưởng của họ
làm nổi bật tính hiệu quả của hành động bất bạo động và sự tham gia của bên thứ
ba như những yếu tố quan trọng để thay đổi cán cân quyền lực và tác động đến sự
thay đổi hòa bình trong mối quan hệ chính trị xã hội Hoa - Tạng. Về mặt lý thuyết,
hai hoạt động này đóng góp rất nhiều vào việc quản lý bất kỳ cuộc xung đột bất
đối xứng nào: hành động bất bạo động sẽ nâng xung đột lên mức rõ ràng và sự hỗ
trợ của bên thứ ba có thể giúp cân bằng mối quan hệ quyền lực của các bên.
Một cách
phù hợp, hai yếu tố này tạo thành cốt lõi của chính sách trung đạo của Đức Đạt
Lai Lạt Ma. Do đó, trung đạo không chỉ là một nguyên tắc tôn giáo hay đạo đức.
Đó cũng là chính trị và thực tế. Mặc dù chiến lược bốn chiều này đã không
đưa CHND Trung Hoa đến bàn đàm phán, nhưng khi xem xét thành công chính trị của
việc giành được sự ủng hộ và đoàn kết quốc tế cũng như các việc được mất liên
quan, có thể nói rằng chiến lược chính trị bất bạo động này đã đạt được nhiều
thành tựu như một số xung đột bạo lực đương đại ở châu Á. Nó đã đặc biệt
thành công trong việc ngăn chặn cuộc xung đột trở nên bạo lực ở Tây Tạng.
Không còn
nghi ngờ gì nữa, bạo lực ở Tây Tạng sẽ khơi mào cho một vòng xoáy bạo lực gây
thiệt hại to lớn về người và vật chất cho tất cả các bên khi, người ta xem xét
sự kháng cự lâu dài ở Tây Tạng và các dân tộc thiểu số khác trong CHND Trung
Hoa. Bạo
lực ở Tây Tạng trong bối cảnh toàn cầu hóa cũng sẽ ảnh hưởng đến hiện trạng
xung đột và kích động sự can thiệp ở cấp khu vực, đặc biệt là từ Ấn Độ nơi có gần
80.000 người tị nạn Tây Tạng sinh sống và ở cấp quốc tế, chủ yếu là từ Hoa Kỳ,
nơi người Tây Tạng sinh sống hoạt động hành lang rất sôi nổi.
Tuy nhiên, tình trạng xung đột bất đối xứng được thắt nút trong mối quan hệ
chính trị và xã hội không cân bằng giữa CHND Trung Hoa hùng mạnh và Chính Phủ
Lưu Vong Tây Tạng bất lực đặt ra những thách thức to lớn đối với việc giải quyết
xung đột. Vì
cấu trúc giúp phe ưu thế và mạnh mẽ giành chiến thắng và thiểu số hoặc bất lực
thua cuộc, nên xung đột chỉ có thể được giải quyết bằng cách thay đổi cấu trúc
và nâng xung đột lên mức rõ ràng. Hành động bất bạo động là phương pháp hiệu
quả duy nhất để làm điều này, và mặc dù hành động bất bạo động của Tây Tạng cho
đến nay vẫn chưa thành công trong việc giải quyết bạo lực tiềm ẩn đang tồn tại ở
Tây Tạng và giữ cho xung đột ở mức độ tiềm ẩn, với những ngoại lệ nhỏ như các
cuộc biểu tình năm 1959, 1987 và năm 1989, đó là chìa khóa duy nhất để gia tăng
xung đột đến mức rõ ràng, mang lại những thay đổi về cấu trúc, ngăn chặn bạo lực
trong tương lai ở Tây Tạng và dẫn dắt cuộc xung đột ở Tây Tạng tới một giải
pháp hòa bình.
Kết Luận
Như đã trình bày, mục đích của bài tiểu luận này không phải là để thách thức
hay phân giải cấu trúc của Đức Đạt Lai Lạt Ma, người chia sẻ quan điểm của những
người theo Gandhi về bản chất không thể tách rời của tôn giáo và chính trị.
Thay vào
đó, đấy là một nỗ lực khiêm tốn nhằm làm nổi bật những khía cạnh thực tế trong
hoạt động chính trị của Ngài vốn được thúc đẩy bởi các giá trị tinh thần Phật
giáo. Phân
tích quan trọng này về chính sách trung đạo của Đức Đạt Lai Lạt Ma có tầm quan
trọng đối với phong trào bất bạo động đang diễn ra và nền chính trị dân chủ
đang phát triển. Mặt
khác, trường hợp Tây Tạng đưa ra một phương tiện giải quyết xung đột mới, hiệu
quả và bất bạo động, có thể được điều chỉnh để đáp ứng các tình huống tương tự
hoặc khác nhau chống lại chế độ độc tài hoặc các chính phủ độc đoán. Do đó, theo truyền
thống do các triết gia hòa bình như Tolstoy, Gandhi và King thiết lập, Đức Đạt
Lai Lạt Ma cũng đã thách thức các quan niệm bạo lực của Machiavellian và lên tiếng
cũng như hành động để cải thiện các điều kiện hòa bình của thế giới. Mặc dù Ngài là
người không tưởng trong mong muốn phá vỡ các quy ước cho nền chính trị lý tưởng
hóa, nhưng Ngài cũng rất thực tế vì đã hiện thực hóa tầm nhìn của mình trong
'thế giới này' bằng cách xử lý hòa bình cuộc xung đột với Tàu Cộng và dân chủ
hóa chính thể Tây Tạng. Mặc
dù các chính sách của Ngài thiên về sự lạc quan, nhưng Ngài lấy cảm hứng từ hy
vọng chứ không phải những tổn thương và phát triển các giải pháp thay thế chứ
không phải giả định. Việc
Ngài xử lý vấn đề Tây Tạng và cách mạng hóa nền chính trị Tây Tạng phản ánh rõ
ràng động lực của Ngài nhằm cải thiện toàn bộ hệ thống, nơi mà người Tây Tạng,
Trung Hoa và các nước láng giềng của họ cùng có lợi. Do đó, triết lý
chính trị của ông, đặc biệt là chính sách trung đạo, bắt nguồn từ Phật giáo, phản
kháng bất bạo động của Gandhi và hiểu biết thực tế về chính trị quốc tế trở
thành tài liệu vững chắc cho nghiên cứu hòa bình./.
Ẩn Tâm Lộ - 2022
Trích từ quyển Understanding
the Dalai Lama - Rajiv Mehrotra
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét