Nguyên tác: Secondary
Bodhisattva Vows
Tác giả: Alexander Berzin
/August 1997
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
I- Giới thiệu
Những giới khinh
của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi
lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân
thành bảy nhóm gây thiệt hại, mỗi nhóm, liên hệ đến
việc rèn luyện của chúng ta trong sáu ba la
mật và với việc làm lợi ích cho người khác của chúng
ta.
Sáu ba la mật là:
1.
Thí (dana), rộng rải ban cho.
2.
Giới (shila), đạo đức tự giác.
3.
Nhẫn (kshanti), nhẫn nại bao dung, chịu đựng.
4.
Tấn (virya), kiên trì vui vẻ, nhiệt tình tích cực.
5.
Thiền (dhyana), tĩnh lự
6.
Tuệ (prajna), tỉnh giác phân biệt
Mặc dù những hành
vi lỗi lầm đối nghịch và ngăn trở tiến tình của chúng
ta đối với Giác Ngộ, vi phạm chúng, ngay cả với bốn nhân
tố ràng buộc (kun-dkris bzhi) hoàn toàn, cũng không cấu
thành việc đánh mất giới nguyện Bồ tát. Tuy nhiên, càng ít vi
phạm những nhân tố này thì càng ít tổn hại vấn đề chúng
ta tiến hành việc phát triển tâm linh trên con
đường Bồ tát. Nếu chúng ta tình cờ vi phạm bất cứ
những hành vi lỗi lầm này, thì chúng ta biết sai sót
của chúng ta và áp dụng những năng lực đối trị,
như trong trường hợp của các giới trọng của Bồ tát giới.
[Xem chi
tiết bốn nhân tố ràng buộc và những năng lực đối
trị trong: Căn
Bản Giới Bồ tát của Phật Giáo Tây Tạng]
Có nhiều chi
tiết để học hỏi về 46 giới này, với nhiều ngoại lệ khi không có
lỗi trong việc vi phạm chúng. Tuy nhiên, tổng quát mà
nói, vấn đề tổn hại đến việc phát triển những thái
độ ba la mật và đến việc làm lợi ích mà chúng
ta có thể ban cho người khác lệ thuộc vào động cơ tiềm
tàng trong những hành vi lỗi lầm của chúng ta. Nếu động cơ
ấy là một thể trạng phiền não của tâm thức, chẳng hạn
như dính mắc, sân hận, thù oán hay kiêu căng, thì
sự tổn hại lớn hơn nếu nó là một thể trạng không phiền
não mặc dù là thứ bất lợi, chẳng hạn như dửng dưng, lười biếng,
hay quên lãng. Với dửng dưng, chúng ta thiếu niềm
tin hay tôn trọng tương xứng trong việc tu tập là bị
làm phiền việc dấn thân trong ấy. Với lười biếng, chúng ta quên
lãng việc thực hành của chúng ta bởi vì chúng
ta thấy thích thú và dễ dàng hơn với việc không làm gì.
Khi chúng ta thiếu chánh niệm, thì chúng ta hoàn
toàn quên mất về chí nguyện giúp đở người khác. Nhiều giới trong
46 giới ấy, chúng ta không có lỗi nếu chúng ta có xu hướng cuối
cùng loại trừ chúng khỏi thái độ của chúng ta, nhưng
những cảm xúc và thái độ phiền não vẫn rất mạnh mẽ đối
với việc thực tập đầy đủ sự kiểm soát.
Sự trình bày này
là những gì của đại sư Tông Khách Ba nói trong Diễn
Giải về Đạo Đức của chư Bồ tát: Con Đường Chính
đến Giác Ngộ (Byang-chub sems-dpa'i tshul-khrims-kyi
rnam-bshad byang-chub gzhung-lam)
II- Bảy Hành
Vi Lỗi Lầm Bất Lợi Cho Việc Tu Tập Thí Ba La Mật
Thí ba la mật (sbyin-pa,
Skt. dana) được định nghĩa như thái độ của việc sẳn
sàng ban cho. Nó bao gồm việc sẳn sàng ban
cho vật chất (tài thí), bảo hộ khỏi những hoàn
cảnh sợ hãi (vô úy thí) và giáo huấn (pháp thí).
Trong bảy hành
vi lỗi lầm này ảnh hưởng đến việc phát triển bố thí,
hai tổn hại việc sẳn sàng ban cho người khác vật
chất, hai tổn hại chí nguyện ban cho người khác sự bảo
hộ khỏi những hoàn cảnh sợ hãi, hai liên hệ đến việc
không cung cấp những hoàn cảnh để người khác trau dồi
và thực tập bố thí, và một làm tổn hại việc phát
triển rộng lượng việc ban phát giáo huấn.
a-
Hai hành vi lỗi lầm bất lợi đến việc phát triển sự sẳn
lòng ban cho người khác vật chất (tài thí).
1- Không cúng
dường Tam Bảo qua ba cánh cổng thân thể, lời nói và
tâm ý của chúng ta. (Giới
khinh thứ 1)
Vì buồn giận,
bị quấy rầy về điều gì đó, hay vì lười biếng, dửng dưng,
hay đơn giản là quên lãng, không cúng dường đến Phật,
Pháp, Tăng ba lẫn mỗi ngày và ba lần mỗi đêm, tối thiểu lễ
lạy với thân thể chúng ta, ca ngợi với lời
nói chúng ta, và ôn lại những phẩm chất tốt đẹp của các Ngài
với tâm thức và trái tim của chúng ta. Nếu chúng
ta không thể tối thiểu ân cần đủ để cúng
dường những thứ này một cách vui mừng mỗi ngày và mỗi đêm
đến Tam Bảo, thì làm chúng ta có thể kiên định đúng đắn sự
nhiệt tình của chúng ta để bố thí mọi thứ cho mọi
người?
2- Hành động vì tâm
khao khát của chúng ta (Giới khinh thứ 2)
Do
bởi lòng tham dục, dính mắc lớn, hay thiếu toại nguyện, nuông
chiều bất cứ loại nào trong năm đối tượng tham dục cảm
giác - hình sắc, âm thinh, mùi hương, vị nếm, hay xúc
giác. Thí dụ, do bởi dính mắc vào những vi ngon, chúng
ta cắn từng chút vào cái bánh trong tủ lạnh ngay cả khi chúng
ta không đói. Điều này bất lợi cho việc chống
lại sự tham lam của chúng ta. Chúng ta rồi sẽ
thấy chính chúng ta tích trử cái bánh, và ngay cả dấu nó phía sau
chiếc kệ, để chúng ta không phải chia sẻ nó với bất cứ người nào
khác. Nếu chúng ta hoàn toàn muốn vượt thắng thói
xấu này nhưng chưa thể khống chế nó bởi vì sự dính mắc của chúng
ta với thực phẩm quá mạnh, thì chúng ta không có lỗi
khi ăn một miếng bánh. Tuy thế, chúng ta cố gắng để làm
tăng sự tự kiểm soát của chúng ta bằng việc lấy một miếng
bánh nhỏ và không quá thường.
b-
Hai hành vi lỗi lầm bất lợi cho việc phát triển sự nhiệt
tình bố thí sự bảo hộ cho người khác khỏi những hoàn
cảnh sợ hãi
3- Không biểu
lộ sự tôn trọng đến những người lớn tuổi (Giới khinh thứ 3)
Những đối tượng
của hành vi này kể cả cha mẹ, giáo viên, những ai với các phẩm
chất tuyệt hảo và trong tổng quát, bất cứ người nào thâm
niên hay đơn giản là lớn tuổi hơn chính chúng ta.
Khi chúng ta không nhường chỗ ngồi trên xe buýt, gặp họ ở phi trường,
không giúp mang hành lý của họ, do bởi sự tự kiêu, sân
hận, thù oán, lười biếng, dửng dưng hay quên
lãng, chúng ta để mặc họ với một hoàn cảnh sợ
hãi và lo lắng khó khăn để đối phó.
4- Không trả
lời khi người hỏi chúng ta (Giới khinh thứ 4)
Do
bởi sự kiêu ngạo, sân hận, thù oán, lười biếng, dửng
dưng, hay quên lãng, không trả lời một cách vui vẻ với
những câu hỏi chân thành của người khác. Bằng việc tảng lờ
họ, chúng ta để họ trong tình trạng lúng túng mà không
ai để ý tới - và cũng ở trong một tư thế sợ hãi và
không an toàn.
Như một sự soi
sáng chi tiết thấy trong luận giải của Tông Khách
Ba về những giới nguyện này, chúng ta hãy nhìn vào những ngoại
lệ khi không có lỗi trong việc giữ im lặng hay hoãn lại sự đáp
ứng của chúng ta. Trong dạng thức của chính chúng
ta như căn bản cho hành vi này, chúng
ta không cần trả lời nếu chúng ta quá bệnh hay người
hỏi đã cố ý đánh thức ta vào nửa đêm. Ngoại trừ trường
hợp khẩn cấp, thì không lỗi lầm gì trong việc nói với người chờ
đợi cho đến khi chúng ta khỏe hơn hay đến sáng.
Có những ngoại
lệ tùy theo trường hộp, thí dụ, khi người nào đó cắt
lời chúng ta với một câu hỏi trong khi chúng ta đang giảng
dạy người khác, đang thuyết giảng, tiến hành một nghi lễ,
nói lời an ủi người nào đó, đang nghe bài, hay lắng nghe trong một
khóa tu nào đó. Chúng ta nói với họ một cách lịch sự để
hoãn câu hỏi của họ sau đó.
Những hoàn
cảnh nào đó, nhất thiết, đòi hỏi im lặng hãy hoãn
lại câu trả lời. Thí dụ, nếu chúng ta trả
lời trong chiều sâu của một câu hỏi về các địa ngục trong một
buổi thuyết giảng công cộng ở phương Tây về Phật Giáo,
thì chúng ta có thể làm mọi người khựng lại, tạo ra một trở
ngại trong việc liên hệ của họ với giáo Pháp. Việc im
lặng thích hợp hơn, thí dụ thế, nếu trong việc trả
lời câu hỏi của người nào đó là việc chất vấn định
kiến về hoàn cảnh chủng tộc,… của chúng ta, thì chúng
ta có thể làm cho người đó không thích chúng ta và do thế
không tiếp thu sự giúp đở của chúng ta. Im
lặng cũng tốt hơn nếu nó sẽ làm người khác dừng lại việc hành
động một cách tàn phá và hướng họ đến một thái độ xây dựng hơn
- thí dụ, khi người ta lệ thuộc một cách tâm
lý vào chúng ta và đòi hỏi chúng ta trả lời mọi
câu hỏi trong đời sống của họ và chúng ta mong muốn dạy
họ thực hiện những quyết định và nghĩ ra mọi thứ cho chính
họ.
Xa hơn nữa,
nếu chúng ta đang ở trong một khóa tu thiền với
một quy tắc im lặng và nếu ai đó hỏi chúng ta một câu
hỏi, thì không cần phải nói. Cuối cùng, tốt nhất là kết
luận bằng phần hỏi và trả lời vào lúc cuối buổi thuyết
giảng vì tiếp tục khi thính chúng đã mệt mõi và quá
trể, thì chúng ta có thể tạo ra sự bực bội và tức giận.
c-
Hai hành vi lỗi lầm của việc không cung
ứng những hoàn cảnh cho người khác trau dồi và thực hành bố
thí
5- Không
chấp nhận khi được mời như một vị khách (Giới khinh thứ 5)
Nếu chúng
ta từ chối một cuộc viếng thăm hay một bửa ăn do vì ngã mạn, sân
hận, thù oán, lười biếng, hay dửng dưng, chúng ta lấy
mất đi cơ hội cho người khác xây đắp năng lực tích
cực phước đức (punya), từ việc mến mộ hiến tặng. Ngoại trừ có
những lý do chính đáng để từ chối, thì chúng ta chấp
nhận bất chấp việc ngôi nhà có thể khiêm tốn như thế nào.
6- Không nhận những
tặng phẩm vật chất (Giới khinh thứ 6)
Cùng lý
do như trường hợp thứ 5.
d-
Một hành vi lỗi lầm bất lợi cho việc phát triển bố
thí giáo huấn
7- Không ban bố
giáo Pháp cho những người mong muốn học hỏi (Giới khinh thứ 7)
Ở đây động cơ
cho việc từ chối giảng dạy Phật giáo, cho mượn sách Phật giáo,
chia sẻ tập vở của chúng ta và v.v…, là sân hận, thù
oán, ganh tỵ rằng người khác cuối cùng sẽ vượt
xa chúng ta, lười biếng, hay dửng dưng. Trong trường
hợp của Bồ tát giới trọng thứ hai, chúng ta từ
chối do bởi dính mắc và bỏn xẻn.
III- Chín Hành
Vi Lỗi Lầm Bất Lợi Cho Việc Tu Tập Giới Ba La Mật
Nguyên tắc đạo
đức tự giác, trì giới (sila) là thái độ kiềm
chế khỏi những hành vi tiêu cực. Nó cũng bao
gồm nguyên tắc để dấn thân trong những hành vi tích cực và
giúp đở người khác.
Trong chín hành
vi lỗi lầm ngăn trở sự phát triển nguyên tắc đạo đức tự
giác, bốn liên hệ đến những hoàn cảnh mà trong ấy
sự quan tâm chính của chúng ta là người khác, ba liên
hệ hoàn cảnh của chính chúng ta, và hai liên hệ cả
tự chúng ta và người khác.
a-
Bốn hành vi lỗi lầm liên hệ đến những hoàn
cảnh mà trong ấy sự quan tâm chính của chúng ta là
người khác
1- Tảng lờ những người
với đạo đức đổ vở (Giới khinh thứ 8)
Nếu, do
bởi sân hận, thù oán, lười biếng, dửng dưng hay quên
lãng, chúng ta phớt lờ, thờ ơ, hay xem thường những ai
đã vi phạm giới nguyện của họ hay ngay cả phạm phải những tội ác ghê
tởm, thì chúng ta đã làm yếu đi nguyên tắc giới
đức của chúng ta để dấn thân trong những hành vi tích
cực và để giúp đở người khác. Những người như vậy đặc biệt cần
sự quan tâm và chú ý của chúng ta vì họ đã xây
đắp những nguyên nhân cho khổ đau và bất
hạnh trong hiện tại và tương lai. Không có sự tự mãn
hay phẩn nộ về đạo đức, chúng ta cố gắng giúp đở
họ, thí dụ bằng việc giảng dạy việc hành thiền cho những tù nhân quan
đến trong những trại giam.
2- Không bảo
vệ sự tu tập đạo đức vì mục tiêu đối với những người
khác tín ngưỡng (Giới khinh thứ 9)
Đức Phật đã cấm
nhiều hành vi mà mặc dù không tàn phá một cách tự nhiên,
nhưng bất lợi cho tiến trình tâm linh của chúng
ta - thí dụ, những cư sĩ và tu sĩ uống rượu,
và tu sĩ chung phòng với một thành viên khác phái. Việc kềm
chế khỏi thái độ như vậy là việc tu tập thông thường
của cả những hành giả Thanh Văn Thừa và Bồ tát
đạo, chúng ta phớt lờ những cấm đoán này do bởi thiếu
sự tôn trọng hay tin tưởng trong những giáo huấn đạo
đức của Đức Phật, hay do bởi lười biếng để thực
tập sự tự kiểm soát, chúng ta làm người khác thấy thái
độ của chúng ta và đánh mất niềm tin và sự ngưỡng mộ
đối Phật tử và Phật Giáo. Do thế, với việc quan tâm cho cảm
giác về phẩm hạnh của chúng ta làm đối với người
khác, chúng ta kiềm chế, thí dụ, với việc dùng những thứ thuốc
men tiêu khiển.
3- Biểu hiện nhỏ nhen
khi quan tâm đến lợi ích của những người khác (Giới khinh
thứ 10)
Đức Phật lập ra
nhiều quy tắc thứ yếu cho những tu sĩ để rèn
luyện thái độ của họ, thí dụ, luôn luôn có ba y nơi chúng
ta ngủ. Tuy nhiên, đôi khi nhu cầu của người khác gạt qua một bên
sự cần thiết tuân theo việc tu tập thứ yếu
này, thí dụ, nếu người nào đấy ngã bệnh và chúng ta cần chăm sóc
cả đêm cho người ấy. Nếu do bởi sân hận hay kiêu
ngạo đối với người ấy, hay đơn giản là lười biếng để ở cả
đêm, chúng ta từ chối rằng vì không có ba y với chúng ta,
thì chúng ta vi phạm với hành động lỗi
lầm này. Thể hiện như một kẻ giáo điều với những giới
luật làm cản trở sự phát triển cân bằng đạo đức tự
giác của chúng ta.
4- Không vi
phạm một hành vi tiêu cực khi từ ái và bi mẫn kêu
gọi cho việc ấy (Giới khinh thứ 11)
Thảng hoặc,
những hoàn cảnh cực đoan nào đó sinh khởi mà trong
ấy lợi ích của người khác bị nguy hại nghiêm trọng và không
có một các nào khác có thể ngăn chặn thảm họa hơn là việc vi phạm một
trong bảy hành vi tàn phá của thân thể hay lời nói. Có
7 thứ loại này là lấy một mạng sống, lấy thứ không được cho,
nuông chiều trong một thái độ tình dục không thích
đáng, nói dối, nói lời chia rẻ, sử dụng ngôn ngữ độc ác,
hay bàn tán một cách vô nghĩa. Nếu chúng ta thực
hiện một hành vi như vậy mà không với bất cứ cảm
xúc phiền não nào vào lúc ấy, chẳng hạn như sân
hận, tham dục, hay ngu ngơ về nhân và quả, mà được động viên chỉ bởi
nguyện ước để ngăn ngừa sự khổ đau của người khác - hoàn
toàn tự nguyện chấp nhận cho chính chúng ta bất
cứ hậu quả tiêu cực nào có thể xảy đến, thậm chí đau
đớn như địa ngục - thì chúng ta không làm tổn hại đến
nguyên tắc đạo đức tự giác hoàn thiện hay giới ba la
mật. Trong thực tế, chúng ta xây đắp vô lượng phước
đức (năng lực tích cực) mà nó sẽ đẩy nhanh tiến độ trên con
đường tâm linh của chúng ta.
Việc từ chối làm
những hành vi tàn phá này khi nhu cầu cần thiết là
phạm lỗi lầm, tuy nhiên, chỉ nếu chúng ta đã tiếp
nhận và giữ gìn những giới Bồ tát một cách thuần
khiết. Sự thận trọng của chúng ta để hoán đổi hạnh
phúc của chúng ta vì lợi ích của người khác luôn luôn
làm chướng ngại sự hoàn thiện đạo đức tự
giác hay giới ba la mật của chúng ta để giúp đở người
khác. Sẽ không có lỗi lầm gì nếu chúng ta chỉ có
một lòng bi mẫn hời hợt và không giữ giới Bồ
tát hay tu tập trong hạnh kiểm được vạch ra bởi các giới
ấy. Chúng ta nhận ra rằng vì lòng bi
mẫn của chúng ta là yếu kém và không vững vàng,
kết quả khổ đau chúng ta có thể trải nghiệm từ những hành
vi bất thiện ấy có thể dễ dàng làm cho chúng ta miễn
cưỡng với hạnh kiểm của Bồ tát. Chúng ta có thể ngay
cả từ bỏ con đường hành động để giúp đở kẻ khác. Giống huấn thị
rằng Bồ tát trong những giai tầng thấp nếu họ thử tiến hành những
sự tu tập của các vị Bồ tát ở những giai tầng cao hơn thì
chỉ có thể làm tổn hại chính họ và những năng lực của họ để
giúp đở người khác - chẳng hạn như cho cọp ăn thịt của họ -
thật tốt hơn là chúng ta nên hãy thận trọng và
nén lại.
Vì có thể có lầm
lẫn về những hoàn cảnh nào kêu gọi một hành động của Bồ
tát như vậy, cho nên chúng ta hãy nhìn vào những thí
dụ được trích từ những luận giải. Xin hãy nhớ trong tâm rằng đây
là hành vi cuối cùng được dùng đến khi tất cả những phương
tiện khác không thể sử dụng hữu hiệu để làm nhẹ bớt hay
để ngăn ngừa sự khổ đau của người khác. Như một vị Bồ
tát mầm non triển vọng, chúng ta sẳn sàng lấy
đi mạng sống của một người nào đó sắp thực hiện một sự giết hại
nhiều người. Chúng ta không do dự trong việc tịch thu sung
công thuốc men dành cho nổ lực cứu trợ một đất nước chiến tranh mà người nào đó
đã lấy để đi bán chợ đen, hay tịch thu một quỹ từ thiện mà
người quản lý nào đó đang biển thủ hay sử
dụng lãng phí. Chúng ta sẳn sàng, nếu là đàn ông, có chuyện ấy
với vợ người khác - hay với một người nữ chưa có gia đình mà cha
mẹ người ấy cấm cản, hay với bất cứ một người phối ngẫu không thích
đáng nào khác - khi người kia có mong ước mạnh mẽ trong
việc phát tâm giác ngộ nhưng bị tràn
ngập với tham muốn tình dục với chúng ta và người
ấy nếu chết vì không có chuyện tình dục với chúng ta, sẽ mang
mối ác cảm như một bản năng vào những kiếp sống tương lai.
Như một kết quả, người ấy sẽ cực kỳ thù địch đối với chư vị Bồ
tát và con đường Bồ tát.
Chư Bồ
tát chí nguyện tham dự trong những hành vi tình dục không thích
đáng khi tất cả những thứ khác thất bại trong việc cứu giúp người nào đó
khỏi phát triển một thái độ tiêu cực quá độ đối
với con đường tâm linh vị tha sinh khởi một quan
điểm quan trọng cho những cặp đôi vợ chồng trên con đường Bồ
tát quan tâm. Đôi khi một cặp đôi trở thành liên
hệ trong Phật Pháp và một trong người trong họ, mong
ước độc thân, chấm dứt mối quan hệ tình dục với người
phối ngẫu của họ khi người ấy không cùng tư tưởng. Người kia vẫn còn dính
mắc với tình dục và xem quyết định của người kia như sự từ
chối cá nhân. Đôi khi sự cuồng nhiệt với Phật Pháp của
người kia và thiếu sự nhạy cảm làm cho người phối ngẫu đổ thừa
sự thất vọng của người ấy và không vui với Phật Pháp.
Người ấy lìa bỏ hôn nhân và quay lưng lại với Phật
Pháp với sự phẩn nộ cay đắng. Nếu không có cách nào để
tránh phản ứng thù địch của người kia đối với con
đường tâm linh và người phối ngẫu hâm mộ Phật
Pháp đang giữ giới Bồ tát, người ấy sẽ làm tốt trong
việc đánh giá lòng bi mẫn của người ấy để quyết
định có đủ mạnh để cho phép người ấy có chuyện tình
dục thỉnh thoảng với người phối ngẫu mà không làm tổn
hại nghiêm trọng đối với năng lực giúp đở người khác của
người phối ngẫu hâm mộ Phật Pháp. Điều này rất liên
hệ trong dạng thức của những thệ nguyện mật tông quan tâm đến thái
độ trong sáng.
Như những vị Bồ
tát mầm non triển vọng, chúng ta sẳn sàng lừa dối khi
nó có thể cứu được mạng sống của người khác hay ngăn ngừa người khỏi
bị tra tấn và bị làm thương tật. Chúng ta không do
dự để nói chia rẻ để tách biệt con cái chúng ta khỏi đám đông bè
bạn hư hỏng - hay các đệ tử khỏi những vị thầy hướng dẫn sai
lạc - những người đang sử dụng những ảnh hưởng tiêu
cực đối với chúng và thúc đẩy những thái độ và hành
vi tổn hại. Chúng ta không kềm chế trong việc sử
dụng những ngôn ngữ thô lỗ để đưa con cái chúng
ta khỏi những cung cách tiêu cực, như không làm bài tập ở
nhà, khi chúng không lắng nghe lý do. Và khi những người khác, hấp
dẫn trong Phật Giáo, hoàn toàn say mê trong tán gẫu, uống
rượu, tiệc tùng, ca hát, nhảy múa, hay kể lễ đùa bợt với những câu
chuyện bạo lực, thì chúng ta sẳn sàng tham dự vì nếu
từ chối sẽ làm những người này cảm thấy rằng chư Bồ tát, và
các Phật tử nói chung, không bao giờ vui đùa và rằng con
đường tâm linh là không phải dành cho họ.
b-
Ba hành vi lỗi lầm liên hệ đến hoàn cảnh của
chính chúng ta
(5) Sinh sống
qua cách sống sai lầm- tà mạng (Giới khinh thứ 12)
Lối sống như vậy
là những phương tiện không trung thực, một cách chính
yếu là 5 loại quan trọng: (a) giả vờ hay đạo đức giả, (b)
tâng bốc hay dùng lời ngọt ngào để đánh lừa kẻ khác, (c) dọa
dẫm, tống tiền, hay đùa cợt trên tội lỗi của người ta,
(d) đòi hỏi hối lộ hay tiền phạt chính xác cho những lỗi
lầm tưởng tượng, và (e) đưa hối lộ để đạt được điều gì đó nhiều
hơn. Chúng ta dùng đến những phương tiện như vậy do
bởi hoàn toàn thiếu vắng một cảm nhận tự trọng đạo đức hay
dè dặt.
(6) Trở nên hào hứng
và đi đến một hành động phù phiếm nào đó (Giới khinh thứ 13)
Do bởi việc
không toại nguyện, rỗi rảnh, chán chường, hay hiếu động thái
quá, và thèm muốn một sự phấn khích nào đó, rồi chạy đến một trò
chơi tiêu khiển vô bổ nào đó - như đi quẩn quanh trong
một trung tâm mua bán, bật hết đài tivi này qua đài tivi khác, chơi
trò chơi điện tử và v.v… Chúng ta mê mẫn hoàn toàn và không
thể kiểm soát. Nếu chúng ta dấn thân trong những hành
vi như vậy với những người khác nhằm để dằn cơn giận dữ của họ
hay làm giải tỏa cơn chán chường của họ, để giúp họ nếu họ bị ghiền với những
thứ như vậy, để có lòng tin với họ nếu chúng ta nghĩ rằng
họ thù địch với chúng ta, hay để củng cố mối thân
hữu vốn có, thì chúng ta không làm tổn hại việc tu
tập kỷ luật tự giác của chúng ta để hoạt
động một cách tích cực và để giúp đở người khác. Tuy nhiên,
nếu chúng ta chạy đến những hành vi như vậy và cảm
thấy không có điều gì khá hơn để làm, thì chúng ta đang tự lừa
dối mình. Luôn luôn có những điều gì đó khá hơn để làm. Tuy nhiên, đôi
khi chúng ta cần khoảng thời gian giúp để làm mới lòng
nhiệt tình và năng lượng của chúng ta khi chúng
ta trở nên mệt mõi hay chán nản. Không có lỗi lầm gì trong
ấy, chừng nào chúng ta có thiết lập những giới
hạn hợp lý.
(7) Chỉ nhắm đến việc
lang thang trong cõi luân hồi (Giới khinh thứ 14)
Nhiều kinh
điển giải thích rằng các vị Bồ tát mong muốn ở lại trong
cõi luân hồi hơn là đạt đến giải thoát cho chính họ.
Thật là một lỗi lầm để hiểu điều này theo ngôn ngữ có nghĩa
là không hành động để vượt thắng những cảm xúc và thái
độ phiền não và đạt đến giải thoát, mà chỉ giữ
những vọng tưởng và hoạt động với chúng để giúp đở người
khác. Điều này khác với giới trọng thứ 10 của Bồ tát giới là
việc từ bỏ tâm giác ngộ, mà với nó chúng ta quyết
định hoàn toàn chấm dứt việc hành động cho việc giải
thoát và Giác Ngộ. Ở đây, chúng ta quả thật xem nó
không quan trọng và không cần thiết trong việc giải
thoát chính chúng ta khỏi các cảm xúc phiền não, là
thứ làm yếu kém một cách nghiêm trọng đạo đức tự
giác hay giới ba la mật của chúng ta. Mặc dù trên con
đường Bồ tát, một cách đặc biệt là khi tu tập trong
Tantra Yoga Tối Thượng (Anuttarayoga Tantra), chúng
ta chuyển hóa và sử dụng năng lượng của tham
dục để nâng cao tiến trình tâm linh của chúng ta,
nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta để sự tham dục tự
do thống trị chúng ta và không hành động để thoát
khỏi chúng.
c- Hai
lỗi lầm liên hệ đến cả chúng ta và người khác
(8) Không từ
bỏ thái độ làm chúng ta tai tiếng (Giới khinh
thứ 15)
Giả sử chúng
ta thích ăn thịt. Nếu chúng ta ở trong những Phật
tử ăn chay và chúng ta đòi ăn thịt bít tết,
thì chúng ta mời người ta phê phán và không tôn trọng. Họ sẽ
không quan tâm những lời về Phật Pháp của chúng
ta một cách nghiêm túc và sẽ lan truyền những câu
chuyện về chúng ta, và cũng làm cho người khác không tiếp
thu sự giúp đở của chúng ta. Như những Bồ tát triển vọng,
nếu chúng ta không tự từ bỏ thái độ như vậy, thì đó là
một lỗi lầm lớn.
(9) Không điều
chỉnh những ai hành động với những cảm xúc và thái dộ phiền
não (Giới khinh thứ 16)
Nếu chúng
ta ở trong một vị thế có thẩm quyền trong một văn phòng,
trường học, tu viện hay gia đình, do bởi dính mắc đến
những thành viên nào đó hay mong muốn như vậy, chúng
ta không rầy la hay trừng phạt những ai với thái
độ và cảm xúc phiền não là những người đang hành động một
cách rối loạn, thì chúng ta làm tổn hại kỷ luật
và đạo đức của cả nhóm.
IV- Bốn Hành
Vi Lỗi Lầm Bất Lợi Cho Việc Tu Tập Nhẫn Ba La Mật
Nhẫn nại bao
dung (Kshanti) là việc tự nguyện để đối phó, mà không sân
hận với những ai đang làm tổn hại, với sự gian khó liên
hệ trong việc thực hành Phật Pháp, và với sự khổ đau của
chính chúng ta.
(1) Từ
bỏ bốn rèn luyện tích cực (Giới khinh thứ 17)
Những tu
tập này là không trả lại một sự làm hại khi (a) bị gièm pha hay
bình phẩm, (b) bị làm mục tiêu cho sự sân hận của kẻ khác,
(c) bị đánh đập, (d) bị làm nhục. Vì việc tu tập của chính chúng
ta là không trả lại một sự làm hại trong bốn hoàn cảnh cố
gắng này hoạt động như một nguyên nhân cho
việc nhẫn nhục của chúng ta lớn mạnh, nếu chúng
ta bỏ điều này qua một bên thì chúng ta làm tổn
hại việc phát triển đặc điểm tích cực này.
(2) Phớt lờ những
ai sân hận với chúng ta (Giới khinh thứ 18)
Nếu người khác
bị quấy rầy với chúng ta và ôm ấp mối ác cảm, nếu
không làm gì với việc này và không cố gắng để làm khuây khỏa
sự sân hận của họ, do bởi kiêu hảnh, thù
oán, ganh tỵ, lười biếng, dửng dưng, hay không quan tâm,
thì chúng ta làm cản trở sự hoàn thiện nhẫn ba la
mật bởi vì chúng ta cho phép sự đối
kháng của nhẫn nhục, cụ thể là sân hận, tiếp
tục sức mạnh. Để tránh lỗi lầm này, chúng ta xin
lỗi cho dù chúng ta có gây mất lòng hay làm bất cứ
điều gì sai hay không.
(3) Từ chối
sự xin lỗi của người khác (Giới khinh thứ 19)
Giới trọng thứ ba
của Bồ tát giới là không lắng nghe sự xin lỗi của người
khác khi họ cầu xin sự tha thứ vào thời
khắc khi chúng ta sân hận với họ. Ở đây, chúng
ta không chấp nhận sự xin lỗi của họ sau duyên sự,
khi chúng ta đang ôm ấp một mối ác cảm.
(4) Sống
trong sân hận (Giới khinh thứ 20)
Một khi chúng
ta sân hận trong bất cứ hoàn cảnh nào, thì chúng
ta hành động trái ngược với sự phát triển của nhẫn nại bao
dung nếu chúng ta sống với nó, ôm ấp mà không áp
dụng những năng lực đối trị để chống lại nó.
V- Ba Hành
Vi Lỗi Lầm Bất Lợi Cho Việc Tu Tập Tấn Ba La Mật
Tinh tấn ba la
mật hay nhiệt tình tích cực (virya) là tiếp
nhận sự vui mừng lớn trong việc làm những gì xây
dựng.
(1) Tập hợp
một phạm vi những môn nhân do bởi tham
muốn sự sùng bái và tôn kính (Giới khinh thứ 21)
Khi chúng
ta tập hợp một nhóm những người bạn, những người thán phục, hay
học trò, hay quyết định để kết hôn hay sống với người nào đó, nếu
động cơ của chúng ta là nguyện ước cho người khác biểu
lộ sự tôn kính chúng ta, cho chúng ta yêu
thương và tình cảm, cho chúng ta phẩm vật, phục
vụ chúng ta, xoa bóp lưng chúng ta, và làm việc hàng ngay
cho chúng ta, thì chúng ta đánh mất nhiệt tình hay làm bất cứ điều
gì tích cực , chẳng hạn như giúp đở người khác. Chúng
ta hấp dẫn với một kiểu mẫu vận hành thấp kém, cụ
thể là nói người khác làm điều gì đó cho chúng ta.
(2) Không làm bất cứ việc gì, vì lười biếng và
v.v…(Giới khinh thứ 22)
Nếu chúng
ta chìm trong lười biếng, dửng dưng, lãnh đạm, đỏng đảnh và
không cảm thấy muốn làm bất cừ điều gì, hay hoàn
toàn không thích thú trong bất cứ việc gì, hay say mê ngủ nghĩ
dài giờ, nằm trên giường cả ngày, ngủ nghĩ thường xuyên, thơ
thẩn quanh quẩn không làm gì cả, thì chúng ta đam mê điều
này và đánh mất nhiệt tình giúp đở người khác. Dĩ nhiên, chúng
ta nghĩ ngơi khi chúng ta bệnh hay kiệt lực, nhưng thật là
một lỗi lầm lớn để làm hư thân chúng ta bằng việc
quá ngờ nghệch.
(3) Sắp xếp
để thời gian trôi qua với những câu chuyện, vì sự dính mắc
(Giới khinh thứ 23)
Chướng ngại thứ
ba ngăn trở sự phát triển nhiệt tình giúp đở người khác là lãng
phí thời gian trong những kiểu thức vô nghĩa. Điều
này liên hệ đến việc nói, nghe, đọc, xem tivi hay phim ảnh, hay tìm
trên Internet những câu chuyện về tình dục, bạo động, nhân
vật danh tiếng, âm mưu chính trị, và v.v…
VI- Ba Hành
Vi Lỗi Lầm Bất Lợi Cho Việc Rèn
Luyện Trong Thiền Ba La Mật
Thiền định ba la mật,
hay tập trung, tĩnh lự (dhyana), là thể trạng của tâm
thức không đánh mất sự cân bằng hay tập trung vì những cảm
xúc phiền não, tán loạn hay trạo cử.
(1) Không tìm
kiếm những phương tiện để đạt đến nhất
tâm hay tam muội (Giới khinh thứ 24)
Nếu do
bởi kiêu hảnh, thù oán, lười biếng, hay dửng dưng, cho
nên chúng ta không tham dự việc giảng dạy vấn
đề ổn định tâm thức chúng ta trong tam
muội, nhất tâm (samadhi) khi một vị thầy thuyết giảng về
chúng, chúng ta làm sao có thể trau dồi hay làm nổi bật sự
ổn định tâm thức của chúng ta? Nếu chúng ta bệnh
hoạn, nghi ngờ rằng những sự hướng dẫn là không đúng, hay đã đạt
được sự tập trung hoàn hảo, thì chúng ta không cần đến.
(2) Không
giải thoát chúng ta khỏi những chướng ngại ngăn trở sự
ổn định tinh thần (Giới khinh thứ 25)
Khi thực
tập thiền để đạt đến tam muội nhất tâm, chúng
ta chạm trán nhiều chướng ngại quan trọng. Nếu chúng
ta chịu thua và không cố gắng để loại trừ chúng, chúng
ta làm tổn hại việc phát triển sự ổn định tinh
thần của chúng ta. Nếu chúng ta đang cố
gắng để loại bỏ chúng, nhưng chưa thành công,
thì chúng ta không có lỗi lầm gì. Năm chướng
ngại là (a) những xu hướng theo đuổi bất cứ thứ nào trong
năm loại tham muốn của giác quan - tham dục, (b)
những tư tưởng của kiêu mạn, (c) uể oải, buồn
ngủ - hôn trầm, (d) gàn bướng và hối hận, và (e) do
dự nghi ngờ.
(3) Xem những hương
vị an lạc từ việc định tâm như tiến bộ chính của
nó (Giới khinh thứ 26)
Thông
thường, chúng ta gắn chặc năng lượng chúng ta rất
nhiều trong căng thẳng, lo lắng, do dự, những tư
tưởng oán giận hay khao khát, và v.v…, hay đè nặng chúng xuống
với hôn trầm và mê ngủ. Khi chúng ta tập trung và
hòa nhập tâm thức chúng ta càng sâu hơn, thì chúng
ta sẽ giải phóng càng nhiều hơn những năng
lượng này. Chúng ta trải nghiệm điều này như một cảm
giác an lạc của tâm thức và thân thể. Sự an
lạc càng mạnh mẽ, nó càng đưa chúng ta vào sự nhất
tâm xa hơn. Vì lý do này, trong Tantra Yoga Tối
Thượng chúng ta sản sinh và sử dụng thậm chí những thể
trạng diệu lạc mạnh mẽ hơn của tâm thức hơn là những
người chỉ đơn thuần có được từ sự tập trung hoàn hảo, nhằm
để đạt đến hoạt động tinh thần linh quang vi
tế nhất và hòa nhập nó trong sự thấu hiểu về tánh không.
Nếu chúng ta bị dính mắc với hương vị an lạc mà chúng
ta có được ở bất cứ giai tầng nào của việc phát triển sự ổn định tinh
thần, cho dù nó có liên kết với sự thực hành mật tông hay
không, và chúng ta xem việc thụ hưởng niềm vui
sướng có được từ sự an lạc như mục tiêu chính
yếu của sự thực hành, thì chúng ta sẽ gây trở
ngại nghiêm trọng cho việc phát triển thiền ba la
mật của chúng ta.
VII- Tám Hành
Vi Lỗi Lầm Bất Lợi Cho Việc Rèn Luyện Trong Tuệ
Ba La Mật
Phân biệt tỉnh
giác hay tuệ ba la mật (prajna), là nhân tố tinh
thần phân biệt một cách chính xác giữa những gì đúng và
không đúng, thích đáng và không thích đáng, lợi
ích và tổn hại, và v.v…
(1) Từ
bỏ con đường Thanh văn thừa (Giới khinh thứ 27)
Giới trọng thứ sáu
của Bồ tát giới là cho rằng những giáo điển của Thanh
văn thừa không phải là lời của Phật, trong khi giới thứ 14 là nói rằng
những hướng dẫn trong ấy là không hiệu quả cho việc loại trừ dính
mắc, chấp trước và v.v… Giới thứ 13 là nói rằng chư Bồ
tát giữ gìn những giới điều ba la đề mộc xoa (giải
thoát cá nhân) - một phần của giáo huấn Thanh văn thừa -
rằng không cần chúng, như những vị Bồ tát, để giữ gìn những giới
điều này. Ở đây, hành vi lỗi lầm đơn giản chỉ là nghĩ và
nói với người khác rằng chư vị Bồ tát không cần nghe những giáo
huấn của Thanh văn thừa - một cách đặc biệt liên quan
đến những giới điều của Thanh văn thừa - hay giữ
gìn hay tu tập với chúng. Không ai thật sự cần phải từ
bỏ những giới điều của họ.
Trong việc học
hỏi và giữ gìn giới luật, chúng ta tăng
trưởng năng lực của chúng ta để phân biệt giữa
những loại thái độ nào là nên tiếp nhận và từ bỏ. Bằng
việc phủ nhận nhu cầu tu tập với những giới luật ba la đề
mộc xoa, chúng ta làm yếu kém sự phát triển tỉnh
giác phân biệt, tuệ giác. Chúng ta cũng phán xét một
cách sai lầm giáo huấn Thanh văn thừa như chỉ cần
thiết cho hàng Thanh văn, và vô giá trị với những
vị Bồ tát.
(2) Sử
dụng nổ lực trong ba la đề mộc xoa trong khi có
những phương pháp riêng của chúng ta (Giới khinh thứ 28)
Nếu chúng
ta sử dụng toàn bộ những nổ lực của chúng ta trong
việc chỉ học hỏi và giữ gì những giới luật giải
thoát cá nhân (của Thanh văn thừa), để quên
lãng việc học hỏi và tu tập trong những giáo
huấn Bồ tát rộng rãi quan tâm đến từ ái và bi
mẫn, thì chúng ta cũng làm yếu đi tuệ giác của chúng
ta. Khi chúng ta dùng nổ lực trong giáo huấn của Thanh
văn thừa thì đồng thời chúng ta cũng phải hoạt
động trong những giáo huấn của Bồ tát đạo.
(3) Sử
dụng nổ lực trong việc học hỏi những sách vở không
phải Phật Giáo khi nó không được hoàn thành (Giới khinh thứ
29)
Theo những luận
giải, những sách vở không phải Phật Giáo liên hệ đến
những hoạt động về luận lý và văn phạm. Chúng ta có
thể bao gồm không nghi ngờ gì về những sách vở học
hỏi ngoại ngữ hay bất cứ chủ đề nào chương trình giáo
dục hiện đại, chẳng hạn như toán học, khoa học, tâm lý học
và triết học. Lỗi lầm ở đây là đặt toàn bộ nổ lực
của chúng ta vào việc nghiên cứu những môn này và quên
lãng việc học hỏi và thực hành Đại Thừa vì
thế cuối cùng quên hết cả. Nếu chúng ta cực kỳ thông
minh, có thể học mọi thứ một cách nhanh chóng, có sự thông hiểu vững
chải và ổn định về giáo huấn Đại Thừa căn cứ trên luận lý
và lý trí, và có thể ghi nhớ những giáo huấn này trong tâm
thức một thời gian dài, thì không có lỗi lầm gì trong
việc học hỏi những sách vở không Phật Giáo nếu mỗi
ngày chúng ta duy trì việc học tập và thực hành Đại
Thừa của chúng ta.
Những sinh viên
Phật Giáo không phải người Tây Tạng mong ước học Tạng ngữ
sẽ làm tốt nếu giữ lời hướng dẫn này trong tâm. Nếu họ có thể học
hỏi ngôn ngữ một cách nhanh chóng và dễ dàng, thì họ đã có một nền
tảng vững vàng trong Phật Giáo, và có đủ thời
giờ để học hỏi cả ngôn ngữ và Phật Pháp, họ
sẽ đạt được nhiều lợi lạc từ việc học hỏi Tạng
ngữ. Họ có thể sử dụng nó như một khí cụ để làm sâu sắc cho việc học
tập. Tuy thế, nếu chúng ta thấy rằng ngôn ngữ là khó
khăn, chỉ thời gian và năng lực thuận lợi hạn chế, và
chưa có một sự thấu hiểu tốt về Phật Giáo hay một sự tu
thiền ổn định mỗi ngày, thì họ sẽ làm tổn hại và trở ngại cho
việc phát triển tâm linh của họ qua việc học Tạng ngữ. Thật quan
trọng để phán xét những gì ưu tiên.
(4) Ngay cả nếu
có thể sử dụng năng lực của chúng, (nhưng) trở
thành say mê (Giới khinh thứ 30)
Nếu chúng
ta có khả năng để học hỏi những thứ không phải Phật Giáo,
chẳng hạn như ngôn ngữ Tây Tạng, với tất cả những quy
định ở trên, nếu chúng ta trở thành say mê với chủ
đề ấy, thì chúng ta có thể từ bỏ sự thực
hành tâm linh và tập trung hoàn toàn vào chủ
đề kém quan trọng này. Tinh thông tiếng Tạng hay toán học
không thể đưa chúng ta đến sự giải thoát khỏi
những cảm xúc và thái độ phiền não, cũng như những rắc
rối và khổ đau mà chúng gây ra. Nó không cho chúng ta năng
lực để hổ trợ người khác một cách tròn vẹn như có thể. Chỉ việc hoàn
thiện tâm giác ngộ và các ba la mật, một cách đặc
biệt tuệ giác về tánh không mới có thể đưa chúng
ta đến mục tiêu này. Cho nên, để bảo đảm chống
lại sự say mê với những chủ đề không Phật Giáo - là
những thứ chắc chắn lợi lạc để học hỏi, nhưng không là
những thứ chính yếu để chúng ta tập trung - thì chúng
ta phải học hỏi chúng một cách đúng mức, giữ một quan
điểm thích đáng. Trong cách này, chúng ta phân biệt một
cách đúng đắn những gì là thiết yếu và bảo
vệ chính chúng ta khỏi việc bị lôi cuốn với những vấn
đề kém quan trọng hơn.
(5) Từ bỏ cổ
xe Đại Thừa (Giới khinh thứ 31)
Giới trọng thứ sáu
của Bồ tát là cho rằng kinh luận Đại Thừa không phải
là lời Phật. Ở đây, giới nhẹ này, chúng ta chấp nhận rằng, trong
tổng quát, chúng là có giá trị, nhưng chúng ta bình phẩm những
khía cạnh nào đấy của chúng, một cách đặc biệt những kinh
luận liên hệ đến những việc làm bao la không thể tưởng
tượng được của chư Bồ tát và những giáo huấn thậm thâm không
thể nghĩ bàn về tánh không. Giới trọng bao gồm những miêu
tả về việc chư Phật phân thân trong vô lượng hình
tướng đồng thời để cứu độ vô số chúng
sanh trong vô biên thế giới, trong khi giới nhẹ này bao
gồm những tập hợp kệ tụng ngắn gọn súc tích cực kỳ khó
khăn để suy lường. Chúng ta làm thoái hóa tuệ
giác của chúng ta bằng việc khước từ chúng trong bất cứ 4 cách
này, (a) nội dung của chúng là thấp kém - chúng nói đến những
thứ tuyệt đối vô nghĩa, (b) cung cách biểu lộ của chúng
là thấp kém - văn cú của chúng là tệ hại và không có ý
nghĩa gì, (c) tác giả của chúng là thấp kém - chúng
không phải là lời của một Đức Phật Giác Ngộ, (d) sự sử
dụng của chúng là thấp kém - chúng không có lợi cho bất cứ người
nào. Bằng việc phân tích một cách sai lầm như thế này, trong
một thái độ hẹp hòi và nóng vội, chúng ta làm tổn
hại năng lực của chúng ta để phân biệt bất cứ thứ
gì một cách đúng đắn.
Khi chúng
ta đối diện với những giáo huấn hay kinh
luận mà chúng ta không hiểu, chúng phải duy trì sự cởi
mở. Chúng ta nghĩ rằng mặc dù chúng ta không thể đánh
giá đúng hay suy lường chúng bây giờ, chư Phật và chư Bồ
tát thân chứng cao độ thấu hiểu lời của chúng và, qua sự thực
chứng về ý nghĩa của chúng, các ngài làm lợi ích người
khác trong vô lượng cách. Trong cách này, chúng ta phát
triển sự quyết tâm vững vàng (mos-pa) để cố gắng thấu
hiểu chúng trong tương lai. Không có lỗi lầm gì nếu chúng
ta thiếu sự quyết tâm vững vàng này, nhưng cho
đến khi mà chúng ta không xem thường và phỉ
báng các giáo huấn, thì chúng ta tối thiểu duy
trì sự bình thản, nhận biết rằng chúng ta không thể
thấu hiểu chúng.
(6) Đề cao chính mình
và/ hay xem thường người khác (Giới khinh thứ 32)
Giới trọng thứ
nhất của Bồ tát giới là làm việc này với động cơ tham
muốn lợi lạc hay ganh tỵ. Ở đây động cơ là kiêu hảnh, tự hào,
ngạo mạn, hay giận dữ. Những động cơ như vậy sinh
khởi khi chúng ta tự xem sai lầm như tốt
hơn những người khác.
(7) Không đi vì
lợi ích của Phật Pháp (Giới khinh thứ 33)
Giới trọng thứ hai
của Bồ tát giới là không ban bố giáo Pháp do
bởi chấp trước hay bỏn xẻn. Ở đây, lỗi lầm là không đi
giảng dạy, hay tiến hành nghi thức Phật Giáo , tham
dự các nghi lễ Phật Giáo, hay lắng nghe những bài giảng do
bởi kiêu ngạo, giận dữ, thù oán, lười biếng, hay dửng dưng.
Với động cơ như vậy, chúng ta không phân biệt một
cách đúng đắn những gì có giá trị. Tuy nhiên, sẽ không có
lỗi, nếu chúng ta không đi do bởi cảm thấy chúng
ta không là một vị thầy hay bị bệnh nặng, hay bởi vì chúng
ta nghĩ rằng giáo huấn chúng ta sẽ nghe hay bộ phận nào đó
là không đúng, hay chúng ta biết rằng thính chúng nghe
chúng đã nghe rồi hay đã biết chúng, hay chúng ta đã tiếp
nhận chúng trọn vẹn hay lãnh hội và tinh
thông chúng hoàn toàn vì thế chúng ta không cần lắng
nghe xa hơn, hay chúng ta đã tập trung và thâm
nhập vào giáo huấn cho nên không cần nhắc lại chúng, hay chúng
đã tràn ngập đầu óc chúng ta và chúng ta chỉ rối rắm thêm
nếu nghe nữa. Xa hơn, nếu những vị thầy của chúng
ta sẽ không vui lòng nếu chúng ta đi - chẳng hạn nếu
vị ấy bảo chúng ta làm điều gì khác - chúng ta chắc
chắn không đi.
(8) Tin vào
những ngôn ngữ để chế nhạo một vị thầy (Giới khinh thứ 34)
Chúng
ta làm yếu kém các năng lực của chúng
ta để phân biệt một cách đúng đắn khi chúng
ta phán xét những vị thầy tâm linh bằng ngôn ngữ của
các vị ấy. Chúng ta nhạo báng và phủ nhận những ai nói năng với
một giọng nặng nề, có nhiều lỗi lầm văn phạm, mặc dù những gì
họ giải thích là đúng, và chạy theo những ai nói
năng thanh lịch nhưng hoàn toàn vô nghĩa.
VIII- Mười
Hai Hành Vi Lỗi Lầm Mâu Thuẩn Với Việc Làm Lợi
Ích Cho Người Khác
(1) Không giúp đở những người đang cần (Giới
khinh thứ 35)
Do bởi giận
dữ, thù oán, lười biếng, hay dửng dưng, không đi hổ trợ một trong tám
loại người đang cần giúp đở: (a) trong việc thực hiện một quyết
định về điều gì đó tích cực, thí dụ tại một cuộc hội họp, (b)
trong việc du lịch, (c) trong việc học hỏi một ngoại ngữ
mà chúng ta biết, (d) trong việc tiến hành một nhiệm vụ nào
đó không có lỗi lầm đạo đức, (e) trong việc coi sóc một
ngôi nhà, chùa viện, hay tài sản của họ, (f) trong việc chấm
dứt một cuộc xung đột hay tranh luận, (g) trong việc kỷ
niệm một sự kiện, như một đám cưới, hay (h) trong việc làm việc
từ thiên. Tuy nhiên, không chịu đi không làm tổn
hại những năng lực của chúng ta để giúp đở người khác
nếu chúng ta bệnh hoạn, chúng ta đã hứa hẹn giúp
đở nơi khác, cử người nào khác thích hợp với công việc, dấn thân
trong một nhiệm vụ tích cực nào khác quan trọng hơn, hay bất lực
để giúp đở. Cũng không có lỗi lầm gì nếu nhiệm
vụ là tổn hại người khác, mâu thuẩn với Phật Pháp hay vô
lý, hay nếu những người yêu cầu sự giúp đở của chúng ta có
thể tìm kiếm sự giúp đở nơi khác hay người nào đó đáng
tin cậy hơn cho họ.
(2) Phớt lờ
việc phục vụ người bệnh (Giới khinh thứ 36)
Do bởi giận
dữ, thù oán, lười biếng, hay dửng dưng.
(3) Không
làm giảm bớt khổ đau (Giới khinh thứ 37)
Cũng cùng
những lý do ấy. Bảy loại người khổ não với những khó khăn
đòi hỏi sự chăm sóc đặc biệt: (a) mù, (b) điếc, (c) người tàn tật và què
quặt, (d) khách du lịch mõi mệt, (e) những người khổ đau từ bất cứ loại nào
trong năm chướng ngại[1] ngăn trở việc ổn định tinh thần,
(f) những người với ý xấu và thành kiến mạnh mẽ, và (g) những người
vừa mới bị mất đi địa vị cao.
(4) Không giảng dạy
'người bất chấp' phù hợp với đặc tính của họ (Giới khinh
thứ 38)
Những người bất
chấp liên hệ đến những kẻ không quan tâm đến tiến
trình nhân quả và, do vậy, thái độ của họ sẽ đem đến khổ
đau và rắc rối cho họ trong kiếp này và những kiếp sống tương
lai. Chúng ta không thể giúp đở những người như vậy nếu chúng
ta bất bình và không tán thành tự cho là đúng. Để đến
gần họ, chúng ta cần thiện xảo và điều
chỉnh sự tiếp cận của chúng ta thích hợp với
những hoàn cảnh đặc thù của họ. Thí dụ, nếu láng giềng
của chúng ta là một ham mê săn bắn, chúng ta sẽ không diễn
giảng ồn ào rằng người ấy sẽ bị thiêu đốt nơi địa ngục. Người
ấy chắc chắn sẽ không bao giờ gần chúng ta một
lần nữa. Đúng hơn chúng ta hãy đối xử tốt với người láng giềng
bằng việc nói với người ấy loại phục vụ tốt lành mà người ấy làm
là cung cấp thịt cho gia đình và thân hữu của
người ấy. Một khi người ấy cởi mở với sự khuyến tấn của chúng ta,
thì chúng ta từ từ đề nghị những cách tốt đẹp hơn để thư
giản và làm người khác vui vẻ mà không lấy đi mạng sống của
những chúng sanh khác.
(5) Không đền đáp sự giúp đở đã nhận (Giới
khinh thứ 39)
Không muốn giúp đở
người khác nhằm để đền trả sự giúp đở mà người khác đã cho chúng ta, hay
không nhớ hay ngay cả nghĩ đến việc báo đáp. Tuy nhiên, không
có lỗi lầm gì nếu trong khi chúng ta cố gắng để làm
việc đền đáp, chẳng hạn như khi họ sửa chửa xe cộ của họ, chúng
ta không có kiến thức và khả năng, hay quá yếu. Hơn thế nữa, nếu
những người giúp đở chúng ta không mong ước được đền
trả gì cả, thì chúng ta không ép họ chấp nhận sự đề nghị
của chúng ta.
(6) Không làm nhẹ
nổi khổ não tinh thần của người khác (Giới khinh thứ 40)
Do bởi thù oán,
lười biếng, hay dửng dưng, nếu chúng ta không cố
gắng để an ủi những ai mất người thân, tiền bạc, tài
sản, thì chúng ta có lỗi. Những ai đau khổ hay thất
vọng đòi hỏi tình cảm, sự tử tế, hay sự thấu hiểu chân
thành của chúng ta nhưng chắc chắn không phải lòng
thương hại.
(7) Không ban
cho những ai cần thiết sự từ thiện (Giới khinh thứ 41)
Do bởi giận
dữ, thù oán, lười biếng, hay dửng dưng. Nếu chúng ta bỏn
xẻn, thì đó là một giới trọng.
(8) Không chăm sóc
những nhu cầu trong chu vi của chúng ta (Giới khinh thứ 42)
Sẽ là một lỗi
lầm lớn nếu phớt lờ, do bởi thù oán, lười biếng, hay dửng
dưng, trong chu vi của những người thân, bạn bè, đồng nghiệp, người làm
công, đệ tử, và v.v…, đặc biệt khi dấn thân trong việc xã
hội để giúp đở người khác. Chúng ta cần cung cấp nhu
cầu vật chất của họ và chăm sóc lợi lạc tâm linh của
họ. Làm thế nào chúng ta có thể giả bộ hổ trợ tất
cả chúng sanh nếu chúng ta lãng quên nhu cầu của những
người gần gũi nhất đối với chúng ta?
(9) Không đồng
hành cùng với những sở thích của người khác (Giới khinh thứ 43)
Vậy thì cho
đến khi nào những gì người khác mong ước chúng ta làm hay
những gì họ thích không làm tổn hại họ hay người khác, nó
là một lỗi lầm không đồng ý. Mọi người làm những thứ
khác biệt nhau hay có những sở thích cá nhân riêng.
Nếu chúng ta không tôn trọng điều này, do bởi thù
oán, lười biếng, hay dửng dưng, thì chúng ta bắt đầu
những tranh luận nhỏ nhen về những thứ như ăn chỗ nào, hay
không nhạy cảm với những sở thích của họ và sinh ra khó
chịu hay giận hờn khi gọi thức ăn.
(10) Không nói năng
trong việc ca ngợi tài năng hay những phẩm chất tốt
đẹp của người khác (Giới khinh thứ 44)
Nếu chúng
ta không ca ngợi người khác khi họ đã làm điều gì đó tốt
lành hay đồng ý với sự hoan nghênh của người nào đó về
họ, do bởi giận hờn, thù oán, dửng dưng, hay lười biếng,
thì chúng ta làm yếu kém sự thích thú và nhiệt
tình của chúng ta cho chúng tiếp tục lớn mạnh. Nếu người
khác thẹn thùng khi được ca ngợi, cho dù lúc riêng tư hay công cộng,
hay sẽ trở thành kiêu hảnh hay tự phụ nếu ca ngợi trước mặt họ,
thì chúng ta kềm giữ lời lẽ của chúng ta lại.
(11) Không thi
hành trừng phạt phù hợp với những hoàn cảnh (Giới
khinh thứ 45)
Để giúp người khác,
thật quan trọng để nguyên tắc với họ nếu họ hành động trong thái
độ vô kỷ luật. Nếu không làm như thế, do
bởi những vấn nạn cảm xúc, hay lười biếng, dửng dưng, hay
không quan tâm thì chúng ta làm tổn hại năng
lực của chúng ta để hướng dẫn hiệu quả.
(12) Không sử
dụng những thứ như vậy như những quyền năng vật lý phụ trội
hay năng lực để đánh ngã sự quyến rũ (Giới khinh thứ
46)
Trong những hoàn
cảnh nào đó cần những phương pháp để giúp đở người khác,
chẳng hạn như việc sử dụng những quyền năng vật lý phụ
trội (rdzu-'phrul). Nếu chúng ta sở hữu những phương
tiện này, nhưng không sử dụng chúng khi chúng có thể
là thích đáng và hiệu quả, thì chúng ta làm tổn
hại năng lực để giúp đở người khác của chúng ta. Chúng
ta cố gắng để sử dụng bất cứ tài
năng nào, năng lực nào, và thành tựu nào mà chúng
ta có để làm lợi ích cho người khác.
***
Ẩn Tâm Lộ,
Wednesday, July 01, 2015
Bài liên hệ
Tu
tập từ việc phát tâm giác ngộ nguyện vọng
Căn
Bản Giới Bồ Tát Của Phật Giáo Tây Tạng
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét