Thứ Sáu, 30 tháng 4, 2021

NHỮNG THẬP NIÊN CỦA THAY ĐỔI



Nguyên tác:
Decades of Change
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Đức Đạt Lai Lạt Ma hướng dẫn một buổi thảo luận năm 1979


Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng. Thí dụ, những nguồn thông tin đã nói với tờ Washington Post rằng mục tiêu của Tàu Cộng là tiêu diệt Phật giáo, triệt hạ chính phủ Tây Tạng, và cố gắng tẩy não trẻ em Tây Tạng để đi theo chủ nghĩa Cộng Sản. Những báo cáo xác minh rằng Tàu Cộng đã dùng vũ lực bắt hàng trăm trẻ em từ gia đình của chúng và đưa đến ở chung với những trẻ em mồ côi người Hoa cho mục tiêu đó. Trong những thập niên tiếp theo sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma đào thoát sang Ấn Độ, nhiều điều đã xảy ra, nhưng việc khôi phục độc lập cho Tây Tạng thì không thể.

Năm 1979, hai mươi năm sau khi đào thoát, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã viếng thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên và được trao tặng bằng tiến sĩ danh dự về nhân văn, triết lý Phật giáo, và thần học. Cũng trong năm ấy, chính phủ lưu vong Tây Tạng đã tiếp xúc lần đầu tiên với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, nhưng chỉ có chút ít kết quả. Ngẫu nhiên, cũng năm 1979 thủ đô của Tàu Cộng không được phương Tây gọi là Peking và trở thành được biết như Beijing.

Năm 1989, Đức Đạt Lai Lạt Ma được trao tặng giải Nobel Hòa Bình ở Oslo, Norway. Năm 1999, ngài đã nói chuyện với một đám đông nhiệt tình hai trăm nghìn người tại Công Viên Trung Tâm của thành phố New York. Trong năm 2009, Tây Tạng vẫn ở dưới sự kiểm soát của Tàu Cộng, và chính quyền Tàu Cộng vẫn chống lại bất cứ sự đối thoại trực tiếp nào với Đức Đạt Lai Lạt Ma, và, ở tuổi bảy mươi bốn, ngài vẫn là một người tị nạn, sống lưu vong xa cách với sáu triệu người Tây Tạng muốn thấy ngài trở về quê hương.

1979: LẦN ĐẦU TIÊN TIẾP XÚC VỚI TÀU CỘNG

Vào ngày 2 tháng Tám năm 1979, đã gửi đi một phái đoàn gồm năm thành viên của chính quyền lưu vong Tây Tạng đến Trung Hoa và sau đó đến Tây Tạng. Những đại biểu này được lựa chọn khách quan một cách cẩn thận, với những tri thức về Tây Tạng trước khi bị Tàu Cộng thống trị và của thế giới hiện đại. Mỗi vùng của Tây Tạng được đại diện. Người anh của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Lobsang Samten, đã hoàn tục từ lâu, là một trong những đại biểu.

Sau hai tuần ở Beijing, nhóm đại biểu đã đi vào Tây Tạng qua tỉnh quê nhà của Đức Đạt Lai Lạt Ma là Amdo. Mọi nơi họ đi qua, họ đã bị những đám đông người Tây Tạng ùa vào, háo hức để nhận sự ban phúc và nghe tin tức về lãnh tụ kính yêu của họ. Hình thức của sự thành tâm cởi mở này với Đức Đạt Lai Lạt Ma đã bị Tàu Cộng cấm đoán một cách rõ ràng, nhưng người Tây Tạng coi thường những mệnh lệnh này và chào đón những đại biểu này với sự cuồng nhiệt ngây ngất. Ở Lhasa, nơi mà những cán bộ Tàu Cộng đã bảo đảm với  Beijing rằng không có những cuộc biểu tình như vậy có thể xảy ra, nhưng hàng nghìn người đã tràn ngập đường phố hy vọng có cơ hội chạm đến những đại diện của Đức Đạt Lai Lạt Ma hay có được một thoáng nhìn thấy họ.

Những đại biểu, sau bốn tháng đi khắp mọi ngỏ ngách của Tây Tạng, đã trở lại Dharamsala với hàng trăm cuộn phim, hàng giờ thu băng phỏng vấn, và hàng tập sách in ghi chép tài liệu những gì họ đã thấy. Họ cũng đã mang hơn bảy nghìn lá thư, sự trao đổi thư từ lần đầu tiên giữa người Tây Tạng và những thành viên gia đình lưu vong trong hai mươi năm. Sự thẩm định của họ về “Tây Tạng mới” hầu như hoàn toàn tiêu cực. Họ đã báo cáo bằng chứng về tình trạng thiếu ăn, chết đói, và những vụ xử tử công cộng, giam cầm hàng loạt, những tu viện bị phá hủy, và những trại cưỡng bức lao động.  Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đau buồn vì báo cáo của họ.

Họ chú ý về một số cải thiện về kinh tế Tây Tạng, nhưng hầu hết những lợi ích đó thuộc về Tàu Cộng hay những người Hoa định cư ở Tây Tạng, chứ không phải người Tây Tạng. Những cải thiện đã đến bằng một cái giá kinh khủng. Sản lượng kinh tế gia tăng, nhưng vì thế đã xói mòn do việc tàn phá rừng và những thực hành trồng trọt thiền cận, hầu như hoàn toàn hủy diệt hệ động vật hoang dã phong phú của Tây Tạng, và sưu cao thuế nặng.

Hai đoàn đại biểu đã được gửi đến trong năm 1980. Đoàn thứ nhất bao gồm những người trẻ tuổi, được chào đón bởi những người Tây Tạng trong cùng cung cách của những nhóm trẻ tuổi rất giống nhau như nhóm trước đó. Tuy nhiên, khi những cuộc biểu tình nổ ra lần này, những cán bộ Tàu Cộng “lên án những đại biểu xúi giục quần chúng hành động chống đối và trục xuất phái đoàn khỏi Tây Tạng vì làm nguy hại đến sự ‘thống nhất của Mẫu quốc.’” Một đoàn khác, bao gồm những nhà giáo dục, được cho  phép khảo cứu hệ thống giáo dục của đất nước. Họ đã trở lại Dharamsala với báo cáo rằng, mặc dù có những cải thiện trong giáo dục trẻ em Tây Tạng, nhưng hệ thống trường học hầu như chỉ được sử dụng để tuyên truyền đến giới trẻ Tây Tạng những ý tưởng Cộng Sản.

1987: DỰ ÁN NĂM ĐIỂM HÒA BÌNH VÀ NHỮNG CUỘC BIỂU TÌNH

Luật sư nhân quyền John Ackerly (right) người chứng kiến hành động tàn bạo của Tàu Cộng đối với những người biểu tình Tây Tạng và là đồng sáng lập Tổ chức Chiến dịch Quốc tế cho Tây Tạng


Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thăm viếng Hoa Kỳ năm 1979, 1981, và 1984. Mỗi lần, các viên chức và công dân Hoa Kỳ biểu lộ mong muốn làm điều gì đó cụ thể cho Tây Tạng. Năm 1987, ngài được Giải thưởng Nhân đạo Albert Schweitzer do Tổ chức Hành vi Con người của Hoa Kỳ trao tặng. Ngài cũng đã được mời để phát biểu tại Ủy Ban Nhân Quyền của Quốc hội Hoa Kỳ. Ngài dã phát biểu vào ngày 21 tháng Chín năm 1987. Những gì ngài trình bày cho tương lai của Tây Tạng được biết như Dự Án Năm Điểm.

Mặc dù sự trình bày của ngài diễn ra trong một phòng nhỏ của ủy ban trước chỉ nửa tá thành viên của cuộc họp kín nhưng nó được coi là lịch sử. Ngài đã hủy bỏ đòi hỏi trước đây cho nền độc lập và kêu gọi cho toàn thể Tây Tạng được mệnh danh là một vùng bất bạo động (Ahimsa: một tiếng Sanskrit  cho hòa bình và bất bạo động). Ngài kêu gọi cho việc chấm dứt di dân người Hoa vào Tây Tạng, đòi hỏi “tôn trọng cho những quyền con người căn bản của dân tộc Tây Tạng và tự do dân chủ,” “khôi  phục và bảo tồn môi trường tự nhiên của Tây Tạng,” và chấm dứt chính sách của Tàu Cộng sử dụng Tây Tạng cho việc “sản xuất vũ khí hạt nhân và tàng trử chất thải hạt nhân,” và thiết lập một sự đối thoại đầy đủ ý nghĩa giữa chính phủ lưu vong Tây Tạng và chính quyền Tàu Cộng về “vị thế tương lai của Tây Tạng và mối quan hệ giữa hai dân tộc Hoa – Tạng.”

Sự từ bỏ đòi hỏi cho nền độc lập của Tây Tạng làm náo động ở Trung Hoa và khắp thế giới. Thay vì thế Đức Đạt Lai Lạt Ma kêu gọi một khu tự trị cho Tây Tạng trong Trung Hoa, đối tượng cho sự chấp thuận của người Tây Tạng. Trong sự thay đổi cho phép người Tây Tạng có sự kiểm soát khắp mọi việc đối nội trong khu tự trị và để Tàu Cộng di chuyển những di dân khỏi Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma để nghị cho phép Tây Tạng vẫn là một phần của Trung Hoa.

Chính quyền ở Beijing phản đối kịch liệt Dự Án Hòa Bình Năm Điểm, gọi đó là một sự giả tạo và một ngụy trang mong manh cho một tuyên bố độc lập. Chống đối đã nổ khắp Lhasa vì đáp ứng của Tàu Cộng và bởi những người không đồng ý với khu tự trị thay vì một sự độc lập hoàn toàn. Hàng nghìn người đã tràn ra đường phố. Nhà cầm quyền Tàu Cộng đã đáp ứng một cách khốc liệt, gởi cảnh sát vũ trang để dập tắt những cuộc biểu tình.

Một nhân chứng với hành động của cảnh sát là John Ackerly, một luật sư dân quyền Hoa Kỳ, viếng thăm Tây Tạng trong dịp nghỉ hè. Trong một lá thư năm 2009 gửi đến những thành viên của Chiến Dịch Quốc Tế vì Tây Tạng, một tổ chức mà ông là người đồng sáng lập sau khi trở lại sau chuyến đi ấy, ông diễn tả những gì ông chứng kiến trên đường phố Lhasa vào ngày 1 tháng Mười năm 1987:

Nỗi kinh hoàng của sự kìm nén sẽ khắc sâu trong tâm trí tôi mãi mãi: cảnh sát Tàu Cộng bắn vào những đám đông không vũ trang. Những tu sĩ, thanh thiếu niên và trẻ em bị bắn gục. Hàng tá người Tây Tạng ở chùa Jokhang cất bước đến một hàng quân Tàu Cộng bắn vào họ. Một bé trai bị chảy máu đến chết như một người bạn tôi, một bác sĩ, giữ lại, nhưng không thể cứu mạng bé trai ấy. Ngày bắt đầu với một sự phản kháng ôn hòa của khoảng 20 tu sĩ. Nó kết thúc một cách vô cảm, với hơn 10 người Tây Tạng chết, và số người bị thương trầm trọng nhưng không thể đến bệnh viện vì sợ bị bắt vì đã biểu tình. Chúng tôi cố gắng để có những cung cấp y tế cho họ, và có thể cứu một số mạng người, nhưng những người khác chết vì nhiễm trùng trong khi trốn tránh cảnh sát . Trong những ngày chết chóc ấy, những người Tây Tạng xin tôi chụp hình và cho thế giới bên ngoài thấy. Và vì vậy tôi đã trở thành một nhân chứng cho một sự chiếm tàn bạo vốn đã xảy ra hàng thập niên mà không ai thấy. Chúng tôi bị bắt, và bị thẩm vấn trong vài ngày, nhưng cuối cùng xoay sở để rời khỏi Tây Tạng với những phim ảnh, mà tôi vẫn đưa cho xem ngày hôm nay.

Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, kết quả của một ngày biểu tình hôm đó hơn hai nghìn người Tây Tạng đã bị bỏ tù. Những cuộc biểu tình khác tiếp diễn, và mặc dù được biết khắp thế giới về những sự tàn bạo của họ và một lời kêu gọi từ vài chính phủ phương Tây đòi hỏi Tàu Cộng tôn trọng những quyền con người ở Tây Tạng,  nhưng nhà cầm quyền Tàu Cộng đã bác bỏ những phê phán, và nói những xáo trộn là một vấn đề nội bộ.

Vào ngày 15 tháng Sáu năm 1988, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã phát biểu tại Nghị viện Âu châu ở Strasbourg, Pháp quốc, nhấn mạnh dự án hòa bình trước đây của ngài. Một lần  nữa đáp ứng của Tàu Cộng là tiêu cực. Bài phát biểu bị tố cáo và  Nghị viện Âu châu bị chỉ trích kịch liệt. Vài tháng sau, năm 1989, những biểu tình của sinh viên Trung Hoa ở quảng trường Thiên An Môn đã gặp phải bạo lực và đàn áp. Đức Đạt Lai Lạt Ma xem những cuộc biểu tình này với sự quan tâm và lạc quan cùng  hoan hô lòng can đảm của những sinh viên đó.

1989: GIẢI NOBEL HÒA BÌNH

Cùng năm những cuộc biểu tình xảy ra ở Trung Hoa, thiết quân luật đã được tuyên bố ở Tây Tạng như kết quả của những cuộc phản kháng. Trớ trêu thay, đó là năm mà Tổ Chức Nhân Quyền ở thủ đô Hoa Sinh Tân D.C. bỏ phiếu để trao tặng Đức Đạt Lai Lạt Ma Giải thưởng Nhân quyền Quốc hội RaoulWallenberg. Đó cũng là năm ngài nhận một giải thưởng thậm chí uy tín hơn. Hội đồng Nobel Norway tuyên bố rằng giải Nobel Hòa Bình năm 1989 được trao cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Hội đồng đã tuyên bố họ muốn nhấn mạnh rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma trong cuộc đấu tranh cho sự giải phóng Tây Tạng đã kiên trì chống lại việc sử dụng bạo lực. Thay vì thế ngài đã ủng hộ những giải pháp hòa bình căn cứ trên sự bao dung và tôn trọng hổ tương nhằm đề bảo tồn di sản lịch sử và nền văn hóa Tây Tạng của dân tộc ngài. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã phát triển triết lý của ngài về hòa bình từ một tôn trọng lớn cho mọi sự sống và trên  khái niệm của một trách nhiệm toàn cầu bao trùm khắp nhân loại cũng như thiên nhiên.

Đức Đạt Lai Lạt Ma sau này đã viết, “Mặc dù tin tức không quan trọng nhiều với cá nhân tôi, nhưng tôi nhận ra rằng nó sẽ có ý nghĩa lớn lao với dân tộc Tây Tạng, vì đó chính họ là ‘những người thắng lợi’ thật sự của giải thưởng. Sự hài lòng của chính tôi xuất phát từ những gì tôi thấy như một sự nhìn nhận quốc tế về giá trị của lòng từ bi, tha thứ, và yêu thương.” Ngài đã nhận giải thưởng vào ngày 10 tháng Mười Hai năm 1989, ở Oslo, Norway.

Trong
bài diễn thuyết Nobel của ngài, trình bày trong ngày tiếp theo, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tóm tắt lại Dự Án Hòa Bình Năm Điểm của ngài, thảo luận vị thế cua Tây Tạng dưới sự chiếm đóng của Tàu Cộng, và chia sẻ với người nghe triết lý hòa bình của ngài:

Hòa bình, trong cảm giác của sự vắng mặt chiến tranh, chỉ có giá trị chút ít với những người đang chết vì đói hay lạnh. Nó sẽ không làm hết nổi đau của những người bị tra tấn mà tù nhân lương tâm phải chịu đựng. Nó không làm thoải mái những ai đã mất người thân trong lũ lụt bởi sự vô cảm trong tàn phá rừng của một lân bang. Hòa bình chỉ có thể tồn tại lâu dài nơi những quyền con người được tôn trọng, nơi con người được cho ăn, và nơi những cá nhân và xứ sở được tự do.

1999: MỘT CHUYẾN THĂM QUAN TRỌNG KHÁC ĐẾN HOA KỲ

Năm 1999, Đức Đạt Lai Lạt Ma được mời thăm viếng bởi Tổ Chức Gere và Trung Tâm Tây Tạng để đến Hoa Kỳ và tiến hành một loạt những giảng dạy. Tài tử Richard Gere đã gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Dharamsala vào năm 1980 và đã trở thành một trong những người ủng hộ lớn nhất của ngài. Trong chuyến thăm này, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã giảng ba ngày chính thức tại Nhà hát Beacon ở Manhattan’s Upper West Side trước ba nghìn người. Sau đó ngài đồng ý tiến hành một chương trình công cộng và thân mật hơn ở Công viên Trung tâm (Central Park).

Các nhà tổ chức hy vọng rằng mười lăm nghìn đến hai mươi nghìn mọi người sẽ tham dự. Vào lúc 11:00 sáng Chủ Nhật, ngày 15 tháng 8, khi Richard Gere giới thiệu ngài, Đức Đạt Lai Lạt Ma bước lên sân khấu phủ hoa, cúi đầu trước đám đông, ngồi trên chiếc ghế gỗ đơn giản, và thuyết trình hai giờ bằng tiếng Anh. Đám đông ở East Meadow ước tính khoảng hai trăm nghìn người. Một hệ thống âm thanh khổng lồ và màn hình video đã mang thông điệp hòa bình của ngài đến những nơi xa xôi của đám đông.

2007: HUÂN CHƯƠNG VÀNG QUỐC HỘI HOA KỲ

Vào ngày 17 tháng 10 năm 2007, vài tháng trước khi thành phố Beijing và nhân dân Trung Hoa đăng cai Thế vận hội Mùa hè 2008, Đức Đạt Lai Lạt Ma một lần nữa đến thăm thủ đô Hoa Sinh Tân, D.C. Ngài đã phát biểu trước toàn thể Quốc hội Hoa Kỳ, tổng thống và đệ nhất phu nhân, và các viên chức khác. Cơ hội này là sự kiện trao tặng Huy chương Vàng của Quốc hội Hoa Kỳ. Giới thiệu Đức Đạt Lai Lạt Ma với quốc hội, cố nghị sĩ Tom Lantos của California, người sống sót duy nhất của cuộc thảm sát Holocaust phục vụ trong Quốc hội Hoa Kỳ, cho biết,

Điều giải thích cho sự trỗi dậy của một nhà sư Phật giáo khiêm tốn này từ gần như không ai biết trở thành hiện tượng toàn cầu mà ngài đã trở thành không phải là [vận động] hành lang. Nó không phải là sức mạnh kinh tế. Nó không phải là ảnh hưởng chính trị. Đó là thẩm quyền đạo đức. Vào một thời điểm trong lịch sử thế giới, khi không có gì thiếu thốn bằng quyền lực đạo đức, thì nhà sư Phật giáo khiêm tốn này lại có một nguồn cung cấp vô tận. Và điều này thể hiện sự tôn trọng, ngưỡng mộ, tình yêu mà mọi người dành cho ngài trên toàn cầu.


 

Trong khi Đức Đạt Lai Lạt Ma phát biểu trước Quốc hội, cảm ơn Hoa Kỳ đã ủng hộ mạnh mẽ và bình luận về sự gia tăng sức mạnh kinh tế của Trung Quốc và đăng cai Thế vận hội Olympic, hai người Tây Tạng đã liều mạng để tiết lộ câu chuyện thật sự về sự chiếm đóng Tây Tạng. Dhondup Wangchen, một nhà làm phim người Tây Tạng, với sự giúp đỡ của Jigme Gyatso, một tu sĩ từ tu viện Amdo Labrang, đã đi khắp cao nguyên Tây Tạng vào năm 2007 và thực hiện một bộ phim tài liệu sau đó được phát hành với tựa đề Bỏ Lại Sợ Hãi. Trước rủi ro cá nhân lớn, họ quay phim những người Tây Tạng bình thường chia sẻ cảm xúc của họ về Đức Đạt Lai Lạt Ma, Trung Hoa và Thế vận hội Olympic.

Sau khi bộ phim được phát hành, vào ngày 10 tháng 3 năm 2008 — kỷ niệm bốn mươi chín năm ngày Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng — Dhondup Wangchen bị bắt. Ông vẫn đang bị giam giữ trong một nhà tù bí mật của Trung Quốc. Jigme Gyatso cũng bị bắt, được thả, và sau đó bị bắt lại — vì đã chia sẻ câu chuyện của mình với Chiến dịch Quốc tế cho Tây Tạng. Những câu chuyện về tra tấn của ông dưới bàn tay của các quan chức Tàu Cộng khiến người nghe kinh hoàng. Ông cũng vậy, vẫn đang ở trong tù.


Lời giới thiệu của Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi
“Với Huy chương Vàng này, chúng tôi khẳng định mối quan hệ đặc biệt giữa Hoa Kỳ và Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đó là một mối quan hệ bắt đầu từ một chiếc đồng hồ vàng. Khi còn là một cậu bé, Đức Đạt Lai Lạt Ma rất thích khoa học và cơ khí. Biết được điều này, Tổng thống Franklin Roosevelt đã tặng cho Đức Đạt Lai Lạt Ma rất trẻ một chiếc đồng hồ hiển thị các giai đoạn của mặt trăng và các ngày trong tuần. Đức Đạt Lai Lạt Ma mô tả chiếc đồng hồ bằng vàng rất lộng lẫy và thậm chí đã mang nó theo khi rời khỏi Tây Tạng vào năm 1959. Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn sử dụng chiếc đồng hồ này cho đến ngày nay và lời dạy của ngài về mối liên hệ giữa khoa học và tôn giáo là một phần truyền cảm hứng trong thông điệp của ngài. . . . Đức Thánh Thiện: ngài đã mang lại ánh hào quang cho giải thưởng này, và là một thách thức đối với lương tâm của thế giới. "

Văn phòng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, "Bài phát biểu của Diễn giả Nancy Pelosi." www.dalailama.com/page.203.htm.

 


2009: KỶ NIỆM NĂM MƯƠI NĂM VÀ NHÌN VỀ TƯƠNG LAI

Vào ngày 10 tháng 3 năm 2009, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đưa ra tuyên bố thường niên của mình nhân kỷ niệm cuộc nổi dậy của người Tây Tạng khiến ngài phải rời bỏ quê hương:

Hôm nay là kỷ niệm 50 năm cuộc nổi dậy hòa bình của người dân Tây Tạng chống lại sự đàn áp của Tàu Cộng ở Tây Tạng. Kể từ tháng 3 năm ngoái, các cuộc biểu tình hòa bình trên diện rộng đã nổ ra trên toàn bộ Tây Tạng. Hầu hết những người tham gia là trẻ tuổi và sinh ra sau năm 1959, những người không thấy biết hay kinh nghiệm về một Tây Tạng tự do. Tuy nhiên, thực tế là họ được thúc đẩy bởi một niềm tin vững chắc để phục vụ sự nghiệp của Tây Tạng đã tiếp tục từ thế hệ này sang thế hệ khác thật sự là một vấn đề đáng tự hào. Nó sẽ là nguồn cảm hứng cho những người trong cộng đồng quốc tế quan tâm đến vấn đề Tây Tạng. Chúng tôi bày tỏ lòng kính trọng và cầu nguyện cho tất cả những người đã chết, bị tra tấn và chịu đựng những khó khăn vô cùng, kể cả trong cuộc khủng hoảng năm ngoái [trước Thế vận hội Bắc Kinh], vì sự nghiệp Tây Tạng kể từ khi cuộc đấu tranh của chúng tôi bắt đầu.

Ba ngày sau, báo chí Trung Quốc đưa ra lời tố cáo thường lệ đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma và thông điệp hàng năm của ngài với thế giới. Trong bản phát hành, nó gọi ngài là “một chính trị gia mặc áo tu sĩ”, “thủ lãnh nổi loạn
“một chính trị gia có chủ đích xấu, người đã thúc đẩy các phong trào ly khai”, và “Thức ăn gia súc [ở phương Tây] dành cho các bài báo âm thanh, quảng cáo chụp ảnh và các vị trí trên trang nhất của tờ báo.”

Theo báo cáo của Huffington Post ngày 18 tháng 2 năm 2009, “Chính phủ Tàu Cộng đang coi tháng 3 năm 2009 là kỷ niệm 50 năm“ cải cách dân chủ ”ở Tây Tạng.” Theo báo cáo của Christian Science Monitor, “một số quan chức cấp cao của [Tàu Cộng] đã coi Đức Đạt Lai Lạt Ma là 'một con quái thú' với mục đích cướp Tây Tạng khỏi chủ quyền của Trung Hoa. Việc leo thang đả kích, chẳng hạn như một bài xã luận gần đây trên tờ Nhật báo Tây Tạng chính thức kêu gọi mọi người ‘kiên quyết đập tan sự hung hãn man rợ của bè lũ Đạt Lai’, khiến khả năng Đức Đạt Lai Lạt Ma trở về dường như có vẻ khá xa vời trong lúc này.”

Tổ chức vì Trách Nhiệm Toàn Cầu
Với số tiền thưởng do Ủy ban Nobel trao tặng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thành lập Tổ chức vì Trách nhiệm Phổ thông, có trụ sở hành chính tại New Delhi, Ấn Độ. Mục tiêu của tổ chức là thúc đẩy “trách nhiệm chung theo cách tôn trọng và khuyến khích sự đa dạng của các niềm tin và thực hành; thúc đẩy và đưa ra các chiến lược để biến cam kết này thành một công cụ thay đổi xã hội vì hạnh phúc cá nhân. ”
Tuyên bố sứ mệnh của tổ chức tiếp tục bằng cách nói rằng nó “tập hợp những người có tín ngưỡng, các tôn giáo, nghề nghiệp và quốc tịch khác nhau lại với nhau. Nó không khuyến khích một cá nhân hoặc ý tưởng; thay vào đó, nó tìm cách tập hợp những hiểu biết sâu sắc và kỹ thuật để tiếp tục đạt được các mục tiêu của mình. Đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma, nó thể hiện sự vượt xa ngoài vai trò của ngài như một nhà sư Phật giáo lỗi lạc và vượt qua chương trình nghị sự chính trị của một Tây Tạng tự do. "
His Holiness the XIV Dalai Lama, The Heart of Compassion: A Practical Approach to a Meaningful Life. India: Full Circle/Foundation for Universal Responsibility, 2001; Twin Lakes, WI: Lotus Press, 2002, pp. vi–vii.


Bất chấp những lời bôi nhọ lâu dài của Tàu Cộng về Đức Đạt Lai Lạt Ma và áp lực của nước này đối với các cường quốc trên thế giới trong việc loại bỏ vấn đề Tây Tạng, một số quốc gia, bao gồm cả Hoa Kỳ, vẫn tiếp tục thúc đẩy tìm kiếm một giải pháp. Vào ngày 11 tháng 3 năm 2009, Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã ký một dự luật phân bổ với hàng chục điều khoản liên quan đến Tây Tạng, bao gồm tài trợ cho một khu vực Tây Tạng trong Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Bắc Kinh cho đến khi chính phủ Trung Quốc cho phép một lãnh sự quán Hoa Kỳ được thành lập tại Lhasa. Vào ngày 16 tháng 3, Tổng thống Obama và Hạ viện Hoa Kỳ một lần nữa tuyên bố trong một nghị quyết rằng họ mong đợi Bắc Kinh đàm phán, mặc dù đã bị Tàu Cộng cảnh báo nhiều lần từ bỏ vấn đề này.

Trong hơn một thập niên, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói về việc nghỉ hưu, hoặc nghỉ hưu một phần. Ở tuổi bảy mươi bốn, sự lạc quan của ngài về Tàu Cộng đang giảm dần trong việc cho phép bất kỳ biện pháp tự trị nào cho Tây Tạng trong cuộc đời của ngài đã suy giảm. Nhưng ngài không hề nãn lòng. Là một Phật tử, ngài tin rằng cuối cùng luật nghiệp báo sẽ mang lại công lý cho dân tộc Tây Tạng. Nghiệp báo là luật nhân quả, diễn ra trong nhiều kiếp sống— mà bất cứ điều gì một người làm, nói, hoặc nghĩ vốn có hại trong một kiếp sẽ phải bị phản ứng lại trong những kiếp sau.

Nỗi sợ hãi lớn nhất của ngài trong năm 2009 là văn hóa Tây Tạng, mặc dù ngài đã cố gắng hết sức, có thể đứng trên bờ vực diệt vong. Ngày nay, nhiều người Hoa sống ở Tây Tạng hơn người Tạng, và ông lo ngại rằng người Tây Tạng có thể sớm trở thành một thiểu số hiếu kỳ và có lẽ đẹp như tranh vẽ, không đáng kể ở đất nước của chính họ.
Ở tuổi của mình, Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng tin rằng Tàu Cộng có thể sẽ ngoan cố từ chối đàm phán trực tiếp với ngài vì họ đang chờ ngài qua đời. Ngài cảm thấy họ nhầm tưởng rằng, một khi ngài ra khỏi bức tranh, người Tây Tạng sẽ mất ý chí giành độc lập hoặc tự trị. Tuy nhiên, ngài biết rằng người dân Tây Tạng sẽ chờ đợi sự tái sinh của ngài để làm cho chính nó được biết đến. Cuộc đấu tranh sẽ tiếp tục.

Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ ra rằng vào năm 2007,Tàu Cộng đã ban hành các quy định mới về việc lựa chọn và xác định vị thánh vương tiếp theo (god-king). Họ đã tuyên bố rằng bất kỳ sự tái sinh nào đều phải được nội các Tàu Cộng chấp thuận. Mặt khác, ngài đã tuyên bố nhiều lần rằng

Nếu tôi viên tịch trong tương lai gần, và người dân Tây Tạng muốn một hóa thân khác, một Đạt Lai Lạt Ma thứ 15, trong khi chúng tôi vẫn ở bên ngoài Tây Tạng, thì hóa thân của tôi chắc chắn sẽ xuất hiện bên ngoài Tây Tạng. Bởi vì mục đích của việc hóa thân là hoàn thành công việc mà kiếp trước đã bắt đầu. [Do đó] sự tái sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, về mặt logic, sẽ không phải là một sự tái sinh làm xáo trộn, hoặc là một trở ngại cho công việc đó. Khá rõ ràng, phải không?

Khi ngài qua đời và sự tái sinh của ngài xảy ra, hai vị Đạt Lai Lạt Ma có thể xuất hiện, một vị bị Trung Quốc trừng phạt, mà người dân Tây Tạng sẽ không thừa nhận, và một vị khác, sinh ra bên ngoài Tây Tạng, ở một đất nước tự do.

Về tương lai của thế giới, Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn đầy hy vọng. Bất chấp khủng bố và các cuộc chiến tiếp diễn, ngài thấy bằng chứng rằng nhân loại đã đạt được một số tiến bộ để hướng tới một thế giới hòa bình, hạnh phúc hơn. Tất nhiên, là một Phật tử, ngài có một cái nhìn xa hơn về mọi thứ. Dù vậy, ngài vẫn lạc quan. Howard C. Cutler, một nhà tâm lý học, người đã viết ra Cẩm nang Nghệ thuật Hạnh phúc: cho Cuộc Sống với Đạt Lai Lạt Ma vào năm 1998, nói điều nàyvề Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn — “tu sĩ giản dị”:

Diễn thuyết nhận giải Nobel Hòa Bình
Trong bài phát biểu nhận giải Nobel Hòa bình, diễn ra tại Đại học Oslo, Na Uy, vào ngày 10 tháng 12 năm 1989, Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố:
Tôi cảm thấy vinh dự, khiêm nhường và vô cùng xúc động khi quý vị đã phải trao giải thưởng quan trọng này cho một tu sĩ giản dị đến từ Tây Tạng. Tôi không là người đặc biệt. Nhưng tôi tin rằng giải thưởng là sự công nhận giá trị thực sự của lòng vị tha, tình yêu thương, lòng từ bi và bất bạo động mà tôi cố gắng thực hành, phù hợp với lời dạy của Đức Phật và các nhà hiền triết vĩ đại của Ấn Độ và Tây Tạng. Tôi nhận giải thưởng với lòng biết ơn sâu sắc thay mặt cho những người bị áp bức ở khắp mọi nơi và cho tất cả những người đấu tranh cho tự do và hoạt động vì hòa bình thế giới. Tôi chấp nhận nó như một sự tri ân đối với người đã sáng lập ra truyền thống hành động bất bạo động hiện đại vì sự thay đổi là Mahatma Gandhi, người mà cuộc đời đã dạy dỗ và truyền cảm hứng cho tôi. Và, tất nhiên, tôi chấp nhận nó thay mặt cho sáu triệu người dân Tây Tạng, những người đồng hương và phụ nữ dũng cảm của tôi ở Tây Tạng, những người đã và đang chịu đựng rất nhiều đau khổ.
Office of His Holiness the Dalai Lama, “Nobel Peace Prize Acceptance Speech,” December 10, 1989.
www.dalailama .com/page.118.htm.

 

Khi thông điệp của ngài được công bố, ngày càng rõ ràng rằng niềm tin của ngài không dựa trên niềm tin mù quáng hay giáo điều tôn giáo mà dựa trên lý luận đúng đắn và kinh nghiệm trực tiếp. Sự hiểu biết của ngài về tâm trí và hành vi của con người dựa trên quá trình nghiên cứu trọn cuộc đời. Quan điểm của ngài bắt nguồn từ một truyền thống có từ hơn hai nghìn năm trước nhưng vẫn được tôi luyện bởi cảm nhận thông thường và sự hiểu biết tinh vi về các vấn đề hiện đại. Sự đánh giá cao của ngài đối với các vấn đề đương đại đã được rèn giũa nhờ vị thế đặc biệt của ngài với tư cách là một nhân vật thế giới, điều này đã cho phép ngài đi khắp thế giới nhiều lần, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau và mọi người từ mọi tầng lớp xã hội, trao đổi ý tưởng với các nhà khoa học hàng đầu. và các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị. Điều cuối cùng nổi lên là một sự tiếp cận khôn ngoan để giải quyết các vấn đề của con người đồng thời lạc quan và thực tế.

Lòng từ bi, triết lý và sự lạc quan của Đức Đạt Lai Lạt Ma được tóm tắt tốt nhất bằng một bài cầu nguyện ngắn mà ngài đã đọc lại vô số lần ở cuối các bài giảng và bài diễn văn trên khắp thế giới:

Khi không gian còn tồn tại,
Và chừng nào chúng sinh còn hiện hữu,
Cho đến lúc đó, tôi cũng nguyện hiện diện
Để xua tan khổ đau của thế giới
.

 

***



NHỮNG NGÀY THÁNG QUAN TRỌNG của Đức Đạt Lai Lạt Ma

Ngày 17 tháng Mười Hai năm 1933
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba viên tịch
Ngày 6 tháng Bảy năm 1935
Lhamo Thondup, sau này được xác nhận là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 sinh ra Taktser, Amdo, Tây Tạng
Ngày 8 tháng Mười năm 1939,
Đoàn cung nghinh Đức Đạt Lai Lạt Ma và gia đình ngài vào Lhasa sau ba tháng hành trình từ Amdo.
Ngày 22 tháng Hai năm 1940
Lễ đăng quang tại điện Potala
Ngày 17 tháng Mười Một 1950
Đức Đạt Lai Lạt Ma được trao toàn quyền lãnh đạo chính trị sau khi Tàu Cộng xâm lăng Tây Tạng năm 1949.
Ngày 23 tháng Năm 1951
Thỏa Thuận Mười Bảy điểm được phái đoàn Tây Tạng ký dưới áp lực của Tàu Cộng
Tháng Bảy 1954 – tháng Sáu 1955
Đức Đạt Lai Lạt Ma thăm Trung Hoa để đối thoại hòa bình. Gặp Mao Trạch đông và những lãnh tụ cộng sản khác kể cả Chu Ân Lai, Chu Đức, và Đặng Tiểu Bình
Tháng Mười Một – Tháng Ba 1957
Thăm viếng Ấn Độ để tham dự kỷ niệm hai nghìn năm trăm năm Phật đản, gọi là lễ hội Jayanti
Tháng Hai 1959
Nhận bằng Geshe Lharampa, tiến sĩ Phật học trong lễ hội Monlam ở Lhasa.
Ngày 17 tháng Ba năm 1959,
Đào thoát cùng với gia đình, những lãnh tụ chính quyền,và những người tháp tùng từ điện Norbulingka ở Lhasa. Bắt đầu hành trình nguy hiểm đi lưu vong.
Ngày 30 Tháng Ba 1959
Đi qua biên giới với Ấn Độ sau hành trình 14 ngày.
Ngày 30 tháng 4 năm 1960
Đến Dharamsala, Ấn Độ, để thường trú.
1962 My Land and My People xuất bản.
Tháng 9 - tháng 11 năm 1973
 Chuyến thăm đầu tiên đến phương Tây (Ý, Thụy Sĩ, Hà Lan, Bỉ, Ireland, Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Vương quốc Anh, Tây Đức và Áo).
Ngày 10 tháng 12 năm 1989
Được Trao giải Nobel Hòa bình tại Oslo, Na Uy.
1990
Freedom in Exile: The Autobiography of Dalai Lama xuất bản.
1998
The Art of Happiness: A Handbook for Living xuất bản.
2001
The Heart of Compassion: A Practical Approach to a Meaningful Life published. Phương pháp tiếp cận thực tế để có một cuộc sống ý nghĩa được xuất bản.
Ngày 17 tháng 10 năm 2007
Được trao Huân chương Vàng của Quốc hội Hoa Kỳ tại Washington, D.C.
Ngày 5 tháng 8 năm 2008
Gửi lời chào tới Bắc Kinh, chúc chính phủ Trung Quốc thành công với Thế vận hội Olympic mùa hè sắp tới.
Tháng 4 năm 2009
Thăm California và Massachusetts.
Ngày 8 tháng 6 năm 2009
Tham quan nước Pháp và nhận quốc tịch danh dự của Paris.
Từ tháng 9 đến tháng 10 năm 2009
Các chuyến tham quan Hoa Kỳ và Canada

 

***

Trích từ quyển the Fourteenth Dalai Lama - People In The News

 

Thứ Bảy, 17 tháng 4, 2021

ẤN ĐỘ VÀ XA HƠN


Nguyên tác: India and Beyond
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.

Trong năm năm đầu tiên, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ở Ấn Độ, đi khắp đất nước này để viếng thăm những người dân của ngài trong các trại tị nạn. Sau đó, ngài đã quyết định đem thông điệp của ngài đến một công chúng rộng lớn hơn. Ngài đã du hành khắp thế giới và đã làm những việc mà không một Đức Đạt Lai Lạt Ma nào trước đây đã từng làm. Ngài đã nói chuyện với những đám đông rộng lớn không phải Phật tử về những vấn đề vốn không chỉ tác động đến xứ sở bị chiếm đóng của ngài mà về cả thế giới nói chung. Vì điều này, ngài đã trở thành một trong những nhân vật được ngưỡng mộ và tôn trọng nhất thế giới, hoàn thành lời tiên tri của Hộ Pháp Nãi Quỳnh rằng ngài sẽ “chiếu sáng ở phương Tây.”

ẤN ĐỘ CUNG CẤP MỘT ĐỜI SỐNG MỚI

Chính phủ Ấn Độ, trước đó đã đề nghị cung ứng nơi cư trú cho Đức Đạt Lai Lạt Ma và những người đi theo ngài, gửi những đại diện đến gặp gở khi họ băng qua Ấn Độ ngày 30 tháng Ba năm 1959. Họ mang theo một điện tín từ Thủ tướng Nehru: “Những đồng sự của tôi và tôi chào đón ngài và gửi lời chúc mừng trong việc ngài đã đến Ấn Độ an toàn. Chúng tôi sẽ rất vui mừng để cung cấp những tiện nghi cần thiết cho ngài, gia đình ngài và những người đi theo ngài để sống ở Ấn Độ. Dân tộc Ấn Độ, những người trân trọng ngài trong lòng tôn kính tuyệt vời, không nghi ngờ gì theo sự tôn kính truyền thống của họ đối với tính cách của ngài.” Những đại diện cũng được gửi đến bảo vệ những người tị nạn đến Bomdila, một thành phố lớn hành trình một tuần từ biên giới. Ở đó những người du hành đã dành mười ngày hồi phục sau thử thách gian khổ của họ.

Sau khi hoàn toàn bình phục ngài đã đi tới Foothills, một trại tị nạn ở biên giới gần thị trấn Tezpur, Ấn Độ. Từ đó, ngài cùng phái đoàn của ngài dùng xe lửa đi Mussoorie, một đồn lính cũ trên đồi của người Anh gần Delhi, cách đó khoảng


1,500 miles (2,414km), nơi chính phủ Ấn Độ đã cung cấp nhà ở cho ngài. Trước khi rời Mussoorie, ngài đã quyết định thực hiện một tuyên bố với giới truyền thông về những gì đã xảy ra ở Tây Tạng và tại sao ngài quyết định rời Tây Tạng. Tạp chí Time sau đó đã tường trình về cuộc họp báo của ngài:

Ra khỏi nhà ga Đức Đạt Lai Lạt Ma 23 tuổi, Thánh Vương của Tây Tạng, nở một nụ cười hạnh phúc nhưng hơi sụt sịt vì bị cảm. đôi mắt của ngài rạng rở và ấm áp dưới đôi kính mát màu cam, và ngài mặc y áo màu nâu đỏ của một lạt ma cao cấp, không có dấu hiệu đặc biệt gì của cấp bậc. Bao quanh là mẹ, anh chị em ngài và những bộ trưởng cùng viên chức chính phủ, Đức Đạt Lai Lạt Ma mỉm cười và gật đầu khi ngài bước chậm rãi qua những nhiếp ảnh gia săn tin ….[Trong cuộc họp báo,] ngài đã tuyên bố “một cách dứt khoát”, trong phong cách ngôi thứ ba của một vị thánh vương, rằng ngài đã rời Lhasa và Tây Tạng và đã đến Ấn Độ “theo ý muốn của ngài và không phải bị cưỡng bức,” và đã nói rằng cuộc đào thoát “khá gian nan” chỉ có thể “nhờ sự trung thành và hổ trợ trìu mến của người dân Tây Tạng của ngài.” … [Ngài] đã buộc tội thẳng thừng về việc Tàu Cộng phá hủy một số lớn tu viện, giết hại các lạt ma và bắt tu sĩ và viên chức vào các trại lao động. Ngài đã rời Lhasa vì lo sợ cho chính tính mạng của ngài, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói như vậy, khi quân Tàu Cộng bắn vào cung điện
Norbulingka của ngài với đạn pháo lớn.

Sau khi phát hành lời tuyên bố của ngài, Đức Đạt Lai Lạt Ma và phái đoàn đã lên xe lửa đi Mussoorie. Suốt tuyến đường, hàng chục nghìn người Ấn Độ xếp hàng hai bên dường, vẩy tay và hô to lời cháo đón của họ, “Kính mừng Đức Đạt Lai Lạt Ma! Đức Đạt Lai Lạt Ma muôn năm!” (Dalai Lama Ki Jai! Dalai Lama Zinda-bad!)

ĐỐI PHÓ VỚI TRUYỀN THÔNG VÀ NHỮNG NGƯỜI TỊ NẠN

Ở Mussoorie Đức Đạt Lai Lạt Ma được hộ tống đến Birla House. Khi đã an trú, ngài nghe đài truyền thanh từ Thông tấn xã Xinhua của Tàu Cộng cho rằng tuyên bố của ngài ở Tezpur đầy những dối trá và rõ ràng đã được viết bởi một người nào khác. Do vậy, ngài đã cho lưu hành một tuyên bố thứ hai, chứng minh tuyên bố Tezpur là xác thật.

Gần như ngay khi đến Mussoorie, tin tức đã đến với ngài rằng một số lớn người tị nạn Tây Tạng đã bắt đầu đến Ấn Độ. Ngài đã gửi những đại diện để chào đón họ tại các trại đã được chính phủ Ấn Độ xây dựng một cách vội vả. Thủ tướng Nehru đã viếng thăm Birla House, và họ đã thảo luận những gì cần thiết cho những người tị nạn. Họ cũng thảo luận về việc những trẻ em Tây Tạng nên được giáo dục như thế nào để chuẩn bị cho chúng cuộc sống ở bên ngoài Tây Tạng.

Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, Thủ tướng Nehru đã nói với ngài ông cho rằng người tị nạn Tây Tạng “sẽ là những người khách của Ấn Độ trong tương lai có thể đoán trước được” và rằng vấn đề giáo dục cho trẻ em phải là điều quan tâm hàng đầu. Ông cũng thêm rằng họ đã tách riêng những trường học và rằng một bộ phận đặc biệt đã được thiết lập trong Bộ Giáo Dục Ấn Độ cho việc học vấn của người Tây Tạng. Ông cũng thêm rằng chính phủ Ấn Độ sẽ chịu chi phí cho những trường học. “Cuối cùng, ông đã đề cập với tôi rằng, cùng lúc điều rất quan trọng cho con em chúng ta là được dạy dỗ với một kiến thức toàn diện về lịch sử và văn hóa của chúng, cần yếu là chúng nên quen biết với những cung cách của thế giới hiện đại. Tôi đã đồng ý với Thủ tướng Nehru một cách chân thành. Vì lý do đó, ông nói, sẽ là khôn ngoan khi chúng ta sử dụng tiếng Anh để làm phương tiện cho sự giảng dạy của chúng ta vì ‘nó là ngôn ngữ quốc tế cho tương lai.”’

Vào ngày 20 tháng Sáu năm 1959, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã kêu gọi một cuộc họp báo nữa để nói lên sự phản kháng mạnh mẽ chống lại sự xâm lược của Tàu Cộng ở Tây Tạng. Hơn một trăm phóng viên từ khắp thế giới đã tham dự. Một lần nữa ngài đã bác bỏ Thỏa Thuận Mười Bảy Điểm. Ngài đã vạch ra chi tiết những gì ngài đã nghe về sự đối xử của quân đội Tàu Cộng với người dân của ngài. Đến lúc này ngài đã nhận được những báo cáo từ vô số người tị nạn về những gì họ đã thấy hay đau khổ và ngài đã chia sẻ một số câu chuyện đó với truyền thông quốc tế. Ủy Ban Luật Gia Quốc Tế, một hiệp hội độc lập của các thẩm phán, giáo sư luật, và các luật sư từ năm mươi quốc gia, đã phát hành một báo cáo năm đó đã khẳng định những tuyên bố của Đức Đạt Lai Lạt Ma về các tội ác của Tàu Cộng chống lại người Tây Tạng. bên cạnh vô số trách nhiệm đặc biệt về sự xâm lược, báo cáo đã tố cáo sự diệt chủng của Tàu Cộng, và cố gắng hủy diệt dân số Phật giáo Tây Tạng. Họ đã gọi là diệt chủng “tội ác nghiêm trọng nhất mà bất cứ cá nhân nào hay quốc gia nào có thể bị tố cáo … ý định tiêu diệt toàn thể hay từng phần, một quốc gia, một dân tộc, một chủng tộc, hay một nhóm tôn giáo.”

NHỮNG THAY ĐỔI

Ngoài phát biểu với báo chí thế giới, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tiếp tục cải tổ chính phủ của ngài bằng việc làm cho nó dân chủ hơn. Ngài cũng tiếp kiến hàng tuần với mọi giới quần chúng. Ngài đã loại bỏ nhiều nghi thức nghiêm nhặt luôn luôn dược đòi hỏi với những người gặp ngài. Ngài đã lập ra những bộ mới trong chính quyền Tây Tạng lưu vong, những văn phòng thông tin, giáo dục, tôn giáo, an ninh và kinh tế và động viên phụ nữ tham gia trong chính quyền nhiều hơn những gì họ đã làm ở Tây Tạng.

Đức Đạt Lai Lạt Ma cảm thấy điều quan trọng cho tương lai của dân tộc ngài là tận dụng diễn đàn thế giới của Liên Hợp Quốc. Ngài đã viết thư cho nhiều chính phủ yêu cầu giúp đở để phát biểu trước Liên Hợp Quốc. Hai quốc gia, Malaysia và Ái Nhĩ Lan, đã bảo trợ một tuyên bố sau này được thông qua ủng hộ cho Tây Tạng, mặc dù giải pháp ấy chỉ thực hiện được một ít.

Mùa xuân năm 1960, Ấn Độ tuyên bố muốn dời Đức Đạt Lai Lạt Ma và chính quyền lưu vong của ngài đến thành phố Dharamsala, một vị trí thích hợp hơn và lâu dài hơn, và chỉ hành trình một ngày từ thủ đô của Ấn Độ. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã gửi một đại diện để thăm viếng khu vực đó. Ngài tuyên bố có thể chấp nhận được. Vào ngày 10 tháng Ba năm 1960, kỷ niệm một năm ngày Đồng Khởi Của Dân Tộc Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đưa ra một tuyên bố đến toàn thể dân tộc ngài, ở Tây Tạng và trong những trại tị nạn ở Ấn Độ. Ngài đã nhấn mạnh cho một viễn cảnh dài hạn về những gì đã xảy ra. Ngài khuyến khích người Tây Tạng tị nạn tập trung vào việc duy trì nền văn hóa Tây Tạng.


McLeod Ganj
Nơi thường trú của Đức Đạt Lai Lạt Ma tọa lạc ở miền bắc Ấn Độ, thuộc tiểu bang Himachal Pradesh, trên những ngọn đồi của  dãy Himalayas. Ngôi nhà trát vữa trắng, cùng với nhiều ngôi nhà phụ, nhìn ra thung lũng rộng lớn và làng McLeod Ganj, một tiền đồn cũ của Anh cách vài dặm từ thành phố Dharamsala, Ấn Độ. Địa điểm này từng là nơi ở của ủy viên sư đoàn Anh. Đó là một ngôi nhà tương đối khiêm tốn, nằm trong khu rừng và được trang bị nội thất đơn giản. Nó có chút tương đồng với các phòng ngai vàng và căn hộ sang trọng của Cung điện Potala hoặc Norbulingka của Lhasa, ngoài việc có tầm nhìn ngoạn mục ra những ngọn núi phủ đầy tuyết.
Đức Đạt Lai Lạt Ma ban đầu ở chung trong nhà mới của ngài với mẹ ngài và hai con chó Lhasa Apso mà những người ngưỡng mộ đã tặng cho ngài. (Một trong số đó là Tenzin Norgay, nhà leo núi Nepal, người đã đồng hành với Sir Edmund

Hillary trong chuyến leo núi lịch sử đến đỉnh núi Everest năm 1953.) Các con chó Sangye and Tashi, biểu lộ tình cảm chân thành với những ai tiếp xúc với chúng.


NHỮNG THAY ĐỔI XA HƠN

Trong mười năm đầu lưu vong, người Tây Tạng, kể cả Đức Đạt Lai Lạt Ma, chịu đựng những thay đổi quan trọng. Họ đã lìa quê hương sinh trưởng, chính quyền trong hình thức từ nghìn năm xưa, nhiều nghi thức nghiêm ngặt được nối kết với lãnh tụ của họ, lối sống của họ, đôi khi những thành viên trong gia đình của họ, và nhiều sở hữu khác của họ.

Trong những năm ấy Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã thực hiện những thay đổi bổ sung cho chính quyền của ngài. Ngài đã thành lập những gì ngày nay gọi là
Bhoe Mimang Chetui Lhenkhang, có nghĩa là  Hội Đồng Đại Biểu Dân Tộc Tây Tạng, một cơ quan lập pháp bầu cử tự do tương tự như một quốc hội. Năm 1961, hội đồng này đã công bố một dự thảo hiến pháp cho Tây Tạng, căn cứ trên triết lý Phật giáo, những ý tưởng dân chủ và Tuyên Bố Nhân Quyền của Liên Hợp Quốc. điều làm sốc nhiều người Tây Tạng, là tài liệu có một điều khoản vốn cho phép hội đồng truất phế Đức Đạt Lai Lạt Ma nếu hai phần ba đại biểu đồng ý. Chính Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đề xuất điều khoản ấy và sau đó nhất định lưu lại nó trong tài liệu.

Năm 1968, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã dời đến một khu ở mới gọi là Tu Viện
Thekchen Choeling, vẫn ở vùng Dharamsala. Khu nhà mới của Đức Đạt Lai Lạt Ma tọa lạc trong một dinh thự mới xây dựng với những tòa nhà rộng rãi hơn để cung cấp chỗ cho văn phòng riêng của ngài, bộ phận chịu trách nhiệm cho vấn đề tài chính cá nhân của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Một tòa nhà khác cung cấp địa điểm cho những tiếp kiến công cộng.

DU HÀNH THẾ GIỚI

Bắt đầu năm 1967, Đức Đạt Lai Lạt Ma du hành đến những nước khác, đầu tiên để thảo luận những vấn đề tôn giáo với những người Phật tử khác nhưng sau này để phổ biến thông điệp của ngài về những điều kiện ở Tây Tạng, những cố gắng của ngài để đàm phán với Tàu Cộng, và cuối cùng về những vấn đề liên quan đến cả thế giới. Trong chuyến bay đầu tiên ra khỏi Ấn Độ, trên đường đến Nhật Bản và Thái Lan, ngài đã trở nên thất vọng khi nhìn thấy một chiếc máy bay ném bom B-52 của Không quân Hoa Kỳ mà ngài biết chắc chắn phải trên đường ném bom một mục tiêu ở miền Bắc Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam.
Ngài nhận ra chiếc máy bay đang mang theo cái chết và sự hủy diệt đối với những con người trên mặt đất, những con người giống như ngài. Ngài ta càng thêm thất vọng khi nhận ra, dù ở độ cao 30.000 feet (9.144m) so với Trái đất, ngài vẫn không thể thoát khỏi việc chứng kiến bằng chứng về sự hủy diệt mà con người có thể gây ra.

Năm 1973 Đức Đạt Lai Lạt Ma lần đầu tiên du hành sang phương Tây. Ngài đã đi đến châu Âu và Scandinavia, viếng thăm 11 nước trong sáu tuần. Chuyến đi này đã cho ngài cơ hội đế gặp Heinrich Harrer một lần nữa. Nó cũng cho ngài cơ hội để cảm ơn một cách riêng tư đến những cá nhân, tổ chức và chính phủ đã giúp đở người Tây Tạng tị nạn. Ở Rome ngài đã gặp Đức Giáo Hoàng Paul VI tại Vaticant. Ở Thụy Sĩ ngài đã gặp những trẻ em Tây Tạng được những gia đình Thụy Sĩ nhận làm con nuôi. Ở Hà Lan ngài đã gặp một rabbi sống sau vụ diệt chủng Holocaust của Hitler. Ở Anh quốc ngài đã hoàn toàn cảm thấy người Anh đồng cảm với vấn đề Tây Tạng như thế nào.

Tuy nhiên, ngài phải chờ đợi để viếng thăm Hoa Kỳ. Ngài được nói về những thương thảo giữa Hoa Kỳ và Tàu Cộng quá mong manh như thế nào. Sự viếng thăm của ngài có thể được xem là “không thuận tiện.” Mặc dù vậy năm 1979, dưới chính quyển của Tổng Thống Jimmy Carter, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã viếng thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên:


Khi đến thành phố New York … tôi lập tức ấn tượng bởi một bầu không khí tự do. Những người tôi gặp gở dường như rất thân hữu và cởi mở cùng thoải mái. Nhưng đồng thời, tôi không thể không nhận thấy một số khu vực của thành phố bẩn thỉu và nhếch nhác như thế nào. Tôi cũng rất lấy làm tiếc khi thấy rất nhiều kẻ lang thang và người vô gia cư trú ẩn trong các ô cửa. Tôi ngạc nhiên rằng có thể có bất kỳ người ăn xin nào trong vùng đất rộng lớn và trù phú này. . . Một điều ngạc nhiên khác là tôi phát hiện ra rằng mặc dù, giống như nhiều người theo chủ nghĩa phương Đông, tôi có quan điểm rằng Hoa Kỳ là quốc gia đấu tranh cho tự do nhưng thực ra rất ít người biết về số phận của Tây Tạng. Bây giờ, khi tôi hiểu rõ hơn về đất nước này, tôi bắt đầu thấy rằng, theo một cách nào đó, hệ thống chính trị Hoa Kỳ không sống theo lý tưởng của riêng mình.

Trong  khi ở thành phố New York, ngài đã nói chuyện tại một nơi phục vụ cầu nguyện của Vương Cung Thánh Đường Saint Patrick, một “lễ hội liên tôn ngoại hạng,” theo báo cáo của tờ báo Time. Đức Đạt Lai Lạt Ma bị bao quanh bởi một nhóm các tu sĩ Tin Lành, Armenia, Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo. Để mang lại không khí Tây Tạng cho sự kiện, một nhóm tu sĩ đã vỗ chập chỏa và thổi tù và truyền thống.

Trong chuyến du hành hai mươi hai thành phố/bảy tuần lễ, ngài đã gặp những nhóm Phật tử Hoa Kỳ. Ở thủ đô Hoa Sinh Tân, ngài đã nói chuyện với những dân biểu quốc hội và các thành viên của Ủy Ban Đối Ngoại Thượng Viện. Hầu hết, ngài đã nói chuyện trong khuôn viên những trường đại học khắp Hoa Kỳ với những đám đông thanh niên trẻ tuổi háo hức để nghe về một nền văn hóa vốn không vinh danh chủ nghĩa vật chất.

THÔNG ĐIỆP CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA VỚI THẾ GIỚI

Khi viết về những cuộc du hành, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tiết lộ triết lý nền tảng của ngài – rằng tất cả con người là giống nhau một cách cơ bản:

Vì những cuộc viếng thăm đầu tiên đến những phần khác nhau của thế giới, tôi phải trở lại nhiều lần. Một cách đặc biệt, tôi đã chào đón cơ hội có được bằng việc du hành để gặp gở và nói chuyện với những tầng lớp khác nhau của cuộc sống – một số nghèo, một số giàu, một số học vấn cao cấp, một số ít học, một số là tôn giáo, và nhiều người không tôn giáo. Cho đến nay tôi đã tiếp nhận duy hổ trợ cho niềm tin của tôi rằng bất cứ nơi nào bạn đi, mọi người ở khắp mọi nơi một cách căn bản là giống nhau, mặc dù chắc chắn có những khác biệt bề ngoài nhất định. Tất cả mọi người, như chính tôi, tìm cầu hạnh phúc: không ai muốn khổ đau. Xa hơn nữa, mọi người cảm kích tình cảm và cùng lúc có khả năng để biểu lộ tình cảm tới những người khác. Với điều này trong tâm, tôi đã thấy rằng tình bàn và sự hiểu biết có thể phát triển được.


Ngôi Làng Trẻ Em Tây Tạng
Mười bốn ngày sau khi di chuyển đến Dharamsala, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mở một trại nuôi dưỡng trẻ em mồ côi Tây Tạng. Ngài đã chỉ định bà chị của ngài là Tsering Dolma đứng đầu hoạt động, và trước đây, hàng trăm trẻ em đã sống ở đó. Nổ lực đầu tiên này cuối cùng đã đưa đến việc tạo ra Làng Trẻ Em Tây Tạng (TCV), một tổ chức với những chi nhánh khắp các trại tị nạn ở Ấn Độ. Ngày nay, TCV đã cung cấp chổ ở và dạy dỗ hàng nghìn trẻ em Tây Tạng và phục vụ như một kiểu mẫu cho những cộng đồng tị nạn khắp thế giới. Tuy nhiên, trước khi nó trở nên lan rộng và thành công vượt bực, nó đã đối diện với sự quá tải nghiêm trọng.
Những điều kiện đã trở thành quá đông đúc ở tại trại đầu tiên – với 120 trẻ em chia sẻ một phòng và đôi khi 5 đến 6 trẻ ngủ trên một giường – Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tiếp xúc với chính phủ Thụy Sĩ về khả năng gửi trẻ em đến đó để được những gia đình Thụy Sĩ nhận làm con nuôi. Chính phủ Thụy Sĩ đã đồng ý. Họ cũng đồng ý để quy định của Đức Đạt Lai Lạt Ma rằng các trẻ em, nếu như có thể, đượccho cơ hội để học hỏi và duy trì di sản văn hóa của chúng. Những học sinh lớn được gửi tới Thụy Sĩ để học tập, và một nghìn người lớn tị nạn cũng nhận đất nước châu Âu ấy làm nhà của họ.


Về phương Tây, ngài nói rằng ngài ấn tượng với “năng lượng và sự sáng tạo của nó và khao khát để tìm hiểu.” Tuy nhiên, ngài nói rằng người phương Tây có xu hướng suy nghĩ “trong dạng thức của ‘trắng và đen’ và ‘hoặc, hay’, vốn lãng quên những sự kiện của liên hệ hổ tương và tương đối. [Người phương Tây] có một khuynh hướng đánh mất tầm nhìn của những vùng xám vốn tồn tại giữa hai quan điểm vẫn thường thấy.”

Từ lần đầu tiên rời Ấn Độ, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thăm viếng hơn sáu mươi lăm quốc gia trên sáu lục địa. Ngài đã đến Hoa Kỳ ba mươi lăm lần. Ngài đã chia sẻ triết lý và ý tưởng của ngài với hàng triệu người qua những buổi nói chuyện công cộng, sách vở và giảng dạy. Bất cứ khi nào ngài được yêu cầu để nói, ngài nói ngài luôn luôn tiếp cận nhiệm vụ với ba cấp độ. Thứ nhất, ngài nói như một con người, vì thể ngài có thể thảo luận những trách nhiệm của chúng ta đối với mỗi người khác và cho hành tinh mà chúng ta đang sống. Thứ hai, ngài nói với những người nghe như một tu sĩ Phật giáo, cố gắng để mang đến sự hòa hợp và thông hiểu giữa những tín hữu của những niềm tin khác nhau. Thứ ba, ngài nói như một người Tây Tạng, về đất nước mà ngài yêu mến, dân tộc và nền văn hóa ngài yêu mến, và nhu cầu của nó cho công lý và bảo vệ.


Ẩn Tâm Lộ, Saturday, April 17, 2021

 

 

Thứ Năm, 8 tháng 4, 2021

ĐI LƯU VONG

 


Cũng như tình trạng nghiêm trọng của Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi chỉ có thể theo đuổi một trong ba trường hợp – chiến đấu, bỏ chạy, hay đàm phán. Ngài có thể tập họp lại đội quân ít ỏi, vũ khí thô sơ, rèn luyện sơ sài và đưa họ đối mặt với một lực lượng quân sự mạnh mẽ vượt trội, biết rằng ngài gần như chắc chắn đang kết án tử hình cho đội quân của ngài và xứ sở của ngài cuối cùng sẽ bị đánh bại. Ngài có thể trốn chạy khỏi đất nước, nhưng như vậy sẽ để lại dân tộc ngài không có lãnh đạo và vẫn chịu sự thương hại của những kẻ xâm lược. Hay, ngài vẫn ở lại Tây Tạng và cố gắng để đàm phán một thỏa hiệp với Tàu Cộng để bảo vệ dân tộc ngài và nền văn hóa của họ. Để thực hiện một quyết định đúng đắn, ngài phải biết hơn về Trung Hoa.


LỰA CHỌN KHÓ KHĂN CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Đức Đạt Lai Lạt Ma thừa nhận rằng ngài chỉ biết chút ít về Trung Hoa khi ngài trở thành lãnh tụ của Tây Tạng, và ngay cả ít hơn về Tàu Cộng. Ngài đã học một bài học kinh hoàng, hai tuần trước lễ tấn phong ngài đứng đầu chính phủ Tây Tạng, khi người anh của ngài, Taktser Rinpoché, đã đến Lhasa từ tỉnh quê nhà Amdo của ngài. Như viện trưởng của tu viện Kumbum, Taktser phải đối phó với Tàu Cộng đã chiếm đóng tỉnh nhà. Hiện tướng thân thể của Taktser đã báo động Tenzin Gyatso, vốn gần như không thể nhận ra người anh của ngài. Ông ấy xuất hiện lo lắng và dưới sự căng thẳng tột độ, và những tin tức của ông ấy mang đến thậm chí còn gây lo ngại hơn nữa.

Trước sự thất thần của Đức Đạt Lai Lạt Ma, anh ngài nói với ngài rằng ông được cán bộ Tàu Cộng gửi đến để thuyết phục Đức Đạt Lai Lạt Ma chấp nhận sự cai trị của Tàu Cộng. Nếu thất bại, cán bộ Tàu Cộng đã chỉ thị Taktser Rinpoché ám sát em trai của ông. Mệnh lệnh này cho thấy sự hiểu biết của Tàu Cộng nghèo nàn như thế nào trong việc thấu hiểu niềm tin của Phật tử Tây Tạng. Đối với một Phật tử, mọi đời sống là thiêng liêng, và ý tưởng về một tu sĩ giết hại một tu sĩ  khác – đặc biệt là anh em của vị ấy – là điên rồ. Taktser Rinpoché đã quyết định cách duy nhất mà ông có thể cảnh báo em trai của ông là giả vờ tuân theo mệnh lệnh và sau đó vạch trần âm mưu của Tàu Cộng khi ông đến Lhasa. Ông khuyên người em trai ông hãy thoát ra nước ngoài, tiếp xúc với chính phủ Mỹ để yêu cầu giúp đở, và đưa quân đội Tây Tạng chống lại Tàu Cộng.

Trước tin tức mới này, nhưng không sẳn lòng giao phó cho quân đội, lãnh tụ mới của Tây Tạng đã hỏi ý kiến của những thành viên hội đồng chính phủ, những cố vấn trong nội các của ngài. Họ quyết định gửi những mật phái viên đến Anh quốc, Hoa Kỳ, và Nepal để yêu cầu giúp đở. Một người khác được gửi đến Trung Hoa cố gắng thương lượng cho một cuộc rút binh lính Tàu Cộng khỏi miền đông Tây Tạng.


MỘT TUYÊN BỐ SỐC

Trong khi chờ đợi hồi đáp, Đức Đạt Lai Lạt Ma lấy những quốc ấn của Tây Tạng – những huy hiệu kim loại của chính phủ Tây Tạng, sử dụng để đóng dấu vào những văn kiện chính thức – và dời đến Dromo, một thị trấn ở miền nam Tây Tạng, với những viên chức then chốt của chính phủ. Điều này cho  phép ngài đào thoát nhanh chóng đến Ấn Độ và thiết lập một trong chính phủ lưu vong nếu Tàu Cộng chiếm đóng trung tâm Tây Tạng. Vài tuần sau, ba đặc phái viên Tây Tạng trở lại và báo cáo rằng người ta đã quay mặt đi. Không chính phủ ngoại quốc nào muốn giúp đở. Chỉ phái viên đến Trung Hoa được chấp nhận.

Cũng khoảng cùng lúc ấy, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhận được những tin tức làm  lo âu từ thống đốc của Chamdo miền đông nam Tây Tạng. Tỉnh của ông đã bị Tàu Cộng kiểm soát, và các cán bộ Tàu Cộng đã đe dọa tiến quân đến Lhasa trừ khi có một thỏa thuận chính trị đạt được. Viên thống đốc tự nguyện đi Bắc Kinh để đàm phán. Đức Đạt Lai Lạt Ma đồng ý một cách miễn cưỡng và gửi hai đặc phái viên chính phủ đến Dromo với ông ta.

Vài tuần sau, Đức Đạt Lai Lạt Ma bị sốc khi nghe trên đài truyền thanh Bắc Kinh rằng một thỏa thuận đã được ký kết giữa Tàu Cộng và Tây Tạng. Những đại diện không có quyền ký kết một thỏa thuận như vậy. Tuy nhiên, đài truyền thanh Tàu Cộng đã tuyên bố một “Thỏa Thuận Bảy Điểm cho Sự Giải Phóng Hòa Bình Tây Tạng.” Điều khoản thứ nhất của cái gọi là thỏa thuận này nói rằng: “Dân tộc Tây Tạng phải thống nhất và đẩy lùi những năng lực hung hăng của đế quốc ra khỏi Tây Tạng. Dân tộc Tây Tạng phải trở về đại gia đình mẫu quốc — Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.” Đức Đạt Lai Lạt Ma biết rằng chính phủ Tây Tạng đã không ký kết một thỏa thuận như vậy và Tây Tạng không bao giờ là một phần của Trung Hoa. Ngài nghi ngờ rằng những đại diện Tây Tạng đã bị ép buộc ký kết và Tàu Cộng đã sử dụng những con dấu giả mạo để làm cho nó có vẻ chính thức.

Nhiều cố vấn của Đức Đạt Lai Lạt Ma thúc giục ngài chạy sang Ấn Độ ngay lập tức. Taktser Rinpoché và Heinrich Harrer, vào lúc này đã ở Ấn Độ, đã gửi cho ngài những bức thư hối thúc ngài rời Tây Tạng. Tuy vậy, những người khác muốn ngài trở lại Lhasa vì dân tộc Tây Tạng sợ hãi và cần sự lãnh đạo của ngài. Sau cuộc gặp gở với toàn quyền mới của Tàu Cộng ở Tây Tạng là tướng Chiang Chin-wu, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trở lại Lhasa. Sáu tuần sau khi về đến Lhasa, sau chín tháng vắng mặt, những nổi sợ hãi tồi tệ nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trở thành sự thật. Ngày 16 tháng Mười năm 1951, ba nghìn Quân Giải Phóng Nhân Dân đã vào thành phố. Cuối cùng, hơn hai mươi nghìn quân Tàu Cộng đã đóng ở Lhasa. Một cuộc đình chiến không dễ dàng giữa quân đội chiếm đóng Tàu Cộng và điều mà Bắc Kinh gọi là “chính quyền địa phương” của Tây Tạng. Trong vài năm tiếp theo, những cán bộ Tàu Cộng đã siết chặc sự kiềm kẹp đối với dân tộc Tây Tạng bằng việc cưỡng ép những sự từ chức từ các viên chức chính phủ mà họ cho là thù địch, bằng việc bắn phá Tây Tạng với sự tuyên truyền Cộng sản, và bằng việc kích hoạt những luật lệ áp bức.

ĐẾN BẮC KINH VÀ TRỞ LẠI

Năm 1954 Đức Đạt Lai Lạt Ma được mời đến thăm Trung Hoa. Nhiều người Tây Tạng sợ rằng ngài sẽ bị giữ lại ở đó trái với ý muốn của ngài và họ có thể không bao giờ gặp lại ngài, nhưng ngài lại nghĩ đấy là một ý tưởng tốt. Không chỉ ngài có thể gặp gở và nói chuyện trực tiếp với chủ tịch Mao Trạch Đông mà cũng có thể thấy điều gì đó của thế giới bên ngoài. Đó sẽ là chuyến du hành ngoài Tây Tạng lần đầu tiên. Đi bằng xe jeep, xe hơi, lừa, xe lửa, máy bay, và cả thuyền bằng da thú, ngài và đoàn tùy tùng năm trăm người đã đi đến Bắc Kinh.

 

Mặc dù nhiều thứ ngài nhìn thấy ở Trung Hoa làm ngài ấn tượng và sự chào đón ngài dường như đủ thân mật, nhưng ngài vẫn nghi ngờ những động cơ của Tàu Cộng. Càng học hỏi thêm về chủ nghĩa Marxist, triết lý ẩn sau chủ nghĩa Cộng sản, thì ngài càng thích nó, bởi vì nó nhấn mạnh sự bình đẳng và công bình cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, ngài không đồng ý với sự tập trung của nó vào chủ nghĩa vật chất và những phương pháp mà Tàu Cộng sử dụng để hoàn thành các mục tiêu của chủ nghĩa Marxist.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã gặp chủ tịch Mao cả chục lần trong lần thăm Bắc Kinh của ngài. Mỗi lần, ngài ấn tượng với sự xuất hiện của Mao và ông ta dường như quan tâm chân thành với dân tộc và nền văn hóa Tây Tạng. Tuy nhiên, điều gì đó mà lãnh tụ Cộng sản thì thầm với ngài vào cuối lần gặp sau cùng, vào mùa xuân năm 1955, làm Đức Đạt Lai Lạt Ma nghi ngờ nghiêm trọng về tương lai của mối quan hệ Hoa – Tạng. “Ông ta nghiêng đến gần tôi và nói, ‘…Tôn giáo là thuốc độc. Thứ nhất nó làm giảm dân số, vì tăng và ni phải sống độc thân, và thứ đến nó hờ hững với tiến trình vật chất.’ Với điều này, tôi cảm thấy một cảm giác bạo động bừng cháy khắp mặt tôi và bất chợt tôi cảm thấy rất sợ hãi.”

Ngày hôm sau, Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu rời Bắc Kinh đề trở về Tây Tạng, tin rằng Tàu Cộng không có ý định tôn trọng bất cứ thỏa thuận nào về việc bảo tồn di sản văn hóa Tây Tạng nhưng vẫn không chắc chắn về việc gì phải làm. Trên đường trở lại Lhasa, phái đoàn của ngài đã đi ngang ngôi làng quê hương Taktser của ngài. Những người Tây Tạng ở đó, cũng như mỗi ngôi làng ngài đi qua, đã tụ tập để chào đón ngài và nhận sự ban phước lành của ngài. Trong tự truyện của ngài, ngài cho biết những gì ngài thấy trong đôi mắt họ. “Khi tôi nói chuyện với những người Tây Tạng ở đó, hỏi về những điều kiện sống, thì họ đáp rằng, “Cảm ơn chủ tịch Mao, đảng Cộng sản và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, chúng tôi rất hạnh phúc’ — nhưng với những giọt nước mắt của họ.”

NHỮNG CẢI CÁCH CHÍNH TRỊ, MẶC DÙ BỊ CHIẾM ĐÓNG
Giữa những năm 1951 và 1959, Đức Đạt Lai Lạt Ma, dù vẫn đang tập trung vào việc học vấn của ngài, nhưng đã phải bước vào một sự căng thằng chính trị thật sự, cố gắng tránh một sự chiếm đóng quân sự hoàn toàn xứ sở của ngài, trong khi cố xoa dịu những chiến binh kháng cự của Tây Tạng. Trong lúc đó, ngài đã khởi động những cải cách trong chính quyền Tây Tạng, hướng đến hiện đại hóa nó. Ngài đã thiết lập một nền tư pháp độc lập và thực hiện việc phát triển một hệ thống giáo dục rộng mở hơn chỉ là những tăng ni sinh viên. Ngài cũng nói chuyện với những thính chúng công cộng điều mà chưa Đức Đạt Lai Lạt Ma tiền nhiệm nào đã từng làm. Sự cởi mở mới này đã dẫn đến mối quan hệ cá nhân hơn của ngài và những người dân bình thường Tây Tạng.


TÌNH TRẠNG TRỞ NÊN TỒI TỆ HƠN

Trong vài năm sau, rõ ràng đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma rằng quân Tàu Cộng chiếm đóng xứ sở ngài đang không cho phép ngài lãnh đạo một cách hiệu quả dân tộc ngài. Theo Robert A.F. Thurman, giáo sư nghiên cứu Ấn – Tạng tại đại học Columbia thì Đức Đạt Lai Lạt Ma sau khi trở lại từ Trung Hoa “đã bắt đầu trải nghiệm thực tế của việc chiếm đóng khi những tướng lãnh chịu trách nhiệm ở Tây Tạng đã thất hứa hết lần này đến lần khác. Tàu Cộng tạo ra việc thiếu thốn lương thực, chiếm đoạt đất đai và của cải, bắt đầu tẩy não những thường dân Tây Tạng. Khủng bố một cách bạo động đại đa số những người không chấp nhận ý kiến của chúng. Thêm nữa, những báo cáo đã đến với Đức Đạt Lai Lạt Ma rằng các tu sĩ nam nữ Phật giáo “đã là đối tượng bị quấy nhiễu và xỉ nhục trước công chúng. Thí dụ, họ đã bị bắt phải tham gia chương trình tiêu diệt côn trùng, chuột, chim, và tất cả các loại vật có hại, mặc dù chính quyền Tàu Cộng biết rằng việc lấy đi bất cứ mạng sống nào là trái với giáo huấn Đạo Phật. Nếu từ chối họ sẽ bị đánh.” Vài sự kiện giữa những năm 1956 và 1959 cuối cùng giúp Đức Đạt Lai Lạt Ma tin đến sự cần thiết phải rời Tây Tạng. Thứ nhất trong những điều này, mới đầu ngài không hiểu hoàn toàn, xãy ra trong đầu năm 1956. Mỗi năm trong lễ Losar, lễ hội Mừng Năm Mới của Tây Tạng, theo truyền thống Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi ý kiến Hộ Pháp Nãi Quỳnh (the Nechung Oracle) về tương lai của Tây Tạng. Năm nay Hộ Pháp “tuyên bố rằng ‘ánh sáng của Ngọc Ước Toại Nguyện [một trong những danh hiệu của Đức Đạt Lai Lạt Ma theo người Tây Tạng] sẽ chiếu sáng ở phương Tây.” Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích điều này có nghĩa là ngài sẽ du hành sang Ấn Độ để dự lễ Buddha Jynati, lễ hội mừng Phật Đản thứ 2,500 năm. Chỉ sau này ngài mới nhận ra rằng thông điệp ấy có một ý nghĩa sâu sắc hơn.

Tháng Mười Một năm 1956, sau hàng tuần đàm phán căng thẳng với các cán bộ Tàu Cộng ở Lhasa, Đức Đạt Lai Lạt Ma được phép rời Tây Tạng để du hành sang Ấn Độ. Đó là một cơ hội để thực hiện một chuyến hành hương đến những gì mà người Phật tử Tây Tạng gọi là “Đất Phật,” nơi Đức Phật sinh ra. Điều đó cho phép ngài tiếp xúc với chính quyền Ấn Độ, khảo sát những lựa chọn của ngài, và để quán sát những hoạt động nội tại của nền dân chủ Ấn Độ. Ở Ấn Độ, Đức Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi được chào đón bởi những đám đông Phật từ khắp Á châu. Theo tạp chí Time báo cáo, “Ngài bị bao vây bởi những đám đông quay cuồng vẩy cờ vàng cầu nguyện, thắp hương và hoa. Hàng nghìn Phật tử hành hương phủ phục trước ngài, và khi không thể chạm vào y áo ngài, họ đã chạm vào móng con ngựa của ngài.”

Thủ Tướng Ấn Độ Pandit Nehru dường như đã không chấp nhận ý tưởng Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng và thoát sang Ấn Độ. Ông sợ sự trả thù chống Ấn Độ của Tàu Cộng. Mặc dù thế, một số người thân và cố vấn của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thúc giục ngài ở lại Ấn Độ. Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn do dự về việc từ bỏ quê hương ngài, một lần nữa tham vấn hộ pháp tiên tri và sau đó quyết định trở lại Lhasa một lần nữa. Ngài khởi hành rời Ấn Độ với “một trái tim nặng nề.” Tâm trạng của ngài tối đen hơn nữa khi ngài đến biên giới Tây Tạng và thấy, “rung rinh giữa  những lá cờ cầu nguyện của Tây Tạng … tối thiểu một tá biểu ngữ màu máu đỏ tuyên bố Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lãnh thổ.” Đó là tháng Ba năm 1957.

ĐƯỜNG ĐI LƯU VONG


Diệt Chủng Ở Miền Đông Tây Tạng
Giữa mùa hè của 1957 cuộc chiến đã nổ ra giữa những người nổi dậy ở đông Tây Tạng và quân Tàu Cộng. Mặc dù người tị nạn Tây Tạng tràn ngập Lhasa từ vùng đó với những câu chuyện Tàu Cộng tàn ác, nhưng vài chuyện có thể chấp nhận được sự thật ấy. Hai năm sau, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận được một bản copy của một của một báo cáo chính thức từ Ủy Ban Luật Gia Quốc Tế (ICJ). ICJ là một tổ chức phi chính phủ, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ, của những người muốn bảo vệ việc thấu hiểu và tôn trọng quy tắc của luật pháp. Báo cáo của họ cuối cùng làm ngài chấp nhận những gì ngài đã nghe, rằng “việc đóng đinh, mổ xác [cắt xén], mổ bụng và phanh xác các nạn nhân là chuyện bình thường.” Cũng thế như việc chặt đầu, đốt thiêu, đánh đập đến chết và chôn sống, không cần phải đề cập đến việc kéo người đằng sau cho ngựa chạy đến khi họ chết hay treo ngược hay ném người bị trói tay chân vào nước băng giá. Và, để ngăn họ la lên, ‘Đức Đạt Lai Lạt Ma muôn năm’, trên đường đi xử tử, chúng đã xé lưỡi họ bằng móc thịt.”Báo cáo của ICJ năm 1959, “Vấn Đề Tây Tạng Và Quy Tắc Luật Pháp,” căn cứ trên hàng trăm phỏng vấn với người Tây Tạng tị nạn ở bắc Ấn Độ, một phần, cáo buộc các lực lượng Tàu Cộng “Truy sát giết người Tây Tạng và các hành vi khác có khả năng dẫn đến sự tuyệt chủng của người Tây Tạng với tư cách là một quốc gia và tôn giáo, đến mức cần phải xem xét nghi vấn Diệt chủng.”
Tenzin Gyatso, the Fourteenth Dalai Lama of Tibet, Freedom in Exile: The Autobiography of the Dalai Lama. New York: HarperCollins, 1990, p. 124.

Quoted in Rodney Gilbert, Genocide in Tibet: A Study of Communist Aggression. New York: American-Asian Educational Exchange,


Từ giữa 1957 đến đầu năm 1959, số phận Tây Tạng ở trong tay của Tàu Cộng đã trở nên rõ ràng hơn. Lựa chọn duy nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ là đào thoát lưu vong. Giữa mùa hè năm 1957 cuộc chiến bùng nổ ở đông Tây Tạng giữa những người Tây Tạng nổi dậy và quân Tàu Cộng đưa những người tị nạn đến Lhasa với những câu chuyện kinh khủng về sự diệt chủng của Tàu Cộng. Nhận ra thảm họa đang tràn tới, Đức Đạt Lai Lạt Ma quyết định ngài nên gắp rút tiến hành những cuộc thi cử của việc học vấn để chuẩn bị cho những gì sắp xảy đến. Ngài đã tập trung vào việc học hành của ngài. Trong mùa hè tiếp theo, ngài đã thăm viếng vài tu viện để được kiểm tra trong tranh luận. Phần cuối cùng của việc thi cử này của ngài được xảy ra trong lễ hội Monlam, Lễ Hội Cầu Nguyện Lớn Thường Niên tổ chức tại chùa Jokhang, một trong những điện thờ thiêng liêng nhất ở Tây Tạng. Ngài đã thi đậu, nhận bằng cấp của ngài cùng với danh hiệu geshe (tiến sĩ Phật học) vào ngày 5 tháng Ba năm 1959.

Hai ngày sau Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhận được một lời mời dường như vô tư từ những cán bộ Tàu Cộng ở Lhasa. Một đội quân ca múa mới đã vừa đến từ Trung Hoa, và họ muốn ngài tham dự. Cán bộ Tàu Cộng khẳng định buổi biểu diễn được tổ chức tại doanh trại quân sự của chúng và rằng không một chiến binh Tây Tạng nào được tháp tùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma cho sự kiện ấy. Tin tức về những hạn chế này lan truyền khắp dân chúng Lhasa, và vào buổi sáng ngày 10 tháng Ba, một đám đông khổng lồ đã tập trung bên ngoài Điện Norbulingka. Sợ rằng lời mời của Tàu Cộng là một âm mưu để bắt giữ và giam cầm Đức Đạt Lai Lạt Ma, người dân đã tự võ trang với gậy gộc, cuốc xẻng, và dao rựa và hình thành một rào cản bằng thân người để bảo vệ ngài và ngăn cản ngài đi tham dự.

Đúng trưa, khoảng ba mươi nghìn người đã tập trung, vây quanh Norbulingka. Đức Đạt Lai Lạt Ma, sợ rằng đám đông có thể thực hiện những hành động mạnh mẽ hơn và tấn công quân Tàu Cộng đồn trú, đã tuyên bố ngài sẽ không tham dự buổi biểu diễn. Mặc cho tuyên bố của ngài, đám đông vẫn duy trì, gia tăng số lượng và tinh thần. Việc duy nhất mà ngài có thể xoa dịu tình thế là rời đi. Không có ngài hiện diện ở cung điện, ngài cảm thấy đám đông sẽ giải tán, và mọi người sẽ không ở trong tình trạng nguy hiểm sắp xảy ra. Quyết định của ngài đang gặp rắc rối. Trong tự truyện đầu tiên của ngài, Quê Hương Tôi và Dân Tộc Tôi, ngài đã viết:

Căng thẳng tinh thần trong buổi sáng ấy là điều gì đó tôi chưa từng trải nghiệm trước đây trong thời gian ngắn ngủi với vai trò lãnh đạo dân tộc Tây Tạng. Tôi có cảm giác giống như tôi đang đứng giữa hai núi lửa, mỗi bên như sắp bùng nổ bất cứ lúc nào…. Những người Lhasa sẽ bị thảm sát một cách tàn nhẫn hàng nghìn người, và Lhasa và cả Tây Tạng sẽ thấy một sự cai trị quân sự hoàn toàn với tất cả sự hành hạ và bạo quyền của nó.

ĐÀO THOÁT

Sau một tuần, với đám đông vũ trang hổ trợ vẫn bao quanh cung điện, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tham vấn Hộ Pháp Nãi Quỳnh (Nechung oracle). Hộ Pháp đã la lên, “Đi! Đi! Tối nay!” và viết những hướng dẫn xác định về vấn đề thoát khỏi thành phố như thế nào mà không bị chú ý. Cả ngày hôm đó, 17 tháng Ba năm 1959, chương trình bí mật được đề ra. Vào buổi trưa, những giáo thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma và các thành viên chính phủ (Kashag) rời cung điện, ẩn mình dưới tấm bạc phía sau một xe truck. Vào buổi tối, mẹ ngài và một số phụ nữ đã rời đi một cách bí mật. Vài phút trước 10 giờ tối hôm đó, vị thánh vương, nhói lòng và ngụy trang như một binh sĩ bình thường, đã rời cung điện lần cuối. Ngài hai mươi lăm tuổi.

Báo Cáo Chứng Kiến Tận Mắt Về Phản ứng Của Tàu Cộng

Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma và cận vệ của ngài đào thoát vào ban đêm và ẩn náo vào ban ngày trong những tu viện Phật giáo, các ngôi làng và đồn điền của quân nổi dậy Tây Tạng, quân Tàu Cộng điên cuồng khoe khoang rằng, chúng đã dặp tắt ba ngày nổi loạn ở Lhasa vốn có tác dụng như che đậy cho sự đào thoát của vị Thánh Vương. Hỏa lực đại bác đã bắn trực xạ vào những lạt ma kiên cường từ điện Norbulingka, cung điện mùa hè ở vùng ngoại ô của thành phố. Quân bộ binh Tàu Cộng tràn vào khu vực đầy ngỏ ngách rộng lớn của cung điện mùa đông Potala, vây bắt những tu sĩ bất khuất trong những hành lang hẹp và trong những phòng tối nơi những ánh sáng lập lòe của những ngọn đèn bơ làm cho những vị thánh thần và ma quỷ Tây Tạng dường như nhảy nhót trên những bức tường. Thi thể của hàng trăm người Lhasa bị giết một cách bạo tàn nằm trên những con đường và công viên thành phố, từ trường cao đẳng y tế giải phẩu trên đồi Chakpori đến đường chính bị phong tỏa Barkhor. Súng trường và súng máy bắn tung cửa sổ của tòa tổng lãnh sự Ấn Độ, mà máy vô tuyến truyền thanh của họ là mối liên kết duy nhất với thế giới tự do. Và những đội quân và máy bay Tàu Cộng đan chéo nhau trên cao nguyên cằn cỗi và nhỏ hẹp của Tây Tạng để tìm kiếm Đức Đạt Lai Lạt Ma mất tích.”
Time, “The Three Precious Jewels,” April 20, 1959. www.time.com/time/magazine/article/



Cùng với một nhóm nhỏ cận vệ, ngài đã rời đi không bị phát hiện, ra khỏi Lhasa và băng qua một con sông gần đó. Ở đó ngài gặp đoàn tùy tùng cùng gia đình của ngài. Tất cả họ cùng nhau bắt đầu ba tuần hành trình đến tự do — bắc Lhasa, sau đó vòng trở lại đông nam thẳng đến biên giới Ấn Độ. Khi đoàn từ từ tiến trình hướng đến ly hương, những tin tức đến tai họ về phản ứng tàn bạo của Tàu Cộng. Đã đập tan cuộc nổi dậy bằng cách biến phần lớn Lhasa trở thành đống tro tàn âm ỉ. Tàu Cộng biết rằng họ đã bị đánh lừa. Lập tức chúng tuyên bố với thế giới rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã bị bắt cóc.

Di chuyển bằng đi bộ và trên những con la, nhóm của Đức Đạt Lai Lạt Ma chậm chậm hướng đến đông nam, được bảo vệ bằng một lực lượng khoảng ba trăm chiến binh.  Bị cản trở bởi những con đèo cao, thời tiết xấu, và bệnh tật, Đức Đạt Lai Lạt Ma và đoàn của ngài đi vào một vùng dân cư thưa thớt và cây cối rậm rạp của tỉnh Assam thuộc Ấn Độ ngày 31 tháng Ba năm 1959. Trước khi rời Tây Tạng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã cho những người cận vệ võ trang của ngài trở lại tham gia vào cuộc chiến tuyệt vọng vì Lhasa. Chỉ còn lại là tám mươi người tị nạn kiệt quệ về thể chất và tinh thần. Đức Đạt Lai Lạt Ma lại bị bệnh kiết lỵ, vì vậy những người thị giả đã đặt ngài trên lưng rộng của một con dzomo. Trên lưng con thú Tây Tạng đặc biệt khiêm tốn này, ngài đã đi những dặm cuối cùng đến tự do.

 


Thái độ của Tàu Cộng đối với Tây Tạng

“Tây Tạng đã trở thành một phần không thể tách rời của Trung Hoa kể từ thời cổ đại. Cuộc giải phóng hòa bình Tây Tạng, đẩy lực lượng đế quốc ra khỏi Tây Tạng, cải cách dân chủ xóa tan chế độ phong kiến nông nô thần quyền là những phần quan trọng trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ của nhân dân Trung Hoa chống lại chủ nghĩa đế quốc và phong kiến trong lịch sử hiện đại.” Đây là quan điểm chính thức từ Bắc Kinh liên quan đến Tây Tạng, xuất bản trong một bài báo từ Thông Tấn Xã Xinhua ngày 2 tháng Ba năm 2009.

Về cuộc nổi dậy sau sự ra đi của Đức Đạt Lai Lạt Ma khỏi Tây Tạng năm 1959, Xinhua thấy nó trong cách này: “’Thỏa thuận 17 điểm’ [Thỏa thuận mười bảy điểm cho việc giải phóng hòa bình Tây Tạng], được nói chung được chấp nhận sự cần thiết của việc cải cách hệ thống xã hội của Tây Tạng, và nhấn mạnh ‘chính quyền địa phương Tây Tạng nên tiến hành cải cách một cách tự nguyện.’ Tuy nhiên, trong việc quan tâm đến những hoàn cảnh đặc biệt của Tây Tạng, chính quyền Nhân dân trung ương đã chấp nhận một thái độ giới hạn đối với việc cải cách. Với sự nhẫn nại, bao dung và chân thành, nó đã thực hiện nhiều nổ lực để thuyết phục và chờ đợi cho những giai tầng lãnh đạo cao cấp địa phương của Tây Tạng tiến hành cải cách. Tuy nhiên, được xúi giục và hổ trợ của những lực lượng đế quốc, một số người thuộc tầng lớp thượng lưu, mặc dù nhu cầu đòi hỏi cải cách dân chủ ngày càng tăng, lại hoàn toàn chống lại cải cách và tuyên bố quyết định của họ là không bao giờ tiến hành. Nhằm cố gắng kéo dài chế độ nông nô phong kiến dưới thần quyền, những người này đã công khai từ bỏ ‘thỏa thuận 17 điểm’ và dàn dựng một cách trân tráo cuộc nổi dậy vũ trang vào ngày 10 tháng ba năm 1959. Nhằm để bảo vệ sự thống nhất của đất nước và những quan tâm căn bản của dân tộc Tây Tạng, chính quyền Nhân Dân Trung ương và nhân dân Tây Tạng đã thực hiện những biện pháp quyết định để dập tắt cuộc nổi loạn. Trong khi đó, một cuộc cải cách dân chủ mãnh liệt được tiến hành trên một mực độ rộng lớn ở Tây Tạng nhằm lật đổ hệ thống phong kiến nông nô thần quyền và giải phóng nông nô và nô lệ, mở ra một kỷ nguyên mới với những người dân trở thành người làm chủ vận mệnh của chính họ.

 

 “Full Text: Fifty Years of Democratic Reform in Tibet (1).” Xinhua News Agency. March 2,

2009. Accessed on HighBeam Research website August 5, 2009. http://www.high

beam.com/doc/1P2-19953430.html.

 

Ẩn Tâm Lộ, Thursday, April 8, 2021