Thứ Hai, 31 tháng 10, 2022

TRÁCH NHIỆM PHỔ QUÁT TRONG QUAN ĐIỂM THẾ GIỚI CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

 




Nguyên tác: Universal Responsibility in the Dalai Lama’s World View
Tác giả: Bharati Puri[1]*
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển nhuận văn
***



Trong số các cuộc tranh luận về quyền lợi và trách nhiệm hấp dẫn cũng như không thể kết luận, là luận đề do Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra.
Được coi là một trong những trọng tài quan trọng nhất về quyền con người và môi trường, Đức Đạt Lai Lạt Ma quyết định đưa ra các quyền của con người vốn có trong các quan niệm Phật giáo về phẩm giá và lòng từ bi của con người và khái niệm hóa chúng bằng cách công nhận có đi có lại các quyền và trách nhiệm của con người. Mặc dù thiếu tính chất chính thức, nhưng luận án của Ngài xuất phát từ những mối quan tâm Phật giáo của Ngài, đã đưa ra một cách thấu hiểu chuẩn mực về vấn đề này.

Ý tưởng về sự có đi có lại như được tìm thấy trong lý thuyết Phật giáo bao hàm, cũng như khái niệm hóa, lý thuyết về quyền của nó. Các học giả chấp nhận khái niệm nhân quyền ngầm trong Phật giáo cổ điển cho rằng

theo Phật pháp, chồng và vợ, vua và thần dân, thầy và trò, tất cả đều có những nghĩa vụ tương hỗ [được thêm vào] và có thể được phân tích thành quyền lợi và bổn phận. Tuy nhiên, chúng ta phải tương xứng cho niềm tin này bằng cách lưu ý rằng các yêu cầu của giáoPháp hầu như luôn được thể hiện dưới dạng nghĩa vụ hơn là quyền lợi. . . Cho đến khi các quyền với tư cách là quyền lợi cá nhân được công nhận, như một phần riêng biệt và không thể tách rời, là một phần của những gì thuộc về giáo Pháp, thì khái niệm các quyền hiện đại không thể được cho là tồn tại.1

Mặc dù từ nguyên học Phật giáo không đề cập đến quyền một cách rõ ràng - một khái niệm, ngẫu nhiên, có lịch sử tri thức lâu đời trong truyền thống triết học phương Tây 2 - điều này không đơn giản có nghĩa là Phật tử không thể đồng ý với bản chất của diễn ngôn nhân quyền. Peter Harvey giải thích rằng

Các Phật tử đôi khi không hài lòng khi sử dụng ngôn ngữ của quyền lợi vì họ có thể liên kết nó với những người đòi hỏi quyền của họ một cách hung hăng, coi mình là trung tâm, và có thể đặt câu hỏi liệu việc nói về quyền bất khả xâm phạm có ngụ ý một cái tôi thiết yếu, không thay đổi nào đó có những quyền này, mà không phù hợp với lời dạy của Phật giáo về bản chất của tự ngã.

Tuy nhiên, vì bổn phận bao hàm nghĩa vụ, các Phật tử vui vẻ hơn khi nói trực tiếp về bổn phận của chính họ: về ‘nhiệm vụ phổ quát’, hoặc sử dụng một cụm từ được Đức Đạt Lai Lạt Ma sử dụng nhiều, ‘trách nhiệm phổ quát’ hơn là ‘quyền phổ quát
’.3

Về mặt từ nguyên, từ ‘trách nhiệm’ (responsibility) xuất phát từ động từ ‘đáp lại’ (respond), có nghĩa là trả lời hoặc đáp lời; do đó trách nhiệm phải liên quan đến khả năng trả lời. Tham chiếu đến thuật ngữ trách nhiệm là thể hiện và quan tâm đến mọi cá nhân trong xã hội, cũng như chính xã hội, 4 và do đó phù hợp với Pháp Cú (Dharmapada) chỉ ra rằng ‘khái niệm về một thế giới’ được thực hiện về mặt lý thuyết khi chúng ta chấp nhận ý thức về mối liên hệ giữa cá nhân này với cá nhân khác. Dharmapada nói:

Vì vậy, mặc dù thế giới có thể trở nên lớn hay nhỏ, nhưng cuối cùng nó vẫn chỉ là mối quan hệ giữa hai cá nhân. Ngay khi người đàn ông thứ hai được hình dung, khái niệm về thế giới cũng nảy sinh. Do đó, người đàn ông thứ hai bao gồm trong anh ta tất cả những người còn lại trên thế giới.

Giả định bản thể luận này về cơ bản mô tả sự tồn tại của tất cả mọi sinh vật trong một, nghĩa là, trong một bản thể khác. Ngay cả khi người ta không tiếp xúc với mọi cá nhân trong xã hội, thì chính mối quan hệ này là nguyên tắc hình thành của nó.6 Cũng được phản ánh trong các tác phẩm đương đại, giả định này nhấn mạnh sự cần thiết của việc xem xét tác động của các hành động cá nhân và xã hội đối với những người khác, trong lĩnh vực lời nói và 'thao tác tượng trưng trong thời đại thông tin hiện nay, vừa trong các chính sách, chương trình và sản phẩm của các tổ chức lớn và nhỏ. “Những người khác” bị ảnh hưởng bởi [những] hành động này phải được hiểu không chỉ là một đơn vị, mà còn là những hoạt động tập thể quan trọng: gia đình, hàng xóm và nhóm làm việc; xã hội, nhóm dân tộc và kinh tế; dân số quốc gia và quốc tế; và, không chỉ là các loài sinh vật và hệ sinh thái.’7

Khái niệm vasudhaiva kutumbakam, trong tiếng Phạn có nghĩa đen là, 'coi cả thế giới như một gia đình của nhau', Kant[2] nhấn mạnh vào việc phổ cập các châm ngôn của ý chí đạo đức,
cũng như mối quan tâm của các triết gia theo chủ nghĩa Ưu Việt với lý tưởng ‘công ích’, tất cả đều cho thấy rằng như một khái niệm, trách nhiệm phổ quát, trong lịch sử tư tưởng, đã được coi là một phạm vi phản ánh đạo đức rộng rãi. Một ý thức thật sự về trách nhiệm phổ quát do Đức Đạt Lai Lạt Ma chủ trương không thể nảy sinh từ một chủ nghĩa cá nhân được nuôi dưỡng bởi một thế giới quan kinh tế.8 Thông qua trách nhiệm chung, Đức Đạt Lai Lạt Ma cố gắng nêu rõ một ‘tầm nhìn đạo đức’9, trong đó ‘sự kết nối phổ quát ’được nhấn mạnh. Ngài nhìn thấy trong sự thống nhất này một cảm giác phổ quát được liên kết với nhau, cũng như trách nhiệm đối với tất cả mọi người.10 Được sử dụng lần đầu tiên bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma, thuật ngữ 'trách nhiệm phổ quát' đã được sử dụng nhiều hơn là chỉ sử dụng ngôn ngữ và đã trở thành một điểm tập hợp cho các phong trào, cũng như là nguyên tắc nền tảng cho các cơ chế.11 Định nghĩa khái niệm này, Ngài nói: 'Lòng từ bi thật sự có tính phổ quát trong giá trị. Đi kèm với nó là ý thức về trách nhiệm phổ quát. Hành động vị tha, chỉ quan tâm đến lợi ích của người khác, không có động cơ ích kỷ hoặc thầm kín, là khẳng định ý thức về trách nhiệm chung.’12 Trong ngôn ngữ Tây Tạng, thuật ngữ gần nhất với trách nhiệm phổ quát là chisem, nghĩa đen có nghĩa là ý thức phổ quát (chi có nghĩa là phổ quát và sem có nghĩa là ý thức) .13

Trong một bài phát biểu của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất của Nghị viện, được tổ chức dưới sự bảo trợ của Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển tại Rio de Janeiro, Brazil vào ngày 7 tháng 6 năm 1992,
Ngài nói rằng trách nhiệm chung là chìa khóa thật sự cho sự sống còn của con người.14‘[Nó] là nền tảng tốt nhất cho hòa bình thế giới, việc sử dụng công bằng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và thông qua sự quan tâm đến các thế hệ tương lai, việc chăm sóc môi trường thích hợp.’15 Theo quan điểm của nhận thức, trách nhiệm phổ quát thậm chí không phải là một nguyên tắc; đó là một khía cạnh cố hữu trong cảm nhận sâu sắc nhất của mọi người: ‘Nguyên tắc về trách nhiệm phổ quát là cơ bản của mỗi người; chúng ta, ngay từ khi sinh ra, là hiện thân của nó.’16

Phẩm giá con người trong Phật giáo nằm ở tiềm năng hay khả năng vô hạn của bản chất con người để tham gia vào việc tốt lành.
Hiện lên từ triết học Phật giáo, thế giới quan của Đức Đạt Lai Lạt Ma là đại diện cho sự giống nhau cơ bản của toàn nhân loại.17 Chính với sự hiểu biết như vậy, Ngài thấy Phật quả là "trong tầm tay của tất cả mọi người". Tiếp tục tranh luận xa hơn bằng cách tìm kiếm sự tương đồng giữa tư tưởng Phật giáo và Tuyên ngôn Nhân quyền, Ngài gợi ý rằng nó [Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền] tạo điều kiện thuận lợi cho sự tiến bộ của con người hướng tới "mục tiêu Phật giáo". Các nghiên cứu so sánh khác về khái niệm quyền lợi của Phật giáo và Tuyên Ngôn Thế Giới Nhân Quyền thảo luận về các mô hình tương tự.18

Lập luận được đưa ra bởi những người phản đối Tuyên ngôn Thế giới Nhân quyền là khái niệm này,
được tạo ra từ trí tưởng tượng của phương Tây về chủ nghĩa cá nhân, cố gắng áp đặt các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế lên tất cả các nền văn hóa như một hình thức của chủ nghĩa đế quốc. Điều này đã bị chỉ trích vì nhiều lý do khác nhau.19 Samuel Huntington[3] khám phá thông qua các phân tích gây tranh cãi của mình về cách các cuộc đụng độ giữa các nền văn minh là mối đe dọa lớn nhất đối với hòa bình thế giới như thế nào, làm thế nào một trật tự quốc tế dựa trên các nền văn minh dường như là biện pháp bảo vệ tốt nhất chống lại chiến tranh. Sự hiểu biết của ông về các tư tưởng phương Tây về chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa hợp hiến, nhân quyền, bình đẳng, tự do, pháp quyền, dân chủ, thị trường tự do, sự tách biệt của nhà thờ và nhà nước rằng những điều này thường ít có tiếng vang trong các nền văn hóa Hồi giáo, Khổng giáo, Nhật Bản, Ấn Độ giáo, Phật giáo hoặc Chính thống giáo. Và, những nỗ lực của phương Tây nhằm tuyên truyền những ý tưởng như vậy thay vào đó tạo ra phản ứng chống lại 'chủ nghĩa đế quốc nhân quyền' và 'sự tái khẳng định các giá trị bản địa. . .’20

Tuy nhiên, điều này đã bị chỉ trích mạnh mẽ với lý do rằng một luận điểm của chủ nghĩa tương đối như vậy là không hoàn toàn thuyết phục.
‘Nó giả định rằng có một tập hợp đơn nhất của các giá trị văn hóa phương Tây, Hồi giáo hoặc Châu Á tương ứng. Điều này là không đúng sự thật. . . Danh sách của Huntington — Khổng giáo, Nhật Bản, Ấn Độ giáo, Phật giáo — bác bỏ cách quơ đủa cả nắm phổ biến về các giá trị “Châu Á”. Có nhiều truyền thống và niềm tin, một số trong số đó thù địch với nhau, ngay cả trong mỗi truyền thống và niềm tin này.’21 Những người ủng hộ quan điểm 'Châu Á' về quyền con người cho rằng các tiêu chuẩn được đưa ra trong Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới về cơ bản được phương Tây ủng hộ, và rằng những quyền con người 'phổ quát' này không thể áp dụng được cho châu Á và các khu vực khác của Thế Giới Thứ Ba, không chỉ vì sự khác biệt về văn hóa mà còn do sự khác biệt trong phát triển kinh tế, 22 và Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới không tính đến sự phát triển kinh tế bình đẳng và công bằng của Thế Giới Thứ Ba.

Phản đối quan điểm như vậy, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh rằng các quyền cơ bản của con người cũng quan trọng đối với người dân châu Á như đối với người dân ở châu Âu hoặc Hoa Kỳ.23
Điều này là do tất cả con người, dù thuộc chủng tộc, tôn giáo, giới tính hay địa vị chính trị nào, về cơ bản đều giống nhau, bởi thực tế là họ có chung những nhu cầu và mối quan tâm của con người.24 Vì lý do này, Ngài nhấn mạnh không chỉ nhu cầu hợp lý là phải tôn trọng các quyền con người trên toàn thế giới, mà quan trọng hơn là xác định về các quyền này.25 Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh rằng tất cả con người đều khao khát tự do, bình đẳng và phẩm giá. Vì Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu đề cao cả ba niềm tin này, Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đồng ý với tuyên bố này. Theo một cách nào đó, điều này cũng nói lên việc Đức Đạt Lai Lạt Ma rời bỏ quan điểm chủ yếu là Phật giáo của mình về vấn đề này; mặc dù lập trường này cũng có thể được hiểu là củng cố các lập luận mà trong đó Ngài đã thống nhất toàn nhân loại.

Vị trí của Đạt Lai Lạt Ma có thể được đánh giá dựa trên sự hiểu biết về kinh tế chính trị của các học giả Tây Tạng về xu hướng trở thành phổ biến  trên toàn thế giới, qua đó gây căng thẳng về lợi ích kinh tế hơn là về vinh quang quốc gia.26
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã hoàn toàn hiểu được ý nghĩa của xu hướng này. Trái ngược với sự e ngại của những người ủng hộ nhân quyền châu Á, về việc liệu sự phát triển kinh tế có thể bị ảnh hưởng do việc bảo vệ nhân quyền hay không, Đức Đạt Lai Lạt Ma xoay chuyển lập luận và thay vào đó gợi ý rằng đôi khi bằng sự ép buộc kinh tế mà các quyền con người có thể được bảo vệ.27 Ngài kết luận: "Các nguyên tắc phổ quát về bình đẳng của tất cả con người phải được ưu tiên."

Ông lý luận rằng các cá nhân và quốc gia không còn có thể tự giải quyết nhiều vấn đề của họ và buộc phải phụ thuộc lẫn nhau.
Nguyên tắc phụ thuộc lẫn nhau về cơ bản nhấn mạnh và khuyến khích nhận thức ngày càng tăng ở mọi người về trách nhiệm mà họ chia sẻ với tư cách cá nhân, đối mặt với nhau và trách nhiệm mà họ phải có đối với hành tinh mà họ đang sống.29 Quá trình suy nghĩ như vậy trong tư duy của Đức Đạt Lai Lạt Ma đặc biệt bị ảnh hưởng bởi học thuyết duyên khởi (pratityasamutpada), hay sự phụ thuộc lẫn nhau của Phật giáo, được coi là nền tảng của tất cả các lời dạy của Đức Phật, 30 và điều mà Phật giáo xác định là giáo lý dẫn đến diệt độ hay sự chấm dứt của mọi phiền não. Theo nghĩa này, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói: Đó là một sai lầm lớn, một “lỗi gốc rễ”, để cô lập cuộc sống con người, để gán cho nó một bản chất – tự ngã, trong tự nó.’31 Điều này đảm bảo rằng phẩm giá, sự phát triển và tiến hóa của cá nhân không được quan tâm nhiều. Trong Phật giáo, phẩm giá con người xuất phát từ năng lực của bản chất con người để đạt đến sự hoàn thiện, như đã chứng minh qua Đức Phật lịch sử. Do đó người ta cho rằng Đức Phật là hiện thân sống của sự hoàn thiện của con người. Đó là phẩm chất sâu xa của trí tuệ và lòng từ bi, mà Đức Phật nêu gương, vốn có thể trau dồi phẩm giá con người.32

Trong nỗ lực của Ngài để kết hợp siêu hình học của Phật giáo với thực tại sống có ý thức,
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã giải thích lại hoàn toàn học thuyết về nghiệp trong đó vai trò tích cực của tác dụng con người được nhấn mạnh. Về mặt này, có lẽ, công thức của Đức Đạt Lai Lạt Ma về cơ bản khác với công thức của Gandhi, đặc biệt là khi nhìn trong bối cảnh của nghiệp và nhân quyền. Khi Gandhi coi tình trạng cá nhân của con người như được chỉ định bởi luật nghiệp báo, Đức Đạt Lai Lạt Ma tiến một bước xa hơn bằng cách làm cho đời sống cá nhân lớn hơn nghiệp chướng.

Như một khái niệm, nghiệp là đặc trưng của Phật giáo.
Trong Phật giáo, những biểu hiện khác nhau của đau khổ, tự nhiên cũng như không tự nhiên, được coi là hậu quả của nghiệp.33 Tuy nhiên, theo quan điểm của Đức Đạt Lai Lạt Ma, một cá nhân không thể trốn tránh trách nhiệm khi thấy bản thân trong một tình huống cụ thể. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói, "Nói rằng mọi bất hạnh là kết quả của nghiệp cũng tương đương với việc nói rằng chúng ta hoàn toàn bất lực trong cuộc sống." Đi vào gốc rễ của từ nghiệp, Đức Đạt Lai Lạt Ma coi nó như biểu thị một động lực tích cực, suy ra là kết quả của các sự kiện trong tương lai có thể bị ảnh hưởng bởi hành động của chúng ta. Ngài cho rằng nghiệp là một loại năng lượng độc lập nào đó quyết định tiến trình của toàn bộ cuộc sống của chúng ta, Ngài gợi ý, là không chính xác. Ngài đặt câu hỏi, "Ai tạo nghiệp?" Và trả lời câu hỏi của chính mình bằng những từ sau:

Bản thân chúng ta. Những gì chúng ta nghĩ, nói, làm, mong muốn và chểnh mảng sẽ tạo ra nghiệp. . . mọi việc chúng ta làm, đều có nhân quả. Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, thực phẩm chúng ta ăn, công việc chúng ta thực hiện và khi chúng ta thư giãn, tất cả đều là chức năng của hành động: hành động của chúng ta. Đây là nghiệp chướng. Do đó, chúng ta không thể giơ tay lên [đầu hàng] bất cứ khi nào chúng ta thấy mình phải đối mặt với những đau khổ không thể tránh khỏi. Nếu điều này là như vậy, sẽ không có lý do gì để hy vọng.35

Lập trường này minh chứng cho nhiệm vụ khó khăn mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chọn, đi ngang giữa việc bảo tồn truyền thống và sự cần thiết của sự tiến bộ.36

Hình dung về thân phận con người trên nguyên tắc tất cả con người về cơ bản đều bình đẳng, mỗi người đều có quyền sống, quyền tự do và hạnh phúc bình đẳng,
bất kể điều kiện kinh tế, giáo dục hay tôn giáo, như Đức Đạt Lai Lạt Ma chủ trương (và nghiệp chướng đó không phải định trước những điều này), là một hệ quả hợp lý đối với sự hiểu biết của Phật giáo rằng mỗi con người đều bình đẳng với mọi con người khác nhau nhờ tư cách là một con người. được.37 Tuy nhiên, sức hấp dẫn xác thực hợp lý của bất kỳ diễn ngôn nào về [nhân] quyền nằm ở cách áp dụng 'đúng' của nó. Phân tích ngắn gọn của Mrinal Miri đưa ra điều này trong lý thuyết về quyền của ông, nơi ông cố gắng cân bằng quyền tự do của tác dụng con người, bên cạnh việc giải cứu diễn ngôn về quyền con người khỏi chủ nghĩa duy danh vô lý: ‘Nhân quyền là quyền thuộc về con người,‘ với tư cách là những con người, như những người có thể thực hiện tự do thông qua lý trí. Do đó, những quyền như vậy là duy nhất đối với con người và được áp dụng phổ biến cho tất cả mọi người.’38

Theo nghĩa này, Đức Đạt Lai Lạt Ma lập luận rằng mỗi con người có thể tìm cách sống trong một xã hội mà mọi người đều được phép tự do ngôn luận và mỗi người có thể cố gắng trở thành người tốt nhất có thể.39
Tuy nhiên, Ngài nhấn mạnh, 'Theo đuổi sự hoàn thành của chính mình với chi phí của người khác sẽ dẫn đến hỗn loạn và vô chính phủ. Vì vậy, điều bắt buộc là một hệ thống theo đó các mục tiêu của cá nhân được cân bằng với hạnh phúc rộng hơn của cộng đồng nói chung.’40 Nếu không có động lực để đạt được sự cân bằng, bạo lực có thể tìm ra một tình huống hoàn hảo để phát sinh; ông lập luận rằng trách nhiệm chung là nguyên tắc cân bằng này.

Bất bạo động là nền tảng cho cam kết của Đức Đạt Lai Lạt Ma đối với trách nhiệm phổ biến.41
Phật giáo gắn liền sâu sắc với bất bạo động và hòa bình, cả hai đều được thể hiện mạnh mẽ trong hệ thống giá trị của nó.42 Điều quan trọng trong Phật giáo là coi con người là một phần của cộng đồng 'chúng sinh' trong một thế giới có điều kiện (duyên sanh), nơi đau khổ là đặc hữu, và do đó, cố tình giết hoặc làm hại một sinh vật khác là bỏ qua sự mong manh và khát vọng hạnh phúc mà con người có chung cùng với nó.43 Phật giáo cũng gợi ý rằng chính khi hiểu được bản chất vô thường của các hiện tượng mà người ta có thể tránh được bạo lực.44'Vô thường', được nói đến trong Phật giáo, hoàn toàn khác 'với bạo lực. Mặc dù vô thường nhấn mạnh hiện tượng ‘ngắn ngủi’, có nghĩa là không có gì là vĩnh viễn và do đó có thể, Mặc dù vô thường nhấn mạnh hiện tượng ‘ngắn ngủi’, nhất thời, có nghĩa là không có gì là vĩnh viễn và do đó, theo logic định nghĩa của nó, có thể gợi ý sự thận trọng trong việc sử dụng bạo lực, sự khác biệt giữa hai điều này có thể được rút ra bằng cách hiểu rằng trong khi vô thường về cơ bản dựa trên bản chất của hiện tượng, bạo lực đòi hỏi sự thay đổi do tác dụng con người mang lại và do đó trở thành sự vi phạm quy luật thay đổi tự nhiên. Trong tư tưởng Phật giáo, người ta nói: ‘Hãy để luật vô thường, chứ không phải luật của bạo lực hổn loạn, quyết định tuổi thọ của tất cả những sự sống: loài người, các chủng loại, các nền văn hóa, trái đất nói chung.’45 Luật vô thường của Phật giáo ủng hộ sự bất bạo động. "Bất bạo động", Đức Đạt Lai Lạt Ma nói, là "lòng từ bi trong hành động."46 Do đó, trách nhiệm khi đề cập đến mối quan tâm từ bi đối với nhân loại được gọi là trách nhiệm phổ quát trong tư tưởng của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nó có thể được định nghĩa là phát triển ‘ý thức’, để làm việc không chỉ cho bản thân, gia đình hoặc quốc gia của một cá nhân mà vì lợi ích của cả nhân loại.47 Cách tiếp cận Phật giáo này, tập trung vào cá nhân, không làm mất đi một hệ quả cần thiết, đó là một cuộc sống cá nhân có ý nghĩa tương quan với một điều kiện xã hội đang tồn tại.48 Trong một lập luận mang tính 'phản bác' về vấn đề này, ông nói rằng điều quan trọng là phải đánh giá lại quyền lợi và trách nhiệm của các cá nhân, dân tộc và quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa và phụ thuộc lẫn nhau .49

Niềm tin của Ngaif vào sự phụ thuộc lẫn nhau không chỉ đảm bảo cảm giác tôn trọng quyền của người khác, mà còn đảm bảo rằng quyền của người khác được công nhận bên trên quyền của mỗi người. Ngài gợi ý rằng nhận thức sâu sắc về hiện tượng phụ thuộc lẫn nhau chỉ có thể thực hiện được với sự trợ giúp của lòng từ bi.
Đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma, 'việc thực hành lòng từ bi không phải là lý tưởng duy tâm, mà là cách hiệu quả nhất để theo đuổi lợi ích tốt nhất của người khác cũng như của chính chúng ta.' 50 Để trải nghiệm lòng từ bi thực sự là phát triển cảm giác gần gũi với người khác, kết hợp với ý thức trách nhiệm đối với phúc lợi của họ.51 Khi coi niềm tin của Phật giáo trong tự do, bình đẳng và lòng từ bi đối với tất cả mọi người là nền tảng cho bất kỳ bài diễn thuyết nào về quyền, 52 Ngài đã nhất quán lập luận rằng 'phẩm chất đạo đức' quan trọng nhất mà các cá nhân cần phải trau dồi là lòng từ bi.53

Trong khi một số triết gia hạn chế trách nhiệm đối với khu vực công cộng và thiết lập sự tôn nghiêm của riêng tư, điều quan trọng nhất của một diễn ngôn về quyền dựa trên lòng từ bi là nó có khả năng giải quyết đời sống đạo đức trong'những gì mà giới tự do coi là lãnh vực riêng tư.54
Những bài diễn thuyết của Đức Đạt Lai Lạt Ma về quyền, dựa trên lòng từ bi, 55 không nhìn thấy hạnh phúc thật sự xuất hiện từ những mối quan tâm hạn chế, mà là từ việc phát triển tình yêu và lòng từ bi ‘đối với tất cả chúng sinh’. Mong muốn thiết tha của Ngài là tất cả chúng sinh có thể tìm thấy hạnh phúc và lòng từ bi. Điều này có nghĩa là tất cả họ đều có thể thoát khỏi đau khổ. Tinh thần này tìm thấy một tiếng vang thật sự trong lời nói của Tsong Khapa "Tính cách của những người vĩ đại bị giới hạn trong việc làm lợi ích và hạnh phúc của người khác", 56 và trong lời giải thích của Schopenhauer về điều này như một tình huống trong đó ‘sự phân biệt] giữa các cá nhân không còn nữa”.57 Đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma, bắt đầu, lòng trắc ẩn là có điều tốt đẹp của người khác trong trái tim của ta, hoặc là động cơ cho hành động của một người. Ngài mạo hiểm đưa ra một bộ mặt xã hội cho lòng trắc ẩn và mở rộng nó từ cá nhân sang xã hội nói chung và, rất phù hợp với Schopenhauer, cho rằng sự khác biệt giữa các cá nhân là không có thật. Schopenhauer mô tả sự khác biệt rõ ràng giữa mọi người bằng cách nói rằng ‘theo kinh nghiệm, sự khác biệt giữa con người của tôi và của người khác dường như là tuyệt đối. Sự khác biệt và thời gian ngăn cách tôi với người ấy cũng tách tôi khỏi hạnh phúc và đau khổ của người ấy.’58 Một lần nữa anh ấy nói, ‘Bản thể thật sự bên trong của tôi tồn tại trong mọi sinh vật sống một cách rõ ràng như thể nó chỉ được biết đến trong sự tự ý thức của tôi đối với tôi. . . Chính điều này bùng lên như lòng trắc ẩn mà tất cả đều chân thành ... đức hạnh do đó phụ thuộc ', 59 một tầm nhìn lặp lại triết lý bất nhị nguyên của Advaita[4]. Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma:

Các triết lý và truyền thống khác nhau có những cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của tình yêu và lòng từ bi. . . Phật giáo giải thích rằng lòng từ bi chân thành dựa trên sự chấp nhận hoặc công nhận rõ ràng rằng những người khác, như chính mình, muốn hạnh phúc và có quyền vượt qua đau khổ. Trên cơ sở đó, người ta nảy sinh một loại mối quan tâm nào đó về phúc lợi của người khác, bất kể thái độ của một người đối với chính mình. Đó là lòng từ bi.60

Đức Đạt Lai Lạt Ma cho rằng có thể có lòng từ bi mà không cần bất kỳ sự gần gũi về thể chất nào đối với hoàn cảnh hoặc người mà một người đang cảm thấy từ bi đối với người đó.61 Một cái nhìn sâu sắc tương tự cũng được tìm thấy trong triết học Phật giáo Tây Tạng, nơi hình dung mỗi chúng sinh như mẹ của chúng ta trở thành một 'phương tiện' để mở rộng sự cảm thông tự nhiên thành lòng từ bi phổ quát.

Lập luận đồng tình với quan điểm của Đức Đạt Lai Lạt Ma, rằng quyền lợi không chỉ đơn thuần là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ và cả quyền lợi lẫn nghĩa vụ đều phụ thuộc lẫn nhau, 62 cũng cho thấy rằng hiện tại không có lý thuyết nội sinh nào có khả năng thống nhất các xã hội đương đại và không hệ tư tưởng nào bị áp đặt hoặc du nhập có thể đơn giản thay thế cho nó.
Do đó, một số học giả đã đề xuất sự cần thiết phải có 'sự thoả hiệp lẫn nhau của các nền văn hóa'.63 Để một khái niệm trở nên có giá trị phổ biến, nó bắt buộc phải đáp ứng ít nhất điều kiện là nó phải là điểm tham chiếu chung cho bất kỳ vấn đề nào liên quan đến phẩm giá con người. Trong những gì nổi lên là sự chỉ trích của họ, họ khẳng định rằng ‘nền văn hóa đã khai sinh ra khái niệm“ Nhân quyền ”cũng nên được kêu gọi để trở thành một nền văn hóa toàn cầu.’64 Ngay cả khi các học giả coi nhẹ khái niệm quyền như một khái niệm đặc thù của phương Tây, họ khẳng định rõ ràng rằng thế giới không nên từ bỏ việc tuyên bố hoặc thực thi quyền con người. Nhân quyền là bắt buộc và một nền văn minh ‘công nghệ’ không có sự khẳng định về quyền lợi sẽ dẫn đến tình huống phi nhân tính nhất có thể tưởng tượng được. Tuy nhiên, họ nhấn mạnh rằng nên dành chỗ cho các truyền thống khác phát triển và hình thành quan điểm 'văn hóa cụ thể' của riêng họ tương ứng với hoặc phản đối nhân quyền của phương Tây, vì nếu không thì các nền văn hóa phi phương Tây sẽ không thể tồn tại chứ đừng nói đến việc đưa ra các lựa chọn thay thế khả thi. Chính ở đây, vai trò của phương pháp tiếp cận triết học đa văn hóa trở nên quan trọng. Về nguyên tắc, chủ nghĩa đa nguyên của con người cũng phải được thừa nhận như thực tiễn và phải tìm được một không gian trung gian để phản biện lẫn nhau nhằm phấn đấu cho sự ‘thoả hiệp lẫn nhau’ và làm phong phú. Pannikar nhận xét, "Có lẽ sự giao thoa như vậy có thể giúp nảy sinh một huyền thoại mới và cuối cùng là một nền văn minh nhân đạo hơn. Đối thoại xuất hiện như một phương pháp không thể tránh khỏi.’65 Ở đây có thể nói rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã liên tục nhấn mạnh nhu cầu đối thoại là điều tối quan trọng trong việc thiết lập sự hiểu biết và hòa hợp lẫn nhau. Nhìn chung, một cuộc phê bình đa văn hóa xem xét các quan điểm mới cho một cuộc phê bình nội bộ và đặt ra các giới hạn hiệu lực của quyền con người. Nó cung cấp đồng thời hai khả năng: ‘mở rộng phạm vi của nó và lựa chọn lẫn nhau với các quan niệm khác về con người và thực tế ’.66

Tuy nhiên, lập luận khuyến cáo, đồng thời thông báo rằng tuyên bố giá trị phổ quát cho quyền con người theo nghĩa đã được xây dựng, như Tuyên ngôn Nhân quyền,

ngụ ý niềm tin rằng hầu hết các dân tộc trên thế giới ngày nay đều tham gia theo cách giống như các quốc gia phương Tây trong quá trình chuyển đổi và do đó biến đổi khái niệm từ Gemeinscha[5] thường thần thoại ít nhiều67[các chính quyền phong kiến, thành phố tự quản, bang hội, cộng đồng địa phương, thể chế bộ lạc] đến ‘tính chất hiện đại’ được tổ chức hợp lý và ‘hợp đồng’, như được biết đến với thế giới công nghiệp hóa phương Tây.

Những lập luận như vậy cũng chỉ ra rằng ‘không ai có thể đoán trước được sự tiến hóa (hoặc sự tan rã cuối cùng) của những xã hội truyền thống đó, vốn bắt đầu từ những cơ sở vật chất và văn hóa khác nhau, vừa có những phản ứng với nền văn minh phương Tây hiện đại, do đó có thể kéo theo những cuộc sống chưa được biết đến cho đến nay.’68

Như một tầm nhìn và một đáp ứng cho các cuộc tranh luận khác nhau, việc giải thích các quyền và trách nhiệm của Đức Đạt Lai Lạt Ma có thể được coi là một lý do để duy trì và bảo tồn phẩm giá của con người, một lý tưởng mà Ngài dự đoán là nền tảng cần thiết cho mọi xã hội. Mối liên hệ mà Ngài nêu rõ giữa quyền lợi và trách nhiệm là đại diện cho 'đạo đức Phật giáo dấn thân’ của Ngài, trong đó cá nhân không vi phạm trách nhiệm xã hội của mình và xã hội cũng không làm suy yếu nhân tính của một cá nhân. /.

Ẩn Tâm Lộ - Wednesday, October 26, 2022
Trích từ quyển
Understanding the Dalai Lama - Rajiv Mehrotra 



[1] *Bharati Puri's doctoral thesis is entitled ‘Engaged Buddhism in the Modern W orld: A Study o f the Dalai Lama's World view ', in which she has deconstructed the various writings o f the Dalai Lama for the first time and which is to be published. This chapter is a part o f her doctoral thesis.

[2] Immanuel Kant là một triết gia người Đức có ảnh hưởng lớn đến Kỷ nguyên Khai sáng. Ông được cho là một trong những nhà triết học có ảnh hưởng nhất từ trước đến nay. Wikipedia

[3] Samuel Phillips Huntington là một chuyên gia nghiên cứu chính trị xuất chúng ở Hoa Kỳ, nổi tiếng khắp thế giới qua tác phẩm Cuộc chiến giữa các nền văn minh, giúp lý giải một trật tự thế giới mới sau thời Chiến tranh lạnh. Wikipedia

[4] Advaita: một học thuyết Vedantic xác định cái tôi cá nhân (atman) với nền tảng của thực tại (brahman). Nó được liên kết đặc biệt với nhà triết học Ấn Độ Shankara (khoảng 788–820).

[5] Cộng đồng (Gemeinschaft) Một cộng đồng là một nhóm xã hội của các cá thể sống chung trong cùng một môi trường thường là có cùng các mối quan tâm chung.

 

Thứ Ba, 25 tháng 10, 2022

ĐỨC PHẬT TỪ BI

 




Nguyên tác: A Buddha Of Compassion
Tác giả: Nicholas Ribush
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển nhuận văn
***


Lần đầu tiên tôi gặp Phật giáo Tây Tạng là tại Tu viện Kopan, Kathmandu, Nepal, vào cuối năm 1972.
Những người thầy đầu tiên của tôi là Lama Thubten Zopa Rinpoche và Lama Thubten Yeshe, những người mới bắt đầu giới thiệu Giáo Pháp cho người phương Tây, một hoạt động tiếp tục diễn ra cho đến ngày nay. Tôi ngay lập tức bị thu hút bởi con đường này và đã cố gắng tìm hiểu và thực hành nó kể từ đó.

Từ lúc bắt đầu. Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche thể hiện sự tôn trọng và sùng kính phi thường đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma,
và với tư cách là một người phương Tây hoài nghi từ một nền giáo dục chủ yếu là vật chất và vô thần, tôi đã bị ấn tượng bởi thái độ của họ đối với những gì tôi tưởng tượng đơn giản là một con người khác.

Tôi đã có thể gặp Đức Thánh Thiện lần đầu tiên vào khoảng mười lăm tháng sau khi, vào tháng 1 năm 1974, tôi đến Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ, để tham dự lễ nhập môn Mật Pháp Thời Luân (Kalachakra) mà ngài sẽ truyền trao.
Tôi cũng dự định thọ giới Sa Di, cùng với chín vị tăng và ni phương Tây tương lai khác. Có hơn 100.000 người ở đó và chúng tôi đã lạc vào một vùng biển rộng lớn và tuyệt vời của người Tây Tạng.

Với lòng tốt theo thông lệ của mình, Lama Yeshe đã thỉnh cầu Đức Thánh Thiện thực hiện phần đầu tiên cho buổi lễ xuất gia của chúng tôi,
nơi mà chùm tóc cuối cùng được cắt ra khỏi đỉnh đầu mới cạo của mỗi người. Theo đó, vào ngày cuối cùng của lễ nhập môn, chúng tôi đã xếp hàng cùng với những người khác để nhận được sự ban phước lành từ Đức Thánh Thiện và chiêm ngưỡng mạn đà la.

Khi chúng tôi đến gần Đức Thánh Thiện, Lama Zopa Rinpoche đã rút ra một chiếc kéo và giải thích chúng tôi là ai và chúng tôi muốn gì.
Đức Thánh Thiện mỉm cười, rồi cười lớn và thốt lên, ‘Tôi hy vọng nó tồn tại lâu dài!’ (Trong trường hợp của tôi, nó đã xảy ra, nhưng không phải là suốt đời, như dự định, mà chỉ trong khoảng mười hai năm). Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng ấm áp đó, sự quan tâm từng cá nhân bất chấp hàng triệu thứ khác đang diễn ra, là lần đầu tiên tôi nếm trải lòng tốt, lòng trắc ẩn, sự tập trung và tình yêu thương đáng kinh ngạc của Đức Thánh Thiện.

Tôi đã gặp Đức Thánh Thiện một vài lần nữa trong vài năm tới, chủ yếu là trong sự đồng hành với Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche,
khi họ mong cầu lời khuyên của Đức Thánh Thiện về công việc của họ ở phương Tây và báo cáo với ngài những gì đã xảy ra trong những chuyến du hành của họ. Năm 1977, mẹ tôi đến thăm tôi ở Ấn Độ và tôi đưa bà đến Dharamsala để gặp Đức Thánh Thiện và hai vị giáo thọ sư của Ngài, Kyabje Ling Rinpoche và Kyabje Trijang Rinpoche. Tất cả các Ngài đều tốt bụng một cách đáng kinh ngạc, đặc biệt là Đức Thánh Thiện, người đã cho mẹ tôi một cuộc phỏng vấn riêng kéo dài 45 phút (họ cũng cho tôi vào), kiên nhẫn trả lời tất cả các câu hỏi của bà về cuộc sống quá khứ và tương lai và sáu cõi hiện hữu luân hồi.

Tôi đã nghe Đức Thánh Thiện mô tả theo nhiều cách trong nhiều năm.
Ngài luôn mô tả mình là một nhà sư Phật giáo giản dị, nhưng đối với nhiều nhà văn khác, Ngài là vị thánh vương (god-king) của Tây Tạng; đối với người Trung Quốc, một 'kẻ chia rẽ'; đối với hầu hết các chính trị gia, vị nguyên thủ thật sự của Tây Tạng; đối với các học viên giáo Pháp ở khắp mọi nơi, là một người thầy vĩ đại và một tấm gương sống hoàn hảo về những gì Ngài dạy; và với thế giới nói chung, là một người đoạt giải Nobel, một chính khách vĩ đại, người ủng hộ hàng đầu cho bất bạo động và hòa bình, tiếng nói của Phật giáo và nói chung là hy vọng tốt nhất cho chúng ta trong tương lai. Đối với người dân Tây Tạng, Đức Thánh Thiện luôn là biểu hiện sống động của Chenrezig — Quán Thế Âm, Đức Phật Từ Bi. Tôi thường tự hỏi điều này có nghĩa là gì.

Trong khi chưa bao giờ đồng ý rằng Ngài thật sự là một biểu hiện của Quán Thế Âm, nhưng trong những lời dạy của ngài tại lễ nhập môn Kalachakra ở Los Angeles, 1989,
Đức Thánh Thiện mô tả Quán Thế Âm như một vị bổn tôn, một vị bồ tát hoặc một vị Phật. Là một vị bổn tôn, Quán Thế Âm không phải là một bản thể riêng biệt mà là biểu hiện của lòng từ bi của tất cả chư Phật, một phẩm chất của tất cả chúng sinh giác ngộ. Khi một người phấn đấu cho sự giác ngộ đạt được mục tiêu của mình thông qua thực hành phương pháp yoga Quán Thế Âm, chúng ta có thể gọi người đó là Quán Thế Âm. Ngoài ra, lòng từ bi của một vị Phật cụ thể, ví dụ như Đức Phật Thích Ca, có thể biểu hiện thành Quán Thế Âm.

Như Đức Pháp Vương Dudjom Rinpoche đã giải thích, người Tây Tạng một cách  lịch sử tuyên bố là hậu duệ của Đức Quán Thế Âm,
người trong thời cổ đại được cho là đã đến Tây Tạng từ nơi ở nổi tiếng của mình ở miền nam Ấn Độ, Núi Potalaka, hiện thân là một con khỉ và giao phối với một con 'nữ dạ xoa đá' (an ‘ogress of the rocks’). Vị vua tôn giáo đầu tiên, Songtsen Gampo (617-650) được cho là hiện thân của Quán Thế Âm. Nyatri Tsenpo cũng vậy, vị vua đầu tiên của loài người cai trị toàn bộ Tây Tạng; Drom Tonpa, người phiên dịch cho Atisha vĩ đại, người đã khôi phục lại Phật giáo thuần túy cho Tây Tạng khoảng một nghìn năm trước và thành lập truyền thống Kadam; và tất cả mười bốn vị Đạt Lai Lạt Ma, tất nhiên, bao gồm cả vị hiện tại.

Ngoài ra, thần chú Quán Thế Âm, Om mani padme hum, là thần chú ‘chính thức’ của Tây Tạng.
Nhiều người Tây Tạng, cả cư sĩ và xuất gia, đọc tụng nó liên tục, và nó có thể được vẽ và chạm khắc vào đá và bia đá trên khắp dãy Himalaya.

Do đó, việc thực hành Quán Thế Âm là trung tâm của Phật giáo Tây Tạng và là một phần của việc người Tây Tạng coi nhà lãnh đạo tâm linh và thế tục của họ, Đức Đạt Lai Lạt Ma, là hiện thân sống của Quán Thế Âm và mọi thứ mà Ngài tượng trưng.

Mục tiêu của Đức Phật là tất cả chúng sinh đều đạt được giác ngộ.
Muốn vậy, chúng sinh phải đi theo con đường dẫn đến giác ngộ; chúng ta phải tự mình nỗ lực — vô lượng chư Phật không thể làm điều đó cho chúng ta. Nói cách khác, chúng ta phải thực hành Phật giáo Đại thừa và, nếu chúng ta muốn đạt được giác ngộ càng nhanh càng tốt, chúng ta phải thực hành Kim Cang thừa, hình thức của Phật giáo Đại thừa đã được thực hành và bảo tồn ở Tây Tạng.

Đức Phật cũng đã nói rằng trong tất cả những lời dạy của Đức Phật, điều quan trọng nhất là lòng từ bi, và trong tất cả những phẩm chất của một vị Phật, điều tốt nhất lại là lòng từ bi.
Ngay cả sự toàn giác của một vị Phật cũng phụ thuộc vào lòng từ bi; chỉ nhờ sức mạnh của lòng từ bi, người ta mới có thể đạt được trí tuệ tối thượng của một vị Phật.

Những hoạt động của một vị Phật là gì?
Hoạt động chính là khai mở những giáo lý dẫn đến giác ngộ cho những ai mở lòng với chúng, tuỳ theo nghiệp duyên của các đệ tử tiềm năng. Tuy nhiên, trước tiên, làm thế nào để một người trở thành một vị Phật? Làm thế nào để một người trở nên chứng ngộ?

Như tôi hiểu từ những lời dạy của vị thầy quý giá của tôi, Lama Zopa Rinpoche, nguyên nhân chính của sự giác ngộ là tâm Bồ đề,
quyết tâm đạt đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Bồ đề tâm phát khởi từ lòng đại bi, được phát sinh tùy thuộc vào mỗi chúng sinh. Với lòng từ bi vĩ đại, ta không chỉ cảm nhận được nỗi đau khổ của tất cả chúng sinh như của riêng mình mà còn bị buộc phải làm điều gì đó về nó. Cảm giác này chỉ phát triển khi ta tiếp cận giác ngộ và tồn tại mãi mãi với ta, ngay cả sau khi giác ngộ. Vì vậy, một vị Phật không có lựa chọn nào khác ngoài việc giúp đỡ chúng sinh bằng mọi cách có thể.

Vì chúng sinh phải tự nỗ lực, nên họ cần được chỉ đường. Chỉ ra con đường và truyền cảm hứng cho người khác đi theo con đường đó là công việc chính của Đức Phật. Nhưng, nếu ta là một vị Phật, ta sẽ làm thế nào về điều đó?

Ta không thể ở trong không gian giác ngộ của Pháp thân, bởi vì ở đó ta chỉ có thể giao tiếp với các vị Phật khác.
Người ta có thể hiển lộ trong Báo thân, nhưng chỉ những Bồ tát cao cấp mới có thể được giảng dạy ở cấp độ đó. Thay vào đó, ta sẽ phải biểu hiện trong một hình thức mà những sinh vật thấp hơn có thể giao tiếp. Tuy nhiên, rất ít chúng sinh có đủ khả năng, chưa nói đến sự quan tâm, để thực hành Pháp, vì vậy ta sẽ phải biểu hiện giữa những người đó — nói cách khác, với tư cách là một con người.

Biểu hiện giữa con người, ta có thể xuất hiện dưới một hình thức kỳ diệu nào đó, nhưng trong khi điều đó sẽ thu hút sự chú ý,
nó sẽ không thật sự mang lại nhiều lợi ích như vậy. Mọi người cần được truyền cảm hứng để đi theo con đường dẫn đến giác ngộ bằng cách có thể thấy rằng họ cũng có thể trở nên chứng ngộ. Để truyền cảm hứng cho mọi người theo cách này, ta sẽ phải thể hiện dưới hình thức mà họ có thể liên hệ - với tư cách là một con người. Sau đó, mọi người có thể nghĩ, ‘tôi là một con người; người ấy là một con người. Tôi có thể trở nên giống như người ấy'. Bằng cách đó, họ cởi mở với giáo huấn. Vì vậy, nếu mọi người trên trái đất vào thời điểm này cởi mở để lợi lạc, ta sẽ hiển thị như một người thầy của con người.

Ngắm nhìn Đức Thánh Thiện, ngay cả từ xa, như tôi vẫn phải làm, thật dễ dàng để thấy Ngài thật sự có thể là hiện thân sống động của một tâm thức giác ngộ như thế nào.
Ngài tỏa ra tình yêu thương và lòng trắc ẩn; mọi người đều muốn ở gần Ngài mọi lúc. Sự thông thái của Ngài cũng rất rõ ràng — Ngài có thể dạy nhiều học viên từ những người mới bắt đầu cho đến những người có học thức cao (geshe: tiên sĩ Phật học Tây Tạng) và tư vấn cho những ẩn sĩ thành thạo nhất đang nhập thất. Ngài không chỉ chịu trách nhiệm với đất nước và dân tộc của mình, mà còn cho toàn thế giới, nỗ lực không ngừng để mang lại hòa bình, lý trí và sự hiểu biết cho nhiều người nhất như có thể.

Ngày này qua ngày khác, Đức Thánh Thiện nổ lực bản thân nhiều như bất kỳ người nào trên trái đất, nhưng tất cả đều vì lợi ích của người khác.
Ngài thường xuyên đi khắp thế giới, giảng dạy Phật pháp và ban quán đảnh, tiếp kiến mọi loại du khách, gặp gỡ các chính trị gia, diễn thuyết và họp báo, xuất hiện ở chức năng này hay chức năng khác, tham gia các hội nghị, v.v. Từ sáng đến tối, ở Dharamsala và ở nước ngoài, Đức Thánh Thiện đi từ cuộc hẹn này sang cuộc hẹn khác, chịu trách nhiệm trong mọi lúc— trách nhiệm đối với phúc lợi tinh thần không chỉ của chúng sinh trên hành tinh này mà còn của vô số chúng sinh khác trong khắp không gian; vì hòa bình trên trái đất; vì quyền lợi của người tị nạn Tây Tạng và những người bị áp bức ở Tây Tạng; và vì sự tự do của chính Tây Tạng.

Tôi không gặp Đức Thánh Thiện thường xuyên, có lẽ một vài ngày mỗi năm, nhưng mỗi lần tôi cảm thấy kiệt sức chỉ để xem Ngài bận rộn như thế nào, nhu cầu về thời gian liên tục như thế nào và năng lượng kinh ngạc mà Ngài đặt vào mỗi một người Ngài gặp gỡ.

Đức Thánh Thiện cũng không bao giờ quên những người không quan trọng.
Một lần tôi đang tham dự một sự kiện ở Indiana, nơi Đức Thánh Thiện đang hiến cúng một bảo tháp do anh trai của ngài, Taktser Rinpoche, xây dựng. Mọi người đều xếp hàng dài, hàng ba, dọc theo lối đi; Tôi đã ở phía sau một nơi nào đó. Tôi đã cởi y áo một năm trước đó và đã không gặp Đức Thánh Thiện kể từ thời điểm đó. Khi Ngài di chuyển xuống lối đi, nhìn đi nhìn lại những người ở hai bên, Ngài nhận thấy tôi, hơi cúi xuống, hai tay chắp lại trước tim. Bằng tiếng Tây Tạng, Ngài gọi, ‘Điều gì đã xảy ra với việc trở thành một nhà sư?’ Hoặc những từ có ảnh hưởng đến điều đó, và tiếp tục bước đi. Tôi đã rất ngạc nhiên - rằng Ngài đã gặp tôi, nhớ tôi là ai và lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau, hơn một năm trước, tôi là một nhà sư. Ngài cũng biết rằng tôi không chỉ mặc thường phục cư sĩ mà đã thật sự cởi bỏ y áo.

Mười năm sau, Đức Thánh Thiện đã đến thăm Đại học Brandeis ở Boston.
Di chuyển nhanh chóng từ cuộc họp này sang cuộc họp tiếp theo, Ngài được bao quanh bởi các nhân viên an ninh, đang đi qua đám đông, mỉm cười với tất cả những người mà Ngài có thể, khi một lần nữa Ngài nhìn thấy tôi, cúi xuống, cách đó khoảng hai mươi thước. “Người bạn cũ,” Ngài gọi, ra hiệu cho tôi đi đến. ‘Bạn cũ!’ Tôi rất cảm động vì trong ngần ấy thời gian bận rộn mà Ngài có thể ân cần như vậy. Và tất nhiên, không chỉ tôi. Đức Thánh Thiện là như vậy với hầu hết những người mà ngài biết, và ngài biết rất nhiều.

Chắc chắn Đức Đạt Lai Lạt Ma là Đức Phật Từ Bi.
Ai khác có thể có trí tuệ, quyền năng và lòng từ bi để hoàn thành tất cả những gì như Ngài đã làm? Tất nhiên, tôi thậm chí sẽ không giả vờ nhìn thấy hoặc biết ngoài một phần nhỏ những gì Đức Ngài làm cho người khác, nhưng bất kỳ ai quan sát Ngài bằng thị giác rõ ràng và tâm hồn rộng mở sẽ thấy nhiều hơn một người phi thường trong số chúng ta. /.

Ẩn Tâm Lộ - Wednesday, Tuesday, October 25, 2022
Trích từ quyển Understanding the Dalai Lama - Rajiv Mehrotra 

 

Thứ Hai, 24 tháng 10, 2022

ĐẠI DƯƠNG TUỆ TRÍ

 




Nguyên tác: The Ocean of Wisdom
Tác giả: Brother Wayne Teasdale
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển nhuận văn
***



Không dễ để viết về Đức Đạt Lai Lạt Ma, và cụ thể là Tenzin Gyatso. Ngài là một vị thầy tâm linh hiếm có và hoàn toàn độc đáo, luôn có xu hướng phóng đại ca ngợi vị trí phi thường, giống như thần thánh của mình và toàn bộ hào quang xung quanh 'nhà sư giản dị' này, hoặc thái cực ngược lại của việc ẩn mình sau một tính khách quan học thuật khô khan, mà thường bị hoài nghi.
Ở đây, giống như Đức Phật, tôi sẽ cố gắng đi một con đường trung đạo. Cá nhân tôi tin rằng có một số nhân vật, thánh và bồ tát, những người thật sự không thể phóng đại. Đó là Mahatma Gandhi, Thomas Merton (nhà hiền triết Trappist) và Mẹ Teresa. Tenzin Gyatso cũng là một trong số đó.

Khi chúng ta gặp được sự thánh thiện cao cả ở bất cứ ai, thì rõ ràng là một mức độ siêu phàm của đức tính và dễ cảm xúc,
sự vượt trội của mối quan tâm đến bản thân, sự sẵn sàng và khả năng đáp ứng đối với những người khác. Như một ví dụ từ cuộc đời của Đức Đạt Lai Lạt Ma — một ví dụ rất đặc trưng về một người vượt quá vị trí của mình — hãy để tôi đưa ra một sự việc từ một trong nhiều chuyến thăm Mỹ của ngài. Cách đây vài năm tại Đại học Harvard đã có một cuộc trò chuyện đặc biệt giữa Đức Thánh Thiện và ba hoặc bốn giáo sư trước một lượng khán giả khổng lồ bao gồm cả một đoàn làm phim. Vị giáo sư đầu tiên phát biểu đã thu hút ánh đèn sân khấu, và ông ấy đã tiếp tục và tiếp tục, vượt qua thời gian quy định của mình. Khi cuộc nói chuyện của ông ta trở nên quá mức, và không có dấu hiệu cho thấy ông sẽ dừng lại, các giáo sư khác, sợ thời gian của họ sẽ bị sử dụng hết, trở nên mất kiên nhẫn, sau đó phẫn nộ và tức giận.

Qua tất cả, Đức Thánh Thiện kiên nhẫn, bình tĩnh, chăm chú và mỉm cười, lắng nghe người đàn ông này.
Sự nhạy cảm của Ngài đến mức biết người này cần cảm thấy rằng ông đang được lắng nghe. Ông cần sự quan tâm và khẳng định. Lòng từ bi của Ngài để đáp lại chương trình nghị sự sâu sắc hơn của giáo sư, thay vì rơi vào sự bực bội, thất vọng và tức giận như những người tham gia khác đang làm. Ngài đã lựa chọn một cách khá thanh thoát để đáp lại một cách từ bi, ngay cả khi điều đó có nghĩa là hơi bất tiện cho người khác. Câu chuyện nhỏ này là điển hình về Ngài và minh họa bản chất nhạy cảm của Ngài.

Trong phần tiếp theo, tôi muốn khám phá chí nguyện của Ngài với đối thoại giữa các tôn giáo, đây thật sự là một cuộc đối thoại của chính cuộc sống, không phải là một hoạt động cứng nhắc, chính thức như thường thấy trong các diễn đàn học thuật.
Phần đầu tiên của bài viết này sẽ xem xét các cuộc gặp gỡ của Đức Đạt Lai Lạt Ma với Thomas Merton và Bede Griffiths. Sau đó, tôi sẽ chia sẻ các cuộc gặp của riêng tôi với Ngài, các cuộc gặp về cơ bản tiếp tục dòng kinh nghiệm và phát triển được khởi xướng với Merton. Sau đó tôi sẽ trình bày một số ấn tượng về Đức Thánh Thiện đã xảy ra với tôi theo thời gian. Phần tiếp theo của bài luận sẽ xem xét mối quan tâm của Ngài đối với sự liên hợp của khoa học, trí tuệ và tất cả các lĩnh vực kiến thức khác và điều này sẽ được thực hiện chủ yếu trong bối cảnh của các cuộc đối thoại tổng hợp.

Sau đó, tôi sẽ chuyển sang cuộc đối thoại của các tu sĩ Phật giáo / Cơ đốc giáo, và phản chiếu về khía cạnh tiên tri của mối quan hệ rất có giá trị này.
Sự phản chiếu này sau đó sẽ kết tinh thành cái mà tôi gọi là ‘ma trận’ như một cách để tích hợp nguyên lý siêu hình, hiện sinh cốt yếu của Phật giáo và Cơ đốc giáo. Sự phản chiếu này sau đó sẽ kết tinh thành cái mà tôi gọi là những yếu tố của ‘ma trận’ như một cách để liên hợp nguyên lý siêu hình, hiện hữu cốt yếu của Phật giáo và Kitô giáo. Một phần ngắn sẽ xem xét vấn đề Tây Tạng và nhà thờ Thiên Chúa giáo. Cuối cùng, trong phần kết thúc, tôi sẽ suy ngẫm về tầm quan trọng của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn trong thiên niên kỷ này.

Thomas Merton và Bede Griffiths

Trải nghiệm đầu tiên của Tây Tạng về người theo đạo Thiên chúa liên quan đến sự truyền giáo của các tu sĩ Dòng Tên vào cuối thế kỷ 17 do Linh Mục Desiderio lãnh đạo.
Tất nhiên, các tu sĩ Dòng Tên là những nhà truyền giáo, và phương pháp của họ rất sáng tạo và thậm chí có tầm nhìn xa. Họ có xu hướng đi trước thời đại bởi vì họ tôn trọng nền văn hóa nơi họ làm việc và sinh sống, và cuối cùng đi đến việc sửa đổi các mục tiêu truyền giáo của họ với nhận thức rằng ở Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản và Tây Tạng, họ đang đối phó với những hệ thống trí tuệ rất tiên tiến.

Nhận thức này chắc chắn cũng đặc trưng cho cách nhìn của Thomas Merton, một tu sĩ phái Trappist[1] đến từ Kentucky, đặc biệt là trong những năm cuối đời của ông.
Merton đã tiếp thu trí tuệ phương Đông ở mức độ sâu sắc từ rất lâu trước chuyến đi định mệnh của ông đến châu Á vào mùa thu năm 1968. Thomas Merton chỉ có ba lần yết kiến với Đức Thánh Thiện tại Dharamsala vào tháng 11 năm 1968. Đây là toàn bộ mức độ mối quan hệ của họ về mặt thời gian. Sau đó, Đức Thánh Thiện nói rằng Ngài không bao giờ nhận thấy rõ các Kitô hữu sống tâm linh cho đến khi Ngài gặp Merton. Đây là một tu sĩ Kitô hoàn toàn không giống bất kỳ Kitô hữu nào mà Đức Đạt Lai Lạt Ma từng gặp trước đây; ông không giống như những nhà truyền giáo thời đó, hầu hết trong số họ đều hướng về sự cải đạo.

Đức Thánh Thiện nhận thấy rõ trong vị Kitô hữu này là một người có học thức uyên thâm về các vấn đề tâm linh, tôn giáo so sánh và văn hóa.
Ngài thấy ở Merton một sự cởi mở hiếm thấy ở những Kitô hữu khác. Thomas Merton đã khám phá ra nơi Đức Thánh Thiện một người anh em đồng tu, cởi mở như nhau, và rất tò mò về đời sống và thực hành trong tu viện Thiên Chúa giáo. Hai người đàn ông vô cùng thích nhau và hướng đến một tình bạn tuyệt vời, một tình bạn đang chờ đợi nó nảy nở trong vĩnh hằng.

Linh mục Louis, tên tu sĩ của Merton, và Đức Thánh Thiện đã nói về mọi thứ.
Họ đã chia sẻ kinh nghiệm của họ về cuộc sống tu viện trong truyền thống của họ, xem xét các thực hành, giáo dục khác nhau, sự đào tạo các tăng ni, cách cầu nguyện và thiền tập của họ, các kinh sách thiêng liêng của họ. Họ đã phản ánh sâu sắc về sự khác biệt và tương đồng trong đức tin Phật giáo và Kitô giáo. Họ thảo luận về thảm kịch kinh hoàng của người Tây Tạng, cộng đồng người Tây Tạng và sự tập trung của họ vào việc củng cố và bảo tồn văn hóa cùng truyền thống của họ ở Ấn Độ. Họ cũng nói về chiến tranh Việt Nam, sự cạnh tranh giữa các siêu cường, phong trào dân quyền ở Hoa Kỳ, và phong trào hòa bình ở châu Âu và châu Mỹ.

Đức Thánh Thiện và Thomas Merton đã có ấn tượng sâu sắc với nhau.
Tác động của Merton đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma là đáng kể. Ngài thường nói về vị tu sĩ người Mỹ này, một thiên tài văn học, với sự trìu mến và đăm chiêu. Trong một bộ phim tài liệu tuyệt vời về cuộc đời của Merton được phát hành vào đầu những năm 1980, Đức Thánh Thiện đã được các nhà làm phim phỏng vấn. Ngài đã nói một cách trìu mến về Merton vào dịp đó và, với cảm xúc sâu sắc và âm vực cao hơn trong giọng nói của mình, Ngài nhận xét, "Nếu Thomas Merton còn sống, chúng tôi đã làm điều gì đó vì hòa bình cùng nhau."

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã gặp Bede Griffiths ba lần, như trường hợp của Merton, nhưng những cuộc gặp gỡ này cách nhau hàng năm.
Họ đã cùng nhau đến Ấn Độ hai lần tại các hội nghị mà cả hai đều tham gia. Nhưng cuộc trò chuyện đáng kể nhất của họ xảy ra ở Úc vào đầu những năm 1990. Đó là một cuộc trao đổi có kết quả quan trọng. Cả hai đều hoàn toàn thoải mái và cởi mở. Họ đã thảo luận về nhiều giáo lý thần học và huyền bí của mỗi truyền thống. Mặc dù tôi chưa bao giờ biết Merton, nhưng tôi đã biết Bede, và có một tình bạn hai mươi năm với ông ấy.

Vào lần gặp gỡ thứ ba, Linh mục Bede rất quan tâm đến Dzogchen[2].
Ông ấy đã kể cho tôi nghe về cuộc gặp gỡ tuyệt vời này với Đức Thánh Thiện. Về phần mình, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói với tôi, "Bede Griffiths là một người thầy tuyệt vời!" Linh mục Bede và Đức Đạt Lai Lạt Ma đều rất tôn trọng nhau, và nếu Bede sống lâu hơn, họ có thể đã cùng nhau đạt được điều gì đó quan trọng. Kiến thức của Bede về Ấn Độ giáo và Phật giáo lớn hơn nhiều so với kiến thức của Thomas Merton, Nhưng cả hai đều là những giáo đồ Kitô giáo uống rượu từ giếng của tuệ trí phương Đông và làm sống lại sự chiêm nghiệm phương Tây. Cả hai đều có một nhiệm vụ giống nhau, nhưng với những hoàn cảnh khác nhau.

Những Cuộc Gặp Gỡ Và Những ấn Tượng Đầu Tiên

Đi xuyên Anh quốc để nghỉ ngơi trong một tháng sau một thời gian dài ở Ấn Độ, tôi đã có trải nghiệm thú vị đầu tiên với Đức Thánh Thiện.
Điều này xảy ra vào tháng 4 năm 1988 tại tư dinh của Hồng y Basil Hume, O.S.B., tổng giám mục của Westminster và là giáo chủ (patriarch) Thiên Chúa giáo của Anh. Mặc dù tôi đã thấy Đức Thánh Thiện tại Nhà thờ Thánh Patrick ở Thành phố New York vào năm 1979 khi tôi là sinh viên tốt nghiệp tại Đại học Fordham, nhưng mãi cho đến cuộc gặp gỡ này, chúng tôi mới thật sự gặp nhau lần đầu tiên. Hồng y Hume là một tu sĩ dòng Biển Đức, người cũng đã từng là tu viện trưởng trước khi được phong là giáo chủ của nước Anh. Ông quan tâm đến một cuộc đối thoại và hoan nghênh một cuộc trao đổi giữa các tu sĩ Thiên Chúa / Tây Tạng.

Tôi đã được mời tham dự cuộc đối thoại lịch sử này. Có hai mươi người trong chúng tôi — các tu sĩ Kitô giáo và Phật giáo, với một vài nữ tu — ngồi quanh một chiếc bàn hình bầu dục.
Đức Thánh Thiện đã bước vào và được giới thiệu bởi chủ trì Tu viện Prinknash, tu viện của Bede Griffiths trước khi Ngài đến Ấn Độ. Buổi họp mặt này là một tình huống thân mật, và ngay từ đầu đã có một mối quan hệ bền chặt giữa Đức Thánh Thiện và tôi. Sau cuộc trò chuyện kéo dài bảy mươi phút, Ngài đã đến chìa tay ra trước mặt tôi. Đó là một lời giới thiệu ấm áp và đầy ý nghĩa.

Sau đó, tôi viết thư cho Tenzin Geyche, thư ký lâu năm và là bạn tốt của Ngài, và không lâu sau đó tôi đã đến Dharamsala vào đầu tháng 1 năm 1989.
Cuộc gặp gỡ thứ hai của tôi với Đức Thánh Thiện là một cuộc trò chuyện kéo dài hai giờ. Nó được chứng minh là quan trọng, bởi vì nó đã dẫn đến việc chúng tôi cùng nhau công bố một tài liệu có tựa đề Tuyên Ngôn Phổ Quát Về Bất Bạo Động. Đây là một tuyên bố ngắn gọn, dài một trang. Sau đó nó đã được phê chuẩn bởi Đức Thánh Thiện và Tu sĩ Đối thoại Liên tôn (MID) (trước đây gọi là Uỷ Ban Đối thoại Đông / Tây Bắc Mỹ), tổ chức mà tôi đại diện. MID nhận trách nhiệm về tài liệu sau khi tôi viết bản thảo đầu tiên. Các thành viên khác của MID và tôi đã điều chỉnh hình thức cuối cùng của tài liệu.

Tôi thường cảm thấy, hoặc có cảm giác rằng vị trí độc nhất mà tôi được đảm nhận sẽ giúp tiếp tục mối quan hệ  với Đức Thánh Thiện,
Phật giáo Tây Tạng và dân tộc Tây Tạng mà Thomas Merton đã khởi xướng bằng chuyến thăm lịch sử của ông đến Dharamsala năm 1968. Tôi luôn ý thức về những lời của Đức Thánh Thiện về việc làm điều gì đó quan trọng cho hòa bình, và đã hy vọng rằng khả dĩ tôi có thể đóng góp cho nguyện vọng quan trọng đó. Mặc dù tôi chắc chắn không phải là Merton, nhưng tôi chia sẻ với ông ấy một sự cởi mở với phương Đông, quan tâm sâu sắc đến Phật Pháp và Ấn Độ giáo, Lão giáo và hiện tượng thần bí trong Hồi giáo (Sufism), cũng như hy vọng mạnh mẽ về một cuộc sống lâu dài, hòa bình công bằng và toàn diện — một nền hòa bình không chỉ đơn giản là không có xung đột, một nền hòa bình phản ánh, như Thánh Augustinô đã gọi nó vào thời của ông, "sự yên tĩnh của trật tự", một sự hòa hợp tâm linh làm sống động một loài người giác ngộ, và một nền văn minh nhân loại dựa trên tình yêu và lòng từ bi. Một nền hòa bình như vậy dựa trên tiềm năng tối thượng của chúng ta, và điều đó đòi hỏi sự tham gia của các tiềm lực tinh thần của chúng ta để tự chuyển hóa dẫn đến thay đổi xã hội dựa trên nhận thức.

Trong những năm qua, Đức Thánh Thiện và tôi đã gặp nhau một vài lần mỗi năm,
và tôi cũng là bạn của em trai Ngài, Ngari Rinpoche, và gia đình Ngài, cũng như nhiều người Tây Tạng khác. Những cuộc gặp gỡ này ngày càng trở nên sâu sắc hơn về chiều sâu và tình bạn. Tôi đã hình thành nhiều ấn tượng về con người của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tôi nhớ rất rõ chuyến thăm tôi đã thực hiện sau Nghị Hội năm 1993 của các Tôn giáo Thế giới ở Chicago. Chúng tôi đã ngồi cùng nhau trong hai giờ khi Ngài nói chuyện với những người khác, tham gia một cuộc phỏng vấn và chia sẻ những câu chuyện với tôi. Vào dịp đó, tôi đã nhìn thấy rất rõ ràng Ngài thật sự giống như Đấng Kitô như thế nào, và tôi đã nói với anh ấy: ‘Tôi thấy Đấng Kitô trong Ngài nhiều hơn tôi đã nhận biết Đấng Kitô trong hầu hết các Kitô hữu! Tôi cho rằng tôi đã có thể sử dụng ngôn ngữ khác để thể hiện nhận thức tâm linh này. Có lẽ điều tôi thật sự nhận ra là sự thánh thiện, tình yêu và lòng từ bi của vị hiền nhân này. Một ấn tượng khác đã bén rễ là năng khiếu trực giác của Ngài, hay chúng ta có thể nói, về khả năng thấu thị, thậm chí là thần giao cách cảm. Món quà này không phải là một vấn đề nhẹ tênh, và tôi xem nó như một sản phẩm tất nhiên của sự thực chứng tâm linh. Rất nhiều lần khi có sự hiện diện của Ngài, tôi đã ý thức được việc Ngài hoàn toàn biết tôi và biết tôi đến từ đâu hoặc tôi đang bận tâm về điều gì. Ngài dường như lôi cuốn tôi vào một trạng thái tỉnh thức lớn hơn, bao gồm cả tôi trong chính Ngài. Không cần phải nói bất cứ điều gì, vì trong những thời điểm này, giao tiếp của chúng tôi là hoàn hảo và lời nói sẽ chỉ làm giảm đi những gì chúng tôi trải nghiệm và hiểu biết và có thể chỉ làm nhầm lẫn vấn đề.

Một ấn tượng nữa khiến tôi ấn tượng về trí tuệ uyên thâm, khả năng hiểu được hầu như mọi thứ của Ngài.
Tuy nhiên, những món quà trí tuệ của Ngài không phải là những khả năng trừu tượng, mà luôn phục vụ cho tinh hoa nhân văn, lòng nhân hậu của Ngài. Kiến thức của Ngài luôn luôn dựa trên nền tảng từ bi và trí tuệ, và đây là những phẩm chất thiết thực, những phẩm chất được tìm thấy trong các vị thánh của mọi truyền thống. Nhưng có quá nhiều hơn nữa. Ngoài những đặc điểm này, Ngài còn có khiếu tiếu lâm và vui tươi, những sức mạnh bất khuất mà thậm chí cả bi kịch và đau khổ không làm lu mờ. Về cơ bản, những gì tôi nhận thấy ở Ngài là một chủ nghĩa nhân văn rất phát triển bắt nguồn từ việc thực hành tâm linh và được mở rộng cho tất cả chúng sinh.

Quan Tâm Đến Tích Hợp Tri Thức

Đức Thánh Thiện đã quan tâm đến khoa học và các lĩnh vực kiến thức khác trong nhiều năm.
Ngài đã tham dự nhiều hội nghị trên khắp thế giới để cố gắng khám phá điểm chung giữa khoa học và tâm linh. Ngài nhận thấy hầu hết các cuộc họp này đều gây thất vọng vì lý do này hay lý do khác. Thông thường, họ không đạt được kỳ vọng của Ngài bởi vì - như Ngài nói - các nhà khoa học quá "cứng" hoặc quá "mềm". Bằng từ 'cứng', Ngài muốn nói là họ đã khép kín với chiều kích tinh thần của cuộc sống, và tuân theo một quan điểm hoàn toàn giản hoá luận không phê phán về khoa học, một quan điểm thật sự không khoa học chút nào!  Vấn đề với nhà khoa học ‘mềm’ là người ấy nhảy quá nhanh đến một điểm thông tục hoặc một cái nhìn tâm linh về khoa học và vũ trụ. Khoa học trong trường hợp này bị nghi ngờ mặc dù nhà khoa học ‘mềm’ thật sự có thể thông tuệ hơn nhà khoa học ‘cứng’.

Đức Thánh Thiện đã và đang bị hấp dẫn với khái niệm tổng hợp,
nỗ lực có ý thức để tìm ra điểm chung giữa tất cả các lĩnh vực kiến thức, và một mô hình thống nhất lớn hài hòa giữa khoa học, tôn giáo, tâm linh, công bằng xã hội, hòa bình và môi trường. Công việc hướng tới việc tìm ra một mô hình như vậy lần đầu tiên được hình thành trong hội nghị Tổng hợp I, hoặc Đối thoại Dharamsala, được tổ chức tại Dharamsala từ ngày 11 đến ngày 16 tháng 9 năm 1999. Đức Thánh Thiện đã tham gia vào cuộc tụ họp quan trọng này, trong đó 110 người có mặt, 35 người trong số họ là những người tổng hợp tích cực, trong khi những người còn lại là các nhà quan sát và giới truyền thông. Các tổng hợp viên đại diện cho tất cả các ngành và lĩnh vực hoạt động chính. Có các nhà vật lý, nhà toán học, nhà sinh vật học, nhà thiên văn học, giáo thọ tâm linh và nhà thần học, những người trong chính phủ và ngoại giao, cũng như các nhà hoạt động làm việc vì sự thúc đẩy của hòa bình, công lý và môi trường.

Theo nhiều cách, sự kiện này mang tính lịch sử chứ không phải những gì nó đạt được, vì nó chỉ là sự khởi đầu và do đó không có kết quả đáng kể nào, mà là sự công nhận tâm linh như là cơ sở để tích hợp mọi tri thức.
Trong sự thừa nhận này, có một cái nhìn sâu sắc rằng tất cả kiến thức phải có mối quan hệ thực tế với sự cải thiện bản chất của con người và của những chúng sinh khác. Tâm linh, cuộc sống huyền bí, cung cấp một tầm nhìn thống nhất cho tri thức, và cho phép khoa học và tôn giáo có một sự cộng tác tích cực hơn, thật sự thân thiện hơn.

Hội nghị Tổng hợp II được triệu tập tại Trent, Ý từ ngày 26 tháng 6 đến ngày 1 tháng 7 năm 2001.
Khoảng 30 tổng hợp viên đã tham gia sự kiện này trong khung cảnh tuyệt đẹp xung quanh dãy núi Dolomite. Cuộc họp này tập trung hơn nhiều so với Đối thoại Dharamsala. Mục đích quan trọng của hội nghị này, và những cuộc đối thoại này, chỉ đơn giản là để có một số cuộc đối thoại liên quan vô ngã và chương trình nghị sự ẩn, trong tinh thần hữu nghị và cộng đồng theo cách mà một cảm giác xác thực thông cảm hiện hữu và một tầm nhìn mới xuất hiện.

Đối Thoại Tu Sĩ Phật Giáo / Kitô Giáo

Một mối quan tâm quan trọng khác của Đức Thánh Thiện là đối thoại giữa các tu viện. Mối quan tâm này đã được tiếp tục kể từ chuyến thăm của Thomas Merton đến Dharamsala, mặc dù đã có sự tiếp xúc giữa những tu sĩ theo Kitô giáo và các thành viên của truyền thống Thiền (Zen) và Phật giáo Thượng Toạ Bộ (Theravadan) trước chuyến hành trình của Merton đến Ấn Độ. Mối liên hệ với những tu sĩ Thiên Chúa giáo rất được lòng Đức Thánh Thiện và ngài đã nói rất nhiều điều với nhiều người trong những năm qua. Với Nghị Hội của các tôn giáo trên thế giới ở Chicago vào năm 1993 và Cuộc Gặp Gỡ Gethsemani tại tu viện Merton ở Kentucky vào tháng 7 năm 1996, cuộc đối thoại giữa các tu sĩ đã tiến bộ nhiều. Tháng 4 năm 2002 chứng kiến một hội nghị khác khi Gethsemani II được triệu tập. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tiếp tục tham gia như Ngài đã làm trong hai phiên họp trước. Trọng tâm của cuộc đối thoại tại Nghị viện rất cụ thể: Tánh Không (Sunyata) và sự từ bỏ của thiên tính (Kenosis[3]): Sự Trỗi Dậy Của Lòng Từ Bi Phổ Quát Trong Hành Trình Tâm Linh. Gethsemani I đã tổng quát hơn và khám phá nhiều chủ đề cùng quan tâm như đời sống tu viện trong mỗi truyền thống, vai trò của người thầy, giáo dục tu viện, kinh nghiệm huyền bí và thiền định. Nó mang tính lịch sử sâu sắc và hữu ích, là bước ngoặt trong mối quan hệ Thiên Chúa giáo / Phật giáo. Gethsemani II cũng quan trọng không kém.

Có thể thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của các mối quan hệ giữa các tu viện và đối thoại giữa các tôn giáo với việc xuất bản cuốn Bách khoa toàn thư đầu tiên về Đời Sống ở Tu Viện.
Tác phẩm gồm hai tập này bao gồm chủ nghĩa tu viện của đạo Hindu, đạo Phật, đạo Kitô và đạo Jain, và thể hiện sự đóng góp rất cần thiết cho một khu vực bị bỏ quên cho đến nay. Các cuộc trò chuyện căng thẳng đang diễn ra, cùng với trao đổi hiếu khách giữa các tu viện do MID và Đức Thánh Thiện khởi xướng, không nghi ngờ gì nữa, là mối quan tâm cao độ đối với những gì đang diễn ra.

Sự trao đổi hiếu khách tu viện giữa các tu sĩ Thiên Chúa giáo và Tây Tạng đã diễn ra từ năm 1980.
Ngay từ khi bắt đầu, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhiệt tình ủng hộ nó và tiếp tục làm như vậy. Việc trao đổi hoạt động theo cách này. Bốn hoặc năm tu sĩ nam nữ Tây Tạng đến Hoa Kỳ và dành sáu tháng để thăm một số tu viện và các tổng thể của các cộng đồng Xitô (Cistercian), Trappist và Biển Đức (Benedictine). Thời gian họ ở một nơi lâu nhất có thể là ba tuần đến một tháng, tối thiểu là một tuần. Các tu sĩ nam nữ Kitô giáo , bốn hoặc năm người trong số họ, cũng dành một khoảng thời gian tương tự trong các tu viện lớn của Tây Tạng ở Ấn Độ. Các nhóm Thiên Chúa giáo luôn đến thăm Đức Thánh Thiện. Trong mỗi trường hợp — cho dù người Tây Tạng đến Hoa Kỳ, hay những tu sĩ Hoa Kỳ đến Ấn Độ để thăm các tu viện Tây Tạng — họ đi sâu vào việc tuân thủ quy luật tu viện của mỗi cộng đồng. Chất lượng và sự phong phú của các cuộc đối thoại cả tại Nghị Hội của các tôn giáo trên thế giới và tại Gethsemani, tôi mang ơn rất nhiều cho những cuộc trao đổi đặc biệt này trong những năm qua. Đức Thánh Thiện luôn nhấn mạnh sự cần thiết của tình bạn làm nền tảng cho cuộc đối thoại chân thành, một cuộc đối thoại đạt đến mức độ sâu sắc của sự thừa nhận lẫn nhau về truyền thống của nhau. Trong nhiều mối quan hệ của mình với những Kitô hữu, cũng như những người theo đạo Hindu, đạo Jain và người Do Thái, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tuân theo lời dạy của chính mình: Ngài đã kết bạn với những người có truyền thống khác, và từ sự cởi mở và tình cảm, xuất phát và xung quanh những tình bạn này, Ngài trò chuyện với những người thân thiết với mình từ những truyền thống khác.

Đó là kinh nghiệm của tôi với Ngài kể từ khi bắt đầu tình bạn và sự cộng tác của chúng tôi.
Bởi vì chúng tôi có liên hệ với nhau, tức là vì chúng tôi là bạn bè, những người bạn tinh thần có mối liên kết bền chặt, chúng tôi có thể nói về bất kỳ chủ đề nào, ngay cả những chủ đề được coi là nhạy cảm trong truyền thống của mỗi chúng tôi. Chính tình bạn này có thể trở thành một loại công việc rất quan trọng mà người ta hy vọng sẽ dẫn đến vận mệnh cuối cùng của loài người: giải thoát và cứu độ.

Tầm Nhìn Tiên Tri Về Mối Quan Hệ Phật Giáo / Kitô Giáo

Công việc quan trọng này là một sự hợp tác mang tính tiên tri, thông qua quá trình đối thoại sâu sắc, thúc đẩy ý thức tiến lên trong mỗi truyền thống và theo nghĩa toàn cầu, phổ quát.
Từ mở màn-kết thúc của cuộc đối thoại, một cái gì đó mới sẽ xuất hiện cho nhân loại và cuối cùng, cho tất cả chúng sinh. Việc hướng tới nền tảng chung và hiểu biết nhiều hơn sẽ tạo ra một nhận thức mới, một quan điểm nâng cao hơn nhằm thống nhất những gì chân thật nhất trong mỗi truyền thống. Công việc này có thể mất hàng thế kỷ, thậm chí hàng thiên niên kỷ, nhưng sẽ đến một ngày Kitô giáo và Phật giáo cùng nhau đưa ra một tầm nhìn mới cho thế giới.

Trong hội nghị Tổng hợp I tại Dharamsala, tôi chợt nhận ra một cái nhìn sâu sắc lúc gần kết thúc hội nghị, một cái nhìn sâu sắc mà tôi gọi là hạt giống của sự tổng hợp, và nó có liên quan đến mối quan hệ cộng tác và đối thoại Phật giáo / Kitô giáo.
‘Hạt giống’ của sự tổng hợp có thể được hình thành theo cách này: Thần thánh như một ma trận (khuôn thước) của sự phát sinh phụ thuộc hay duyên sanh. Đức Thánh Thiện đã có mặt vì điều này và những ‘hạt giống’ khác từ những người tham gia khác trong Các cuộc Đối thoại Dharamsala. Hãy để tôi giải thích ngắn gọn ở đây. Tôi tin rằng sự tích hợp hai hiểu biết chính này đại diện cho một hiện thân của Trí tuệ Nhập thể Thần thánh (tuệ trí hiện hữu siêu nhiên).

Thần thánh như một ma trận của duyên sanh và hợp nhất cái nhìn sâu sắc thiết yếu của mỗi truyền thống này.
Duyên khởi là sự liên kết của tất cả chúng sinh; sự phụ thuộc lẫn nhau nội tại của chúng tồn tại trong ranh giới ma trận của ý thức vô biên, và ý thức này chính là Thần thánh. Ma trận vừa định nghĩa vừa chứa đựng, và trong trường hợp của ma trận Thần thánh, nó xác định và chứa mối liên kết của tất cả chúng sinh. Thần thánh, theo kinh nghiệm thần bí của Kitô giáo, là chính sự liên hệ, hay sự kết nối, của tất cả chúng sinh cùng phát sinh. Đó là ý thức vô hạn được khởi động bởi lòng từ bi và tình yêu thương thiêng liêng. Ý thức như yêu thương, từ bi, nhân hậu, tốt bụng, thông minh và hiểu biết kết nối tất cả chúng sinh trong một cộng đồng vũ trụ, bản thể học. Đây là một cái nhìn sâu sắc phải được xem xét hết sức cẩn thận.

Có nhiều điểm chung khác giữa truyền thống Phật giáo và Kitô giáo và một số điểm chung này đang được thảo luận trong các cuộc đối thoại giữa các tu sĩ,
trong các diễn đàn của Hiệp hội Nghiên cứu Phật giáo / Kitô giáo, và trong hàng trăm diễn đàn học thuật trên khắp thế giới. Chúng đang được suy nghĩ bởi cá nhân các hành giả và các nhà văn, những người tiên phong của tâm linh, mở ra những tầm nhìn mới về hiện thực và văn hóa phổ quát. Một lần nữa, Đức Thánh Thiện thường dẫn đường bằng sự cởi mở và những hiểu biết sâu sắc của Ngài về điểm chung có thể có, chẳng hạn như khi Ngài gặp gỡ các Kitô hữu và phản chiếu về ý nghĩa bên trong của Tin Mừng.

Phật tử và Kitô hữu là bạn bè và tham gia vào các cấp độ đối thoại cuối cùng là những người phục vụ cho một mục đích lớn hơn của cả hai truyền thống,
và họ chịu trách nhiệm về công việc này bởi vì họ có ý thức làm cho nó trở nên khả thi. Với ý thức của họ là gánh nặng trách nhiệm mà họ không thể lẫn tránh hay chạy trốn. Đức Thánh Thiện có ý thức về điều này khi ngài nói về trách nhiệm phổ quát của chúng ta.

Tây Tạng, Cơ chế Tu viện và Giáo hội Thiên Chúa giáo

Trong nhiều năm nay, nhiều người trong chúng tôi từ giới tu sĩ đã đứng trong tình đoàn kết với Đức Thánh Thiện  và dân tộc Tây Tạng,
đã cố gắng và tiếp tục cố gắng đánh thức Giáo hội Thiên Chúa giáo về trách nhiệm đạo đức mà nó phải có trong việc hỗ trợ tương tự cho cuộc đấu tranh của người Tây Tạng. Trong thần học và văn hóa Thiên Chúa giáo, chúng tôi thích thuật ngữ ý thức hoá (khoa học phê phán) để chỉ sự thức tỉnh luân lý đối với các vấn đề công lý. Chúng tôi đang tham gia vào quá trình sáng tạo như vậy, và không chỉ đơn giản là trong nhà thờ, mà còn mở rộng ra tất cả các tôn giáo khác và trên thế giới nói chung.

Đức Thánh Thiện đã theo dõi sự phát triển này với sự quan tâm sâu sắc và chủ nghĩa hiện thực.
Cho đến nay, chúng tôi vẫn chưa thành công trong việc nâng mức độ quan tâm của La Mã (Rome) về vấn đề Tây Tạng lên một vị trí ưu tiên cao. Tại Nghị Hội của các Tôn giáo Thế giới năm 1993, giữa phiên Đối thoại Tu sĩ Phật giáo / Kitô giáo, MID đã giới thiệu Văn kiện Nghị quyết về Tây Tạng. Nó đã được đọc và trình bày cho Đức Thánh Thiện. Ngài rất hài lòng với hành động này.

Tôi tin rằng sẽ có một ngày nhà thờ xuất hiện mạnh mẽ, đứng cùng với người dân Tây Tạng, nhưng điều này vẫn sẽ mất một thời gian nào đó.
Tôi cảm thấy thời gian gần hơn nhiều so với suy nghĩ của nhiều người. Chúng ta cần tiếp tục thúc đẩy, tức là nêu vấn đề bất cứ khi nào có cơ hội và sẵn sàng trò chuyện với bất kỳ ai sẵn sàng lắng nghe. Không ngừng theo đuổi công lý cuối cùng sẽ được một mùa bội thu. Tôi tin rằng tiếng nói của nhà thờ Thiên Chúa giáo sẽ cung cấp sự hỗ trợ giúp nhân loại cụ thể hóa thảm kịch Tây Tạng.

Tầm Quan Trọng Của Đức Đạt Lai Lạt Ma

Có nhiều lý do khiến tôi cảm thấy không đủ tư cách để đánh giá sự đóng góp của Ngài đối với hành tinh của chúng ta và đề xuất ý nghĩa lịch sử của Ngài.
Ngài là một nhân vật hiếm có, rất độc đáo và vô cùng quý giá, được làm nên xa hơn bởi hoàn cảnh của dân tộc Ngài và vai trò hấp dẫn mà Ngài đang đảm nhận với tư cách là một vị thầy tâm linh toàn cầu. Một số thuộc tính nâng cao đóng góp của Ngài và cực kỳ có giá trị trong thời đại mới này.

Đầu tiên là cái mà tôi gọi là chủ nghĩa nhân văn tinh thần của Ngài, khả năng của Ngài để liên hệ với mọi loại người, có và không có bất kỳ cam kết cụ thể nào đối với một truyền thống.
Ngài đã thấy rõ điều gì thật sự quan trọng: chủ yếu là cách chúng ta đối xử với nhau, kể cả những chúng sinh khác như thế nào. Trong cuốn sách Đạo Đức Cho Thiên Niên Kỷ Mới, Đức Thánh Thiện đã đưa ra một tầm nhìn về đạo đức có thể nói là một dạng tâm linh tự nhiên, sự hiểu biết về đạo đức cho thấy những phẩm chất trong bản chất con người của chúng ta mang tính phổ biến và là nền tảng không chỉ của đạo đức mà còn là những gì tốt đẹp nhất của tôn giáo và tâm linh. Ngài cam kết trình bày một hướng dẫn thiết thực về đời sống đạo đức dựa trên điểm chung của các đặc điểm của con người là lòng trắc ẩn, tình yêu thương, lòng nhân từ và lòng thương xót cho những người theo hoặc không thuộc bất kỳ tôn giáo nào trên thế giới. Trong lời dạy này, Ngài đưa ra lời khuyên cụ thể cho toàn thể nhân loại.

Sự nổi bật của Ngài là một biểu tượng của chiều sâu tâm linh và nhân bản, một sự hiện diện mạnh mẽ nhẹ nhàng nhưng kiên quyết ủng hộ sự thay đổi, chuyển hóa trái tim và công lý cho dân tộc của mình.
Sự hiện diện về con người và tinh thần của Ngài trong lịch sử được củng cố bởi phong cách lãnh đạo khiêm tốn, ôn hoà, thường được truyền tải bằng sự tiếu lâm và tiếng cười. Bản chất của sự hiện diện và sự giảng dạy của Ngài cũng được biểu lộ qua con người của Ngài, hơn là vị trí của Ngài.

Sự hào phóng của Ngài với tư cách là một người thầy mang lại lợi ích cho tất cả chúng ta, và đã đóng một vai trò thiết yếu trong cuộc sống của hàng nghìn người phương Tây và hàng triệu người Tây Tạng.
Lời dạy tinh tế của Đức Thánh Thiện về trách nhiệm phổ quát thể hiện một điều gì đó mới mẻ và thích thú; nó xoay xở để tránh quan điểm thô kệch, hoặc cạm bẫy của chủ nghĩa dân tộc và gợi lên những gì sâu sắc nhất, chân thật nhất trong tất cả chúng ta. Nó kêu gọi lòng nhân hậu cơ bản và thông thường của chúng ta. Đức Đạt Lai Lạt Ma, giống như các nhà lãnh đạo tinh thần khác trên thế giới, là một tiếng nói hùng hồn ủng hộ tích cực hành tinh và không có nhà lãnh đạo tinh thần nào khác có thể sánh bằng sự đóng góp của Ngài vào tỉnh thức sinh thái.

Nhìn chung, Đức Thánh Thiện là một người có tầm nhìn xa.
Về mặt này, giống như một vòng tròn, tôi muốn quay lại khoảnh khắc đó khi chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên cách đây nhiều năm ở Anh quốc. Khi Ngài nói vào dịp đó, anh ấy đã nói một điều gì đấy đã luôn ở lại với tôi, tạo nên một ấn tượng không thể phai mờ. Ngài nhận xét, "Chúng ta phải giữ sự chú ý và quyết tâm của mình hướng đến phía chân trời xa, và không bị phân tâm bởi những gì không quan trọng." Ngài là bậc thầy của vận mệnh mà tất cả chúng ta đang hướng tới. Ý nghĩa rốt ráo của Ngài liên quan đến vận mệnh này. /.

Ẩn Tâm Lộ - Wednesday, October 19, 2022
Trích từ quyển Understanding the Dalai Lama - Rajiv Mehrotra 

 



[1] Tu sĩ dòng Luyện tâm (giáo phái sống rất khắc khổ và phát nguyện không bao giờ nói)

[3] Kenosis: (trong thần học Kitô giáo) sự từ bỏ của thiên tính, ít nhất là một phần, bởi Chúa Kitô trong Nhập thể.