Thứ Hai, 24 tháng 10, 2022

ĐẠI DƯƠNG TUỆ TRÍ

 




Nguyên tác: The Ocean of Wisdom
Tác giả: Brother Wayne Teasdale
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển nhuận văn
***



Không dễ để viết về Đức Đạt Lai Lạt Ma, và cụ thể là Tenzin Gyatso. Ngài là một vị thầy tâm linh hiếm có và hoàn toàn độc đáo, luôn có xu hướng phóng đại ca ngợi vị trí phi thường, giống như thần thánh của mình và toàn bộ hào quang xung quanh 'nhà sư giản dị' này, hoặc thái cực ngược lại của việc ẩn mình sau một tính khách quan học thuật khô khan, mà thường bị hoài nghi.
Ở đây, giống như Đức Phật, tôi sẽ cố gắng đi một con đường trung đạo. Cá nhân tôi tin rằng có một số nhân vật, thánh và bồ tát, những người thật sự không thể phóng đại. Đó là Mahatma Gandhi, Thomas Merton (nhà hiền triết Trappist) và Mẹ Teresa. Tenzin Gyatso cũng là một trong số đó.

Khi chúng ta gặp được sự thánh thiện cao cả ở bất cứ ai, thì rõ ràng là một mức độ siêu phàm của đức tính và dễ cảm xúc,
sự vượt trội của mối quan tâm đến bản thân, sự sẵn sàng và khả năng đáp ứng đối với những người khác. Như một ví dụ từ cuộc đời của Đức Đạt Lai Lạt Ma — một ví dụ rất đặc trưng về một người vượt quá vị trí của mình — hãy để tôi đưa ra một sự việc từ một trong nhiều chuyến thăm Mỹ của ngài. Cách đây vài năm tại Đại học Harvard đã có một cuộc trò chuyện đặc biệt giữa Đức Thánh Thiện và ba hoặc bốn giáo sư trước một lượng khán giả khổng lồ bao gồm cả một đoàn làm phim. Vị giáo sư đầu tiên phát biểu đã thu hút ánh đèn sân khấu, và ông ấy đã tiếp tục và tiếp tục, vượt qua thời gian quy định của mình. Khi cuộc nói chuyện của ông ta trở nên quá mức, và không có dấu hiệu cho thấy ông sẽ dừng lại, các giáo sư khác, sợ thời gian của họ sẽ bị sử dụng hết, trở nên mất kiên nhẫn, sau đó phẫn nộ và tức giận.

Qua tất cả, Đức Thánh Thiện kiên nhẫn, bình tĩnh, chăm chú và mỉm cười, lắng nghe người đàn ông này.
Sự nhạy cảm của Ngài đến mức biết người này cần cảm thấy rằng ông đang được lắng nghe. Ông cần sự quan tâm và khẳng định. Lòng từ bi của Ngài để đáp lại chương trình nghị sự sâu sắc hơn của giáo sư, thay vì rơi vào sự bực bội, thất vọng và tức giận như những người tham gia khác đang làm. Ngài đã lựa chọn một cách khá thanh thoát để đáp lại một cách từ bi, ngay cả khi điều đó có nghĩa là hơi bất tiện cho người khác. Câu chuyện nhỏ này là điển hình về Ngài và minh họa bản chất nhạy cảm của Ngài.

Trong phần tiếp theo, tôi muốn khám phá chí nguyện của Ngài với đối thoại giữa các tôn giáo, đây thật sự là một cuộc đối thoại của chính cuộc sống, không phải là một hoạt động cứng nhắc, chính thức như thường thấy trong các diễn đàn học thuật.
Phần đầu tiên của bài viết này sẽ xem xét các cuộc gặp gỡ của Đức Đạt Lai Lạt Ma với Thomas Merton và Bede Griffiths. Sau đó, tôi sẽ chia sẻ các cuộc gặp của riêng tôi với Ngài, các cuộc gặp về cơ bản tiếp tục dòng kinh nghiệm và phát triển được khởi xướng với Merton. Sau đó tôi sẽ trình bày một số ấn tượng về Đức Thánh Thiện đã xảy ra với tôi theo thời gian. Phần tiếp theo của bài luận sẽ xem xét mối quan tâm của Ngài đối với sự liên hợp của khoa học, trí tuệ và tất cả các lĩnh vực kiến thức khác và điều này sẽ được thực hiện chủ yếu trong bối cảnh của các cuộc đối thoại tổng hợp.

Sau đó, tôi sẽ chuyển sang cuộc đối thoại của các tu sĩ Phật giáo / Cơ đốc giáo, và phản chiếu về khía cạnh tiên tri của mối quan hệ rất có giá trị này.
Sự phản chiếu này sau đó sẽ kết tinh thành cái mà tôi gọi là ‘ma trận’ như một cách để tích hợp nguyên lý siêu hình, hiện sinh cốt yếu của Phật giáo và Cơ đốc giáo. Sự phản chiếu này sau đó sẽ kết tinh thành cái mà tôi gọi là những yếu tố của ‘ma trận’ như một cách để liên hợp nguyên lý siêu hình, hiện hữu cốt yếu của Phật giáo và Kitô giáo. Một phần ngắn sẽ xem xét vấn đề Tây Tạng và nhà thờ Thiên Chúa giáo. Cuối cùng, trong phần kết thúc, tôi sẽ suy ngẫm về tầm quan trọng của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn trong thiên niên kỷ này.

Thomas Merton và Bede Griffiths

Trải nghiệm đầu tiên của Tây Tạng về người theo đạo Thiên chúa liên quan đến sự truyền giáo của các tu sĩ Dòng Tên vào cuối thế kỷ 17 do Linh Mục Desiderio lãnh đạo.
Tất nhiên, các tu sĩ Dòng Tên là những nhà truyền giáo, và phương pháp của họ rất sáng tạo và thậm chí có tầm nhìn xa. Họ có xu hướng đi trước thời đại bởi vì họ tôn trọng nền văn hóa nơi họ làm việc và sinh sống, và cuối cùng đi đến việc sửa đổi các mục tiêu truyền giáo của họ với nhận thức rằng ở Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản và Tây Tạng, họ đang đối phó với những hệ thống trí tuệ rất tiên tiến.

Nhận thức này chắc chắn cũng đặc trưng cho cách nhìn của Thomas Merton, một tu sĩ phái Trappist[1] đến từ Kentucky, đặc biệt là trong những năm cuối đời của ông.
Merton đã tiếp thu trí tuệ phương Đông ở mức độ sâu sắc từ rất lâu trước chuyến đi định mệnh của ông đến châu Á vào mùa thu năm 1968. Thomas Merton chỉ có ba lần yết kiến với Đức Thánh Thiện tại Dharamsala vào tháng 11 năm 1968. Đây là toàn bộ mức độ mối quan hệ của họ về mặt thời gian. Sau đó, Đức Thánh Thiện nói rằng Ngài không bao giờ nhận thấy rõ các Kitô hữu sống tâm linh cho đến khi Ngài gặp Merton. Đây là một tu sĩ Kitô hoàn toàn không giống bất kỳ Kitô hữu nào mà Đức Đạt Lai Lạt Ma từng gặp trước đây; ông không giống như những nhà truyền giáo thời đó, hầu hết trong số họ đều hướng về sự cải đạo.

Đức Thánh Thiện nhận thấy rõ trong vị Kitô hữu này là một người có học thức uyên thâm về các vấn đề tâm linh, tôn giáo so sánh và văn hóa.
Ngài thấy ở Merton một sự cởi mở hiếm thấy ở những Kitô hữu khác. Thomas Merton đã khám phá ra nơi Đức Thánh Thiện một người anh em đồng tu, cởi mở như nhau, và rất tò mò về đời sống và thực hành trong tu viện Thiên Chúa giáo. Hai người đàn ông vô cùng thích nhau và hướng đến một tình bạn tuyệt vời, một tình bạn đang chờ đợi nó nảy nở trong vĩnh hằng.

Linh mục Louis, tên tu sĩ của Merton, và Đức Thánh Thiện đã nói về mọi thứ.
Họ đã chia sẻ kinh nghiệm của họ về cuộc sống tu viện trong truyền thống của họ, xem xét các thực hành, giáo dục khác nhau, sự đào tạo các tăng ni, cách cầu nguyện và thiền tập của họ, các kinh sách thiêng liêng của họ. Họ đã phản ánh sâu sắc về sự khác biệt và tương đồng trong đức tin Phật giáo và Kitô giáo. Họ thảo luận về thảm kịch kinh hoàng của người Tây Tạng, cộng đồng người Tây Tạng và sự tập trung của họ vào việc củng cố và bảo tồn văn hóa cùng truyền thống của họ ở Ấn Độ. Họ cũng nói về chiến tranh Việt Nam, sự cạnh tranh giữa các siêu cường, phong trào dân quyền ở Hoa Kỳ, và phong trào hòa bình ở châu Âu và châu Mỹ.

Đức Thánh Thiện và Thomas Merton đã có ấn tượng sâu sắc với nhau.
Tác động của Merton đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma là đáng kể. Ngài thường nói về vị tu sĩ người Mỹ này, một thiên tài văn học, với sự trìu mến và đăm chiêu. Trong một bộ phim tài liệu tuyệt vời về cuộc đời của Merton được phát hành vào đầu những năm 1980, Đức Thánh Thiện đã được các nhà làm phim phỏng vấn. Ngài đã nói một cách trìu mến về Merton vào dịp đó và, với cảm xúc sâu sắc và âm vực cao hơn trong giọng nói của mình, Ngài nhận xét, "Nếu Thomas Merton còn sống, chúng tôi đã làm điều gì đó vì hòa bình cùng nhau."

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã gặp Bede Griffiths ba lần, như trường hợp của Merton, nhưng những cuộc gặp gỡ này cách nhau hàng năm.
Họ đã cùng nhau đến Ấn Độ hai lần tại các hội nghị mà cả hai đều tham gia. Nhưng cuộc trò chuyện đáng kể nhất của họ xảy ra ở Úc vào đầu những năm 1990. Đó là một cuộc trao đổi có kết quả quan trọng. Cả hai đều hoàn toàn thoải mái và cởi mở. Họ đã thảo luận về nhiều giáo lý thần học và huyền bí của mỗi truyền thống. Mặc dù tôi chưa bao giờ biết Merton, nhưng tôi đã biết Bede, và có một tình bạn hai mươi năm với ông ấy.

Vào lần gặp gỡ thứ ba, Linh mục Bede rất quan tâm đến Dzogchen[2].
Ông ấy đã kể cho tôi nghe về cuộc gặp gỡ tuyệt vời này với Đức Thánh Thiện. Về phần mình, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói với tôi, "Bede Griffiths là một người thầy tuyệt vời!" Linh mục Bede và Đức Đạt Lai Lạt Ma đều rất tôn trọng nhau, và nếu Bede sống lâu hơn, họ có thể đã cùng nhau đạt được điều gì đó quan trọng. Kiến thức của Bede về Ấn Độ giáo và Phật giáo lớn hơn nhiều so với kiến thức của Thomas Merton, Nhưng cả hai đều là những giáo đồ Kitô giáo uống rượu từ giếng của tuệ trí phương Đông và làm sống lại sự chiêm nghiệm phương Tây. Cả hai đều có một nhiệm vụ giống nhau, nhưng với những hoàn cảnh khác nhau.

Những Cuộc Gặp Gỡ Và Những ấn Tượng Đầu Tiên

Đi xuyên Anh quốc để nghỉ ngơi trong một tháng sau một thời gian dài ở Ấn Độ, tôi đã có trải nghiệm thú vị đầu tiên với Đức Thánh Thiện.
Điều này xảy ra vào tháng 4 năm 1988 tại tư dinh của Hồng y Basil Hume, O.S.B., tổng giám mục của Westminster và là giáo chủ (patriarch) Thiên Chúa giáo của Anh. Mặc dù tôi đã thấy Đức Thánh Thiện tại Nhà thờ Thánh Patrick ở Thành phố New York vào năm 1979 khi tôi là sinh viên tốt nghiệp tại Đại học Fordham, nhưng mãi cho đến cuộc gặp gỡ này, chúng tôi mới thật sự gặp nhau lần đầu tiên. Hồng y Hume là một tu sĩ dòng Biển Đức, người cũng đã từng là tu viện trưởng trước khi được phong là giáo chủ của nước Anh. Ông quan tâm đến một cuộc đối thoại và hoan nghênh một cuộc trao đổi giữa các tu sĩ Thiên Chúa / Tây Tạng.

Tôi đã được mời tham dự cuộc đối thoại lịch sử này. Có hai mươi người trong chúng tôi — các tu sĩ Kitô giáo và Phật giáo, với một vài nữ tu — ngồi quanh một chiếc bàn hình bầu dục.
Đức Thánh Thiện đã bước vào và được giới thiệu bởi chủ trì Tu viện Prinknash, tu viện của Bede Griffiths trước khi Ngài đến Ấn Độ. Buổi họp mặt này là một tình huống thân mật, và ngay từ đầu đã có một mối quan hệ bền chặt giữa Đức Thánh Thiện và tôi. Sau cuộc trò chuyện kéo dài bảy mươi phút, Ngài đã đến chìa tay ra trước mặt tôi. Đó là một lời giới thiệu ấm áp và đầy ý nghĩa.

Sau đó, tôi viết thư cho Tenzin Geyche, thư ký lâu năm và là bạn tốt của Ngài, và không lâu sau đó tôi đã đến Dharamsala vào đầu tháng 1 năm 1989.
Cuộc gặp gỡ thứ hai của tôi với Đức Thánh Thiện là một cuộc trò chuyện kéo dài hai giờ. Nó được chứng minh là quan trọng, bởi vì nó đã dẫn đến việc chúng tôi cùng nhau công bố một tài liệu có tựa đề Tuyên Ngôn Phổ Quát Về Bất Bạo Động. Đây là một tuyên bố ngắn gọn, dài một trang. Sau đó nó đã được phê chuẩn bởi Đức Thánh Thiện và Tu sĩ Đối thoại Liên tôn (MID) (trước đây gọi là Uỷ Ban Đối thoại Đông / Tây Bắc Mỹ), tổ chức mà tôi đại diện. MID nhận trách nhiệm về tài liệu sau khi tôi viết bản thảo đầu tiên. Các thành viên khác của MID và tôi đã điều chỉnh hình thức cuối cùng của tài liệu.

Tôi thường cảm thấy, hoặc có cảm giác rằng vị trí độc nhất mà tôi được đảm nhận sẽ giúp tiếp tục mối quan hệ  với Đức Thánh Thiện,
Phật giáo Tây Tạng và dân tộc Tây Tạng mà Thomas Merton đã khởi xướng bằng chuyến thăm lịch sử của ông đến Dharamsala năm 1968. Tôi luôn ý thức về những lời của Đức Thánh Thiện về việc làm điều gì đó quan trọng cho hòa bình, và đã hy vọng rằng khả dĩ tôi có thể đóng góp cho nguyện vọng quan trọng đó. Mặc dù tôi chắc chắn không phải là Merton, nhưng tôi chia sẻ với ông ấy một sự cởi mở với phương Đông, quan tâm sâu sắc đến Phật Pháp và Ấn Độ giáo, Lão giáo và hiện tượng thần bí trong Hồi giáo (Sufism), cũng như hy vọng mạnh mẽ về một cuộc sống lâu dài, hòa bình công bằng và toàn diện — một nền hòa bình không chỉ đơn giản là không có xung đột, một nền hòa bình phản ánh, như Thánh Augustinô đã gọi nó vào thời của ông, "sự yên tĩnh của trật tự", một sự hòa hợp tâm linh làm sống động một loài người giác ngộ, và một nền văn minh nhân loại dựa trên tình yêu và lòng từ bi. Một nền hòa bình như vậy dựa trên tiềm năng tối thượng của chúng ta, và điều đó đòi hỏi sự tham gia của các tiềm lực tinh thần của chúng ta để tự chuyển hóa dẫn đến thay đổi xã hội dựa trên nhận thức.

Trong những năm qua, Đức Thánh Thiện và tôi đã gặp nhau một vài lần mỗi năm,
và tôi cũng là bạn của em trai Ngài, Ngari Rinpoche, và gia đình Ngài, cũng như nhiều người Tây Tạng khác. Những cuộc gặp gỡ này ngày càng trở nên sâu sắc hơn về chiều sâu và tình bạn. Tôi đã hình thành nhiều ấn tượng về con người của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tôi nhớ rất rõ chuyến thăm tôi đã thực hiện sau Nghị Hội năm 1993 của các Tôn giáo Thế giới ở Chicago. Chúng tôi đã ngồi cùng nhau trong hai giờ khi Ngài nói chuyện với những người khác, tham gia một cuộc phỏng vấn và chia sẻ những câu chuyện với tôi. Vào dịp đó, tôi đã nhìn thấy rất rõ ràng Ngài thật sự giống như Đấng Kitô như thế nào, và tôi đã nói với anh ấy: ‘Tôi thấy Đấng Kitô trong Ngài nhiều hơn tôi đã nhận biết Đấng Kitô trong hầu hết các Kitô hữu! Tôi cho rằng tôi đã có thể sử dụng ngôn ngữ khác để thể hiện nhận thức tâm linh này. Có lẽ điều tôi thật sự nhận ra là sự thánh thiện, tình yêu và lòng từ bi của vị hiền nhân này. Một ấn tượng khác đã bén rễ là năng khiếu trực giác của Ngài, hay chúng ta có thể nói, về khả năng thấu thị, thậm chí là thần giao cách cảm. Món quà này không phải là một vấn đề nhẹ tênh, và tôi xem nó như một sản phẩm tất nhiên của sự thực chứng tâm linh. Rất nhiều lần khi có sự hiện diện của Ngài, tôi đã ý thức được việc Ngài hoàn toàn biết tôi và biết tôi đến từ đâu hoặc tôi đang bận tâm về điều gì. Ngài dường như lôi cuốn tôi vào một trạng thái tỉnh thức lớn hơn, bao gồm cả tôi trong chính Ngài. Không cần phải nói bất cứ điều gì, vì trong những thời điểm này, giao tiếp của chúng tôi là hoàn hảo và lời nói sẽ chỉ làm giảm đi những gì chúng tôi trải nghiệm và hiểu biết và có thể chỉ làm nhầm lẫn vấn đề.

Một ấn tượng nữa khiến tôi ấn tượng về trí tuệ uyên thâm, khả năng hiểu được hầu như mọi thứ của Ngài.
Tuy nhiên, những món quà trí tuệ của Ngài không phải là những khả năng trừu tượng, mà luôn phục vụ cho tinh hoa nhân văn, lòng nhân hậu của Ngài. Kiến thức của Ngài luôn luôn dựa trên nền tảng từ bi và trí tuệ, và đây là những phẩm chất thiết thực, những phẩm chất được tìm thấy trong các vị thánh của mọi truyền thống. Nhưng có quá nhiều hơn nữa. Ngoài những đặc điểm này, Ngài còn có khiếu tiếu lâm và vui tươi, những sức mạnh bất khuất mà thậm chí cả bi kịch và đau khổ không làm lu mờ. Về cơ bản, những gì tôi nhận thấy ở Ngài là một chủ nghĩa nhân văn rất phát triển bắt nguồn từ việc thực hành tâm linh và được mở rộng cho tất cả chúng sinh.

Quan Tâm Đến Tích Hợp Tri Thức

Đức Thánh Thiện đã quan tâm đến khoa học và các lĩnh vực kiến thức khác trong nhiều năm.
Ngài đã tham dự nhiều hội nghị trên khắp thế giới để cố gắng khám phá điểm chung giữa khoa học và tâm linh. Ngài nhận thấy hầu hết các cuộc họp này đều gây thất vọng vì lý do này hay lý do khác. Thông thường, họ không đạt được kỳ vọng của Ngài bởi vì - như Ngài nói - các nhà khoa học quá "cứng" hoặc quá "mềm". Bằng từ 'cứng', Ngài muốn nói là họ đã khép kín với chiều kích tinh thần của cuộc sống, và tuân theo một quan điểm hoàn toàn giản hoá luận không phê phán về khoa học, một quan điểm thật sự không khoa học chút nào!  Vấn đề với nhà khoa học ‘mềm’ là người ấy nhảy quá nhanh đến một điểm thông tục hoặc một cái nhìn tâm linh về khoa học và vũ trụ. Khoa học trong trường hợp này bị nghi ngờ mặc dù nhà khoa học ‘mềm’ thật sự có thể thông tuệ hơn nhà khoa học ‘cứng’.

Đức Thánh Thiện đã và đang bị hấp dẫn với khái niệm tổng hợp,
nỗ lực có ý thức để tìm ra điểm chung giữa tất cả các lĩnh vực kiến thức, và một mô hình thống nhất lớn hài hòa giữa khoa học, tôn giáo, tâm linh, công bằng xã hội, hòa bình và môi trường. Công việc hướng tới việc tìm ra một mô hình như vậy lần đầu tiên được hình thành trong hội nghị Tổng hợp I, hoặc Đối thoại Dharamsala, được tổ chức tại Dharamsala từ ngày 11 đến ngày 16 tháng 9 năm 1999. Đức Thánh Thiện đã tham gia vào cuộc tụ họp quan trọng này, trong đó 110 người có mặt, 35 người trong số họ là những người tổng hợp tích cực, trong khi những người còn lại là các nhà quan sát và giới truyền thông. Các tổng hợp viên đại diện cho tất cả các ngành và lĩnh vực hoạt động chính. Có các nhà vật lý, nhà toán học, nhà sinh vật học, nhà thiên văn học, giáo thọ tâm linh và nhà thần học, những người trong chính phủ và ngoại giao, cũng như các nhà hoạt động làm việc vì sự thúc đẩy của hòa bình, công lý và môi trường.

Theo nhiều cách, sự kiện này mang tính lịch sử chứ không phải những gì nó đạt được, vì nó chỉ là sự khởi đầu và do đó không có kết quả đáng kể nào, mà là sự công nhận tâm linh như là cơ sở để tích hợp mọi tri thức.
Trong sự thừa nhận này, có một cái nhìn sâu sắc rằng tất cả kiến thức phải có mối quan hệ thực tế với sự cải thiện bản chất của con người và của những chúng sinh khác. Tâm linh, cuộc sống huyền bí, cung cấp một tầm nhìn thống nhất cho tri thức, và cho phép khoa học và tôn giáo có một sự cộng tác tích cực hơn, thật sự thân thiện hơn.

Hội nghị Tổng hợp II được triệu tập tại Trent, Ý từ ngày 26 tháng 6 đến ngày 1 tháng 7 năm 2001.
Khoảng 30 tổng hợp viên đã tham gia sự kiện này trong khung cảnh tuyệt đẹp xung quanh dãy núi Dolomite. Cuộc họp này tập trung hơn nhiều so với Đối thoại Dharamsala. Mục đích quan trọng của hội nghị này, và những cuộc đối thoại này, chỉ đơn giản là để có một số cuộc đối thoại liên quan vô ngã và chương trình nghị sự ẩn, trong tinh thần hữu nghị và cộng đồng theo cách mà một cảm giác xác thực thông cảm hiện hữu và một tầm nhìn mới xuất hiện.

Đối Thoại Tu Sĩ Phật Giáo / Kitô Giáo

Một mối quan tâm quan trọng khác của Đức Thánh Thiện là đối thoại giữa các tu viện. Mối quan tâm này đã được tiếp tục kể từ chuyến thăm của Thomas Merton đến Dharamsala, mặc dù đã có sự tiếp xúc giữa những tu sĩ theo Kitô giáo và các thành viên của truyền thống Thiền (Zen) và Phật giáo Thượng Toạ Bộ (Theravadan) trước chuyến hành trình của Merton đến Ấn Độ. Mối liên hệ với những tu sĩ Thiên Chúa giáo rất được lòng Đức Thánh Thiện và ngài đã nói rất nhiều điều với nhiều người trong những năm qua. Với Nghị Hội của các tôn giáo trên thế giới ở Chicago vào năm 1993 và Cuộc Gặp Gỡ Gethsemani tại tu viện Merton ở Kentucky vào tháng 7 năm 1996, cuộc đối thoại giữa các tu sĩ đã tiến bộ nhiều. Tháng 4 năm 2002 chứng kiến một hội nghị khác khi Gethsemani II được triệu tập. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tiếp tục tham gia như Ngài đã làm trong hai phiên họp trước. Trọng tâm của cuộc đối thoại tại Nghị viện rất cụ thể: Tánh Không (Sunyata) và sự từ bỏ của thiên tính (Kenosis[3]): Sự Trỗi Dậy Của Lòng Từ Bi Phổ Quát Trong Hành Trình Tâm Linh. Gethsemani I đã tổng quát hơn và khám phá nhiều chủ đề cùng quan tâm như đời sống tu viện trong mỗi truyền thống, vai trò của người thầy, giáo dục tu viện, kinh nghiệm huyền bí và thiền định. Nó mang tính lịch sử sâu sắc và hữu ích, là bước ngoặt trong mối quan hệ Thiên Chúa giáo / Phật giáo. Gethsemani II cũng quan trọng không kém.

Có thể thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của các mối quan hệ giữa các tu viện và đối thoại giữa các tôn giáo với việc xuất bản cuốn Bách khoa toàn thư đầu tiên về Đời Sống ở Tu Viện.
Tác phẩm gồm hai tập này bao gồm chủ nghĩa tu viện của đạo Hindu, đạo Phật, đạo Kitô và đạo Jain, và thể hiện sự đóng góp rất cần thiết cho một khu vực bị bỏ quên cho đến nay. Các cuộc trò chuyện căng thẳng đang diễn ra, cùng với trao đổi hiếu khách giữa các tu viện do MID và Đức Thánh Thiện khởi xướng, không nghi ngờ gì nữa, là mối quan tâm cao độ đối với những gì đang diễn ra.

Sự trao đổi hiếu khách tu viện giữa các tu sĩ Thiên Chúa giáo và Tây Tạng đã diễn ra từ năm 1980.
Ngay từ khi bắt đầu, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhiệt tình ủng hộ nó và tiếp tục làm như vậy. Việc trao đổi hoạt động theo cách này. Bốn hoặc năm tu sĩ nam nữ Tây Tạng đến Hoa Kỳ và dành sáu tháng để thăm một số tu viện và các tổng thể của các cộng đồng Xitô (Cistercian), Trappist và Biển Đức (Benedictine). Thời gian họ ở một nơi lâu nhất có thể là ba tuần đến một tháng, tối thiểu là một tuần. Các tu sĩ nam nữ Kitô giáo , bốn hoặc năm người trong số họ, cũng dành một khoảng thời gian tương tự trong các tu viện lớn của Tây Tạng ở Ấn Độ. Các nhóm Thiên Chúa giáo luôn đến thăm Đức Thánh Thiện. Trong mỗi trường hợp — cho dù người Tây Tạng đến Hoa Kỳ, hay những tu sĩ Hoa Kỳ đến Ấn Độ để thăm các tu viện Tây Tạng — họ đi sâu vào việc tuân thủ quy luật tu viện của mỗi cộng đồng. Chất lượng và sự phong phú của các cuộc đối thoại cả tại Nghị Hội của các tôn giáo trên thế giới và tại Gethsemani, tôi mang ơn rất nhiều cho những cuộc trao đổi đặc biệt này trong những năm qua. Đức Thánh Thiện luôn nhấn mạnh sự cần thiết của tình bạn làm nền tảng cho cuộc đối thoại chân thành, một cuộc đối thoại đạt đến mức độ sâu sắc của sự thừa nhận lẫn nhau về truyền thống của nhau. Trong nhiều mối quan hệ của mình với những Kitô hữu, cũng như những người theo đạo Hindu, đạo Jain và người Do Thái, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tuân theo lời dạy của chính mình: Ngài đã kết bạn với những người có truyền thống khác, và từ sự cởi mở và tình cảm, xuất phát và xung quanh những tình bạn này, Ngài trò chuyện với những người thân thiết với mình từ những truyền thống khác.

Đó là kinh nghiệm của tôi với Ngài kể từ khi bắt đầu tình bạn và sự cộng tác của chúng tôi.
Bởi vì chúng tôi có liên hệ với nhau, tức là vì chúng tôi là bạn bè, những người bạn tinh thần có mối liên kết bền chặt, chúng tôi có thể nói về bất kỳ chủ đề nào, ngay cả những chủ đề được coi là nhạy cảm trong truyền thống của mỗi chúng tôi. Chính tình bạn này có thể trở thành một loại công việc rất quan trọng mà người ta hy vọng sẽ dẫn đến vận mệnh cuối cùng của loài người: giải thoát và cứu độ.

Tầm Nhìn Tiên Tri Về Mối Quan Hệ Phật Giáo / Kitô Giáo

Công việc quan trọng này là một sự hợp tác mang tính tiên tri, thông qua quá trình đối thoại sâu sắc, thúc đẩy ý thức tiến lên trong mỗi truyền thống và theo nghĩa toàn cầu, phổ quát.
Từ mở màn-kết thúc của cuộc đối thoại, một cái gì đó mới sẽ xuất hiện cho nhân loại và cuối cùng, cho tất cả chúng sinh. Việc hướng tới nền tảng chung và hiểu biết nhiều hơn sẽ tạo ra một nhận thức mới, một quan điểm nâng cao hơn nhằm thống nhất những gì chân thật nhất trong mỗi truyền thống. Công việc này có thể mất hàng thế kỷ, thậm chí hàng thiên niên kỷ, nhưng sẽ đến một ngày Kitô giáo và Phật giáo cùng nhau đưa ra một tầm nhìn mới cho thế giới.

Trong hội nghị Tổng hợp I tại Dharamsala, tôi chợt nhận ra một cái nhìn sâu sắc lúc gần kết thúc hội nghị, một cái nhìn sâu sắc mà tôi gọi là hạt giống của sự tổng hợp, và nó có liên quan đến mối quan hệ cộng tác và đối thoại Phật giáo / Kitô giáo.
‘Hạt giống’ của sự tổng hợp có thể được hình thành theo cách này: Thần thánh như một ma trận (khuôn thước) của sự phát sinh phụ thuộc hay duyên sanh. Đức Thánh Thiện đã có mặt vì điều này và những ‘hạt giống’ khác từ những người tham gia khác trong Các cuộc Đối thoại Dharamsala. Hãy để tôi giải thích ngắn gọn ở đây. Tôi tin rằng sự tích hợp hai hiểu biết chính này đại diện cho một hiện thân của Trí tuệ Nhập thể Thần thánh (tuệ trí hiện hữu siêu nhiên).

Thần thánh như một ma trận của duyên sanh và hợp nhất cái nhìn sâu sắc thiết yếu của mỗi truyền thống này.
Duyên khởi là sự liên kết của tất cả chúng sinh; sự phụ thuộc lẫn nhau nội tại của chúng tồn tại trong ranh giới ma trận của ý thức vô biên, và ý thức này chính là Thần thánh. Ma trận vừa định nghĩa vừa chứa đựng, và trong trường hợp của ma trận Thần thánh, nó xác định và chứa mối liên kết của tất cả chúng sinh. Thần thánh, theo kinh nghiệm thần bí của Kitô giáo, là chính sự liên hệ, hay sự kết nối, của tất cả chúng sinh cùng phát sinh. Đó là ý thức vô hạn được khởi động bởi lòng từ bi và tình yêu thương thiêng liêng. Ý thức như yêu thương, từ bi, nhân hậu, tốt bụng, thông minh và hiểu biết kết nối tất cả chúng sinh trong một cộng đồng vũ trụ, bản thể học. Đây là một cái nhìn sâu sắc phải được xem xét hết sức cẩn thận.

Có nhiều điểm chung khác giữa truyền thống Phật giáo và Kitô giáo và một số điểm chung này đang được thảo luận trong các cuộc đối thoại giữa các tu sĩ,
trong các diễn đàn của Hiệp hội Nghiên cứu Phật giáo / Kitô giáo, và trong hàng trăm diễn đàn học thuật trên khắp thế giới. Chúng đang được suy nghĩ bởi cá nhân các hành giả và các nhà văn, những người tiên phong của tâm linh, mở ra những tầm nhìn mới về hiện thực và văn hóa phổ quát. Một lần nữa, Đức Thánh Thiện thường dẫn đường bằng sự cởi mở và những hiểu biết sâu sắc của Ngài về điểm chung có thể có, chẳng hạn như khi Ngài gặp gỡ các Kitô hữu và phản chiếu về ý nghĩa bên trong của Tin Mừng.

Phật tử và Kitô hữu là bạn bè và tham gia vào các cấp độ đối thoại cuối cùng là những người phục vụ cho một mục đích lớn hơn của cả hai truyền thống,
và họ chịu trách nhiệm về công việc này bởi vì họ có ý thức làm cho nó trở nên khả thi. Với ý thức của họ là gánh nặng trách nhiệm mà họ không thể lẫn tránh hay chạy trốn. Đức Thánh Thiện có ý thức về điều này khi ngài nói về trách nhiệm phổ quát của chúng ta.

Tây Tạng, Cơ chế Tu viện và Giáo hội Thiên Chúa giáo

Trong nhiều năm nay, nhiều người trong chúng tôi từ giới tu sĩ đã đứng trong tình đoàn kết với Đức Thánh Thiện  và dân tộc Tây Tạng,
đã cố gắng và tiếp tục cố gắng đánh thức Giáo hội Thiên Chúa giáo về trách nhiệm đạo đức mà nó phải có trong việc hỗ trợ tương tự cho cuộc đấu tranh của người Tây Tạng. Trong thần học và văn hóa Thiên Chúa giáo, chúng tôi thích thuật ngữ ý thức hoá (khoa học phê phán) để chỉ sự thức tỉnh luân lý đối với các vấn đề công lý. Chúng tôi đang tham gia vào quá trình sáng tạo như vậy, và không chỉ đơn giản là trong nhà thờ, mà còn mở rộng ra tất cả các tôn giáo khác và trên thế giới nói chung.

Đức Thánh Thiện đã theo dõi sự phát triển này với sự quan tâm sâu sắc và chủ nghĩa hiện thực.
Cho đến nay, chúng tôi vẫn chưa thành công trong việc nâng mức độ quan tâm của La Mã (Rome) về vấn đề Tây Tạng lên một vị trí ưu tiên cao. Tại Nghị Hội của các Tôn giáo Thế giới năm 1993, giữa phiên Đối thoại Tu sĩ Phật giáo / Kitô giáo, MID đã giới thiệu Văn kiện Nghị quyết về Tây Tạng. Nó đã được đọc và trình bày cho Đức Thánh Thiện. Ngài rất hài lòng với hành động này.

Tôi tin rằng sẽ có một ngày nhà thờ xuất hiện mạnh mẽ, đứng cùng với người dân Tây Tạng, nhưng điều này vẫn sẽ mất một thời gian nào đó.
Tôi cảm thấy thời gian gần hơn nhiều so với suy nghĩ của nhiều người. Chúng ta cần tiếp tục thúc đẩy, tức là nêu vấn đề bất cứ khi nào có cơ hội và sẵn sàng trò chuyện với bất kỳ ai sẵn sàng lắng nghe. Không ngừng theo đuổi công lý cuối cùng sẽ được một mùa bội thu. Tôi tin rằng tiếng nói của nhà thờ Thiên Chúa giáo sẽ cung cấp sự hỗ trợ giúp nhân loại cụ thể hóa thảm kịch Tây Tạng.

Tầm Quan Trọng Của Đức Đạt Lai Lạt Ma

Có nhiều lý do khiến tôi cảm thấy không đủ tư cách để đánh giá sự đóng góp của Ngài đối với hành tinh của chúng ta và đề xuất ý nghĩa lịch sử của Ngài.
Ngài là một nhân vật hiếm có, rất độc đáo và vô cùng quý giá, được làm nên xa hơn bởi hoàn cảnh của dân tộc Ngài và vai trò hấp dẫn mà Ngài đang đảm nhận với tư cách là một vị thầy tâm linh toàn cầu. Một số thuộc tính nâng cao đóng góp của Ngài và cực kỳ có giá trị trong thời đại mới này.

Đầu tiên là cái mà tôi gọi là chủ nghĩa nhân văn tinh thần của Ngài, khả năng của Ngài để liên hệ với mọi loại người, có và không có bất kỳ cam kết cụ thể nào đối với một truyền thống.
Ngài đã thấy rõ điều gì thật sự quan trọng: chủ yếu là cách chúng ta đối xử với nhau, kể cả những chúng sinh khác như thế nào. Trong cuốn sách Đạo Đức Cho Thiên Niên Kỷ Mới, Đức Thánh Thiện đã đưa ra một tầm nhìn về đạo đức có thể nói là một dạng tâm linh tự nhiên, sự hiểu biết về đạo đức cho thấy những phẩm chất trong bản chất con người của chúng ta mang tính phổ biến và là nền tảng không chỉ của đạo đức mà còn là những gì tốt đẹp nhất của tôn giáo và tâm linh. Ngài cam kết trình bày một hướng dẫn thiết thực về đời sống đạo đức dựa trên điểm chung của các đặc điểm của con người là lòng trắc ẩn, tình yêu thương, lòng nhân từ và lòng thương xót cho những người theo hoặc không thuộc bất kỳ tôn giáo nào trên thế giới. Trong lời dạy này, Ngài đưa ra lời khuyên cụ thể cho toàn thể nhân loại.

Sự nổi bật của Ngài là một biểu tượng của chiều sâu tâm linh và nhân bản, một sự hiện diện mạnh mẽ nhẹ nhàng nhưng kiên quyết ủng hộ sự thay đổi, chuyển hóa trái tim và công lý cho dân tộc của mình.
Sự hiện diện về con người và tinh thần của Ngài trong lịch sử được củng cố bởi phong cách lãnh đạo khiêm tốn, ôn hoà, thường được truyền tải bằng sự tiếu lâm và tiếng cười. Bản chất của sự hiện diện và sự giảng dạy của Ngài cũng được biểu lộ qua con người của Ngài, hơn là vị trí của Ngài.

Sự hào phóng của Ngài với tư cách là một người thầy mang lại lợi ích cho tất cả chúng ta, và đã đóng một vai trò thiết yếu trong cuộc sống của hàng nghìn người phương Tây và hàng triệu người Tây Tạng.
Lời dạy tinh tế của Đức Thánh Thiện về trách nhiệm phổ quát thể hiện một điều gì đó mới mẻ và thích thú; nó xoay xở để tránh quan điểm thô kệch, hoặc cạm bẫy của chủ nghĩa dân tộc và gợi lên những gì sâu sắc nhất, chân thật nhất trong tất cả chúng ta. Nó kêu gọi lòng nhân hậu cơ bản và thông thường của chúng ta. Đức Đạt Lai Lạt Ma, giống như các nhà lãnh đạo tinh thần khác trên thế giới, là một tiếng nói hùng hồn ủng hộ tích cực hành tinh và không có nhà lãnh đạo tinh thần nào khác có thể sánh bằng sự đóng góp của Ngài vào tỉnh thức sinh thái.

Nhìn chung, Đức Thánh Thiện là một người có tầm nhìn xa.
Về mặt này, giống như một vòng tròn, tôi muốn quay lại khoảnh khắc đó khi chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên cách đây nhiều năm ở Anh quốc. Khi Ngài nói vào dịp đó, anh ấy đã nói một điều gì đấy đã luôn ở lại với tôi, tạo nên một ấn tượng không thể phai mờ. Ngài nhận xét, "Chúng ta phải giữ sự chú ý và quyết tâm của mình hướng đến phía chân trời xa, và không bị phân tâm bởi những gì không quan trọng." Ngài là bậc thầy của vận mệnh mà tất cả chúng ta đang hướng tới. Ý nghĩa rốt ráo của Ngài liên quan đến vận mệnh này. /.

Ẩn Tâm Lộ - Wednesday, October 19, 2022
Trích từ quyển Understanding the Dalai Lama - Rajiv Mehrotra 

 



[1] Tu sĩ dòng Luyện tâm (giáo phái sống rất khắc khổ và phát nguyện không bao giờ nói)

[3] Kenosis: (trong thần học Kitô giáo) sự từ bỏ của thiên tính, ít nhất là một phần, bởi Chúa Kitô trong Nhập thể.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét