Thứ Ba, 25 tháng 10, 2022

ĐỨC PHẬT TỪ BI

 




Nguyên tác: A Buddha Of Compassion
Tác giả: Nicholas Ribush
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển nhuận văn
***


Lần đầu tiên tôi gặp Phật giáo Tây Tạng là tại Tu viện Kopan, Kathmandu, Nepal, vào cuối năm 1972.
Những người thầy đầu tiên của tôi là Lama Thubten Zopa Rinpoche và Lama Thubten Yeshe, những người mới bắt đầu giới thiệu Giáo Pháp cho người phương Tây, một hoạt động tiếp tục diễn ra cho đến ngày nay. Tôi ngay lập tức bị thu hút bởi con đường này và đã cố gắng tìm hiểu và thực hành nó kể từ đó.

Từ lúc bắt đầu. Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche thể hiện sự tôn trọng và sùng kính phi thường đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma,
và với tư cách là một người phương Tây hoài nghi từ một nền giáo dục chủ yếu là vật chất và vô thần, tôi đã bị ấn tượng bởi thái độ của họ đối với những gì tôi tưởng tượng đơn giản là một con người khác.

Tôi đã có thể gặp Đức Thánh Thiện lần đầu tiên vào khoảng mười lăm tháng sau khi, vào tháng 1 năm 1974, tôi đến Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ, để tham dự lễ nhập môn Mật Pháp Thời Luân (Kalachakra) mà ngài sẽ truyền trao.
Tôi cũng dự định thọ giới Sa Di, cùng với chín vị tăng và ni phương Tây tương lai khác. Có hơn 100.000 người ở đó và chúng tôi đã lạc vào một vùng biển rộng lớn và tuyệt vời của người Tây Tạng.

Với lòng tốt theo thông lệ của mình, Lama Yeshe đã thỉnh cầu Đức Thánh Thiện thực hiện phần đầu tiên cho buổi lễ xuất gia của chúng tôi,
nơi mà chùm tóc cuối cùng được cắt ra khỏi đỉnh đầu mới cạo của mỗi người. Theo đó, vào ngày cuối cùng của lễ nhập môn, chúng tôi đã xếp hàng cùng với những người khác để nhận được sự ban phước lành từ Đức Thánh Thiện và chiêm ngưỡng mạn đà la.

Khi chúng tôi đến gần Đức Thánh Thiện, Lama Zopa Rinpoche đã rút ra một chiếc kéo và giải thích chúng tôi là ai và chúng tôi muốn gì.
Đức Thánh Thiện mỉm cười, rồi cười lớn và thốt lên, ‘Tôi hy vọng nó tồn tại lâu dài!’ (Trong trường hợp của tôi, nó đã xảy ra, nhưng không phải là suốt đời, như dự định, mà chỉ trong khoảng mười hai năm). Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng ấm áp đó, sự quan tâm từng cá nhân bất chấp hàng triệu thứ khác đang diễn ra, là lần đầu tiên tôi nếm trải lòng tốt, lòng trắc ẩn, sự tập trung và tình yêu thương đáng kinh ngạc của Đức Thánh Thiện.

Tôi đã gặp Đức Thánh Thiện một vài lần nữa trong vài năm tới, chủ yếu là trong sự đồng hành với Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche,
khi họ mong cầu lời khuyên của Đức Thánh Thiện về công việc của họ ở phương Tây và báo cáo với ngài những gì đã xảy ra trong những chuyến du hành của họ. Năm 1977, mẹ tôi đến thăm tôi ở Ấn Độ và tôi đưa bà đến Dharamsala để gặp Đức Thánh Thiện và hai vị giáo thọ sư của Ngài, Kyabje Ling Rinpoche và Kyabje Trijang Rinpoche. Tất cả các Ngài đều tốt bụng một cách đáng kinh ngạc, đặc biệt là Đức Thánh Thiện, người đã cho mẹ tôi một cuộc phỏng vấn riêng kéo dài 45 phút (họ cũng cho tôi vào), kiên nhẫn trả lời tất cả các câu hỏi của bà về cuộc sống quá khứ và tương lai và sáu cõi hiện hữu luân hồi.

Tôi đã nghe Đức Thánh Thiện mô tả theo nhiều cách trong nhiều năm.
Ngài luôn mô tả mình là một nhà sư Phật giáo giản dị, nhưng đối với nhiều nhà văn khác, Ngài là vị thánh vương (god-king) của Tây Tạng; đối với người Trung Quốc, một 'kẻ chia rẽ'; đối với hầu hết các chính trị gia, vị nguyên thủ thật sự của Tây Tạng; đối với các học viên giáo Pháp ở khắp mọi nơi, là một người thầy vĩ đại và một tấm gương sống hoàn hảo về những gì Ngài dạy; và với thế giới nói chung, là một người đoạt giải Nobel, một chính khách vĩ đại, người ủng hộ hàng đầu cho bất bạo động và hòa bình, tiếng nói của Phật giáo và nói chung là hy vọng tốt nhất cho chúng ta trong tương lai. Đối với người dân Tây Tạng, Đức Thánh Thiện luôn là biểu hiện sống động của Chenrezig — Quán Thế Âm, Đức Phật Từ Bi. Tôi thường tự hỏi điều này có nghĩa là gì.

Trong khi chưa bao giờ đồng ý rằng Ngài thật sự là một biểu hiện của Quán Thế Âm, nhưng trong những lời dạy của ngài tại lễ nhập môn Kalachakra ở Los Angeles, 1989,
Đức Thánh Thiện mô tả Quán Thế Âm như một vị bổn tôn, một vị bồ tát hoặc một vị Phật. Là một vị bổn tôn, Quán Thế Âm không phải là một bản thể riêng biệt mà là biểu hiện của lòng từ bi của tất cả chư Phật, một phẩm chất của tất cả chúng sinh giác ngộ. Khi một người phấn đấu cho sự giác ngộ đạt được mục tiêu của mình thông qua thực hành phương pháp yoga Quán Thế Âm, chúng ta có thể gọi người đó là Quán Thế Âm. Ngoài ra, lòng từ bi của một vị Phật cụ thể, ví dụ như Đức Phật Thích Ca, có thể biểu hiện thành Quán Thế Âm.

Như Đức Pháp Vương Dudjom Rinpoche đã giải thích, người Tây Tạng một cách  lịch sử tuyên bố là hậu duệ của Đức Quán Thế Âm,
người trong thời cổ đại được cho là đã đến Tây Tạng từ nơi ở nổi tiếng của mình ở miền nam Ấn Độ, Núi Potalaka, hiện thân là một con khỉ và giao phối với một con 'nữ dạ xoa đá' (an ‘ogress of the rocks’). Vị vua tôn giáo đầu tiên, Songtsen Gampo (617-650) được cho là hiện thân của Quán Thế Âm. Nyatri Tsenpo cũng vậy, vị vua đầu tiên của loài người cai trị toàn bộ Tây Tạng; Drom Tonpa, người phiên dịch cho Atisha vĩ đại, người đã khôi phục lại Phật giáo thuần túy cho Tây Tạng khoảng một nghìn năm trước và thành lập truyền thống Kadam; và tất cả mười bốn vị Đạt Lai Lạt Ma, tất nhiên, bao gồm cả vị hiện tại.

Ngoài ra, thần chú Quán Thế Âm, Om mani padme hum, là thần chú ‘chính thức’ của Tây Tạng.
Nhiều người Tây Tạng, cả cư sĩ và xuất gia, đọc tụng nó liên tục, và nó có thể được vẽ và chạm khắc vào đá và bia đá trên khắp dãy Himalaya.

Do đó, việc thực hành Quán Thế Âm là trung tâm của Phật giáo Tây Tạng và là một phần của việc người Tây Tạng coi nhà lãnh đạo tâm linh và thế tục của họ, Đức Đạt Lai Lạt Ma, là hiện thân sống của Quán Thế Âm và mọi thứ mà Ngài tượng trưng.

Mục tiêu của Đức Phật là tất cả chúng sinh đều đạt được giác ngộ.
Muốn vậy, chúng sinh phải đi theo con đường dẫn đến giác ngộ; chúng ta phải tự mình nỗ lực — vô lượng chư Phật không thể làm điều đó cho chúng ta. Nói cách khác, chúng ta phải thực hành Phật giáo Đại thừa và, nếu chúng ta muốn đạt được giác ngộ càng nhanh càng tốt, chúng ta phải thực hành Kim Cang thừa, hình thức của Phật giáo Đại thừa đã được thực hành và bảo tồn ở Tây Tạng.

Đức Phật cũng đã nói rằng trong tất cả những lời dạy của Đức Phật, điều quan trọng nhất là lòng từ bi, và trong tất cả những phẩm chất của một vị Phật, điều tốt nhất lại là lòng từ bi.
Ngay cả sự toàn giác của một vị Phật cũng phụ thuộc vào lòng từ bi; chỉ nhờ sức mạnh của lòng từ bi, người ta mới có thể đạt được trí tuệ tối thượng của một vị Phật.

Những hoạt động của một vị Phật là gì?
Hoạt động chính là khai mở những giáo lý dẫn đến giác ngộ cho những ai mở lòng với chúng, tuỳ theo nghiệp duyên của các đệ tử tiềm năng. Tuy nhiên, trước tiên, làm thế nào để một người trở thành một vị Phật? Làm thế nào để một người trở nên chứng ngộ?

Như tôi hiểu từ những lời dạy của vị thầy quý giá của tôi, Lama Zopa Rinpoche, nguyên nhân chính của sự giác ngộ là tâm Bồ đề,
quyết tâm đạt đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Bồ đề tâm phát khởi từ lòng đại bi, được phát sinh tùy thuộc vào mỗi chúng sinh. Với lòng từ bi vĩ đại, ta không chỉ cảm nhận được nỗi đau khổ của tất cả chúng sinh như của riêng mình mà còn bị buộc phải làm điều gì đó về nó. Cảm giác này chỉ phát triển khi ta tiếp cận giác ngộ và tồn tại mãi mãi với ta, ngay cả sau khi giác ngộ. Vì vậy, một vị Phật không có lựa chọn nào khác ngoài việc giúp đỡ chúng sinh bằng mọi cách có thể.

Vì chúng sinh phải tự nỗ lực, nên họ cần được chỉ đường. Chỉ ra con đường và truyền cảm hứng cho người khác đi theo con đường đó là công việc chính của Đức Phật. Nhưng, nếu ta là một vị Phật, ta sẽ làm thế nào về điều đó?

Ta không thể ở trong không gian giác ngộ của Pháp thân, bởi vì ở đó ta chỉ có thể giao tiếp với các vị Phật khác.
Người ta có thể hiển lộ trong Báo thân, nhưng chỉ những Bồ tát cao cấp mới có thể được giảng dạy ở cấp độ đó. Thay vào đó, ta sẽ phải biểu hiện trong một hình thức mà những sinh vật thấp hơn có thể giao tiếp. Tuy nhiên, rất ít chúng sinh có đủ khả năng, chưa nói đến sự quan tâm, để thực hành Pháp, vì vậy ta sẽ phải biểu hiện giữa những người đó — nói cách khác, với tư cách là một con người.

Biểu hiện giữa con người, ta có thể xuất hiện dưới một hình thức kỳ diệu nào đó, nhưng trong khi điều đó sẽ thu hút sự chú ý,
nó sẽ không thật sự mang lại nhiều lợi ích như vậy. Mọi người cần được truyền cảm hứng để đi theo con đường dẫn đến giác ngộ bằng cách có thể thấy rằng họ cũng có thể trở nên chứng ngộ. Để truyền cảm hứng cho mọi người theo cách này, ta sẽ phải thể hiện dưới hình thức mà họ có thể liên hệ - với tư cách là một con người. Sau đó, mọi người có thể nghĩ, ‘tôi là một con người; người ấy là một con người. Tôi có thể trở nên giống như người ấy'. Bằng cách đó, họ cởi mở với giáo huấn. Vì vậy, nếu mọi người trên trái đất vào thời điểm này cởi mở để lợi lạc, ta sẽ hiển thị như một người thầy của con người.

Ngắm nhìn Đức Thánh Thiện, ngay cả từ xa, như tôi vẫn phải làm, thật dễ dàng để thấy Ngài thật sự có thể là hiện thân sống động của một tâm thức giác ngộ như thế nào.
Ngài tỏa ra tình yêu thương và lòng trắc ẩn; mọi người đều muốn ở gần Ngài mọi lúc. Sự thông thái của Ngài cũng rất rõ ràng — Ngài có thể dạy nhiều học viên từ những người mới bắt đầu cho đến những người có học thức cao (geshe: tiên sĩ Phật học Tây Tạng) và tư vấn cho những ẩn sĩ thành thạo nhất đang nhập thất. Ngài không chỉ chịu trách nhiệm với đất nước và dân tộc của mình, mà còn cho toàn thế giới, nỗ lực không ngừng để mang lại hòa bình, lý trí và sự hiểu biết cho nhiều người nhất như có thể.

Ngày này qua ngày khác, Đức Thánh Thiện nổ lực bản thân nhiều như bất kỳ người nào trên trái đất, nhưng tất cả đều vì lợi ích của người khác.
Ngài thường xuyên đi khắp thế giới, giảng dạy Phật pháp và ban quán đảnh, tiếp kiến mọi loại du khách, gặp gỡ các chính trị gia, diễn thuyết và họp báo, xuất hiện ở chức năng này hay chức năng khác, tham gia các hội nghị, v.v. Từ sáng đến tối, ở Dharamsala và ở nước ngoài, Đức Thánh Thiện đi từ cuộc hẹn này sang cuộc hẹn khác, chịu trách nhiệm trong mọi lúc— trách nhiệm đối với phúc lợi tinh thần không chỉ của chúng sinh trên hành tinh này mà còn của vô số chúng sinh khác trong khắp không gian; vì hòa bình trên trái đất; vì quyền lợi của người tị nạn Tây Tạng và những người bị áp bức ở Tây Tạng; và vì sự tự do của chính Tây Tạng.

Tôi không gặp Đức Thánh Thiện thường xuyên, có lẽ một vài ngày mỗi năm, nhưng mỗi lần tôi cảm thấy kiệt sức chỉ để xem Ngài bận rộn như thế nào, nhu cầu về thời gian liên tục như thế nào và năng lượng kinh ngạc mà Ngài đặt vào mỗi một người Ngài gặp gỡ.

Đức Thánh Thiện cũng không bao giờ quên những người không quan trọng.
Một lần tôi đang tham dự một sự kiện ở Indiana, nơi Đức Thánh Thiện đang hiến cúng một bảo tháp do anh trai của ngài, Taktser Rinpoche, xây dựng. Mọi người đều xếp hàng dài, hàng ba, dọc theo lối đi; Tôi đã ở phía sau một nơi nào đó. Tôi đã cởi y áo một năm trước đó và đã không gặp Đức Thánh Thiện kể từ thời điểm đó. Khi Ngài di chuyển xuống lối đi, nhìn đi nhìn lại những người ở hai bên, Ngài nhận thấy tôi, hơi cúi xuống, hai tay chắp lại trước tim. Bằng tiếng Tây Tạng, Ngài gọi, ‘Điều gì đã xảy ra với việc trở thành một nhà sư?’ Hoặc những từ có ảnh hưởng đến điều đó, và tiếp tục bước đi. Tôi đã rất ngạc nhiên - rằng Ngài đã gặp tôi, nhớ tôi là ai và lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau, hơn một năm trước, tôi là một nhà sư. Ngài cũng biết rằng tôi không chỉ mặc thường phục cư sĩ mà đã thật sự cởi bỏ y áo.

Mười năm sau, Đức Thánh Thiện đã đến thăm Đại học Brandeis ở Boston.
Di chuyển nhanh chóng từ cuộc họp này sang cuộc họp tiếp theo, Ngài được bao quanh bởi các nhân viên an ninh, đang đi qua đám đông, mỉm cười với tất cả những người mà Ngài có thể, khi một lần nữa Ngài nhìn thấy tôi, cúi xuống, cách đó khoảng hai mươi thước. “Người bạn cũ,” Ngài gọi, ra hiệu cho tôi đi đến. ‘Bạn cũ!’ Tôi rất cảm động vì trong ngần ấy thời gian bận rộn mà Ngài có thể ân cần như vậy. Và tất nhiên, không chỉ tôi. Đức Thánh Thiện là như vậy với hầu hết những người mà ngài biết, và ngài biết rất nhiều.

Chắc chắn Đức Đạt Lai Lạt Ma là Đức Phật Từ Bi.
Ai khác có thể có trí tuệ, quyền năng và lòng từ bi để hoàn thành tất cả những gì như Ngài đã làm? Tất nhiên, tôi thậm chí sẽ không giả vờ nhìn thấy hoặc biết ngoài một phần nhỏ những gì Đức Ngài làm cho người khác, nhưng bất kỳ ai quan sát Ngài bằng thị giác rõ ràng và tâm hồn rộng mở sẽ thấy nhiều hơn một người phi thường trong số chúng ta. /.

Ẩn Tâm Lộ - Wednesday, Tuesday, October 25, 2022
Trích từ quyển Understanding the Dalai Lama - Rajiv Mehrotra 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét