Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2022

MỘT VỊ VUA HAY MỘT NHÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA



Nguyên tác: A Monarch or a Socialist?
Tác giả: Ela Gandhi
Việt dịch: Quảng Cơ / Tuệ Uyển nhuận văn


***

Kể từ khi lưu vong, Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma đã cố gắng đàm phán một giải pháp hòa bình với Tàu Cộng . Ngài tiếp tục đấu tranh cho đất nước và dân tộc của mình trên con đường phản kháng bất bạo động của Gandhi, chịu đựng mọi đau khổ trong khi tiếp tục yêu thương và cầu nguyện cho những kẻ thù của mình rằng một ngày nào đó họ có thể nhìn thấy ánh sáng.
Ấn Độ, một thành viên hàng đầu của phong trào không liên kết, đã cho Đức Đạt Lai Lạt Ma tị nạn. Nhưng ngoài ra, nó cũng cung cấp một nơi ở cho hàng ngàn người Tây Tạng lưu vong hiện đã xây dựng một ngôi làng lưu vong Tây Tạng tại Dharmasala. Khối phương Tây về nhiều mặt đã ủng hộ cuộc đấu tranh đòi tự do của người dân Tây Tạng. Bao nhiêu sự ủng hộ dành cho chính nghĩa của Tây Tạng và bao nhiêu trong số đó chống lại cột trụ cuối cùng của thế giới cộng sản là một vấn đề tranh luận. Ngài vẫn đang có bước đột phá trong việc nhận được sự ủng hộ của Thế Giới Thứ Ba. Việc giới thiệu cuộc tranh luận về vấn đề Tây Tạng đã bị thất bại tại Liên Hiệp Quốc. Việc thiếu sự hỗ trợ từ các quốc gia mới nổi trên thế giới làm nảy sinh vấn đề tiến thoái lưỡng nan được tạo ra bởi nguồn gốc lịch sử của các hệ thống cai trị quân chủ đã bị lật đổ thông qua các cuộc cách mạng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Phải chăng Tây Tạng cũng có chế độ quân chủ do một người được cho là tái sinh của Đức Phật? Ý tưởng về sự tái sinh của Đức Phật không thể chấp nhận được đối với các nhà khoa học hiện đại, đối với nền văn hóa dân túy, đối với những người không tín ngưỡng và những người không tin vào luân hồi. Do đó, những người như vậy sẽ cảm thấy rằng đây chỉ là một giáo phái khác, một chế độ bóc lột khác và sẽ không có thiện cảm với người dân. Những người ủng hộ chính nghĩa của Tây Tạng bao gồm từ các học giả Trung Hoa đến những người lao động Trung Hoa bình thường, từ những người thuộc các phong trào cánh tả ở nhiều quốc gia khác nhau cho đến những người thuộc phe cực hữu. Trong đó, các nhóm khác nhau đặt ra nhiều động cơ khác nhau để ủng hộ cuộc đấu tranh này, cũng như không ủng hộ nó.

Trong khi có rất nhiều người lo ngại sâu sắc về những vi phạm nhân quyền trắng trợn và cảm thấy mạnh mẽ về sự đàn áp mà người dân Tây Tạng phải gánh chịu, thì cũng có những người bị thúc đẩy bởi những động cơ riêng của họ.
Những điều này có thể bao gồm từ bảo tồn chủ nghĩa tư bản đến bảo vệ một số lợi ích cá nhân hạn hẹp đến lợi ích rộng lớn hơn nhiều trong việc duy trì nắm giữ một vị trí chiến lược. Toàn cầu hóa và các phong trào chống toàn cầu hóa đã tiết lộ cho chúng ta một sự thật: những nhóm tư lợi đó có mối liên hệ rất chặt chẽ và mặc dù được điều khiển bởi một nhóm nhỏ nhưng chúng thường sử dụng quyền lực theo nhiều cách.

Chúng ta đang sống trong một thế giới hiện đại. Một thế giới đã trở thành một khu phố. Tuy nhiên, đó là một thế giới bị chia cắt bởi nhiều loại khác nhau—sự khác biệt về tôn giáo, sự khác biệt về hệ tư tưởng, sự giàu có và nghèo khó, màu đen và trắng và hàng triệu sắc thái ở giữa, nông thôn và thành thị, hiện đại và truyền thống, danh sách này có thể tiếp tục.
Nhưng thay vì làm phong phú thế giới bằng bức tranh khảm phong phú của sự đa dạng này, con người đang giết người, các quốc gia đang giết các quốc gia, và giữa tất cả những điều này, có hàng triệu người mong muốn hòa bình. Họ đang tuyệt vọng tìm kiếm hòa bình. Đức Thánh Thiện là một trong những nhà lãnh đạo đang cố gắng hết sức để thay đổi tiến trình mà nhân loại đã đặt ra cho chính mình. Liệu Ngài có thành công?

Lần theo lịch sử Trung Hoa người ta thấy trật tự xã hội phong kiến ​​áp bức, giáo quyền ở Trung Hoa được thay thế bằng phong trào xã hội chủ nghĩa. Những ưu điểm và nhược điểm của phong trào này không phải là chủ đề của cuốn sách này, và vì vậy chỉ cần nói rằng một phong trào phổ biến đã thu hút các nhà quý tộc giàu có của Trung Hoa.

Câu chuyện kể rằng những người nông dân ở Trung Hoa đã vùng lên dưới sự lãnh đạo của các nhà lãnh đạo xã hội chủ nghĩa liên tiếp và cuối cùng đã lật đổ đế chế Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông. Đế chế được thay thế bằng cộng hòa nhân dân. Một trật tự xã hội mới được thiết lập. Câu chuyện tiếp tục khẳng định rằng lần đầu tiên những người nông dân nghèo khổ và bị áp bức có thể sống với lòng tự trọng.

Tuy nhiên, lịch sử đã nhiều lần ghi lại rằng những người từng đối mặt với sự đàn áp thuộc loại khủng khiếp nhất lại không hề hối hận khi đàn áp người khác. Điều này xảy ra là khó hiểu như thế nào. Nhưng có hàng triệu ví dụ trong suốt các thời đại của những người tiếp tục đàn áp và quên đi sự áp bức của chính họ dưới bàn tay của người khác. Vì vậy, người Trung Hoa đã không ngần ngại chinh phục Tây Tạng. Rõ ràng là họ đang mang lại một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Tây Tạng, những người mà họ cho rằng đang sống dưới chế độ phong kiến. Họ đang mang đến một trật tự cộng sản, xã hội chủ nghĩa mới để thay thế hệ thống phong kiến ​​mà người dân Tây Tạng đang sống dưới đó. Trên thực tế, họ muốn chiếm Tây Tạng. Ngài nhận ra điều này nhưng chưa bao giờ lên án người Trung Quốc. Ở đó ẩn chứa sự cao thượng và khiêm tốn của Ngài.

Khi một người bắt đầu đọc nhiều cuốn sách viết về ông, câu chuyện về cuộc đời Ngài và câu chuyện về dân tộc của Ngài, một bức tranh hiện lên về một người có tầm nhìn xa trông rộng, một tinh thần từ ái và một tâm hồn hoàn toàn giải thoát. Chẳng hạn, trong Những Lời Dạy Thiết Yếu, Ngài nói, 'Hãy nhìn xung quanh chúng ta, thế giới này mà chúng ta gọi là “văn minh” và rằng trong hơn 2000 năm đã tìm cách đạt được hạnh phúc và tránh đau khổ bằng những phương tiện sai lầm, thủ đoạn, tham nhũng, hận thù, lạm dụng quyền lực , và bóc lột người khác.'

Đức Thánh Thiện là một nhà sư đơn giản, hay cười và không bị ảnh hưởng bởi sự xâm lược vô nhân đạo của  Tàu Cộng. Người ta thấy nỗi đau và sự tổn thương sâu sắc khi Ngài nói về sự tàn phá vùng đất thân yêu của mình, cái chết của gần một triệu người dân của Ngài, và việc tiếp tục giam cầm và tra tấn hàng trăm người Tây Tạng. Tuy nhiên, mối quan tâm của Ngài không dựa trên lợi ích cá nhân hẹp hòi hay chỉ lợi ích của dân tộc Ngài; đối với Ngài thế giới và vũ trụ là những vấn đề đáng quan tâm.Nước trong núi bị ô nhiễm, suy thoái môi trường do phá rừng bản địa, san bằng núi bằng thuốc nổ, giết chóc, tra tấn và giam giữ, tất cả những điều này không chỉ ảnh hưởng đến Ngài và người dân của Ngài, Ngài liên tục nhắc nhở chúng ta, nhưng cũng trên hệ sinh thái của thế giới. Mặc dù khuôn mặt luôn tươi cười và bản chất vui vẻ của Ngài có thể che giấu nỗi đau và sự tổn thương sâu sắc của sự hủy diệt liên tục này, nhưng có những lúc người ta có thể nhìn thấy trong những nếp nhăn sâu trên khuôn mặt Ngài tiếng kêu cứu, tiếng kêu cứu của Ngài với thế giới để chú ý đến những cảnh báo của thiên nhiên.

Đối với một số người, Ngài chỉ là một nhà sư, đối với những người khác, Ngài là người đứng đầu một xã hội phong kiến, và đối với nhiều người, Ngài là một nhân cách đặc biệt, người thật sự có thể là tái sinh của Đức Phật, mặc dù bản thân Ngài bác bỏ khả năng này. Trong bài luận này, tôi muốn xua tan huyền thoại về Ngài với tư cách là một lãnh chúa phong kiến. Ngài đã nói trong Những Lời Dạy Thiết Yếu, ‘Nếu ở Ấn Độ, Châu Phi và các quốc gia khác mà khốn khổ và nạn đói hoành hành, thì đó không phải là do thiếu tài nguyên thiên nhiên, cũng không phải do các phương tiện mang lại hạnh phúc lâu dài bị thiếu sót. Đó là vì mỗi người chỉ tìm lợi cho mình mà không sợ chèn ép người khác vì những mục tiêu ích kỷ. . .’

Đức Thánh Thiện, với loại quyền lực mà Ngài nắm giữ, muốn sử dụng quyền lực của mình để bắt đầu một quá trình cải cách chính trị của mình. Năm 1963, Ngài từ bỏ quyền lực để ủng hộ dân chủ. Một người, một phiếu bầu đã được giới thiệu. Một quốc hội dân chủ được bầu ra trong cuộc sống lưu vong. Người dân Tây Tạng dưới sự thúc đẩy của Ngài đã soạn thảo một bản hiến pháp phản ánh các nguyên tắc dân chủ. Ngài tuyên bố rằng một khi được tự do, một chính phủ lâm thời sẽ được thành lập với mục đích cụ thể là thành lập một quốc hội lập hiến để soạn thảo một hiến pháp mới. Ngài còn tuyên bố rằng sau khi hoàn thành nhiệm vụ này, Ngài sẽ nghỉ hưu và sống như một nhà sư bình thường, chuyển giao toàn bộ quyền lực của mình cho chính phủ mới được bầu.

Kế hoạch Hòa bình Năm điểm của Ngài như sau:

1. Biến đổi toàn bộ Tây Tạng thành một vùng hòa bình.
2. Từ bỏ chính sách di chuyển dân số của  Tàu Cộng vốn đe dọa đến chính sự tồn tại của dân tộc Tây Tạng.
3. Tôn trọng các quyền con người và tự do dân chủ cơ bản của người dân Tây Tạng.
4. Phục hồi môi trường tự nhiên của Tây Tạng và từ bỏ việc Tàu Cộng  sử dụng Tây Tạng để sản xuất vũ khí hạt nhân và đổ chất thải hạt nhân.
5. Bắt đầu đàm phán nghiêm túc về tình trạng tương lai của Tây Tạng và mối quan hệ giữa nhân dân Hoa - Tạng.

Giờ đây, Ngài đã bổ sung thêm việc ngừng khai thác dầu mỏ và khoáng sản.

Kế hoạch này phản ánh bản chất hợp lý trong lời đề nghị của Ngài nhằm chấm dứt cuộc xâm lược tàn bạo và lâu dài này của  Tàu Cộng đối với dân tộc Ngài. Trên thực tế, Ngài đang mở rộng vòng tay hữu nghị với những người Trung Hoa mà Ngài gọi là anh chị em của mình. Ngài nhận ra rằng họ có chung một tôn giáo, một lịch sử chung và là những người hàng xóm phụ thuộc vào nhau. Nhiều người Trung Hoa vô cùng ngưỡng mộ Ngài và cảm thấy vô cùng tôn kính Ngài. Bất chấp sự đàn áp mà người dân của mình phải gánh chịu, Ngài tin rằng hai quốc gia có thể chung sống hòa bình với tư cách là láng giềng.

Đức Đạt Lai Lạt Ma trong các bài viết của mình ủng hộ lòng từ bi, chia sẻ sự đơn giản, sống gần gũi với trái đất, bảo tồn môi trường và sống một cuộc sống lành mạnh. Trong khi vẫn giữ niềm tin truyền thống của mình, Ngài có hiểu biết sâu sắc về thế giới hiện đại. Cũng giống như Mahatma Gandhi, Ngài chủ trương tôn trọng những giá trị truyền thống tốt đẹp và loại bỏ những phong tục tập quán mang tính áp bức, kìm hãm sự phát triển.

Trong cuốn sách Nghệ thuật của Hạnh phúc, Ngài nói về con người,

Nói chung, bạn có thể có hai cá nhân khác nhau. Một mặt, bạn có một người thành đạt giàu có, được bao quanh bởi những người thân, v.v. Nếu nguồn gốc của phẩm giá và ý thức về giá trị của người đó chỉ là vật chất, thì miễn là tài sản của anh ta vẫn còn, có thể người đó có thể duy trì cảm giác an toàn. Nhưng khi tài vận suy yếu, người đó sẽ đau khổ vì không có nơi nương tựa nào khác. Mặt khác, bạn có thể có một người khác cũng có địa vị kinh tế và thành công tài chính tương tự, nhưng đồng thời người đó cũng ấm áp, trìu mến và có lòng trắc ẩn. Bởi vì người đó có một nguồn giá trị khác, một nguồn khác mang lại cho người ấy cảm giác về phẩm giá, một nơi nương tựa khác, nên người đó sẽ ít có khả năng trở nên chán nản nếu tài sản của người đó biến mất. Thông qua kiểu lập luận này, bạn có thể thấy giá trị rất thực tế của sự ấm áp và tình cảm của con người trong việc phát triển ý thức giá trị bên trong.

Ngài thấy rõ ràng chủ nghĩa duy vật hiện đại là nguồn gốc của sự hủy diệt. Ngài đã nói rằng hạnh phúc thật sự đến từ bên trong, từ sự hài lòng và hòa giải với chính mình, chứ không phải bằng cách đạt được các đối tượng vật chất. Rõ ràng là Ngài giải thích các lý tưởng xã hội chủ nghĩa chứ không phải phong kiến, và phải được nhớ rằng mặc dù thuộc về một xã hội truyền thống, nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói về quyền của phụ nữ, điều mà hiến pháp Tây Tạng ủng hộ.

Các động thái đang được thực hiện để thu hút sự tham gia của phụ nữ ở mọi tầng lớp trong xã hội và mang lại cho họ địa vị bình đẳng. Phụ nữ Tây Tạng đóng một vai trò nổi bật trong các tổ chức phụ nữ quốc tế và tại địa phương trong xã hội Tây Tạng. Họ cũng đang đảm nhận các vị trí lãnh đạo trong phong trào giải phóng và nhiều người đã bị cầm tù vì tham gia đấu tranh. Tuy nhiên, khi cố gắng giải thích lý do tại sao người Tàu Cộng chiếm đóng Tây Tạng, tại sao một số người ủng hộ cuộc đấu tranh của người Tây Tạng và những người khác thì không, và điều gì đã thu hút mọi người đến với Đức Đạt Lai Lạt Ma ngay cả khi mọi người đã đến với Mahatma Gandhi, người ta cần phát triển một sự hiểu biết sâu sắc hơn về Phật giáo. Đức Đạt Lai Lạt Ma là một học giả xuất sắc về triết học Phật giáo và trong các tác phẩm của mình, Ngài giải thích bằng những thuật ngữ đơn giản về bản chất của nó. Đó là khi chúng ta bắt đầu hiểu triết lý này, chúng ta có cái nhìn thoáng qua về một tâm trí rất nhạy bén và đầy lòng trắc ẩn, rất quan tâm đến tương lai và hài lòng với hiện tại, rất năng động nhưng vẫn tĩnh lặng. Một chúng sinh như vậy không bao giờ có thể phù hợp với chiếc áo choàng của một vị vua. Tư tưởng của Ngài mang bản chất xã hội chủ nghĩa và cuộc đời cũng như tác phẩm của Ngài sẽ tiếp tục truyền cảm hứng cho các thế hệ mai sau./.

Ẩn Tâm Lộ - 2022
Trích từ quyển
Understanding the Dalai Lama - Rajiv Mehrotra 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét