Nguyên bản: Discovering how trouble starts and stops
Tác giả:
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch:
Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / Saturday, February 16, 2019
-*-
SỰ THẬT CAO QUÝ THỨ HAI: NGUỒN GỐC CỦA KHỔ ĐAU (TẬP ĐẾ)
Sau khi đã xác định phạm vi của khổ đau, chúng ta cần
khám phá nguồn gốc của nó, vốn có hai phần: phiền não, hay chướng ngại ẩn tàng,
các cảm xúc, và nghiệp chướng nhiễm ô.
Các Cảm Xúc Phiền Não Chướng Ngại Ẩn Tàng
Vì các cảm xúc phiền não, nghiệp chướng nhiễm ô, hay các
hành vi, tôi sẽ thảo luận chúng trước tiên. Có hai loại cảm xúc phiền não – một
thứ là rõ ràng và thứ kia không rõ ràng. Một thí dụ về thứ rõ ràng là nổi sợ
hãi kinh khủng từ quá khứ đã trở thành cố định trong tâm thức. Trong trường hợp
này, một cách chắc chắn thì thật lợi lạc để cho cảm giác của ta biểu lộ và thảo
luận về vấn đề ấy.
Khi tôi khoảng mười bốn tuổi vào mùa hè ở Cung điện
Norbulingka, vị Nhiếp Chính (người lúc ấy là giáo thọ trưởng của tôi) la mắng
tôi sau một bài giảng mà ông dạy hàng năm. Với một thái độ nghiêm khắc, ông
nói, “Ngay cả ngài tương đương với một vị trời, thái độ của ngài vẫn phải làm
cho phù hợp với một con người.” Tôi bị tổn thương bởi vì tôi đã nghĩ rằng tôi
đang hành động như một học trò bình thường đang lắng nghe ông giảng dạy mặc dù
tôi là Đạt Lai Lạt Ma thứ bậc ở trên ông. Tôi bị bức rức và không thoải mái cả
vài tháng sau. Rồi thì quân Trung Cộng xâm lăng miền Đông Tây Tạng vào năm
1950, và tôi phải đào thoát khỏi thủ đô Lhasa đến Tomo ở miền Tây Nam Tây Tạng
gần biên giới với Ấn Độ. Đúng lúc các quan chức ở Lhasa khuyến nghị tôi rằng
tình trạng có thể xoay sở được và tôi nên trở lại. Trong khi tôi trên đường trở
lại Lhasa, chúng tôi dành vài ngày ở lại tu viện của vị Nhiếp Chính, Talungdra.
Một ngày nọ, ông đã hỏi tôi trong buổi nói tán chuyện ngẫu nhiên rằng có phải
vì thái độ của ông mà tôi đã từng phiền lòng không. Tôi đã đề cập những vì đã từng
xảy ra, thế nào đấy một cách mơ hồ, không chi tiết lắm. Thật là khuây khỏa! Thế
là chúng tôi có một dịp trú ngụ dễ chịu ở tu viện.
Thật tốt đẹp để nói về những thứ như vậy vốn xảy ra chỉ một
lần, trái lại những thứ cảm xúc phản tác dụng – vốn bao gồm những thứ cảm giác
như tham dục, oán hận, thù hằn, ganh tỵ, và giao tranh – không nên được biểu hiện;
bằng không chúng trở thành thường xuyên hơn. Biểu lộ chúng có xu hướng làm
chúng mạnh hơn và lan tràn. Thật tốt đẹp để quán chiếu về những bất lợi của việc
tiến hành trong những cảm xúc như vậy và thay thế chúng với những cảm giác của
hài lòng và yêu thương. Chúng ta nên vượt thắng một cách mạnh mẽ những cảm xúc
tiêu cực khi chúng xuất hiện, nhưng thậm chí sẽ là tốt đẹp hơn để tìm cách ngăn
chặn chúng ngay từ đầu.
Tham dục và thù hận làm sinh khởi những cảm xúc phản tác
dụng khác và do thế tạo nên hàng loạt vấn nạn trong thế giới này. Chúng ta
không thể toại nguyện để sống với những hậu quả của tham dục và thù hận. Trong
hai thứ này, thù hận là tệ hại hơn cả trên căn bản tức thời bởi vì nó đem đến tổn hại một cách nhanh chóng cho
người khác, nhưng tham dục tương ứng cho việc đưa đẩy trong tiến trình của sinh
tử luân hồi – những vòng bất tận của sinh, già, bệnh, chết – từ kiếp này đến kiếp
khác.
Gốc rễ của tham dục và thù hận là si mê về bản chất chân
thật của tất cả chúng sinh hữu tình (động vật) cũng như mê mờ về bản chất của
chúng sinh vô tình (sự vật). Sự si mê này không chỉ là thiếu hiểu biết mà cũng
là một ý thức tưởng tượng đối ngược với lẽ thật; hiểu sai những gì thật sự như
vậy. Có nhiều trình độ của nhận thức sai lầm, như thất bại để thấu hiểu những
gì nên tiếp nhận trong thực tập và những gì cần loại bỏ trong thái độ hàng
ngày, nhưng ở đây chúng ta đang nói về sự si mê ở gốc rễ của tất cả mọi khổ
đau. Đây là khái niệm rằng tất cả chúng sinh hữu tình và những hiện tượng khác
tồn tại một cách cố hữu, trong và của chính chúng. Tôi sẽ thảo luận về chủ đề
khó này trong Chương Tám, Chín và Mười.
Nghiệp Chướng Nhiễm Ô
Tất cả mọi sự vui sướng và đau khổ tùy thuộc vào nghiệp
và những hành vi quá khứ, chúng đã tạo ra những khuynh hướng trong tâm thức.
Nghiệp có thể được phân chia thành đạo đức và không đạo đức tùy vào chúng hoặc
là phát sinh vui sướng hay đau khổ về lâu dài. Thí dụ, nếu hệ quả của một hành
vi là để xuất sinh một đời sống mới của con người, thế thì hành vi đó là đạo đức
vì hệ quả lâu dài của nó là sự luân hồi tốt đẹp. Trái lại, nếu hệ quả của một
hành vi là làm sự tái sinh của ta như một quỷ đói, thế thì hành vi ấy là không
đạo đức vì hệ quả lâu dài của nó là là một sự luân hồi xấu.
Nghiệp cũng có thể được phân chia thành (1) những thứ vốn
xây dựng bản phác họa tổng quát của một kiếp sống mới bằng việc quyết định loại
tái sinh nào cũng như tuổi thọ của đời sống ấy, và (2) những thứ vốn ghi vào
các chi tiết của một kiếp sống, chẳng hạn như sự thịnh vượng, sức khỏe tốt, và
v.v… Loại (1) được gọi là “con đường của hành động” vì hành động ấy (đạo đức
hay không) phục vụ như một con đường, hay một phương tiện, đến một kiếp sống
hoàn toàn trong một sự luân hồi hạnh phúc hay một sự luân hồi khốn khó. Để là một
“con đường của hành động”, một nghiệp nhân phải có bốn đặc trưng: ý định thúc đẩy;
xác định chính xác về cá nhân hay đối tượng; chuẩn bị đúng mức; và hoàn toàn
thành tựu. Đôi khi tất cả những nhân tố này xảy ra, như trong trường hợp chúng
ta có ý muốn cho một người ăn xin và thật sự làm như thế; đôi khi chỉ có động
cơ hiện diện, và ta có ý muốn cho một người ăn xin nhưng không thật sự làm như
thế; hay ta có thể có một kết quả vô ý thức, nếu một vài đồng tiền rơi qua một
cái lỗ của túi áo ta nằm trên lề đường và người ăn xin lượm nó lên. Các hành động
không có tất cả bốn đặc trưng có thể rơi vào loại (2), vốn ghi vào trong chi tiết
của một kiếp sống.
Cuối cùng, những thứ nghiệp có thể được phân chia thành những
loại thực hiện bởi những nhóm, chẳng hạn như tổ chức từ thiện, và những loại thực
hiện cá nhân. Những hệ quả của các thứ nghiệp có được trải nghiệm trong cùng một
kiếp sống, trong kiếp sống tới, hay trong một kiếp sau đó. Những nghiệp đạo đức
hay không đạo đức mạnh mẽ với động cơ đầy năng lực để hổ trợ hay làm tổn hại có
thể mang lại các hệ quả của chúng trong cùng một kiếp sống.
Tiến
Trình Của Sự Chết
Nhằm để thấu hiểu các loại nghiệp và những đặc điểm đặc
biệt của chúng của những trình độ tu tập cao nhất, thì chúng ta cần thấu hiểu động
lực của ba giai đoạn: tiến trình của sự chết; trạng thái trung ấm thân giữa kiếp
sống này và kiếp sống tới; và tiến trình tái sinh từ trạng thái trung ấm thân.
Sự trao truyền các nghiệp nhân từ kiếp sống này sang kiếp sống khác xảy ra lúc
lâm chung qua một tâm thức rất vi tế của linh quang. Mặc dù trình độ sâu sắc nhất
này của tâm thức tồn tại qua đời sống, nhưng nó chỉ biểu hiện vào lúc lâm
chung, và do vậy thường được giảng dạy trong phạm vi này.
Ta có thể học hỏi thêm về điều này trong nhiều bản văn của
Tantra Yoga Tối Thượng (Vô Thượng Du Già), được Đức Phật giảng dạy, chẳng hạn
như Mật Điển Bí Mật Tập Hội. Những
văn bản này diễn tả nhiều đặc trưng khác nhau của tâm hay thức, đi từ thô đến
vi tế. Những thể trạng vi tế của tâm là năng lực và hiệu quả hơn khi được áp dụng
trong sự thực hành tâm linh. Trình độ thô của thức lãnh hội qua mắt, tai, mũi,
lưỡi, và thân thức. Vi tế hơn là ý thức, tự nó vốn đi từ những trình độ thô, chẳng
hạn như ý nghĩ thông thường, đển giấc ngủ sâu và bất tĩnh nhân sự khi hơi thở
đã dừng, đến tâm vi tế sâu nhất của linh quang. Ngoại trừ trong những thể trạng
thiền định ngoại hạng, bằng không thì thức
vi tế nhất hay sâu xa nhất tự nó chỉ biểu hiện khi chúng ta lâm chung, sắp chết.
(Rút lui kém và do thế phiên bản tóm tắt cua những trình độ vi tế của thức cũng
xảy ra khi ngủ, chấm dứt một giấc mơ, nhảy mũi, ngáp, và trong lúc xuất tinh.
Tôi sẽ thảo luận thứ cuối cùng trong Chương 11)
Tiến trình của sự chết liên hệ đến một loại chấm dứt, hay
hòa tan, của bốn yếu tố nội tại: đất (vật thể rắn của thân thể); nước (chất lỏng),
lửa (sức nóng), gió (năng lượng, chuyển động). Trong đời sống bình thường, những
yếu tố này phục vụ như căn bản cho thức, nhưng trong tiến trình lâm chung, năng
lực của chúng hổ trợ cho thức giảm lần, bắt đầu với yếu tố đất. Mỗi bước trong
tiến trình hòa tan thật sự gia tăng năng lực của yếu tố tiếp theo để hổ trợ cho
thức. Từng bước một giống như thế này:
1- Khi
yếu tố đất, hay chất cứng của thân thể ta hòa tan vào yếu tố nước, sự biểu lộ
bên ngoài là thân thể trở nên gầy ốm hơn; nội tại, ta thấy những gì xuất hiện là một ảo giác được thấy trong một sa mạc.
2- Khi
yếu tố nước của thân thể hòa tan vào yếu lửa, những dấu hiệu bên ngoài là chất
lỏng trong thân thể cạn kiệt – miệng khô, mũi co dúm lại, và v.v…; nội tại ta
thấy những gì được diễn tả như luồng khói từ một ống khói hay khói tràn ngập khắp
phòng.
3- Khi
yếu tố lửa của thân thể hòa tàn vào trong yếu gió, hay không khí, sự biểu lộ
bên ngoài là sức nóng của thân bị giảm dần; nội tại, ta thấy những gì giống như
những con đom đóm vào ban đêm hay giống như những tia lửa bắn ra. Sức nóng rút
lui khỏi thân thể trong những cách khác nhau – (1) từ bàn chân lên đến tim hay
(2) từ đỉnh đầu đi xuống. Cách (1) tốt đẹp hơn bởi vì nó biểu thị rằng tâm thức
sẽ xuất khỏi thân thể hoặc là đi lên hoặc là thẳng tới, không đi xuống, và vì vậy
sẽ rất có thể hướng đến một kiếp sống tới thuận lợi. Điều này được hình thành bởi nghiệp đạo đức.
4- Tiếp
theo, gió hay chuyển động năng lượng trong thân thể, hòa tan vào thức, và hơi
thở bên ngoài chấm dứt; vào lúc này ta thấy một hiện tướng giống như ánh sáng ở
trên một cây đèn sáp nhấp nháy khi cháy gần hết. (Một số bác sĩ xem người ở trạng
thái này là đã chết, nhưng theo quan điểm Phật giáo việc chấm dứt hơi thở bên
ngoài không có nghĩa là thần thức đã rời thân thể.) Ánh sáng nhấp nháy được tiếp
theo bởi hiện tướng của một ngọn lửa ổn định.
Bốn giai đoạn cuối cùng của sự
chết liên hệ sự hòa tan những trình độ thô của thức vào các trình độ vi tế hơn.
Điều này xảy ra khi gió, hay năng lượng bên trong, vốn phục vụ như sự gắn kết của
thức tan rả. Hãy nghĩ về thức như cưỡi trên năng lượng như một kỵ mã trên lưng
ngựa. Trong việc chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo, những năng lượng vốn phục vụ
như sự gắn kết của nhiều loại ý thức hòa tan, di chuyển căn bản của thức từ các
trình độ thô đến vi tế hơn của năng lượng. Những việc này xảy ra dần dần trong
bốn giai đoạn.
5- Tâm của ta tự nó biến thành một tính chất
màu trắng cùng khắp, rộng lớn sinh động. Nó được diễn tả như bầu trời trong
sáng tràn đầy ánh sáng của mặt trăng – không phải mặt trăng chiếu sáng trong
không gian trống rỗng mà không gian tràn đầy ánh sáng trắng. Tư tưởng khái niệm
đã tan biến, và không có gì hiện hữu ngoại trừ sự trắng trong sinh động này, vốn
là thức
của chúng ta. Tuy nhiên, một cảm nhận vi tế về chủ thể và đối tượng vẫn duy
trì, cho nên thể trạng này là nhị nguyên một cách nhẹ nhàng.
6- Tâm ta biến thành tính chất đỏ hay cam
rộng lớn, sinh động hơn trước đây; không có gì khác xuất hiện. Nó giống như một
bầu trời trong sáng tràn đầy ánh sáng mặt trời – không phải ánh sáng mặt trời
chiếu sáng trong bầu trời mà là tự không gian như vậy, tràn đầy ánh sáng đỏ hay
cam. Trong thể trạng này tâm thức ít nhị nguyên hơn nữa.
7- Tâm ta tự nó biến thành thể trạng màu
đen tĩnh lặng, vi tế và sinh động hơn nữa; không có gì khác xuất hiện. Điều này
được gọi là “gần thành tựu”, bởi vì ta đang gần đến sự biểu hiện của tâm linh
quang. Tâm màu đen sinh động rộng khắp giống như một bầu trời không có mặt
trăng, rất tối đúng ngay sau khi hoàng hôn khi không có một vì sao nào được thấy.
Vào lúc bắt đầu giai đoạn này, ta tỉnh thức, nhưng rồi thì ta mất sự tỉnh thức
khi ta trôi vào trong bóng đen dày đặc hơn.
8- Khi
hiện tướng của tâm màu đen chấm dứt, tâm
ta tự nó biến thành tâm tỉnh thức hoàn toàn của linh quang. Được gọi là tâm bẩm
sinh nền tảng của linh quang, đây là trình độ vi tế, thậm thâm, và năng lực nhất
của thức.
Nó giống như thể trạng bản chất của bầu trời vào lúc bình minh (mặt trời chưa
ló dạng) – không có ánh sáng của mặt trăng, mặt trời, hay bóng tối.
Giai đoạn trải qua tâm linh quang có thể nhanh hay chậm.
Một số người duy trì trong giai đoạn cuối cùng, tâm linh quang của sự chết, chỉ
vài phút; những người khác trú lại cả tuần hay hai tuần. Vì tâm linh quang năng
lực rất mạnh mẽ, cho nên nó đáng để thực tập, nhiều hành giả Tây Tạng diễn tập
những giai đoạn lâm chung này hàng ngày. Chính tôi thực hành chúng sáu lần
trong ngày bằng việc quán tưởng tám trình độ của tâm thức từng thứ một (dĩ
nhiên, không có những thay vật lý trong bốn giai đoạn đầu). Tám trình độ của
tâm là:
1- ảo
giác
2- luồng
khói
3- đom
đóm
4- ngọn
lửa của ngọn đèn sáp
5- tâm
bầu trời trắng sinh động
6- tâm
bầu trời đỏ hay cam sinh động
7- tâm
bầu trời đen sinh động
8- linh
quang
Trong tiến trình lâm chung, chúng ta biết rằng người ở
trong linh quang cho đến khi thân thể không bắt đầu bốc mùi hay phân hủy. Có những
người Tây Tạng bị tra tấn và, trong việc bị đưa lại phòng giam giữ của họ, ngồi
xếp bằng trong tiến trình của sự chết, duy trì tâm linh quang. Tin tức cho biết
rằng, những cai ngục Trung Cộng đã kinh ngạc về điều này. Theo quan điểm giáo
điều của họ, họ xem Phật giáo là mù quáng, cho nên khi họ đối diện với những bằng
chứng như vậy, họ cố gắng giữ im lặng về nó. Ở Ấn Độ cũng vậy, có một số những
hành giả đã duy trì trong thể trạng này, đôi khi vài ngày và trong một trường hợp
khoảng mười bảy ngày. Khi một người đang an trú trong thể trạng linh quang, nếu
năng lượng hổ trợ cho trình độ sâu thẩm này của tâm bắt đầu thay đổi, vào lúc ấy thức cuối cùng lìa thân
thể, và thân thể hay đầu chuyển động một cách nhẹ nhàng.
Có nhiều cơ hội cho
những việc thẩm tra xa hơn trong những thể trạng đa dạng của sự chết. Khoa học
hiện đại đã làm những việc nghiên cứu hữu dụng về sóng năng lượng, não bộ con
người, và những chức năng của nó. Các nhà khoa học và Phật học chia sẻ một sự
quan tâm chung về lãnh vực này, và tôi tin tưởng là chúng ta nên làm việc với
nhau để điều tra mối quan hệ giữa tâm
và năng lượng bên trong của nó, và giữa não bộ cùng thức. Những diễn giải của
nhà Phật có thể đóng góp cho việc nghiên cứu khoa học, và ngược lại. Sự phối hợp
này đã từng diễn ra rồi, và thêm nữa sẽ rất hữu ích.
Thể Trạng Trung ấm Thân
Tất cả chúng sinh được tái sinh như những con người đi
qua thể trạng trung ấm thân giữa kiếp sống này và kiếp sống tới. Trong thể trạng
trung ấm này, thân thể chúng ta tiếp nhận một hình dáng giống với thân thể của
chúng ta trong kiếp sống tới vào khoảng năm hay sáu tuổi (mặc dù một số người
nói rằng điều này không nhất thiết như vậy). Khi đời sống trung ấm chấm dứt,
cây cầu đến kiếp sống tới đã được vượt qua. Tiến trình này được tiến hành bởi
trình độ vi tế nhất của tâm.
Tiến Trình Tái Sinh
Liên quan đến tái sinh, thức đi vào tử cung khi những yếu
tố thụ tinh trộn lẫn với nhau – được cung ứng không có gì sai trong tử cung hay
với tinh trùng, và cung ứng với tất cả những nhân tố thuận lợi chẳng hạn như
nghiệp nối kết hiện diện. Tuy nhiên, thức không nhất thiết phải nhập vào lúc ấy,
khi nam nữ phối hợp, vì trong các luận điển của chúng tôi có những trường hợp
diễn ra một cách riêng lẻ. Dường như rằng hoặc là những yếu tố này đi với nhau
bên trong hay, như thỉnh thoảng có những trường hợp ngày nay, bên ngoài tử cung
trong ống nghiệm, thức phải đi vào trong khi chúng trộn lẫn với nhau. Tuy thế,
thật khó đế có một sự giải thích cả quyết
theo luận điển Phật giáo vì một số sách nói rằng sự thụ tinh xảy ra khi có sự
khát dục mạnh mẽ.
Chủ đề phức tạp này trở thành phức tạp hơn ở thời hiện đại.
Hãy xem một thí dụ khi phôi thai được đông lạnh. Một khi sự nối kết đã được thực
hiện từ kiếp sống quá khứ đến kiếp sống mới qua việc thụ tinh, thì chúng sinh
mà phôi thai bị đông lạnh có phải chịu đau khổ vì lạnh không? Chính sự bắt đầu
của thân thể đã được hình thành, và vì thế, theo sự giải thích của chúng ta, cơ
quan cảm giác của thân thể đã được hình
thành sơ khởi (mặc dù cơ quan thị giác và những thứ khác thì chưa). Có phải có
sự cảm giác thân thể ngay từ thời điểm sau khi thụ tinh hay không? Tôi chưa có một
quyết định cho những điềm này; đây là chủ đề phải thảo luận nhiều hơn nữa.
Nếu chúng ta giả định rằng chúng sinh trong phôi thai đau
khổ vì lạnh, thì điều này làm phát sinh vấn đề người đặt phôi thai vào tủ lạnh có
bị nghiệp xấu cho hành vi ấy hay không. Điều tùy thuộc vào động cơ của người ấy.
Chúng ta không thể nói rằng chỉ vì một chúng sinh khác chịu đựng khổ đau qua điều
gì đó mà người khác liên hệ đến ta, thì ta sẽ gánh nghiệp xấu. Thí dụ, ngay cả những
trường hợp thông thường một thai nhi ở trong tử cung bà mẹ chịu đựng đau khổ qua
việc ở trong tử cung, nhưng bà mẹ không tích tập bất cứ nghiệp xấu nào. Tương tự
thế, khi trẻ con được sinh ra, nếu đau khổ lần nữa, nhưng bà mẹ không tích tập bất
cứ nghiệp xấu nào. (Nếu bà mẹ thật sự tích tập nghiệp xấu thì bà mẹ sinh nhiều con
phải tích tập hàng khối nghiệp xấu, thì thật là vô lý!). Do vậy, động cơ của một
người là chìa khóa quyết định loại nghiệp nào phải tích tập.
SỰ THẬT CAO QUÝ THỨ BA: SỰ CHẤM DỨT CHÂN THẬT (DIỆT ĐẾ)
Vì những nhiễm ô của tâm thức chẳng hạn như tham dục, thù
hận, ganh tỵ, và hung hăn căn cứ trên căn bản nhận thức sai lầm về bản chất của
con người và đối tượng, cho nên tiến trình vượt thắng chúng đòi hỏi một giải
pháp cho sự si mê ấy. Vấn đề trở thành việc nhổ gốc rể của si mê làm ra nguyên
nhân của khổ đau như thế nào. Nó không thể là việc nhổ một cây gai qua phẩu thuật.
Nhằm để vượt thắng nhận thức sai lầm này về bản chất của con người và sự vật,
thì chúng ta phải thấu hiểu bản chất thật sự của chúng. Rồi thì, qua thiền quán
tiếp tục, chúng ta trở thành quen thuộc với sự thật và gia tăng năng lực của tuệ
trí để làm xói mòn những cảm xúc tiêu cực có gốc rể trong si mê.
Ở điểm này, thì một giải thích về tánh không sẽ lợi ích
vì đây là những gì mà tuệ trí nhận ra bản chất của con người và sự vật (xem
Chương Tám – Mười). Nhưng, tóm lại, sự kiện rằng những nhiễm ô chẳng hạn các cảm
xúc phiền não có thể được tiêu trừ hoàn toàn là qua việc bản chất tâm thức vốn
trong sáng, không bị nhiễm ô. Bản chất của nó là tinh khiết. Những phiền não được
tịnh hóa qua thiền tập trên bản chất chân thật của cả tâm thức và tất cả những
thứ khác. Việc tiêu trừ những phiền não này là sự thật cao quý thứ ba – sự chấm
dứt chân thật, diệt đế - một thể trạng vượt khỏi khổ đau và các nguyên nhân của
nó.
SỰ THẬT CAO QUÝ THỨ TƯ: CON ĐƯỜNG LẼ THẬT (ĐẠO ĐẾ)
Những con đường chân thật liên hệ đến ba phương diện rèn
luyện vốn là chủ đề chính của quyển sách này – đạo đức, tập trung, và tuệ trí
(giới – định – tuệ ). Sự thực tập tâm linh theo những con đường này đưa đến sự
chấm dứt chân thật, đạt đến niết bàn và cuối cùng là Quả Phật.
-*-
Từ thời vô thỉ, chúng ta đã có một nhận thức vững chắc, hay
ý thức, về “cái tôi”. “Cái tôi” này, hay tự ngã , bản chất và bẩm sinh muốn hạnh
phúc và không muốn khổ đau, và khát vọng này là vững chắc – nó là đúng đắn và hợp
lý. Kết quả là, tất cả chúng ta có quyền để đạt đến hạnh phúc và xua đuổi khổ
đau. Sự thật rằng khổ đau và hạnh phúc tự nó thay đổi từ thời khắc này đến thời
khắc khác biểu thị rằng những trải nghiệm
này tùy thuộc trên các nguyên nhân và điều kiện của nó. Nhằm để thoát khỏi khổ
đau thì chúng ta cần loại trừ các nguyên nhân và điều kiện tức là các nhân
duyên đem đến khổ đau và nhằm để đạt đến hạnh phúc thì chúng ta cần đỏi hỏi những
nguyên nhân và điều kiện hay các nhân duyên của hạnh phúc.
Sự thật cao quý thứ nhất áp dụng đến các hiện tượng nhiễm
ô mà chúng ta cần thoát khỏi – sự thật về khổ đau, là các tác động và nguyên
nhân thật sự, vốn là những nguyên nhân. Hai sự thật cao quý cuối cùng là những
thể trạng tinh khiết mà chúng ta muốn đạt được – sự chấm dứt chân thật, vốn là
các hệ quả, và những con đường chân thật, vốn là các nguyên nhân. Cung cách Đức
Phật giảng dạy về Bốn Chân Lý Cao Quý, chúng bao hàm hai trình tự - một là khổ
đau, thứ chúng ta muốn từ bỏ, và một là hạnh phúc, thứ chúng ta tìm cầu để tiếp
nhận.
TOÁT YẾU THỰC HÀNH HÀNG NGÀY
Đã nhận ra phạm vi của khổ đau, nghiên cứu về các nguyên
nhân, hay nguồn gốc, và xác định rằng nguồn gốc của khổ đau là si mê về bản chất
thật sự của con người và sự vật, vốn là đưa đến kết quả tham dục, thù hận, và
v.v… Hãy nhận ra rằng khổ đau có thể được tiêu trừ, nó có thể bị loại bỏ trong
không gian của thực tại. Hãy quán chiếu rằng sự chấm dứt chân thật này (diệt đế)
đạt được qua sự thực hành về đạo đức, tập trung, và tuệ trí (giới – định – tuệ
) – là những con đường chân thật.
-*-
Ẩn Tâm lộ, Thursday, February 21, 2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét