Nguyên tác: Ethics and The New Genetics
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di
truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập
họp chung quanh đề tài này. Sự quan tâm này đã được sinh khởi trong mối quan hệ
đến mọi thứ từ sinh sản vô tính đến việc vận dụng di truyền học. Đã có một sự
phản đối kịch liệt sâu rộng về kỹ thuật di truyền thực phẩm. Bây giờ kỷ thuật có
thể tạo nên những loại giống cây mới với năng suất cao hơn gấp bội và rất ít bị
bệnh dịch nhằm để cho thực phẩm được sản xuất tối đa trên thế giới nơi mà dân số
gia tăng cần được nuôi dưỡng. Các lợi ích rõ ràng và kỳ diệu. Những trái dưa hấu
và táo không hạt có thời hạn sử dụng lâu hơn, lúa mì và những thứ hạt khác miễn
nhiễm với những thứ côn trùng khi sinh trưởng trên ruộng rẫy – những thứ này
không còn là hư cấu của khoa học. Tôi biết rằng những nhà khoa học thậm chí
đang thí nghiệm để phát triển những nông trại sản xuất, như cà chua, được tiêm
với những gien từ những chủng loại nhền nhện khác nhau.
Nhưng bằng việc làm những thứ thế này, thì chúng ta đang
thay đổi cấu trúc di truyền và chúng ta có thật sự biết những tác động dài lâu
sẽ là gì trên những chủng loại cây cỏ, trên đất cát, trên môi trường không? Rõ
ràng có những lợi ích thương mại, nhưng chúng ta phán đoán những gì thật sự hữu
dụng như thế nào? Mạng lưới phức tạp của liên hệ hổ tương định rõ đặc điểm môi
trường làm nó dường như vượt khỏi năng lực tiên đoán của chúng ta.
Sự thay đổi di truyền học đã xảy ra một cách chậm chạp
trãi qua hàng trăm nghìn năm của sự tiến hóa tự nhiên. Bằng sự vận dụng tích cực
gien di truyền, chúng ta đang ở trên đỉnh của sự thúc ép một tốc độ thay đổi
nhanh chóng phản tự nhiên trong thú vật và thực vật cũng như ngay trong loài
người của chúng ta. Điều này không nói rằng chúng ta nên quay lưng lại với các
sự phát triển trong lãnh vực này – nhưng chỉ đơn giản chỉ ra rằng chúng ta phải
tỉnh thức với những quan hệ mật thiết kinh khủng trong lãnh vực mới này của
khoa học.
Những vấn đề cấp bách nhất phát sinh là phải hành động với
đạo đức hơn là với tự thân khoa học, với việc áp dụng một cách đúng đắn tri thức
và năng lực của chúng ta trong mối quan hệ với những khả năng mới được mở ra bởi
sinh sản vô tính, bằng việc mở khóa mật mã di truyền và những tiến bộ khác. Những
vấn đề này liên hệ đến các khả năng cho việc vận dụng di truyền học không chỉ với
con người và thú vật mà cũng với cây cỏ và môi trường mà tất cả chúng ta là những
bộ phận. Trung tâm của vấn đề là mối quan hệ giữa kiến thức và năng lực chúng
ta về một mặt và trách nhiệm của chúng ta về mặt kia.
Bất cứ đột phá mới nào của khoa học cung ứng cho tiềm
năng thương mại đều thu hút sự quan tâm và đầu tư khổng lồ cả khu vực công cộng
và doanh nghiệp tư nhân. Ý nghĩa của tri thức khoa học và phạm vi của các tiềm
năng kỷ thuật thật bao la mà những giới hạn duy nhất trên những gì chúng ta làm
có thể là các kết quả của trí tưởng tượng không đầy đủ. Chính thành tựu không
ngờ về tri thức và năng lực đã đặt chúng ta vào một vị trí nguy cấp vào lúc
này. Trình độ tri thức và năng lực càng cao thì cảm nhận trách nhiệm của chúng
ta phải càng lớn hơn.
Nếu chúng ta thẩm tra căn bản triết lý tiềm tàng của nhiều
đạo đức nhân bản, thì một sự công nhận rõ ràng về nguyên tắc vốn có tương quan giữa
tri thức và năng lực lớn hơn với một nhu cầu lớn hơn cho trách nhiệm đạo đức phục
vụ như một nền tảng then chốt. Cho đến gần
đây chúng ta có thể nói rằng nguyên tắc này có hiệu quả cao độ. Khả năng của
con người cho lập luận đạo đức đã giữ được nhịp độ với những phát triển trong
tri thức nhân loại và các khả năng của nó. Nhưng với kỷ nguyên mới của khoa sinh
học di truyền, thì khoảng cách giữa lập luận đạo đức và các khả năng kỷ thuật của
chúng ta đã đạt đến một điểm quan trọng. Sự gia tăng nhanh chóng tri thức con
người và tiềm năng kỷ thuật trong khoa học di truyền mới đến nổi bây giờ hầu
như tư duy đạo đức không thể giữ kịp nhịp độ với những thay đổi này. Nhiều thứ
nhanh chóng trở thành có thể là ít thuộc trong hình thức của những đột phá mới
hay các mô thức trong khoa học mà là trong sự phát triển của những lựa chọn kỷ
thuật mới phối hợp với các trù tính tài chính thương mại và những kế hoạch
chính trị và kinh tế cả các chính quyền. Vấn đề
không còn là việc chúng ta nên hay không nên đòi hỏi tri thức và khám
phá các tiềm năng kỷ thuật của nó. Thay vì thế, vấn đề là việc sử dụng thế nào kiến
thức và năng lực mới này trong thái độ thiết thực và có trách nhiệm đạo đức nhất.
Lãnh vực nơi mà tác động của cách mạng khoa học di truyền
có thể cảm thấy hiện diện một cách trực tiếp nhất hiện tại là y học. Ngày nay,
tôi hiểu ra rằng, nhiều tin tưởng trong y học là sự sắp xếp trình tự bộ gien
con người sẽ báo hiệu một kỷ nguyên mới, mà trong ấy nó có thể vượt khỏi mô thức
sinh hóa trị liệu đến một mô thức căn bản về mặt di truyền. Chính định nghĩa của
nhiều bệnh tật đang thay đổi khi những chứng bệnh được tìm thấy là bị lập trình
về mặt di truyền trong con người và thú vật từ sự thụ thai. Trong khi sự trị liệu
gien di truyền thành công từ một số điều kiện này có thể còn lâu lắm, thì dường
như cũng không còn vượt khỏi những giới hạn của tiềm năng. Thậm chí ngay bây giờ,
vấn đề trị liệu gien di truyền và những câu hỏi liên hệ việc vận dụng di truyền
học, đặc biệt ở trình độ phôi con người, đang đặt ra những thách thức nghiêm trọng
với khả năng của chúng ta cho tư duy đạo đức.
Một khía cạnh sâu xa của vấn đề, đối với tôi dường như nằm
ở câu hỏi phải làm gì với tri thức mới của chúng ta. Trước khi chúng ta biết những
gien đặc thù nào gây ra chứng mất trí, ung thư, hay ngay cả tuổi già, thì chúng
ta cho rằng mình không bị phiền não với những vấn nạn này, mà chúng ta chỉ phản
ứng khi mắc phải chúng. Nhưng bây giờ, hay ở bất cứ mức độ nào, chẳng bao lâu nữa,
di truyền học có thể nói với những con người và những gia đình rằng họ có những
gien mà chúng có thể giết hay làm thương tật họ lúc thơ ấu, tuổi trẻ, hay trung
niên. Kiến thức này có thể thay đổi một cách hoàn toàn những định nghĩa của
chúng ta về sức khỏe và bệnh tật. Thí dụ, những người nào đó hiện tại là khỏe mạnh
nhưng có bẩm sinh di truyền đặc thù nào đó có thể đi đến bị ghi nhận như “sẽ bị
bệnh gần đây”. Chúng ta sẽ làm gì với kiến thức ấy, và chúng ta xử lý nó trong
một cách như thế nào là yêu thương nhất? Ai có quyền sử dụng những kiến thức
như vậy, khi nó dính líu đến xã hội và cá nhân trong mối quan hệ với bảo hiểm,
việc làm, và những mối tương quan thân thuộc, cũng như sự sinh sản? Cá nhân
mang một gien như vậy có trách nhiệm phơi bày sự thật này đến thân quyến của
người ấy không? Đây chỉ là một số ít các câu hỏi phát sinh bởi sự nghiên cứu di
truyền như vậy.
Để làm phức tạp một loạt rắc rối đã có rồi của những vấn
đề, tôi hiểu rằng, việc dự đoán di truyền của loại này không thể đựơc bảo đảm
là chính xác. Đôi khi chắc chắn rằng một sự di truyền rối loạn được quán sát
trong phôi thai sẽ làm phát sinh bệnh tật trong trẻ con hay người lớn, nhưng
thường thường một câu hỏi về các khả năng có thể xảy ra tương đối. Lối sống,
kiêng khem, và những nhân tố môi trường khác nhập cuộc. Cho nên trong khi chúng
ta có thể biết rằng một phôi thai đặc thù mang một gien cho một loại bệnh tật,
thì chúng ta không thể chắc chắn rằng bệnh tật sẽ phát khởi.
Những sự lựa chọn về cuộc sống con người và thực tế chính
đặc tính cá nhân của họ rõ ràng có thể ảnh hưởng bởi nhận thức của họ về hiểm họa
di truyền, nhưng những nhận thức đó có thể không đúng và hiểm họa có thể không xảy
ra. Chúng ta có thể được cung cấp kiến thức có khả năng như vậy không? Trong những
trường hợp, khi một thành viên của gia đình khám phá một gien rối loạn về loại
này, thì có phải tất cả những thành viên khác của gia đình có kể thừa kế cùng
gien được hình thành không? Kiến thức này có nên làm cho mọi người trong cộng đồng
biết được không – thí dụ, với những công ty bảo hiểm sức khỏe? Những người có
mang những gien nào đó có thể bị loại trừ khỏi bảo hiểm và vì thế ngay cả khỏi
tất cả mọi việc chăm sóc sức khỏe vì có thể có một loại bệnh tật nào đó có khả
năng xảy ra trong chính gien đó? Những vấn đề ở đây không chỉ là về y tế mà cả
về đạo đức và có thể ảnh hưởng sự cát tường tâm lý của những người được quan
tâm. Khi những rối loạn di truyền được phát hiện trong buổi phôi thai (như trường
hợp sẽ gia tăng), thì cha mẹ (hay cộng đồng) nên có một quyết định để cắt ngắn
sự sống của sự khám phá phôi thai ấy không? Câu hỏi này là phức tạp hơn bởi sự
kiện rằng những phương pháp mới của việc đối phó với những rối loạn di truyền
và những loại thuốc men mới đang được tìm ra một cách nhanh chóng nhất khi các
gien mang những bệnh tật được xác định. Chúng ta có thể hình dung một kịch bản
mà trong ấy một em bé mà bệnh tật có thể biểu hiện trong 20 năm bị phá thai, và
một sự chửa trị cho bệnh tật được tìm ra trong một thập niên.
Nhiều người khắp thế giới, đặc biệt những thực nghiệm về
những bộ môn mới xuất hiện về đạo đức sinh học đang đấu tranh với những đặc
trưng của những vấn đề này. Dù rằng tôi thiếu chuyên môn trong những lãnh vực
này, tôi không có gì cụ thể để cống hiến liên quan đến bất cứ câu hỏi đặc trưng
nào – đặc biệt khi những sự kiện thực nghiệm đang thay đổi một cách nhanh
chóng. Tuy nhiên, những gì tôi mong ước để làm là suy nghĩ qua một số vấn đề
then chốt mà tôi cảm thấy mỗi người cung cấp tin tức trên thế giới cần quán chiếu
đến, và để để nghị một số nguyên lý tổng quát có thể hướng đến để đối diện với
những thử thách đạo đức này. Tôi tin tưởng rằng ở trung tâm của sự thử thách mà
chúng ta đối diện thật sự là một câu hỏi về vấn đề chúng ta nên lấy thứ nào là
tốt nhất trong những phương diện phát triển mà khoa học và kỷ thuật cung cấp
cho chúng ta.
Sự có mặt trên những ranh giới mới của di truyền học căn
cứ y học thì có một loạt những vấn đề xa hơn xét cho cùng làm xuất hiện những
câu hỏi sâu xa và bận tâm hơn về đạo đức. Ở đây, tôi đang nói một cách chính yếu
về sinh sản vô tính. Đã nhiều năm rồi từ khi thế giới được giới thiệu đến một
chúng sanh tri giác hoàn toàn do sinh sản vô tính, Dolly, con cừu nổi tiếng. Rồi
từ lúc ấy báo chí đưa tin vô số về sinh sản vô tính của con người. Chúng ta biết
rằng những mầm mống phôi của con người vô tính đã được tạo ra lần đầu tiên. Bên
cạnh thông tin cuồng nhiệt, câu hỏi về sinh sản vô tính là vô cùng phức tạp.
Tôi đã nghe nói về hai loại sinh sản vô tính hoàn toàn khác nhau – thuộc ngành
trị liệu và sinh sản. Trong sinh sản vô tính thuộc ngành trị liệu, có việc sử dụng
kỷ thuật sinh sản vô tính cho việc tái sản xuất các tế bào và sự sáng tạo tiềm
năng của những chúng sanh bán tri giác thuần cho mục tiêu thu hoạch những bộ phận
thân thể cho việc cấy ghép. Việc tái sinh sản vô tính một cách căn bản là sự
sáng tạo một bản sao y hệt.
Theo nguyên tắc, tôi hoàn toàn không phản đối với việc
sinh sản vô tính như vậy – như một khí cụ kỷ thuật cho những mục tiêu y khoa và
trị liệu. Như trong tất cả những trường hợp này, điều phải quản lý những quyết
định của con người là câu hỏi về động cơ từ bi yêu thương. Tuy nhiên, về ý kiến
của của việc sản xuất có chủ ý những sinh thể bán phần con người cho những bộ
phận thay thế, thì tôi cảm thấy một sự ghê rợn trực quan bản năng. Tôi đã thấy
một lần phim tài liệu BBC khuyến khích những sáng tạo như vậy qua hoạt hình bằng
máy điện toán, với một số đặc trưng con người một cách phân biệt có thể nhận biết
được. Tôi thật kinh khủng. Một số người có thể cảm thấy điều này như một phản ứng
cảm xúc phi lý mà không cần quan tâm một cách nghiêm túc. Nhưng tôi tin là
chúng ta phải tin cậy những cảm nhận bản năng của chúng ta về sự ghê rợn, khi
những thứ này sinh khởi từ nhân tính căn bản của chúng ta. Một khi chúng ta cho
phép sự khai thácnhững sinh thể bán phần con người lai ghép như vậy, thì điều
gì có thể ngăn trở chúng ta làm giống như vậy với những con người đồng loại của
chúng ta, những người mà các ý muốn kỳ
quặc của xã hội có thể cho là không đầy đủ trong một cách nào đó? Việc sẳn lòng
bước qua ngưỡng cửa tự nhiên như vậy là điều thường đưa nhân loại đến việc phạm
phải những sự tàn nhẫn kinh khiếp.
Mặc dù sự sinh sản vô tính không kinh khiếp như vậy, nhưng
trong một số quan tâm nào đó thì những quan hệ mật thiết của nó có thể có ảnh
hưởng sâu rộng hơn. Một khi kỷ thuật trở thành tiện lợi, có thể có những cha mẹ
hết hy vọng có con cái, và không thể làm như thế, có thể tìm kiếm sự sinh sản
con cái qua sự sinh sản vô tính. Sự thực nghiệm này sẽ làm gì với bộ dự trử
gien trong tương lai? Đối với tính đa dạng vốn đã là bản chất của sự tiến hóa?
Cũng có những cá nhân vì một sự khao khát sống vượt khỏi
tiềm năng sinh học, có thể chọn tới hệ vô tính cho chính họ trong sự tin tưởng
rằng họ sẽ tiếp tục sống trong một người mới được nhân bản vô tính. Trong trường
hợp này, tôi thấy thật khó có thể biện minh được cho những động cơ – theo nhận
thức Phật giáo, nó có thể là một thân thể giống hệt, nhưng sẽ có hai [tâm] thức
khác biệt. Họ vẫn sẽ chết.
Một trong những hậu quả xã hội và văn hóa của những kỷ
thuật di truyền mới là ảnh hưởng của chúng với sự tương tục của loài người, qua
sự tương tác với tiến trình tái sinh sản. Có phải là đúng để chọn giới tính cho
một đứa bé, là thứ mà tôi tin là bây giờ có thể? Nếu không, có phải đúng để thực
hiện những sự chọn lựa như vậy vì những lý do sức khỏe (như, trong những cặp
khi một đứa bé với hiểm họa nghiêm trọng của chứng loạn dưỡng cơ hay chứng dễ
chảy máu)? Có phải có thể chấp nhận để cấy gien vào trong tinh trùng hay trứng
con người trong phòng thí nghiệm? Chúng ta có thể tiến xa đến mức độ nào trong
hướng tạo ra những bào thai “sáng tạo” hay “lý tưởng” – thí dụ, những phôi thai
đã được chọn lựa trong phòng thí nghiệm để cung ứng những phân tử hay hợp chất
thiếu trong những anh chị em không đầy đủ về mặt di truyền nhằm để cho những đứa
trẻ được sinh ra từ những phôi thai như vậy có thể hiến tặng tủy xương hay thận
nhằm chửa trị cho anh em mình? Chúng ta có thể đi xa đến mức độ nào với sự lựa
chọn nhân tạo về những bào thai với những đặc tính mong muốn nhằm cải thiện sự
thông minh hay sức mạnh thân thể hay những màu sắc đặc trưng của mắt, thí dụ thế?
Khi những kỷ thuật như vậy được sử dụng cho những lý do y
học – như trong việc chửa trị về một sự thiếu hụt di truyền đặc thù nào đó –
người ta có thể có thiện cảm một cách sâu xa. Tuy nhiên, việc chọn lựa những
tính cách đặc thù, đặc biệt khi nhân bản vô tính một cách chính yếu cho những mục
đích thẩm mỹ, có thể không vì lợi ích của con trẻ. Ngay cả khi cha mẹ nghĩ là họ
đang chọn lựa những tính cách vốn sẽ ảnh hưởng một cách tích cực cho đứa con của
họ, thì chúng ta cần quan tâm đến vấn đề việc này được hoàn thành có vì mục
tiêu tích cực hay trên căn bản của những phán xét của một xã hội đặc thù vào một
thời điểm nào đó hay không. Chúng ta phải nhớ trong tâm về tác động lâu dài của
loại vận dụng này trên toàn thể nhân loại, một điều chắc chắn rằng những ảnh hưởng
của nó sẽ lưu lại cho những thế hệ tiếp theo. Chúng ta cũng cần quan tâm đến
các ảnh hưởng của việc giới hạn tính đa dạng của nhân loại và lòng bao dung đi
đôi với nó, vốn là một trong những kỳ công của kiếp nhân sinh.
Lo lắng đặc biệt
là sự vận dụng những gien cho việc tạo ra những đứa bé với các đặc trưng nổi bật,
cho dù tri giác hay thân thể. Bất cứ sự bình đẳng nào có thể có giữa những con
người trong những hoàn cảnh của họ - chẳng hạn như sự giàu có, tầng lớp, sức khỏe,
và v.v… - thì tất cả chúng ta được sinh ra với sự bình đẳng về bản chất con người,
với những tiềm năng nào đó; các năng lực tri giác, cảm xúc, và thân thể nào đó,
và tính khí nền tảng – thực tế là [một thứ] quyền– để mưu cầu hạnh phúc và vượt
thắng khổ đau. Dù rằng kỷ thuật di truyền chắc chắn là đắc giá, tối thiểu cho
tương lai có thể thấy được, nhưng một khi nó được phép, thì trong một thời gian
dài nó sẽ chỉ có giá trị với một bộ phận nhỏ của xã hội con người, được gọi là
giàu có. Vì thế, xã hội sẽ tự thấy việc chuyển một sưj bất bình đẳng của hoàn cảnh
(đó là, sự thịnh vượng tương đối) trở thành một bất bình đẳng về bản chất qua sự
thông minh, sức mạnh nổi bật, và những năng lực khác có được qua sự sinh sản.
Những phân nhánh của sự phân biệt này có ảnh hưởng sâu rộng
– trên những cấp độ xã hội, chính trị, và đạo đức. Ở cấp độ xã hội, nó sẽ củng
cố - thậm chí là vĩnh viễn – sự chênh lệch của chúng ta, và nó sẽ làm cho sự đảo
ngược lại của chúng khó khăn hơn nhiều. Trong những vấn đề chính trị, nó sẽ nẩy
sinh một thành phần ưu tú lãnh đạo, của những người đòi hỏi quyền lực với các dẫn
chứng của một sự thượng đẳng bẩm sinh tự nhiên. Trên cấp độ đạo đức, những khác
biệt giả dối dựa trên bản chất loại này có thể phá hoại ngầm một cách nghiêm trọng
khả năng tri giác đạo đức căn bản của chúng ta tới độ khi những khả năng tri
giác này căn cứ trên một nhận thức hổ tương chung của nhân loại. Chúng ta không
thể hình dung vấn đề những thực tiễn như vậy có thể ảnh hưởng thế nào với chính
sự nhận thức của chúng ta về những gì nó là loài người.
Khi tôi nghĩ về những cung cách vận dụng đa dạng mới về
di truyền học con người, tôi không thể hổ trợ mà cảm thấy rằng có điều gì đó
thiếu vắng một cách sâu xa trong sự hiểu biết của chúng ta về điều gì để nuôi
dưỡng lòng nhân ái. Ở bản thổ Tây Tạng của tôi, giá trị của một con người không
phải dựa vào hiện tướng thân thể, không phải sự thành tựu trí tuệ hay thể lực,
mà trên căn bản, năng lực bẩm sinh cho lòng từ bi yêu thương trong toàn thể
loài người. Thậm chí y học hiện đại đã chứng minh vấn đề tình cảm quan trọng
như thế nào cho loài người, đặc biệt trong những tuần lễ đầu tiên của sự sống.
Năng lực xúc chạm giản dị là quan yếu cho sự phát triển căn bản của não bộ. Trong
việc quan tâm đến giá trị của người nào như một con người, thì hoàn toàn không
thích đáng [nếu kể đến] dù người đó có một loại bất lực nào đó – thí dụ, hội chứng
Down – hay một khuynh hướng di truyền sẽ phát triển thành một loại bệnh tật nào
đó, chẳng hạn như bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm, bệnh động kinh Hungtinton,
hay bệnh mất trí Alzeimer. Tất cả loài người có một giá trị bình đẳng và một tiềm
năng cho lòng tốt. Đặt nền tảng cho sự hiểu biết của chúng ta về giá trị của một
con người trên cấu trúc di truyền là làm nghèo nhân tính, vì có rất nhiều thứ
hơn thế nữa đối với con người hơn là những bộ gien.
Đối với tôi, một trong những ảnh hưởng ấn tượng và cổ vũ
nhất của kiến thức về bộ gien là một sự thật đáng kinh ngạc rằng những khác biệt
trong những bộ gien của những nhóm chủng tộc khác nhau khắp thế giới là không
đáng kể và hầu như vô nghĩa. Tôi vốn luôn luôn lập luận rằng những khác biệt về
màu sắc, ngôn ngữ, tôn giáo, chủng tộc, và v.v… trong loài người không có thực
thể trong diện mạo giống nhau căn bản của chúng ta. Đối với tôi, việc đọc được
chuỗi gien di truyền con người đã chứng
tỏ việc này ảnh hưởng cực kỳ lớn. Nó cũng giúp để củng cố cảm nhận của tôi về sự
tương đồng căn bản của chúng ta với động vật, vốn chia sẻ tỉ lệ rất lớn với bộ
gien của chúng ta. Thế nên thật có thể tưởng tượng nếu con người chúng ta lợi dụng
những tri thức mới tìm ra về di truyền học một cách khéo léo, thì nó có thể
giúp để nuôi dưỡng một cảm nhận to lớn hơn về thiện cảm và hòa hợp không chỉ với
những con người chúng ta mà với toàn thể sự sống. Một quan điểm như vậy cũng có
thể làm chỗ dựa cho một ý thức môi trường lành mạnh hơn nhiều.
Trong trường hợp của thực phẩm, nếu lập luận hữu hiệu rằng
chúng ta cần một loại biến thể di truyền giúp để nuôi dưỡng dân số gia tăng trên
thế giới, thế thì tôi tin tưởng rằng chúng ta đơn giản không thể bỏ qua bộ phận
này của kỷ thuật di truyền. Tuy nhiên, nếu, như được gợi lên bởi những nhà phê
bình, thì sự lập luận này đơn thuần là một thái độ cho những động cơ chính yếu
là quảng cáo – chẳng hạn như việc sản xuất thực phẩm đơn giản là có thể dự trử
lâu hơn, vốn có thể xuất cảng từ nơi này sang nơi khác, như vậy hấp dẫn hơn
trong thực tế và tiện lợi hơn trong tiêu thụ, hay việc tạo ra những hạt giống
ngũ cốc được bố trí để chúng không tự sản xuất ra những mầm giống của chúng vì
thế các nhà nông bị bắt buộc phải hoàn toàn phụ thuộc vào những kỷ thuật hay
công ty sinh học cho những hạt giống – thế thì rõ ràng rằng những thực tiễn như vậy phải được điều tra một
cách nghiêm túc.
Nhiều người đang ngày càng lo lắng vì những hậu quả lâu
dài của việc sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm biến đổi gien. Khoảng cách xa giữa
cộng đồng khoa học và công chúng phổ thông có thể do sự thiếu trong sáng trong
những công ty phát triển những sản phẩm này tạo ra một phần. Trách nhiệm phải
thuộc về kỷ nghệ sinh học cả để chứng minh rằng không còn các hậu quả tiêu cực
cho những người tiêu thụ các sản phẩm này và việc tiếp nhận một sự minh bạch
hoàn toàn về tất cả những liên can khả dĩ mà những cây cỏ như vậy có thể có cho
môi trường tự nhiên. Một cách rõ ràng luận điểm cho rằng nếu không có chứng cứ có
tính chất kết luận rằng một sản phẩm đặc thù là tai hại thế thì không có gì sai
với nó để không thể được chấp nhận.
Vấn đề là thực phẩm biến thể gien không quả thật là một sản
phẩm khác, như một chiếc xe hay một chiếc máy điện toán xách tay. Cho dù chúng ta thích nó hay không, thì chúng
ta không biết những hậu quả lâu dài trong việc giới thiệu những sinh vật biến
thể gien vào môi trường rộng lớn hơn. Trong y dược, thí dụ thế, thuốc an thần
được tìm ra là tuyệt vời cho việc điều trị bệnh tật trong thời kỳ mới mang thai
của sản phụ, nhưng những hậu quả lâu dài của nó cho sức khỏe của đứa trẻ chưa
ra đời không đoán trước được thành ra là thảm họa.
Dù rằng di truyền học hiện đại phát triển vượt bậc, nhưng
cấp bách bây giờ là làm trong sáng năng lực của chúng ta cho lý do đạo đức vì
thế chúng ta được trang bị những gì thích hợp để nói đến những thử thách đạo đức
cho hoàn cảnh mới này. Chúng ta không thể ngồi chờ cho những loạt đáp ứng xuất
hiện trong một cách có tổ chức. Chúng ta cần đối diện cho thực tế tương lai tiềm
năng của chúng ta và xử lý các vấn nạn một cách trực tiếp.
Tôi cảm thấy thời điểm đã chín muồi để dấn thân về phía đạo
đức của cách mạng di truyền học trong một thái độ vượt khỏi các quan điểm giáo
thuyết của các tôn giáo riêng biệt. Chúng ta phải đứng lên với sự thử thách đạo
đức như những thành viên của một gia đình nhân loại, chứ không như một Phật tử,
một tín đồ Do Thái giáo, một Ki tô hữu, một người Ấn giáo, hay một người Hồi
giáo. Cũng không thích hợp để nói đến những thử thách này từ quan điểm của những
ý tưởng thuần thế tục, khai phóng, chính trị, chẳng hạn như tự do cá nhân, lựa
chọn và công bằng. Chúng ta cần thẩm tra những câu hỏi từ nhận thức của đạo đức
toàn cầu vốn được đặt nền tảng trong việc nhận ra các giá trị nhân bản vượt
trên tôn giáo và khoa học.
Thật không xứng đáng để nhận vị thế mà trách nhiệm xã hội
của chúng ta đơn giản như chỉ để làm xa hơn kiến thức khoa học và làm nổi bật
năng lực của kỷ thuật. Lập luận rằng việc
thực hiện kiến thức và năng lực này phải nên để cho những sự lựa chọn của các
cá nhân cũng không đủ. Nếu lập luận này có nghĩa là xã hội nói chung không nên cản trở phạm vi nghiên cứu và sáng tạo
các kỷ thuật mới căn cứ trên sự nghiên tầm như vậy, thì sẽ loại bỏ một cách hiệu
quả bất cứ vai trò đáng kể nào cho những quan tâm nhân ái và đạo đức trong quy
tắc phát triển khoa học. Thực tế, điều quan trọng là trách nhiệm của chúng ta
phải là sự tự cảnh giác khẩn trương hơn nhiều về vấn đề chúng ta đang phát huy những
gì và tại sao. Nguyên lý căn bản là càng can thiệp vào tiến trình nguyên nhân
càng sớm, thì sự ngăn ngừa cho những hậu quả không mong muốn càng hiệu quả hơn.
Để đáp ứng đến những thử thách trong hiện tại và trong
tương lai, chúng ta cần sự nổ lực tập thể ở mức khẩn trương như chưa từng thấy.
Một giải pháp từng phần là để bảo đảm rằng một bộ phận công chúng rộng rãi hơn
có một sự nắm bắt năng động về tư duy khoa học và một sự hiểu biết về những
khám phá khoa học then chốt, đặc biệt đối với những thứ có quan hệ mật thiết trực
tiếp đến xã hội và đạo đức. Giáo dục cần cung ứng không chỉ việc rèn luyện
trong các sự kiện khoa học thực nghiệm mà cũng là một sự thẩm tra về mối quan hệ
giữa khoa học và toàn thể xã hội, kể cả những vấn đề đạo đức phát sinh từ các
tiềm năng kỷ thuật mới. Nghĩa vụ giáo dục phải được hướng đến các nhà khoa học
cũng như những tín đồ, vì thế các nhà khoa học duy trì một sự thấu hiểu rộng
rãi hơn về những phân nhánh của xã hội, văn hóa, và đạo đức về công việc mà họ
đang làm.
Một điều chắc chắn rằng những mục tiêu cho thế giới là rất
cao, thế nên các quyết định về phạm vi nghiên cứu, những việc làm với kiến thức
của chúng ta, và các tiềm năng của kỷ thuật nên được phát triển không thể để
trên tay của những nhà khoa học, các mối quan tâm thương mại, những viên chức
chính phủ mà thôi. Rõ ràng, như một xã hội thì chúng ta cần vạch ra một số ranh
giới nào đó. Nhưng những sự cẩn trọng này không thể đến đơn thuần từ những ủy
ban nhỏ, bất chấp vấn đề họ có uy thế hay chuyên môn như thế nào. Chúng ta cần
sự tham gia ở một cấp độ cao hơn nhiều bao gồm công chúng, đặc biệt trong hình
thức của tranh luận và thảo luận, cho dù qua truyền thông, thương nghị công cộng,
hay hoạt động áp lực của những nhóm thường dân.
Những thử thách ngày nay là rất lớn – và những hiểm họa của
việc lạm dụng kỷ thuật là toàn diện, dẫn đến một thảm họa tiềm năng cho toàn
nhân loại – vì thế tôi cảm thấy chúng ta cần một mục đích đạo đức để chúng ta
có thể sử dụng một cách tập thể mà không bị sa lầy vì những khác biệt giáo thuyết.
Một nhân tố then chốt là chúng ta cần một quan điểm toàn diện và thống nhất ở
trình độ xã hội con người vốn nhìn nhận bản chất liên hệ hổ tương nền tảng của
tất cả mọi sự sống và môi trường. Một mục tiêu đạo đức phải đòi hỏi việc bảo tồn
tính nhạy cảm con người và sẽ lệ thuộc trên chúng ta một cách liên tục hướng
vào trọng tâm những giá trị nhân bản nền tảng. Chúng ta phải tự nguyện đứng lên
khi khoa học – hay về bất cứ hành vi nào của con người – vượt qua lằn ranh của
tiêu chuẩn nhân bản, và chúng ta phải đấu tranh để bảo vệ tính nhạy cảm mà nếu
khác đi thì sẽ rất dễ bị xói mòn.
Chúng ta tìm ra mục tiêu đạo đức này như thế nào? Chúng
ta phải bắt đầu bằng việc đặt sự tin cậy trong tính lương thiện nền tảng của bản
chất con người, và chúng ta cần nắm chặc niềm tin này trong một số nguyên tắc nền
tảng và phổ quát của đạo đức. Những điều này bao gồm một sự công nhận về tính
quý giá của sự sống, một sự thông hiểu về nhu cầu cho việc cân bằng trong tự
nhiên và cách sử dụng nhu cầu này như một tiêu chuẩn đánh giá cho phương hướng
của tư tưởng và hành động của chúng ta, và – trên tất cả - nhu cầu cho việc bảo
đảm rằng chúng ta nắm giữ lòng từ bi yêu thương như động cơ then chốt cho tất cả
mọi nổ lực của chúng ta và nó được phối hợp với một sự tỉnh thức trong sáng của
một nhận thức rộng rãi hơn, kể cả những hậu quả lâu dài. Nhiều người sẽ đồng ý
với tôi rằng những giá trị đạo đức này vượt khỏi tính lưỡng phân của những người
có niềm tin và không niềm tin tôn giáo, và là quan trọng cho lợi ích của toàn
thể nhân loại. Bởi vì thực tế quan hệ hổ tương sâu sắc của thế giới ngày nay,
cho nên chúng ta cần liên hệ đến những thử thách mà chúng ta đối diện như một gia đình nhân loại
duy nhất thay vì như những thành viên của những quốc gia, chủng tộc và tôn giáo
đặc thù. Nói cách khác, một nguyên tắc cần thiết là một tinh thần duy nhất của
toàn thể nhân loại. Một số người có thể chống đối rằng điều này là không thực tế.
Nhưng chúng ta có chọn lựa nào khác?
Tôi tin tưởng một cách chắc chắn rằng điều ấy là có thể.
Sự thật rằng, mặc cho sự sống của chúng ta trong hơn nửa thế kỷ trong thời đại
nguyên tử thì chúng ta chưa hủy diệt chính chúng ta là điều làm cho tôi rất hy
vọng. Sẽ không ngẫu nhiên nữa, nếu chúng ta phản chiếu một cách sâu xa, thì
chúng ta thấy những nguyên tắc đạo đức này ở trung tâm của tất cả mọi truyền thống
tâm linh quan trọng.
Trong việc phát triển một chủ trương đạo đức với việc
quan tâm đến di truyền học mới, điều hết sức quan trọng là điều chỉnh sự phản
chiếu của chúng ta cho thích hợp trong một
phạm vi khả dĩ rộng lớn nhất. Trước tiên tất cả chúng ta phải nhớ rằng vấn đề
lãnh vực mới này như thế nào và những tiềm năng nó cung ứng mới như thế nào, và
để quán chiếu vấn đề chúng ta thông hiểu những gì chúng ta biết nhỏ bé như thế
nào. Bây giờ chúng ta đã đọc được trình tự toàn thể bộ gien của nhân loại,
nhưng phải cần đến hàng thập niên để chúng ta thấu hiểu hoàn toàn những chức
năng của tất những gien cá nhân và những mối quan hệ hổ tương của chúng, để chưa
kể đến những ảnh hưởng của tác động qua lại của chúng với môi trường. Sự tập
trung hiện tại của chúng ta là quá nhiều trên tính khả thi của một kỷ thuật đặc
thù, những kết quả và tác dụng phụ tức thời cũng như ngắn hạn của nó, và những
gì có thể tác động đến tự do cá nhân. Tất cả những quan tâm này là đáng giá,
nhưng chúng không đầy đủ. Phạm vi hoạt động của chúng quá hẹp, dù rằng chính nhận
thức về bản chất con người là nguyên tắc để thực hiện. Do bởi phạm vi ảnh hưởng
sâu rộng của những sáng tạo mới, thì chúng ta cần thẩm tra tất cả những lãnh vực
con người tồn tại nơi mà kỷ thuật di truyền có thể có sự liên can lâu dài. Vận
mệnh của loài người, có lẽ tất cả mọi sự sống trên hành tinh này, là ở trong
tay chúng ta. Khi đối diện với những điều chưa biết, có phải tốt hơn là cẩn trọng
không phạm lỗi lầm hơn là chuyển hóa phạm vi tiến hóa của con người trong một
phương hướng tai hại không thể đảo ngược?
Tóm lại, sự phản ứng đạo đức của chúng ta phải liên quan
tới những nhân tố then chốt sau. Thứ nhất, chúng ta phải kiểm tra động cơ cuả
chúng ta và bảo đảm rằng căn bản của nó là từ bi yêu thương. Thứ hai, chúng ta
phải liên hệ đến bất cứ vấn nạn nào trước chúng ta, trong khi phải tính đến mức
độ rộng rãi nhất như có thể, là điều bao gồm không chỉ đặt vị trí vấn đề trong
khung cảnh với việc mạo hiểm của con người rộng lớn hơn nhưng cũng tính toán
qua việc quan tâm đến cả những hậu quả ngắn hạn và dài hạn. Thứ ba, khi chúng
ta yêu cầu lý trí của chúng ta trong việc nói với một vấn đề, thì chúng ta phải
bảo đảm rằng chúng ta duy trì sự trung thực, tự cảnh giác, và không thành kiến;
bằng trái lại thì hiểm họa là chúng ta có thể trở thành nạn nhân với sự tự vọng
tưởng. Thứ tư, khi đối diện với bất cứ thách thức đạo đức thật sự nào, chúng ta
phải đáp ứng trong một tinh thần khiêm cung, nhận ra không chỉ những giới hạn của
kiến thức chúng ta (cả tập thể và cá nhân) nhưng cũng là tính chất có thể bị tổn
thương khiến bị hướng dẫn sai lầm trong phạm vi của một thực tế thay đổi nhanh
chóng như vậy. Cuối cùng, tất cả chúng ta – những nhà khoa học và toàn xã hội –
phải cố gắng để bảo đảm rằng bất cứ phạm vi hành động mới nào chúng ta thực hiện,
thì chúng ta phải giữ trong tâm trí mục tiêu chính cho sự cát tường của toàn thể
nhân loại và hành tinh mà chúng ta sinh sống.
Trái đất là ngôi nhà duy nhất của chúng ta. Đến bây giờ
như tri thức con người biết được, đây có thể là hành tinh duy nhất có thể nuôi
dưỡng sự sống. Một trong những quang cảnh ấn tượng nhất mà tôi đã trải nghiệm là
tấm hình đầu tiên của trái đất từ bên ngoài không gian. Hình ảnh của một hành
tinh xanh trôi trong không gian sâu thẳm, lóe sáng như ánh trăng tròn trong một
đêm trời quang đảng, đối với tôi rõ ràng đầy năng lực với việc nhận ra rằng
chúng ta thật sự là những thành viên của một gia đình duy nhất cùng chia sẻ một
ngôi nhà nhỏ bé. Tôi đã bị tràn ngập với cảm giác vấn đề cười ra nước mắt làm
sao với những bất đồng và cải vả ầm ỉ trong gia đình nhân loại. Tôi đã thấy vấn
đề vô hiệu quả thế nào khi quá bám chặc với những khác biệt đã chia rẽ chúng
ta. Từ nhận thức này thì người ta cảm thấy mong manh, tính chất dễ bị tổn
thương của hành tinh này và sự chiếm cứ giới hạn của nó của trong một quỹ đạo
bé nhỏ kẹp giữa sao Kim và sao Hỏa trong không gian rộng lớn vô tận. Nếu chúng
ta không chăm sóc ngôi nhà này, thì chúng ta còn phải làm gì nữa trên trái đất
này?
Ẩn Tâm Lộ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét