SỰ HỢP
NHẤT CỦA ĐẠI LẠC VÀ TÁNH KHÔNG
Giáo Huấn Về Sự Thực Hành Đạo Sư Yoga
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Thupten Jinpa
Việt dịch: Tuệ Uyển
Chương 2: Những Dự Bị
***
Những việc làm dự bị bao gồm
I. Những thực hành dự bị tổng quát,và
II. Những thực hành dự bị không thông thường.
I. NHỮNG THỰC HÀNH DỰ BỊ TỔNG QUÁT
Liên quan đến sự thực tập hàng ngày, khi mới thức dậy chúng ta phải trau dồi một
động cơ thật tốt lành, hãy nghĩ, tôi sẽ không để ngày hôm nay trong vô ích, thay
vì thế trong một cung cách đạo đức. Quán chiếu trên sự kiện rằng chúng ta tin
tưởng trong điều gì đó gọi là giáo pháp và đã
nghe về nó, và tin tưởng, luật nhân quả, giáo thuyết tánh không, tình
yêu, từ bi và v.v... Cho nên, đã tỉnh thức về những nhân tố này, thì thật là
ngu ngơ để vẫn cẩu thả và không động cơ. Đối với những người như vô thần không
tin vào những sự kiện như thế, thì là một vấn đề khác, nhưng đối với chúng ta
là những người tỉnh thức với những nhân tố này, và có một niềm tin và tín ngưỡng
mạnh mẽ trong giáo pháp, thì phải là ngu ngơ và đáng buồn nếu chúng ta dành cuộc
sống của chúng ta một cách nhàn rỗi.
Cho nên sau khi thức dậy, hãy trau dồi một động cơ thích đáng, hãy nghĩ làm sao
để dành ngày ấy một cách tốt nhất; vào cuối ngày ta nên ôn lại những hành vi
nào mà ta đã dấn thân, và so sánh chúng với ngày trước. Việc này sẽ giúp ích rất
nhiều. Khi ta thấy rằng ta đã sai sót và không thực hành một cách không thích
đáng, thì ta nên hối hận. Sáng ngày sau hãy tái khẳng định sự quyết tâm của ta
để tự sửa sai và không lãng phí một ngày trong đời sống của ta, vốn để được
hoàn tất một cách có ý thức để đem đến một sự chuyển hóa nào đó trong các thái
độ của ta. Chúng ta nên trau dồi quyết tâm hơn trong chính mình qua một tiến
trình như vậy. Sự quyết tâm của ta phải là: Ngay cả nếu tôi có thể không đạt được
những thực chứng cao, thì tối thiểu tôi sẽ không tổn hại chính mình. Lý do để
không lãng phí ngay cả một ngày là rằng mặc dù giáo pháp là quý báu và có hiệu
lực, nhưng trong tự nó thì không đầy đủ; chính ta phải tìm thấy lợi ích qua sự
thực tập của mình.
Sự thực tập như vậy có thể được hoàn thành khi ta đã có được một hình thể con
người thích hợp. Chúng ta phải suy ngẫm và vui mừng trong sự may mắn của việc
không bị tái sanh trong những cõi thấp hơn hay như một con người ở những xứ sở
không có sự thực tập giáo pháp, cũng như đã tái sanh trong một thân thể con người
thích hợp không thiếu một giác quan nào. Tất cả những điều kiện chính cho việc
thực hành giáo pháp được đầy đủ, chẳng hạn những nhân tố ngoại tại của việc có
sự hiện diện của Phật pháp trên thế giới, và cũng như việc chúng ta có những
năng lực cần thiết như một con người.
Phản chiếu trên những sự kiện như vậy, bạn phải dấn thân trong những sự thực tập
lamrim (tiệm tiến), trau dồi những nhận thức rõ ràng về ba
phương diện chính yếu của con đường và hai giai đoạn của tantra (phát sinh và hoàn
thành). Nhằm để làm cho những sự thực hành như vậy mạnh mẽ và tác động hơn, thì
cần thiết phải trì tụng các mantra và v.v... Có những sự thực tập nào đó chẳng
hạn như gia
hộ lời nói vốn có thể
giúp để giảm thiểu các tiêu cực tích lũy qua việc nuông chiều những lời bàn tán
nhãm nhí vô nghĩa và v.v... Chúng ta sẽ thấy những điều này trong các văn bản
được trình bày đại cương trong sự thực tập hàng ngày. Cần thiết là phải làm cho
mỗi ngày và mọi ngày trong đời sống của chúng ta đầy đủ ý nghĩa.
Khi chúng ta bắt đầu thực tập của mình thì phải làm với sáu sự thực tập dự bị.
1- Môi trường của ta, phòng xá hay nhà cửa, phải sạch sẽ. Động cơ cho việc làm
vệ sinh phòng xá không nên bị tác động bởi những thái độ trần tục; đúng hơn,
chúng ta phải nghĩ rằng vì chúng ta đang thỉnh mời lãnh vực công đức, thì nhất
thiết phải có môi trường tinh khiết và ngăn nắp. Nếu việc dấn thân trong sự thực
tập giáo pháp trở thành một hành vi không đạo đức thì thật đáng buồn. Những
khía cạnh không thanh tịnh của môi trường mà chúng ta thấy thật sự sản sinh tâm
thức không thuần khiết của chúng ta. Do thế, nếu có bụi bặm chung quanh và
chúng ta không mong muốn một môi trường không hài lòng như vậy, thì chúng ta phải
tìm kiếm nguyên nhân gốc rễ. Nhưng tôi nghĩ nhất thiết phải làm vệ sinh môi trường,
đặc biệt trong một nơi như Bồ Đề Đạo Tràng nơi hầu như bảo đảm một trăm phần
trăm bị cảm lạnh! Nhưng khi chúng ta quét bụi bặm nó làm chúng ta bị ho và
chúng ta không thích như thế, cho nên chúng ta phải tìm ra nguyên nhân thật sự,
và trong khi quét dọn thì chúng ta phải có thái độ. Trong thực tế tôi đang làm
vệ sinh tâm thức si mê của chính tôi. Môi trường càng thú vị, thì càng tốt hơn
cho một tâm trong sáng, là điều hóa ra sẽ giúp cho sự thực tập giáo pháp của
ta.
2- Đã làm vệ sinh nơi chốn, hãy sắp xếp những đại diện của thân, khẩu, tâm ý của Đức Phật, chẳng hạn như những bức tượng, kinh
điển, và v.v... trong một trật tự thích đáng. Sau đó xếp đặt những đại diện của
các bổn tôn như trong tranh ảnh. Nếu bạn có những tranh vẽ như vậy về những
lãnh vực công đức của Lama Chopa, thì không nên treo quá cao, trái lại khi ta
nhìn vào đấy để giúp ta quán tưởng, thì ta có thể không thấy từng cá thể, và điều
này có thể làm ta chán nản.
3- Những sự cúng dường của chúng ta không nên bị tác động bởi sự thay đổi bất
thường của động cơ và chúng không nên có được bằng những phương tiện không
thành thật – việc cúng dường có được bằng những phương tiện sai lầm thì không
phải là những vật phẩm cúng dường tốt. Chúng phải được chuẩn bị với động cơ
thích đáng. Như đã được giải thích trong giới điều quy y, thì ta phải dâng cúng
phần đầu tiên của thức ăn hay thức uống trong ngày, cho dù đó là thực phẩm, sửa
hay trà. Vật cúng dường phải được làm bằng những gì có thể ăn được; thật không
có lợi gì để chuẩn bị một bánh cúng (torma) không thể ăn được và rồi nói OM AH
HUM, OM AH HUM. Nếu bạn trong thực tế có thể biến đổi điều gì đó thành thực phẩm
ngon lành thì chỉ trì tụng OM AH HUM ba lần, rồi thì mọi việc tốt đẹp! Trái lại,
nếu vật cúng dường của ta vẫn thuần là tsampa (bột đại mạch nướng) thì sau khi trì tụng OM AH HUM, một
nghìn lần, thì chẳng giúp gì nhiều. Vật cúng dường phải là điều gì đó tốt đẹp
nhất mà ta có thể làm. Tối thiểu ta có thể cúng dường phần đầu tiên thực phẩm
hàng ngày của ta, vì không ai có thể sống mà không có thực phẩm! Sự cúng dường
phải là điều gì đó có thể ăn được.
Sau khi bị Tàu Cộng xâm lăng năm 1960, hoàn cảnh ở Tây Tạng đến nổi người ta phải
ăn chuột nhắt, chuột cống, và v.v... Người ta nói rằng một loại sâu nào đó
trông trơn tru như dầu thật sự ăn rất ngon! Một số người đã nói với tôi rằng
vào cuối ngày, khi buổi học tuyên truyền buổi tối đã xong và họ cuối cùng được
cho đi ngủ, thì họ đến chỗ làm vệ sinh và lấy những con sâu đã bắt được để nướng
trong những hộp thuốc lá và ăn. Dường như một số người nào đó đã phải ăn vật thải
của con người. Đó thật là một thảm kịch! Đó là những ngoại lệ - những loại có
thể ăn được như vậy thì không nên cúng! Đồ hộp sẽ không vấy bẩn, và cũng có thể
ăn được. Nếu ta có thể làm cho nước cúng dường trong một cung cách thích đáng
nào đó, thì ta có thể phát sinh công đức lớn.
4. Rồi thì, trên một chỗ ngồi thoải mái, ta phải ngồi trên một vị trí sở hữu bảy
đặc trưng (12) của tư thế Vairochana (Tỳ
Lô Giá Na). Nếu ngồi tréo chân (xếp bằng, kiết già,...) không dễ chịu, thì
hãy đặt chúng trong một cung cách thế nào bạn cảm thấy thoải mái. Ta có thể ngồi
trên một chiếc ghế và nói rằng ta đang tuân theo tấm gương của Di Lặc! Đôi bàn
tay ta nên được đặt ở ngang rốn, bàn tay phải ở trên, và hai ngón tay cái chạm
vào nhau, thành hình tam giác. Xương sống phải thẳng như một mũi tên. Răng và
môi nên để ở vị trí bình thường và lưỡi phải chạm vòm trên của miệng vì thế ta
sẽ không chảy nước bọt trong lúc hành thiền. Như được nói rằng, khi gió di chuyển
lên phía trên trở nên mạnh mẽ nó sẽ làm khát
nước, cho nên giữ lưỡi của ta chạm vòm miệng trên sẽ giúp ta chuyện này.
Đầu của ta phải hơi cong, đôi mắt ta nhìn thẳng vào chóp mũi. Điều không có
nghĩa là ta phải thật sự nhìn vào chóp mũi – nhưng nếu lỗ mũi rất dài thì sẽ rất
khó khăn. Nhưng nếu lỗ mũi ta rất nhỏ thì tròng mắt ta sẽ bắt đầu nhức! Những
người Âu Mỹ có những chiếc lỗ mũi rất dài, thì rất tiện lợi! Nếu đôi mắt ta cúi
xuống quá nhiều nó làm cho đau nhức, cho nên chúng nên được giữ trong vị thế
bình thường. Vào lúc bắt đầu, nhắm hai mắt lại dường như giúp cho ta quán tưởng
rõ ràng, nhưng khi sự tập trung của ta sâu hơn thì như vậy không giúp đở nhiều.
Nếu trở thành quen thuộc với hai mắt nhắm lại, thì thật sự nguy hiểm hơn đối với
hôn trầm. Trái lại, nếu ta tự rèn luyện trong một tư thế hành thiền với hai mắt
mở, mặc dù lúc mới bắt đầu mọi thứ đi vào tầm mắt của ta có thể làm cho ta rối
rắm, nhưng sau này sẽ giúp ta một sự quán tưởng rất rõ ràng. Dường như đối với
một số người thường đeo kính, sự quán tưởng trở nên rõ hơn khi ta đeo kính vào
và có thể làm ra quá nhiều cường độ mãnh liệt. Trong khi lấy kính ra có thể làm
cho xao lãng giải đải! Cho nên, chúng ta không nên cố ý nhắm mắt lại, thay vì
thế chúng nên được giữ trong một tư thế tự nhiên. Sau một lúc chúng ta sẽ thấy
rằng ta quên là đôi mắt ta mở ra hay nhắm lại.
Hãy giữ đôi vai ta trong tư thế tự nhiên. Nếu thêm hơi thở thích ứng vào bảy đặc
trưng này nó sẽ trở thành tám tư thế Vairochana.
5. Sau đó kiểm soát tâm ta có sự hiện diện của bất cứ cảm xúc mạnh mẽ nào
không, như thù ghét hay có sự bám chấp mạnh mẽ đối với bất cứ đối tượng nào như
những sở hữu của ta không. Thì dụ, nếu ta có một sự sân hận rất mạnh mẽ nó phải
bị phản kháng lại bởi việc thiền quán về tình yêu thương, đặc biệt tập trung
trong đối tượng sân hận ấy. Chúng ta phải chuyển hóa cảm xúc qua nổ lực tinh thần;
hay, thay vì sử dụng một kỷ năng tinh thần, thì ta nên tập trung vào chuyển động
của gió (năng lượng). Nếu ta thấy tâm ta quá lơ đãng, phân tán, để làm nó tĩnh
lặng và quên đi những sự phân tán như vậy thì ta phải thúc đẩy tất cả sự tập
trung của ta vào trong hơi thở ra và thở vào, hãy tỉnh thức với tiến trình chuyển
động của nó: bây giờ nó ra, bây giờ nó vào, tôi đang thở vào, và v.v... Sự thực
tập này phải được hoàn thành trong một cung cách thật dịu dàng. Tôi đã thấy nó
được giải thích trong những luận giải nào đó khi hành giả có một tâm thức tiêu
cực của một sự thúc đẩy mạnh như sân hận, thì ta phải thở vào và thở ra một
cách mạnh mẽ vì thế ta mới có thể vượt thắng những sức mạnh bạo hành của cảm
xúc. Do bởi sức mạnh của chính những tâm thức ấy, khi ta thở vào một cách mạnh
mẽ và tưởng tượng rằng ta đang xua đuổi
những cảm xúc ấy, dường như ta được giúp đở một cách hữu hiệu. Nếu ta đang làm
tiến trình thở này chỉ để chiến thắng sự sao lãng, thì ta phải làm nó trong một
cung cách dịu dàng, thầm đếm hơi thở vào và thở ra. Đây là vòng một ... vòng hai...
và v.v...
Trong sự thực tập sáu yoga của Naropa, một tiến trình gọi là “xua tan những làn
gió nhiễm ô qua chín vòng của hơi thở” được giải thích: Trước nhất ta thở vào
qua lỗ mũi bên phải và thở ra qua lỗ mũi bên trái, sau đó ta thở vào qua lỗ mũi
trái và thở ra qua lỗ mũi phải. Trong sự thực tập hổ trợ cho giai đoạn hoàn
thành trong nghi thức Vajrayogini, do bởi sự nổi bật đặc biệt, sự thực tập phải
được bắt đầu với lỗ mũi trái. Nhưng khi chúng ta thực tập trên căn bản của sáu
yoga Naropa, thì trước nhất đóng lỗ mũi trái với lưng của ngón trỏ phải của ta
và thở vào qua lỗ mũi phải, và rồi thì thở ra qua lỗ mũi trái trong khi đóng lỗ
mũi phải; sau đó, đóng lỗ mũi phải với lưng ngón trỏ trái và v.v... Trong tiến
trình này, mặc dù trong thực tế ta đang thở vào và thở ra qua những lỗ mũi,
nhưng hãy tưởng tượng rằng những luồng gió đi ra và đi vào qua hai kinh mạch
hai bên. Chúng ta cũng có thể thực tập mà không đóng lỗ mũi lại bằng tay. Điều
này sẽ làm tĩnh lặng năng lực của bất cứ cảm xúc nào mà ta có, bởi vì nó ngăn
chặn sự tăng cường nó. Năng lực mạnh mẽ của cảm xúc lặng xuống giống như nước đục
trở nên trong sạch. Một tình trạng không đạo đức của tâm thức phải được chuyển
hóa thành một tâm thức trung tính và rồi thì được chuyển hóa một cách thiện nghệ
thành một thể trạng đạo đức.
6. Đã tập hợp được những chủ đề cần thiết, bất khi nào ta đang thực tập một
cách thích đáng hay không tùy thuộc đích đáng vào động cơ của ta. Do thế, như
được giải thích ở trên, thì ta nên trau dồi động cơ vào buổi sáng đó là ta sẽ sử
dụng nó một cách hiệu quả nhất cho ngày hôm nay. Chúng ta phải phát triển một
quyết tâm để làm cho ngày hôm nay đầy đủ ý nghĩa, vì hình thể con người quý giá
này là đầy đủ ý nghĩa với sự tôn trọng đối với tiềm năng của nó. Thật khó khăn
để hợp nhất tâm ta với đạo đức trong mọi lúc, nhưng hãy nghĩ: Trong khi tôi
đang tiến hành sự thực đạo sư yoga này, tôi phải hợp nhất tâm tôi với giáo pháp
mà không bị tác động bởi những thái độ thế gian. Chúng ta phải hướng tất cả những
sự tập trung của ta với thời gian ngắn ngủi của buổi thực tập. Sự tập trung của
ta càng mạnh mẽ hơn, thì sự thực tập của ta sẽ càng đầy đủ ý nghĩa hơn, và việc
ta có thể có được của việc đạt được một hình thể con người có thực chất hơn.
Hãy phản chiếu trên những chủ đề chẳng hạn như việc hiếm hoi của thân người quý
giá, vô thường, sự chết và v.v... và hãy phát triển quyết tâm: Trong khi tôi
đang tiến hành sự thực tập này thì tôi sẽ thực hiện nó tốt đẹp nhất như có thể;
tôi sẽ không lãng phí kiếp sống này, và đặc biệt trong năm này, tháng này, ngày
này, và chính trong giờ phút này! Khi ta tiếp nhận giáo huấn từ Đức Đạt Lai Lạt
Ma thì nó không phải được hoàn thành một cách dối trá – đến với giáo huấn này với
lòng nhiệt tình lớn, nhưng không làm gì thực hành khi bạn trở về chỗ của bạn.
Theo một quan điểm, việc tiếp nhận giáo huấn và giả vờ rằng ta rất thích thú giống
như lừa dối đạo sư. Mục đích của việc tiếp nhận những giáo huấn như vậy là để
đem vào sự thực tập sau đó. Nếu ta đến để gặp một cuộc trình diễn nào đó, rồi
thì tôi chỉ như một diễn viên, trong trường hợp sau khi đã thấy cuộc trình diễn
thì ta ngay lập tức quên lãng mọi thứ; nhưng đây không phải là trường hợp như vậy.
Trải qua hàng ngày, hàng tháng, và hàng năm thì ta có thể mang đến một sự chuyển
hóa tâm thật sự, vì nó là bản chất của tâm cho nên nó thích nghi với những gì
quen thuộc. Ý thức không có hình tướng, do thế nó không có khả năng đề kháng lại
chướng ngại và nó đi theo những gì quen thuộc và thông lệ. Mặc dù những cảm xúc
phiền não không có hình tướng, nhưng chúng rất mạnh mẽ do bởi thói quen lâu đời
của chúng ta. Mặc dù chúng ta tỉnh giác với những khuyết điểm và sai lầm của
nó, nhưng chúng ta vẫn rơi vào sự ảnh hưởng
của nó do bởi thói quen của chúng ta. Nếu chúng ta liên tục làm quen chính mình
với sự thực tập, thì cuối cùng ta có thể tác động một sự thay đổi nào đó.
Chúng ta có thể để ý thấy một sự khác biệt nào đó giữa thể tâm thức hiện tại của
ta và mười năm trước. Mặc dù rất khó khăn để tôi giải thích với người khác tầm
quan trọng của việc mang đến một sự chuyển hóa tâm, vì chính tôi đã không thể
thực chứng một kỳ công như vậy, tuy nhiên nếu tôi so sánh thể trạng của tâm tôi
hiện tại và của mười hay hai mươi năm trước, thì tôi thấy có một sự thay đổi
nào đó trong sự thấu hiểu của tôi về tánh không, kinh nghiệm của tôi về tâm bồ
đề, và v.v... Tối thiểu tôi biết phương hướng nơi tâm bồ đề nằm ở đâu! Những
kinh nghiệm này chỉ xảy đến qua thực hành; chúng không phải là điều gì đó phát
sinh một cách tự phát. Cho nên, qua việc quen thuộc đạt được từ việc rèn luyện
trải qua hàng năm, thì tôi nghĩ là tôi thấy một sự khác biệt nào đó, một tác động
nào đó trong tâm tôi – và tôi không hảnh diện về những thực chứng của tôi! Đức
Đạt Lai Lạt Ma không phải sanh ra với năng lực để bay; nếu là trường hợp như vậy
nó không khích lệ - trái lại, có thể làm chán nản.
Mặc dù, nhằm để làm cho mọi người phát triển niềm tin, chúng ta nói rằng Đức Phật
có tất cả những đặc tính và phẩm chất, nhưng nếu chúng ta được thúc giục để noi
gương ngài thì chúng ta có thể cảm thấy nản lòng và miễn cưởng, và nghĩ: Ô, làm
sao tôi có thể đạt được như vậy! Nhưng chúng ta có thể noi gương những bậc thấp
hơn như những vị Bồ tát trên con đường hành thiền, con đường thấy đạo, con đường
chuẩn bị, và v.v... Đặc biệt, nếu chúng ta lấy thí dụ của những vị Bồ tát trong
con đường thứ nhất, con đường tích lũy, thì ta sẽ can đảm hơn và có thể tích cực
noi gương các ngài. Nó giống như khi người nào đó trong cuộc đua và và đối thủ
đang ở xa phía trước – người ấy mất can đảm và hy vọng. Nhưng trái lại, ngay cả
nếu người ấy rất mệt nhọc, nhưng nếu người ấy thấy người nào đó cùng chạy với
mình thì người ấy sẽ lấy lại can đảm và nghĩ: Nếu tôi cố gắng lần cuối cùng thì
tôi có thể bắt kịp người ấy và sẽ có được hy vọng thắng lợi. Trong cùng cách ấy,
chúng ta nên lấy thí dụ về những thành viên của cộng đồng tăng đoàn và cố gắng
để thi đua với họ và sẽ gia tăng lòng can đảm hơn.
Trong quá khứ, phong cách giảng dạy chung là những đạo sư vì lòng khiêm tốn
luôn luôn nói rằng tự chính họ thiếu những sự thực chứng nhưng khuyến khích người
khác tạo ra sự thực chứng. Đối với những cử toạ hiện đại, một phong cách như vậy
dường như làm nản lòng. Trái lại, nếu các đạo sư nói rằng chính họ có một kinh
nghiệm nào đó qua hành thiền, và nếu
phương pháp đó được giải thích, thì điều này có thể giúp cho người nghe có sự
can đảm và ngưỡng mộ hơn; họ sẽ nghĩ: Nếu tôi cũng tiếp nhận những sự thực hành
như vậy thì tôi có thể có được những kết quả giống như vậy.
Chỉ bởi vì thiếu sự thực tập mà chúng ta vẫn ở mãi tình trạng như vậy. Nếu
chúng ta thực hành thì chúng ta có thể đem tới một sự thay đổi. Thế nên, sự thực
tập của ta không nên giống như sự lừa đối Đức Đạt Lai Lạt Ma! Có những người
khác trung thực hơn, họ đến nghe giảng dạy nhưng không thích thú lắm: họ ngủ gà
ngủ gật! Họ có thể đến dự buổi thuyết giảng nhưng quá bận rộn nên không có thời
gian để nghỉ ngơi tốt, và cảm thấy được nghỉ ngơi, thoải mái và ấm áp trong giảng
đường! Nếu ta tiếp nhận giáo huấn với một động cơ trong trong sạch, thế thì ta
đang tìm kiếm một loại lợi ích nào đó cho chính mình; lợi ích ấy chỉ có thể
mang đến qua thực hành. Cung cách tốt nhất cho việc thực tập là thường lui tới
nơi nào đó cô tịch, để là một ẩn sĩ; điều đó rất tốt, nhưng cũng rất khó khăn.
Hơn thế nữa, nếu tất cả chúng ta trở thành ẩn sĩ thì tất cả chúng ta sẽ chết
đói.
Cho nên chúng ta phải có thái độ: Tôi phải cố gắng tốt nhất trong thời gian ngắn
mà tôi dấn thân trong sự thực hành Lama Chopa này, trong một hay hai giờ; tôi
phải làm cho nó đầy đủ ý nghĩa nhất. Hãy quán chiếu vào tầm quan trọng của việc
đạt được thân người quý giá này. Ta có thể nghe nhiều trường hợp nơi mà những
người như chúng ta, dù đã được thân người nhưng chết. Điều này cho thấy rằng sự
sống của chúng ta đã chấm dứt. Chúng ta thấy rằng khi một người chết đi thì của
cải và người thân và v.v... phải bỏ lại, khi mà không có cách nào mà người ấy
có thể mang theo. Khi chúng ta chết đi, thì chúng ta ngay cả phải bỏ lại thân
xác của chính mình; cho dù nó được hỏa thiêu, bỏ xuống nước hay thiêu điện, cuối
cùng không thể tìm ra dấu vết còn lại của nó. Cũng không có cách nào mang theo
bạn bè; và cũng không có cách nào có đạo sư thật sự đi cùng ta. Trong khi chúng
ta đang sống, có thể có những người khác có mong ước mạnh mẽ và ý chí mạnh mẽ
hiến dâng mạng sống của họ cho ta – thí dụ, những người nào đó nói rằng họ sẽ
hiến dâng mạng sống của họ vì Đức Đạt Lai Lạt Ma. Thí dụ có những trường hợp
người ta nói với tôi, “Tôi có thể từ bỏ mạng sống của tôi vì ngài” – nhưng khi
một hoàn cảnh như vậy xảy ra thì họ có thể thoái lui! Có những người có thể thật
sự hy sinh mạng sống của họ vì tôi, nhưng ngay cả như thế, khi tôi chết nó chẳng
giúp được gì. Nhưng nếu tôi dấn thân trong sự thực hành suốt cuộc đời tôi mà
trong ấy tôi đã sử dụng năng lực của tâm thức tôi để chuyển hóa nó, thì như vậy
mới có ích lợi. Chúng ta có thể thấy một sự kiện rằng những thứ như thân nhân
hay của cải không thể giúp gì vào lúc ấy.
Chúng ta có thể không bao giờ chắc khi hiện tượng gọi là sự chết sẽ đến; không
ai có thể chắc chắn ta có thể sống bao lâu. Cho đến bây giờ chúng ta đã phải lệ
thuộc vào những nhân tố bên ngoài như thực phẩm, áo quần, chỗ ở, và v.v... để
duy trì sự sống của chúng ta, nhưng nếu chúng ta thẩm tra trong chi tiết thì
chúng ta sẽ biết rằng không có gì chắc chắn đối với vấn đề chúng ta còn sống
bao lâu. Cho nên hãy nghĩ: Nếu tôi chết hôm nay, tôi đã thực hành đủ rồi chứ? Nếu
ta thực hành tốt và đã tịnh hóa những tiêu cực của ta và đã có những biểu hiện
của một tương lai may mắn qua những giấc mơ và v.v... thì quá tốt; rồi thì
chúng ta sẽ còn không hối hận gì cả. Nhưng nếu chúng ta chết hôm nay mà đã
không thực hành đủ để mang đến những kết quả thuận lợi, thế thì điều quan trọng
là kiểm soát nếu có một việc như tái sanh hay không. Nếu không có tái sanh, thế
thì tốt thôi. Nhiều người không chấp nhận việc tái sanh vì họ không hiểu nó,
nhưng không phải là họ đã bác bỏ sự tồn tại của nó. Nếu người ta cố giữ quan điểm
rằng không có tái sanh, thì có nhiều điều mâu thuẫn vốn không thể giải thích.
Trong Phật Giáo, khuôn thức chung tiếp cận là nếu một hiện tượng là điều gì đó
vượt ngoài nhận thức kinh nghiệm trực tiếp của chúng ta, thế thì nó phải được
suy diễn ra hay được chứng minh qua lập luận hợp lý. Nếu hiện tượng có nhiều chứng
cứ hơn để hổ trợ nó, và ít hay không có chứng cứ bác bỏ sự tồn tại của nó, thế
thì ta phải thừa nhận sự tồn tại của nó. Bởi vì hiện tượng tái sanh có nhiều lý
do hỗ trợ cho nó, thì nếu người ta vẫn giữ quan điểm đối kháng, rằng không có sự
tái sanh, thì sẽ có nhiều mâu thuẫn. Ngoại trừ nói rằng chúng ta không thấy hay
không nhớ lại những kiếp quá khứ, thì chúng ta không chứng cứ trên sự kiện nào
rằng chúng đã không xảy ra. Cũng thế, có những trường hợp người ta nhớ lại những
kiếp sống quá khứ; đây không chỉ một việc của quá khứ, nó thậm chí xảy ra bây
giờ.
Những kiếp sống tương lai được hạn chế trong hai đặc trưng: những sự tái sanh
thuận lợi và những sự tái sanh không thuận lợi. Những cảnh giới địa ngục và ngạ
quỷ thì chúng ta không thấy, nhưng chúng ta có thể thấy những con thú được sanh
ra, sống, và rồi chết đi. Chúng ta có thể thấy rằng có những cảm xúc đau khổ mạnh
mẽ. Giống như hạnh phúc và khổ đau của chính chúng ta gây ra do bởi những hành
vi quá khứ của chính chúng ta, cũng cùng cách ấy hạnh phúc và khổ đau của thú vật
cũng được làm ra từ những hành vi quá khứ của chúng. Chúng ta biết rằng nếu
chúng ta tích tập những hành vi tiêu cực thì chúng ta sẽ có sự tái sanh như những
con thú và v.v... Hãy phản chiếu trên một sự kiện như vậy và hãy tưởng tượng những
gì là số phận nếu chúng ta phải tái sanh như một con thú! Hiện tại, chúng ta đã
đạt được thân người quý giá và cũng tranh đấu cho những quyền con người và
v.v..., nhưng sẽ ra thế nào nếu chúng ta chết ngày mai và thụ thai trong một
con chó cái? Mặc dù chúng ta đã đạt được thân người quý giá, nhưng chúng ta vẫn
phải trải nghiệm nhiều đau khổ và luôn luôn bị quấy rầy bởi những điều không
hài lòng, không thỏai mái, và v.v...; cho nên làm thế nào chúng ta tưởng tượng
chịu nổi một số phận như vậy?
Nếu điều đó vượt ngoài khả năng của mình là một chuyện, nhưng nếu điều đó ở
trong năng lực của mình, thì chúng ta phải phát triển quyết tâm: Tôi sẽ cố gắng
hết sức. Nếu ta dấn thân trong sự thực hành đạo sư yoga này với một thái độ như
vậy, thì tiến trình của ta sẽ rất rộng rãi, vì qua sự thực tập này thì chúng ta
có thể để lại một dấu ấn trong tâm ta cho sự thực chứng toàn bộ con đường. Hãy
nghĩ: Đã tiếp nhận sự quán đảnh và giảng giải, và những sự hướng dẫn và gia hộ
và v.v... từ những đạo sư ân cần của tôi, như một cúng dường của sự thực chứng
đến các ngài tôi sẽ tiếp nhận sự thực tập này hôm nay với sự tuyệt vời nhất
trong năng lực của tôi.
Thái độ tinh thần đạo đức như vậy không nên bị tác động bởi nhưng tư tưởng vị kỷ,
nhưng tốt hơn chúng ta phải quan tâm hơn với lợi ích của những chúng sanh khác.
Cho nên, như được nói văn bản, những sự thực tập dự bị sơ bộ chẳng hạn như quy
y, trau dồi tâm đạo đức, và bốn vô lượng tâm nên được thực hiện.
Quy y là điều phân biệt con đường đúng đắn và con đường sai lầm, và sự phát tâm
bồ đề là điều phân biệt Đại thừa và con đường thấp hơn. Hai nhân tố này là tinh
hoa của toàn bộ giáo pháp.
Quy
Y
Để quy y trước nhất ta phải quán tưởng đối tượng quy y. Tuy nhiên, chúng ta có
thể quy y mà không có sự quán tưởng thật sự đối tượng quy y, nhưng tốt hơn là bằng
việc quán chiếu những phẩm chất của Đức
Phật, giáo pháp, và tăng già. Trong tam bảo, thì việc thông hiểu giáo pháp là
điều quan trọng nhất. Tăng già (sanga) thì có ý nghĩa gì, đó là một bậc đã có sự
thực chứng trực tiếp thứ nhất của giai đoạn học tập; một bậc đã thực chứng giáo
pháp ở cấp độ cao nhất là một Đức Phật.
Hãy quán chiếu về những phẩm chất của giáo pháp. Chúng ta phải quy y Tam bảo từ
tận chiều sâu của tim ta. Đôi khi thậm chí nó tốt hơn là thật sự quán tưởng những
đối tượng, khác đi thì ta có thể có ý tưởng rằng khi ta thỉnh mời chư Phật thì
các ngài xuất hiện, và nếu không thì các ngài không xuất hiện. Hơn nữa, chúng
ta cũng có thể quy y mà không quán tưởng, bằng việc quán chiếu về những phẩm chất
của chư Phật trong mười phương và các vị là con (Bồ tát) của các ngài. Nhưng nếu
chúng ta thật sự quán tưởng những đối tượng quy y như được giải thích ở đây, thế
thì ta có thể tiến hành việc quán tưởng dòng cam lồ chảy xuống từ các ngài – một
dòng cam lồ tịnh hóa những tiêu cực của chúng ta và trao truyền cho chúng ta
năng lực cảm hứng.
Một tiến trình của việc quán tưởng đối tượng quy y được biết như Kyatu Norbu
Lug (Truyền Thống Trân Bảo của Hiện Thân);
một phương pháp thứ hai được gọi là Lama De-nga (Năm Hội chúng Đạo sư), như được diễn tả trong thực hành lamrim Jorhcho được Đức Đạt Lai Lạt Ma
thứ ba sáng tác. Chính ý tưởng này chung nhất cho việc quán tưởng đối tượng quy
y và cho việc phát tâm bồ đề. Một truyền thống thứ ba được thấy ở đây trong
Lama Chopa, thì rất giống với Năm Hội chúng, và là điều được diễn tả bên dưới.
Đối tượng của quy y được quán tưởng như: Ở phía trên, trong không trung ở trước
mặt chúng ta, ở khoảng cách chẳng hạn nếu ta lạy phủ phục (nằm dài xuống) thì
ta có thể chạm được với đầu những ngón tay, là một bảo tọa rất đắt giá được
nâng đở bởi tám sư tử. Ở trung tâm và bốn hướng chính hãy quán tưởng năm bảo tọa
nhỏ hơn. Ở bảo tọa trung tâm, vốn hơi lớn hơn, hãy quán tưởng bậc đạo sư của
giáo huấn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Hình ảnh tinh thần của ta về Đức Phật
không nên giống như một bức tượng mà thay vì thế sống động và rực sáng. Đức Phật phía tay phải là Di Lặc; bên trái là
ngài Văn Thù Sư Lợi. Ngài Di Lặc được vây quanh bởi những đạo sư của dòng truyền
thừa thực hành rộng lớn, bắt đầu bởi Vô Trước (Asanga), và ngài Văn Thù được
vây quanh bởi những đạo sư của dòng truyền thừa quan điểm thậm thâm, bắt đầu với
ngài Long Thọ. Phía sau Đức Phật, hãy
quán tưởng Kim Cang Trì vây quanh bởi những đạo sư của dòng truyền thừa kinh
nghiệm. Thuật ngữ dòng truyền thừa kinh nghiệm (experience lineage) có nhiều ý nghĩa: ở đây, hãy lấy dòng truyền thừa
thiền tập bổn tôn mà chúng ta thực tập chính yếu.
Phía trước, ở trung tâm hãy quán tưởng đạo sư gốc của mình, người ân cần trong
ba cách và trong ngài ta có niềm tin mãnh liệt nhất. Thật sự, những thực hành
sùng kính đạo sư thì ta không nên có bất cứ cảm giác cục bộ nào, thay vì thế ta
phải thấy các ngài như những vị Phật thật sự, bắt đầu với vị thầy đầu tiên dạy
ta những mẫu tự (abc). Nhưng đối với người bắt đầu chưa phát triển một thái độ
như vậy, thì rất lợi ích để tập trung hơn vào một vị đạo sư, vị mà ta cảm thấy
cuốn hút nhất và niềm tin mạnh mẽ nhất, và rồi sau này hãy hướng cảm giác đúng
đắn vào những vị khác. Hãy quán tưởng rằng vị đạo sư trước mặt trong hình thể
thông thường của ngài, nhưng nếu ngài có bất cứ khuyết điểm nào ở trên mắt ngài
và v.v... thì không nên quán tưởng. Bằng trái lại, thì ngài nên được quán tưởng
trong hiện tướng thông thường của ngài. Ngài được vây quanh bởi những vị đạo sư
khác mà ngài đã tiếp nhận giáo huấn, tất cả các ngài ngó thẳng phía trước các
ngài. Vì thế, tất cả có năm hội chúng đạo sư.
Hãy quán tưởng những bổn tôn thiền quán của bốn lớp tantra, sắp xếp có thứ tự
trong những vòng tròn chung quanh năm hội chúng đạo sư. Trong vòng tròn trung
tâm là những bổn tôn của tantra yoga tối thượng: tiếp theo là của tantra yoga,
sau đó là tantra thực hiện, và rồi thì là tantra hoạt động. Bên ngoài những bổn
tôn thiền quán là chư Phật, Bồ tát, anh hùng, dakini, v.v...
Chính mình được vây quanh với tất cả chúng sanh của sáu cõi. Như được Gungtang
Rinpoche giải thích, thì thật tốt lành để quán tưởng tất cả trong hình tướng của
con người vì đây là những hình tướng thích hợp cho việc thành tựu các chứng ngộ.
Nhưng chúng ta cũng có thể quán tưởng họ trong hình tướng cá nhân của của họ vì
thế chúng ta có thể phát lòng từ bi mạnh mẽ hơn tập trung vào số phận khổ đau của
họ. Tôi nghĩ rằng trước nhất chúng ta có thể quán tưởng họ trong hình thể cá
nhân của họ và sau này, khi chúng ta làm
quán tưởng về những dòng cam lồ chảy xuống và tịnh hóa những tiêu cực, thì hãy
quán tưởng họ được chuyển hóa thành dáng vẻ con người. Như những bậc thầy quá
khứ đã nói, “Những đối tượng của quy y trùm khắp không gian trong khi chúng
sanh tràn ngập mặt đất.” Khi chúng ta quy y, hãy tưởng tượng tự mình giống như
umdze, người chỉ huy tán tụng (duy na), trong khi trì tụng nghi thức quy y.
Quy y là có ý nghĩa gì, đó là ta đang tìm kiếm nơi trú ẩn cho một sự sợ hãi nào
đó. Tất cả những đối tượng ở trước mặt ta được biết như nguyên nhân của quy y,
vì tất cả phục vụ như nguyên nhân để mang đến kết quả của quy y trong ta. Chúng
ta phải tự giao phó mình cho những đối tượng này từ chiều sâu của tâm khảm ta,
và ta phải thấy những đối tượng này như những bậc bảo vệ ta. Thể trạng kết quả
của những sự thực chứng của chính ta, việc trở thành một bậc thánh giả và thành
tựu Phật Quả. – vốn tùy thuộc vào sự thực chứng của chính ta trên con đường –
được gọi là kết quả của sự quy y. Một người khó khăn trong việc tìm kiếm sự
giúp đở của một viên chức cao cấp là giống với một người nào đó đang tìm kiếm sự
quy y trong nguyên nhân quy y. Nhưng tùy thuộc vào sự bảo vệ của những người
khác mãi mãi không là một sự can đảm trong cuộc sống; do thế, tự ta phải cố gắng
để đạt được một thể trạng nơi mà ta không còn phải lệ thuộc trên một sự quy y
như vậy, và điều này giống như việc quy y trong kết quả Phật, Pháp, và Tăng. Đó
là tiến trình của việc tiếp nhận quy y của một người có năng lực và can đảm cao
độ. Việc thực hành này phải được hoàn tất không chỉ vì lợi ích của chính ta
thôi mà đúng hơn là vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Khi chúng ta trau dồi một
sự ngưỡng mộ như vậy tập trung hướng đến việc thành tựu thể trạng toàn giác
toàn tri, là rất giống với việc phát tâm bồ đề. Một hành giả Đại thừa(13) là can
đảm hơn và cũng là có những năng lực cao nhất.
Nhằm để có một sự thực tập thích đáng về quy y, thì chúng ta nên nghĩ về những
lý do cho việc tiến hành quy y với những đối tượng như vậy. Ở đây chúng ta phải
quán chiếu trên những nguyên nhân của quy y. Nếu ta tự do với tất cả mọi sự sợ
hãi và khổ đau, thế thì chúng ta không phải quy y với ai; nhưng vì không phải
như vậy, cho nên chúng ta phải tiếp nhận sự quy y trong những vị nào đó đã đạt
được một thể trạng thoát khỏi khổ đau. Do thế, thật cần thiết để quán chiếu để
phản chiếu vào những khổ đau chung và đặc thù của cõi luân hồi và để thấu hiểu
rằng Tam Bảo sở hữu năng lực để cứu chúng ta khỏi những nguy hiểm như vậy. Điều
này không chỉ áp dụng cho riêng ta mà cũng là cho tất cả chúng sanh. Hãy quán
chiếu khổ đau của chính mình và cũng như của những chúng sanh khác: chúng ta bị
làm đau khổ hiện tại như thế nào và cũng có khả năng cho chúng sanh bị tác hại
bởi khổ đau trong tương lai. Những nguyên nhân cho khổ đau tương lai mà chúng
ta có là chính bên trong chúng ta giống như kho tàng dự trử của những vị vua. Nếu
không có sự giải thoát khỏi khổ đau và sợ hãi như vậy, thì đó là một vấn đề,
nhưng không là trường hợp như vậy. Cho nên chúng ta phải tìm kiếm phương tiện
mà nhờ đó chúng ta có thể thoát khỏi chúng. Một sự tự do như vậy có thể đạt được
bằng việc hiện thực hóa những sự diệt độ (ngừng dứt), vốn đòi hỏi sự thực tập về
lẽ thật của con đường. Vì điều này, thì thật cần thiết để tìm kiếm sự bảo vệ của Đức Phật là bậc có thể chỉ cho chúng ta con
đường thích đáng. Cũng thế, chúng ta cần một cộng đồng tăng già như những người
đồng hành. Và chúng ta cần đạo sư với một sự hướng dẫn chúng ta thật sự trên
con đường.
Về ba đối tượng quy y này, điều quan trọng nhất là giáo pháp, vốn bao hàm những
sự diệt độ và thực chứng của con đường hướng dẫn tới đấy. Chính giáo pháp vốn
thật sự bảo vệ chúng ta khỏi sự sợ hãi; thí dụ, những sự diệt độ trong dòng
tương tục tinh thần của Đức Phật bảo vệ ngài khỏi tất cả mọi sự sợ hãi. Vì vậy
thì nhất thiết phải có một sự thông hiểu rất tốt về những gì gọi là giáo pháp.
Vì điều này, tôi nghĩ, cần thiết phải có một sự thông hiểu rất tốt về tứ diệu đế (bốn sự thật). Điều này hóa ra đòi hỏi một sự thông hiểu
về nhị đế (hai sự thật), mà không có thì khó mà phát sinh một sự
tin tưởng chắc chắn trong tứ diệu đế. Cho nên,
Đức Phật đã ban cho những giáo huấn của ngài trên căn bản, hay trên sự lệ
thuộc, vào nhị đế. Nếu niềm tin của ta căn cứ trên sự thông hiểu về tứ diệu đế,
hay nhị đế, thì chúng ta sẽ có một niềm tin mãnh liệt trong tính không thể sai
lầm của những đối tượng quy y; chúng ta sẽ có thể nhận ra sự sợ hãi và cũng
trau dồi niềm tin vững chắc mà những đối tượng của quy y như vậy có năng lực để
bảo vệ chúng ta khỏi sự sợ hãi này.
Vì vậy nếu chúng ta tìm sự quy y trong một bậc như Đức Phật vốn đã thực chứng một thể trạng như
vậy, thì ngài có thể chỉ cho chúng ta con đường xuyên qua mà ngài có kinh nghiệm. Đức Phật ngay trước mặt ta đã hiện thực những
gì được gọi là lẽ thật của con đường, những sự thực chứng, và đã loại trừ tất cả
những đối tượng của tiêu cực và đạt được diệt độ (ngừng dứt), một thể trạng như
vậy là có thể và tồn tại như một đối tượng của tri thức. Chúng ta có thể thấy sự
khả dĩ của một thể trạng như vậy qua những lý luận(14) được sử dụng để minh chứng
nhận thức trực tiếp của hành giả du già (yoga). Kể từ ấy chúng ta sẽ thấu hiểu
chư Phật trước mặt ta là tồn tại ngay bây giờ và không chỉ là những nhân vật lịch
sử, và những người khác có thể có khả năng để thực chứng một thể trạng như vậy.
Nó vượt xa yêu cầu mà chúng ta mong muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, cho
nên chúng ta phải hiện thực những gì gọi là lẽ thật của con đường nhằm để thành
tựu kết quả. Do thế, thật cần thiết để có một sự hướng dẫn, một đạo sư, vị có
thể chỉ cho chúng ta con đường đúng đắn. Vì thế chúng ta nhận ra rằng Tam Bảo
như những đối tượng của quy y là không thể thiếu được và cũng là Tam Bảo không
lừa dối khi người ta tìm kiếm nơi nương tựa trong Tam Bảo.
Với sự quán chiếu như vậy, thì việc quy y Phật, Pháp, Tăng, là tự giao phó bản
thân mình cho Tam Bảo từ chiều sâu của trái tim ta. Mục tiêu tối hậu của việc
làm như vậy là để trau dồi những sự thực chứng mang đến sự diệt độ (ngừng dứt)
vọng tưởng và những dấu vết của chúng trong dòng tương tục tâm thức của chính
mình và của những chúng sanh khác. Vì vậy, hãy xem Đức Phật như vị hướng đạo người sẽ hướng dẫn
chúng ta trên con đường; giáo pháp như con đường thật sự; và tăng đoàn như những
người đồng hành quý báu trên con đường. Trên căn bản của một cảm nhận mạnh mẽ
như vậy về niềm tin, hãy đọc lại những nghi thức quy y hoặc là chung với nhau –
“Tôi quy y Phật, Pháp, Tăng” – hay một cách cá nhân. Cộng thêm với Tam Bảo, một
đối tượng của quy y nữa là đạo sư. Trong thực tế không có đạo sư riêng biệt; đạo
sư thật sự bao gồm hoặc trong Phật hay Tăng già, nhưng bởi vì chính là đạo sư
người giới thiệu chúng ta, và mang đến sự ngưỡng mộ và gia hộ của Tam Bảo trong
tâm thức chúng ta, cho nên chúng ta đặc biệt quy y trong đạo sư trước nhất.
Chúng ta không nên xem đạo sư như một bậc nào đó hơn Đức Phật. Tôi có một người
bạn Âu Mỹ, đã nói với tôi trên đường hành hương rằng, những vị thật sự được xem
như đạo sư thì như hơn chính Đức Phật. Ông ta nói ông không thích như vậy, và
tôi cảm thấy rằng ông đúng. Nếu thái độ của người ta đối với Đức Phật, sự hiện
hữu của ngài là không bằng chính đạo sư của người đó, như vậy thì không tốt lắm.
Bởi vì đạo sư yoga được nhấn mạnh rất nhiều trong Phật Giáo Tây Tạng, cho nên một
số người hiểu sai, nghĩ rằng người Tây Tạng có bốn đối tượng quy y, thêm một (quy y tứ bảo), và do thế thật thích đáng
để gọi Phật Giáo Tây Tạng là Lạt Ma Giáo!
Đạo sư là một người mà với người ấy chúng ta có thể tiếp xúc thân mật và với
người ấy ta có một mối quan hệ đạo sư-môn nhân. Chỉ qua đạo sư của chúng ta mà
chúng ta mới có thể tiếp nhận giáo huấn và hướng dẫn. Chính Đức Phật là một bậc siêu việt như vậy; về
phần chúng ta thì đạo sư chỉ là một đối tượng của sự ngưỡng mộ và cầu nguyện.
Chúng ta có thể đến những nơi thiêng liêng như Bồ Đề Đạo Tràng và Kushinagara
và cầu nguyện với ngài, nhưng đó là tất cả mà chúng ta có thể làm, mặc dù có thể
có một vài ngoại lệ nơi mà một người nào đó có thể có một sự tiếp xúc thật sự.
Do thế, người ân cần nhất đối với chúng ta là đạo sư. Như được nói:
Nếu ta thông hiểu, không chỉ đơn thuần là
từ ngữ,
Cung cách mà trong đó chư Phật và chư Bồ tát của quá khứ
Cứu giúp chúng sanh trong thời hiện tại,
Nó hướng xuống đến những đạo sư phẩm chất.
Thi kệ này rất là mạnh mẽ.
Cho nên chúng ta phải giao phó chính mình cho bốn đối tượng này của quy y từ
chiều sâu của tâm khảm ta, không chỉ của ngôn ngữ mà thôi, và vì thế lập lại
nghi thức. Trong nghi thức quy y Tam Bảo mà chúng ta thông thường trì tụng,
dòng có liên quan đến đạo sư là rất tác động và mạnh mẽ.
Khi chúng ta quy y, hãy hướng sự tập trung của mình chính yếu vào đạo sư gốc của
mình, nhưng cũng vào những đạo sư khác, những vị mà chúng ta đã từng học hỏi.
Sau đó lập lại nghi thức, “Tôi quy y đạo sư (NAMO GURUBHYAH)” cho đến khi có
tác động nào đó vào tâm ta. Sự thực tập của chúng ta về quy y không nên được
đánh giá bằng số lần trì tụng mà ta làm! Hãy tượng tượng rằng tất cả chúng sanh
cùng loại thái độ và năng lực mạnh mẽ của tâm thức và cũng đang trì tụng cùng
nghi thức trong sự đồng thanh. Hãy làm cho những lời cầu nguyện nhiệt thành từ
chiều sâu của tâm khảm ta, và hãy tưởng tượng những dòng cam lồ tuôn chảy từ đạo
sư, đặc biệt từ đạo sư gốc của ta, đi vào thân thể ta và thân thể của chúng
sanh. Hãy tưởng tượng rằng những dòng cam lồ chuyển động xuống những tia sáng rực
rỡ vốn hiển hiện từ thân của đạo sư gốc. Chúng tịnh hóa tất cả những tiêu cực
mà chúng ta đã làm qua những kiếp sống quá khứ, đặc biệt là những tiêu cực đã
quấy rầy tâm thức của chư đạo sư, và những tiêu cực hiện hữu trong mối quan hệ tới
những thân, miệng, và ý của chư đạo sư, và đã từng gây chia rẽ hay xúc phạm đạo
sư. Tất cả những điều này không ngoại lệ được tịnh hóa, và chúng hiện ra từ
thân của chính ta và tất cả chúng sanh trong khía cạnh đen, dung dịch đen như mực.
Hãy tưởng tượng rằng tất cả những tiêu cực được tịnh hóa, và hãy nghĩ rằng
chúng ta tiếp nhận sự truyền cảm hứng và những sự gia hộ.
Tiếp theo, hãy trì tụng nghi thức quy y Phật, sử dụng cùng loại quán tưởng. Khi
ta trì tụng việc quy y Pháp, ta phải tập trung vào giáo pháp thật sự, sự diệt độ
(ngừng dứt) và những sự thực chứng, quán tưởng trong hình thức những kinh điển
trước mỗi sơ đồ ruộng công đức. Chúng ta phải tưởng tượng những luồng cam lồ
tuôn chảy từ những kinh điển này và làm những sự quán tưởng của việc tịnh hóa.
Trong khi quán tưởng tất cả những việc quy y này, hãy tưởng tượng những tiêu cực
được tịnh hóa và đặc biệt những tiêu cực đã làm trong mối liên hệ đến liên quan
đến đối tượng quy y. Thí dụ, giáo pháp, những tiêu cực của việc phủ nhận giáo
pháp, để những kinh sách trên nệm hay bước qua, v.v... và những tiêu cực đã làm
bởi những người thủ lợi từ việc buôn bán kinh điển và hình tượng, v.v... Có nhiều
tiêu cực đã làm trong mối liên hệ với giáo pháp. Khi chúng ta sống trong cộng đồng
tăng đoàn, chúng ta đã tạo ra nhiều tiêu cực đặc biệt trong mối quan hệ với
tăng đoàn. Đôi khi chúng ta phỉ báng hay nói năng chống lại những người nào đó
và v.v... Gungtan Rinpoche đã nói rằng tất cả những hạnh phúc của chúng sanh, kể
cả loài người và chư thiên, tùy thuộc vào giáo huấn, mà sự tồn tại vốn tùy thuộc
vào cộng đồng tăng già. Do thế, nếu ai đấy biển thủ sở hữu của cộng đồng tăng
già, thì đó là một tiêu cực lớn. Hãy tưởng tượng rằng tất cả những tiêu cực hay
thiếu sót có thể đã làm trong mối liên hệ đến những đối tượng của quy y đã được
tịnh hóa.
Hãy quy y trong bốn đối tượng – đạo sư, Phật, Pháp, Tăng – và trì tụng nghi thức
cùng thực hiện sự quán tưởng những dòng cam lồ tuôn xuống và v.v... hãy tưởng
tượng rằng tất cả những tiêu cực của tất cả chúng sanh chung quanh ta, đặc biệt
những người đã làm trong mối quan hệ với Tam Bảo và đạo sư, phát ra từ thân thể
họ trong dạng những dung dịch đen như mực và thấm vào lòng đất. Hãy tưởng tượng
rằng tất cả những tiêu cực này tuôn vào miệng của những linh thức tổn hại, làm
hài lòng họ, hay vào miệng của Diêm Ma (Yama) cư trú dưới mặt đất, và làm ông ta
hài lòng. Qua năng lực những sự gia hộ của Tam Bảo và cũng là năng lực của
chính sự cầu nguyện của ta, những tiêu cực thật sự trở thành như cam lồ và làm
hài lòng họ. Như được nói rằng, một khi hài lòng, miệng của họ được niêm lại với
một bánh xe bằng vàng. Tầm quan trọng của việc quán tưởng phải được thực hiện với
một sự thực tập cho việc kéo dài tuổi thọ. Hãy quán tưởng rằng ta và tất cả những
chúng sanh khác được đặt dưới sự chăm sóc của những đối tượng quy y này. Vì vậy,
thực hiện việc quán tưởng ba đặc trưng của sự thực tập quy y: tịnh hóa, tiếp nhận
những cảm hứng, và được đặt dưới sự chăm sóc của nhứng đối tượng quy y. Đó là
việc tạo thành sự quy y. Nếu có thời gian ta nên lập lại sự thực tập này càng
nhiều càng tốt, cho đến khi điều gì đó tác động trong sự tương tục tinh thần của
ta.
Phát
Tâm Vị Tha
Tiếp theo là phát tâm bồ đề. Hãy quán chiếu trên sự kiện rằng tất cả chúng sanh
chung quanh ta đã từng là mẹ ta trong vô lượng kiếp sống. Chúng ta cũng có thể
phản chiếu trên kỷ năng hoán đổi tự thân và người khác. Tất cả chúng sanh vô số
như hư không là bình đẳng trong điều là họ không muốn khổ đau và thật muốn hạnh
phúc. Hãy nghĩ rằng hạnh phúc và số phận của chúng sanh vô số như hư không thật
rất quan trọng. Hãy phản chiếu trên sự kiện rằng tất cả chúng sanh đã từng ân cần
tử tế với ta trong nhiều cách. Như được giải thích trong Nhập Bồ tát Hạnh (Bodhisattvacharyavatara), thì có nhiều lý do cho
việc trau dồi tâm bồ đề. Hãy tập trung trên những điều đó và phát tâm từ bi cho
chúng sanh. Rồi thì, trên căn bản của lòng từ bi và tình yêu chúng ta phải trau
dồi tâm bồ đề thật sự. Cũng thế, hãy nhớ rằng tất cả chư Phật trong quá khứ đã
đạt được Giác Ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sanh và rằng hành động của các
ngài là nhằm mục đích mang đến lợi lạc cho chúng sanh; cho nên, như một môn đồ
của Đức Phật thì nhiệm vụ của chúng ta
là phải làm trọn vẹn những nguyện ước của chư Phật. Do vậy hãy nghĩ rằng: Về phần
tôi thì tôi không được từ bỏ chúng sanh; ngay cả nếu nó là rất nhỏ, tôi phải
làm một sự cống hiến đến hạnh phúc của những chúng sanh khác – ngay cả nếu nó
chỉ là lời trì tụng cầu nguyện; do thế, tôi phải dành mọi nỗ lực và khả năng mà
tôi có nhằm để cung ứng hạnh phúc cho tất cả chúng sanh; và ngoại trừ tôi đạt
được thể trạng Giác Ngộ, thì không có cách nào khác mà tôi có thể mang đến lợi
lạc cho họ.
Hãy trau dồi một tâm bồ đề đem lại bởi thái độ tuyệt vời cùng tình yêu và từ
bi. Chúng ta có thể làm điều ấy trên căn bản của việc trì tụng thi kệ “Sangye
Chotsogma”(15). Như hai câu đầu liên hệ đến quy y, ta phải lập lại chúng nhiều
lần khi chúng ta tiếp nhận quy y. khi ta trì tụng hai câu tiếp theo, hãy phản
chiếu trên việc phát tâm bồ đề. Nếu chúng ta thực hành điều này trên căn bản của
nghi thức này, hãy lập lại nó cho đến khi có điều gì đó tác động trong tâm ta.
Ở đây, chúng ta có thực tập điều được gọi là “tâm bồ đề, tiếp nhận đem kết quả
vào con đường.” Hãy tưởng tượng rằng khi ta đang dấn thân trong những sự thực tập
vô cùng giá trị của việc quy y và trau dồi thái độ vị tha của tâm bồ đề, Đức Phật
rất vui lòng, và những dòng cam lồ tuôn chảy xuống từ ngài. Một mô hình bản sao
của Đức Phật xuất hiện và hòa tan vào trong ta. Hãy trau dồi tâm bồ đề và hãy
tưởng tượng rằng ta phát sinh thành chính Đức Phật. Những nhân bản của Đức Phật,
tương đương với số chúng sanh, xuất hiện từ thân thể ta và hòa tan vào trong
chúng sanh. Những tiêu cực được tịnh hóa và họ trở thành Giác Ngộ và xuất hiện trong
hình dạng của Đức Phật. Điều đó được gọi là “phát sinh tâm tiếp nhận kết quả
vào trong con đường.” Vì trong thực tế chúng ta chưa trở thành Giác Ngộ, nên sự
thực tập này được hoàn thành chỉ trong cấp độ tưởng tượng. Sau đó hãy nghĩ: Mặc
dù tôi đã trau dồi một thể trạng cao quý như vậy của tâm thức, nhưng nó chỉ là
trong sự tưởng tượng của tôi; điều gì đã ngăn trở sự thực chứng của tôi về thể
trạng ấy trong thực tế? Chúng ta sẽ thấy rằng đó là bởi vì tâm chúng ta bị bám
chặc bởi các cảm xúc và thái độ thành kiến đối với người khác.
Chúng ta phải chịu đựng đau khổ mặc dù chúng ta không muốn. Chúng ta biết rằng
nguyên nhân của nó là năng lực của những cảm xúc phiền não của chính chúng ta.
Nhằm để vượt thắng những năng lực tiêu cực này và cân bằng thái độ của chúng ta
đối với tất cả chúng sanh, thì chúng ta phải dấn thân trong sự thực tập trong bốn
vô lượng tâm(16), bắt đầu với hành xả. Mỗi vô lượng tâm tự nó có bốn nhân tố -
mong muốn vô lượng, nguyện ước vô lượng, thái độ vô lượng, và cầu nguyện vô lượng.
Hãy nghĩ: Mặc dù tôi đã hoàn tất việc hành thiền này, nhưng nó chỉ ở trên mức độ
tưởng tượng. Nhân tố vốn ngăn trở ta hiện thực một thể trạng như vậy là sự thay
đổi thất thường của những cảm xúc phiền não mà ta đã trải nghiệm trong mối quan
hệ với những chúng sanh khác. Sau đó hãy trau dồi bi mẫn vô lượng và hành xả vô
lượng và v.v..., thỉnh cầu đạo sư-bổn tôn cho phép chúng ta trau dồi chúng
trong chính chúng ta. Sự thực tập bốn vô lượng tâm là một thúc đẩy cho việc thực
hành tâm bồ đề.
Từ chỗ này trở đi, luận giải sẽ căn cứ trên những thi kệ của chính Lama Chopa.
1-Từ trong đại lạc tôi biểu hiện như một
đạo sư-bổn tôn;
Từ thân thể tôi một sự dồi dào các tia sáng tỏa chiếu ra khắp mười phương
Chuyển hóa môi trường và chúng sanh ở trong ấy.
Tất cả sắp hàng một cách hoàn hảo nhất với chỉ những phẩm chất thuần khiết vô
cùng.
Trong văn bản này, những sự thực tập của tự phát sinh và thánh hóa của môi trường
đến trước nhất. Có một truyền thống nơi những điều này được tiến hành sau,
nhưng chúng cũng có thể được hoàn tất trong thứ tự này, bởi vì không ai nên thực
hành Lama Chopa nếu chưa nhận sự quán đảnh mật tông cao cấp. Chúng ta quán tưởng
kinh nghiệm của đại lạc trong lễ quán đảnh và vì vậy đã được giới thiệu với tuệ
trí này của đại lạc và tánh không. Ở điểm này, ta nên nghĩ về kinh nghiệm của đại
lạc. Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và sắp trở nên tỉnh táo sau sự say ngủ,
thì sẽ rất tốt nếu ta có thể nghĩ rằng ta đang tỉnh giác bởi những bài ca của
tánh không. Bạn có làm thế không? Ta nên làm, ngay cả nếu chỉ ở cấp độ tưởng tượng,
kinh nghiệm về linh quang của giấc ngủ và từ trong ấy linh quang phát sinh như
bổn tôn. Tiến trình của việc phát khởi thành bổn tôn vào buổi sáng không nên dần
dần như con quạ bé biến thành màu đen, mà thay vì thế ta phải phát sinh thành bổn
tôn ngay thời khắc ta tỉnh giấc. Mặc dù trong thực tế, ta là người bình thường,
nhưng tối thiểu trên cấp độ tưởng tượng thì ta có thể phát sinh thành thủ chúng
bổn tôn thiền tập mà ta thực tập – đó là, bổn tôn hành động của bổn tôn thiền tập
đặc thù ấy. Nếu, thí dụ, chúng ta đang thực hành Yamantaka, thì ta phải sinh khởi
thành Yamantaka đơn giản, một mặt và hai tay. Cũng thế, hãy trau dồi sự trong
sáng của việc quán tưởng. Bất chấp ta đã chánh niệm về bổn tôn hay không vào buổi
sáng, thì sẽ rất tốt để phát khởi như bổn tôn vào lúc bắt đầu của buổi tu tập.
Do thế, cũng thích hợp để tiến hành những sự thực tập này phù hợp với thứ tự thấy
trong văn bản, vốn là truyền thống của Khedup Sangye Yeshe.
Việc sử dụng thuật ngữ “biểu hiện như một đạo sư-bổn tôn” là để nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc thấy bổn tôn thiền quán như không tách rời với đạo sư. Vì đạo
sư yoga giống như sinh mệnh của con đường, để thấy tầm quan trọng cực kỳ của nó
Khedup Sangye Yeshe và Gyalwa Ensapa tạo ra những thuật ngữ như “Lama Lozang
Thubwang Dorje Chang,” “Guru Chakrasamvara,” “Guru Akshobhya”, và v.v... Như đạo
sư của Sangye Yeshe là Ensapa Lozang Dhondrub, ngài thậm chí mở rộng việc gọi
những bổn tôn thiền quán của ngài bằng những tên Lozang, như “Lozang
Chakrasamvara,” “Lozang Akshobhya,” và v.v...
Ở điểm này, chúng ta có thể hành thiền về ba thân. Cho việc ấy, trước nhất hãy
tự hòa tan vào tánh không và thiền quán về tánh không. Hãy quán chiếu, tối thiểu
với nỗ lực, trên sự kiện rằng tất cả mọi hiện tượng không tồn tại cố hữu. Hãy
tưởng tượng rằng tâm ta phản chiếu về tánh không đang trải nghiệm đại lạc. Trên
căn bản của điều ấy, hãy nghĩ rằng đây là thân chân thật, và hãy trau dồi niềm
tự hào thiêng liêng tập trung vào đấy. Sau đó, qua xu hướng của việc sinh khởi
thành thân thụ hưởng, hãy quán tưởng một chùm tia sáng. Tiếp theo, qua năng lực
của xu hướng để phát sinh thành một thân hóa hiện, hãy tưởng tượng ngay lập tức
sinh khởi thành một Yamantaka đơn giản, một mặt, hai tay.
Từ toàn bộ thân thể của bổn tôn, và đặc biệt từ âm tiết HUM tại trái tim, những
tia sáng tỏa ra khắp mười phương và tịnh hóa môi trường cũng như các chúng sanh
trong ấy, chuyển biến tất cả thành một biểu hiện của đại lạc và tánh không. Vì
chúng ta tưởng tượng rằng chúng ta phát sinh tuệ trí hạnh phúc tập trung trên
tánh không, và vì tất cả mọi hiện tượng là những biểu hiện của tánh không, cho
nên qua sự tưởng tượng của chúng ta thì chúng ta có thể thấy rằng tất cả mọi hiện
tượng cũng là sự biểu hiện của đại lạc kết hợp với tánh không. Đó là vấn đề
chúng ta thánh hóa môi trường và chúng sanh trong ấy. Cho nên, môi trường ô nhiễm
trở thành khu lâu đài cực lạc thuần khiết và chúng sanh trong ấy là những bổn
tôn nam nữ thanh tịnh, thiêng liêng.
Chúng ta có thể trau dồi những thái độ này ngay sự thực tập đầu tiên khi chúng
ta thức giấc, sau đó dấn thân trong những sự thực tập khác chẳng hạn như lễ phủ
phục, đi nhiễu quanh, và v.v..., và rồi thì làm những việc thường ngày của ta
chẳng hạn như ăn điểm tâm sáng. Nếu thực hành tu tập nghi quỹ rất sớm, thì hãy
làm việc ấy sau khi ta đã tắm rửa. Mặc dù chúng ta đã trau dồi sự quán tưởng
trong sáng và niềm tự hào thiêng liêng như một bổn tôn, thì cũng không mâu thuẩn
để thực hành việc quy y và v.v... Giống như ta làm trong khi thiền quán và trì
tụng Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) vốn được tiến hành vào lúc khởi đầu của một
nghi quỹ, hãy duy trì hiện tướng thiêng liêng và niềm tự hào thiêng liêng mà
không nhấn mạnh chúng trong những sự thực tập như vậy.
2- Từ thể trạng của một tâm cao thượng, đạo
đức trắng,
Tôi và tất cả vô lượng chúng sanh, mẹ tôi ngày xưa
Từ lúc này cho đến sự Giác Ngộ tối thượng của chúng tôi
Xin nguyện quy y đạo sư và Tam Bảo.
3- NAMO GURUBHYAH,
NAMO BUDDHAYA,
NAMO DHARMAYA,
NAMO SANGHAYA.
Ở đây, động cơ thích đáng là tâm bồ đề, thái độ vị tha. Ta nên trau dồi một tâm
như thế, ngay cả nếu là mô phỏng, thì cũng mạnh mẽ nhất như có thể.
Hãy quán tưởng những đối tượng quy y như được giải thích phía trước, hay ta có
thể quán tưởng Tam Bảo giống như ruộng công đức, bỏ đi cây như ý và biển sữa. Rồi
thì, đã quán tưởng như vậy, từ chiều sâu của tâm ta thì ta nên phản chiếu sự sợ
hãi, niềm tin, và sự chắc chắn. Qua sự tổng hợp của những nhân tố này, hãy tìm
cầu sự quy y với niềm tin mạnh mẽ và rồi trì tụng NAMO GURUBHYAH, cho đến khi
có điều gì tác động trong tâm ta. Nếu bạn không thể tìm thấy phiên bản Sanskrit
rất ảnh hưởng, thì ta có thể nói những câu ấy bằng tiếng Tạng hay ngôn ngữ của
chính mình. Nhưng nếu dễ dàng cho ta, thì hãy sử dụng phiên bản Sanskrit vì nó
có năng lực đặc biệt. Cho nên, hãy đọc những lời cầu nguyện thỉnh cầu đến những
đối tượng quy y và thực hiện sự quán tưởng những dòng cam lồ chảy xuống và
v.v... như đã được diễn giải phía trước.
4- Vì lợi ích của tất cả những bà mẹ
chúng sanh
Tôi phải trở thành một đạo sư-bổn tôn,
Và vì vậy hãy đặt tất cả chúng sanh
Vào trong thể trạng tối thượng của một đạo sư-bổn tôn
Đây là phát tâm bồ đề. Vì lợi ích của tất cả những bà mẹ chúng sanh, đã trở
thành đạo sư-bổn tôn, tôi phải đặt tất cả họ trong cùng thể trạng mà tôi đã tự
hiện thực. Đối tượng của xu hướng cho việc trau dồi tâm bồ đề là vô lượng chúng
sanh. Chúng ta đem lại lợi ích cho chúng sanh bằng việc đặt để họ trong thể trạng
của Phật Quả, và cung cách mà trong ấy chúng ta có thể hoàn thành sự lợi lạc
như thế là bằng việc chỉ cho họ con đường đúng đắn. Chỉ có một Đức Phật , bậc có đủ khả năng để mang lại một
lợi ích như vậy; do thế, vì lợi ích của những bà mẹ chúng sanh, hãy phát triển
động cơ: Tôi phải đạt đến thể trạng có một khả năng như vậy.
5- Vì lợi ích của tất cả những bà mẹ
chúng sanh
Tôi phải nhanh chóng, nhanh chóng, trong chính kiếp sống này,
Đạt được thể trạng của một Đức Phật
nguyên sơ, đạo sư-bổn tôn
6- Tôi phải giải thoát tất cả những bà mẹ
chúng sanh khỏi khổ đau
Và hướng dẫn họ đến đại lạc của Phật Quả.
Để đạt đến kết quả này, bây giờ tôi phải thực tập
Con đường thậm thâm của đạo sư-bổn tôn yoga.
Đây là những gì được biết như sự phát sinh đặc biệt của tâm, vốn không thể được
trau dồi bởi những vị Bồ tát với lòng can đảm hạ liệt. Nó nguyện: Tôi sẽ giải
thoát tất cả những bà mẹ chúng sanh khỏi khổ đau và hướng họ đến đại lạc của Phật
Quả. Hãy nghĩ: Vì lợi ích của việc giúp đở tất cả chúng sanh tôi phải đạt đến
thể trạng Giác Ngộ - sự kết hợp của thân huyển ảo và linh quang – trong một thời
gian ngắn nhất như có thể, và vì mục đích ấy tôi sẽ dấn thân trong sự thực tập
đạo sư yoga này. Thái độ nguyện ước mang đến lợi ích như vậy và đặt tất cả
chúng sanh trong Phật Quả không chỉ là một thể trạng giải đải của tâm, đúng hơn
nó là một tâm khẩn thiết. Đó là một tâm khao khát đạt được Giác Ngộ trong một
kiếp sống, và trong một thời gian ngắn nhất như có thể. Đối với những từ “nhanh
chóng, nhanh chóng,” từ “nhanh chóng” thứ nhất liên hệ đến thời điểm mười hai
năm, từ “nhanh chóng” thứ hai liên hệ đến thời gian ngắn nhất như có thể, đó là
ba năm.
Loại thái độ tốt nhất là, đã phản chiếu trên số phận của chúng sanh: Tôi không
thể chịu đựng khi thấy khổ đau của chúng sanh thêm một khắc nữa. Nếu một tâm thức
băn khoăn như thế được gây ra bởi động cơ này, thì đó là loại thái độ tuyệt vời
nhất. Trái lại, nếu ta nghĩ: Tôi phải đạt được Phật Quả một cách nhanh nhất như
có thể vì thế tôi có thể hưởng thụ một trạng thái hạnh phúc, thì năng lực của
tâm ta sẽ không quá mạnh mẽ. So sánh với động cơ sau, thì việc trau dồi quyết
tâm để thành tựu Phật Quả vì lợi ích của tất cả chúng sanh ngay cả nếu ta phải
trải qua những sự thực hành trong ba vô lượng kiếp, như trong kinh thừa hiển
giáo – theo một quan điểm cho thấy can đảm hơn. Chư Bồ tát là những vị đã tích
lũy công đức trong vô lượng kiếp thứ nhất trên con đường tích lũy và chuẩn bị,
vô lượng kiếp thứ hai đối với Bồ tát sơ địa
và vô lượng kiếp thứ ba đối với ba địa (Bất
Động, Thiện Huệ Và Pháp Vân Địa) sau cùng thì thật sự là rất can đảm. Các
ngài có một sự quyết tâm và kiên định mạnh mẽ như vậy! Bảo Hành Vương Chính Luận của Long Thọ giải thích vấn đề chư Bồ tát tích
lũy công đức cần thiết như thế nào cho việc đạt được những tướng chánh và phụ của
một Đức Phật, và vấn đề ngay cả để đạt
được một cọng lông ở lỗ chân lông của Đức
Phật thì cũng đòi hỏi những sự tích lũy công đức lớn lao như thế nào. Nếu ta phản
chiếu trên những sự kiện này thì ta sẽ thấy chúng thật sự là không thể tưởng tượng
được.
Thí dụ, thái độ của chúng ta không nên như khi bắt đầu một khóa tu dài hạn là với
sự quyết tâm và kỳ vọng mạnh mẽ là ta có thể bay lúc kết thúc, tuy thế khi hiện
ra vào lúc cuối và không thấy có gì khác biệt nhiều (và có lẽ trái lại thấy rằng
như một kết quả của việc ngồi quá lâu thì ta thậm chí đi hơi khập khiểng một
chút!) ta đánh mất hy vọng và can đảm và nghĩ: Ô, không có hy vọng gì cho tôi!
Loại tiếp cận như thế là sai.
Chúng ta phải phản chiếu trên sự cần thiết của việc tích lũy công đức trong vô
lượng a tăng kỳ kiếp. Nếu như vậy làm ta cảm thấy nản lòng, thì nó giúp để phản
chiếu trên sự kiện rằng một sự tích lũy như vậy có thể đạt được trong một thời
gian ngắn qua những sự thực hành mật tông. Nó cũng giúp để quán chiếu trên Phật
tánh vốn có trong mỗi chúng sanh, và cũng là chư Phật đang dấn thân năng động
trong việc giúp đở chúng ta. Trong Phật Giáo, nhiều kỷ năng được dạy, từ nhiều
triển vọng khác nhau, và đây phải là trong sự phối hợp với việc thực tập của
chúng ta. Nhằm để thuần hóa tâm thức thô thiển của chúng ta, thì nhất thiết phải
tìm cầu một sự tiếp cận qua tất cả mọi con đường khả dĩ.
Ở tại điểm này thì ta cũng có thể thực tập những gì được gọi là “sự phát tâm
mang kết quả vào con đường.” Như được giải thích trước đây, thật là tốt để thực
hành những sự thực tập chuẩn bị hiếm hoi hay đặc biệt trong sự nối kết với
Yamantaka bằng thực hiện sự tự sinh tức thời của Yamanta. Có ba cách để làm sự
hòa tan đối tượng quy y như thấy trong những sự thực tập cho việc đem sự chết
vào trong con đường như pháp thân: hấp thu nó giữa trán ta và tự gia hộ mình và
sau đó làm sự tự phát sinh; hòa tan nó bằng việc quán tưởng những chúng sanh khởi
hành đến nơi ở tự nhiên của họ; và giữ nó như chúng sanh tuệ trí vốn có thể hòa
tan vào trong ruộng công đức, là được quán tưởng sau này.
Những giải thích về quy y, về phát tâm bồ đề, và về bốn vô lượng tâm đã qua. Đến
điểm này thì chúng ta nói xong về những sự thực tập chuẩn bị sơ bộ tổng quát,
và những gì tiếp theo bây giờ là những sự thực tập chuẩn bị hiếm hoi đặc biệt.
II- NHỮNG SỰ THỰC TẬP CHUẨN BỊ ĐẶC BIỆT
Hãy phát triển một niềm tin mạnh mẽ tập trung trên những đối tượng quy y trước
mặt ta, vốn làm vui lòng các ngài; qua năng lực hoan hỉ của các ngài thì tất cả
hòa tan trong ta; hãy tưởng tượng rằng qua năng lực của các đối tượng quy y hòa
tan thì chúng ta nhận được sự gia hộ và những cảm hứng của các ngài trong dòng
tương tục tâm linh của ta. Hãy tưởng tượng rằng thân, miệng, ý của chúng ta trở
thành không thể tách rời và là một vị với thân, miệng, ý của đạo sư và qua đó
ta trải nghiệm đại lạc. Trong thể trạng này, hãy thiền quán về tánh không. Sau
đó, hòa tan trong tánh không. Như được giải thích rằng ở điểm này ta nên làm việc
hành thiền đem sự chết vào con đường như thân chân thật (pháp thân). Chúng ta
có thể làm việc này phù hợp với tiến trình được biết như “sự hòa tan của toàn bộ
tiến trình.”(17) Sau đó chúng ta có thể thực hành việc đem thể trạng trung ấm
vào con đường như thân hưởng thụ (báo thân) bằng việc quán tưởng sự phát sinh
vào một chùm tia sáng xanh dương nhạt, và rồi phát khởi như Yamantaka theo khả
năng tự sanh tức thời, và phát sinh niềm tự hào là thân biểu hiện (hóa thân).
Đó là phiên bản ngắn của việc phát sinh thành bổn tôn.
Nếu bạn muốn công phu hơn, thì tại điểm này hãy phát sinh như Yamantaka với phối
ngẫu. Từ âm tiết HUM tại trái tim ta, những tia sáng chiếu khắp mọi phương hướng,
chuyển hóa môi trường thành những lâu đài cực lạc và những chúng sanh trong đó
thành những Yamantaka, hòa tan vào trong hành giả. Sau đó hãy tưởng tượng việc
trải nghiệm những hiện tướng khác nhau phối hợp với sự hòa tan vào các yếu tố:
trước nhất, viễn tưởng như ảo hóa, dấu hiệu bên trong của sự hòa tan vào yếu tố
đất (địa đại), khi phối ngẫu hòa tan vào trong ta và ta hòa tan trong âm tiết
HUM từ bên trên và bên dưới. Tiếp theo là đến viễn tượng khói, dấu hiệu của yếu
tố nước (thủy đại) hòa tan, khi nguyên âm U của HUM hòa tan vào thân thể của HA.
Sau đó, phối hợp với sự hòa tan của các yếu tố, một viễn tượng như đom đóm sinh
khởi như HA hòa tan vào dòng trên cùng của nó. Khi dòng trên cùng bắt đầu tan
biến thành vòng bán nguyệt, gió (phong đại) sẽ hòa tan thành sự xuất hiện và
chúng ta tưởng tượng sự trải nghiệm ánh sáng rực rỡ tương tự như một ngọn đèn
bơ. Sự hòa tan của hiện tướng hóa ra phân chia thành ba: điểm phát trắng, sự
gia tăng đỏ, và gần thành tựu đen. Những điều này tương ứng với sự hòa tan của hình bán nguyệt, vòng tròn và
nada. Rồi thì chúng ta trải nghiệm linh quang (ánh sáng trong suốt); xuất hiện ở
điểm này giống như bầu trời trong lúc bình minh trong mùa thu vốn không có mặt
trời, mặt trăng, và bóng tối. Trong thể trạng này ngay cả ba hiện tướng cũng được
tịnh hóa.
Ở giai đoạn này sự xuất hiện là tánh không, nhưng hành giả không nên xem hiện
tướng trống rỗng như chỉ là sự vắng mặt của các hiện tượng, hay chân không
(không một vật), thay vì thế đúng hơn là định tính chất nó bằng việc hiểu tánh
không của sự tồn tại cố hữu. Ý thức nhận ra rằng tánh không phải được tưởng tượng
như đồng thời với hạnh phúc; trên căn bản này, hãy trau dồi niềm tự hào thiêng
liêng là kết quả thân chân thật (pháp thân).
Nếu ta duy trì trong thiền quân bình (định tuệ song hành) trong ấy mở rộng thân
chân thật, thì ta không thể làm tròn lời cam kết của mình là mang đến lợi ích
cho những chúng sanh khác. Do thế để làm tròn lời thệ nguyện này mà ta đã làm
vào lúc trau dồi tâm bồ đề, ta sinh khởi như thân hình tướng, trong trường hợp
này như bổn tôn Yamantaka, với một mặt
và hai tay, vốn là thân thụ hưởng. Hãy phát sinh niềm tự hào thiêng liêng là
thân thụ hưởng.
Nếu bạn duy trì trong thể trạng của thân thụ hưởng thì ta không thể thấy và trực
tiếp có thể tới gần những chúng sanh thông thường. Do thế, hãy phát triển thái
độ: Nhằm để làm lợi ích cho chúng sanh thông thường thì tôi sẽ sinh khởi thành
thân biểu hiện. Hãy phát sinh như Yamantaka, và đánh dấu ba phần thân thể ta với
những âm tiết OM, AH, HUM. Hãy đặt ba âm tiết này trên thân của Yamantaka cấu
thành sự phát sinh thành thân biểu hiện trọn vẹn. Điều này đã được giải thích
trong văn bản Kachem Lung Kurma (Đưa Theo
Gió Di Sản Truyền Miệng).
Cung cách công phu nhất để phát khởi thành bổn tôn như được thấy trong chính
nghi quỹ Yamantaka – tiến trình dần dần, trước tiên quán tưởng mandala với những
nghĩa địa và mọi thứ khác, và sau đó là bổn tôn thật sự. Cho nên, có ba cách về
việc phát sinh thành bổn tôn: sự phát sinh tức thời, ngắn nhất; trung bình, như
được diễn tả ở trên; và dài nhất, như được thấy trong nghi quỹ. Bất chấp độ
dài, điều quan trọng là có đầy đủ những điểm chính của việc đưa ba thân vào con
đường. Điều này có thể được hoàn tất trong việc nối kết với bất cứ thiền quán bổn
tôn nào mà ta thực tập cũng được bằng việc phát khởi thành bổn tôn đặc thù đó.
Bản chất tuệ trí của đại lạc và tánh không trước nhất xuất hiện như một chùm
tia sáng, hình thể của thân thụ hưởng, và sau đó ta sinh khởi thành bổn tôn.
Hãy trau dồi sự trong sáng và niềm tự hào thiêng liêng.
Thánh
Hiến Những Sự Cúng Dường
7- OM AH HUM, OM AH HUM, OM AH HUM.
8- Những đám mây thuần khiết bên ngoài, bên trong, và bí mật
cúng dường,
Và những sự cúng dường phong phú của những nghi thức yêu cầu lan tỏa không thể
tưởng tượng nổi,
Tràn ngập khắp không gian, mặt đất và bầu trời;
Trong tinh túy chúng là sự tỉnh giác nguyên sơ, trong khía cạnh của sự cúng dường
bên trong và nhiều đối tượng khác nhau của cúng dường.
Chức năng của chúng như những đối tượng được hưởng thọ qua sáu giác quan
Là để phát sinh sự tỉnh giác nguyên sơ phi thường của tánh không và đại lạc.
Để tiến hành thánh hiến những cúng dường công phu hơn, chúng ta có thể theo
nghi quỹ Yamantaka: trước tiên sự thánh hiến của cúng dường bên trong và rồi
thì thánh hiến những cúng dường khác. Phương pháp ngắn hơn được tiến hành bằng việc quán tưởng ba âm tiết OM AH HUM
trong không gian ở trên những vật phẩm cúng dường. Những tia sáng tỏa ra từ các
âm tiết, khẩn cầu những gia hộ của thân kim cang, khẩu kim cang, tâm kim cang –
những bổn tôn của ba kim cang: Vairocana, Amitabha, và Akshobhya (Tỳ Lô Giá Na,
A Di Đà, và A Súc Bệ)– vốn hòa tan vào ba âm tiết một cách tương ứng. Hãy tưởng
tượng rằng âm tiết HUM gia hộ những vật phẩm cúng dường, vì vậy tịnh hóa những
khía cạnh bất tịnh chẳng hạn như mùi, vị và hình dạng. Âm tiết AH biến chúng
thành cam lồ. Có ba loại cam lồ: cam lồ bất tử, cam lồ tuệ trí, và cam lồ vô
nhiễm. Âm tiết OM – âm tiết hạt giống của Vairocana – gia tăng tất cả những
cúng dường: hãy tưởng tượng rằng tất cả tất cả những sự cúng dường này trở
thành không thể cạn kiệt.
Những sự cúng dường được phú cho ba thuộc tính, bản chất của chúng là tuệ trí của
đại lạc và tánh không. Thí dụ, chúng ta có thể nói rằng mặc dù về bản chất một
thực phẩm nào đó của Tây Tạng được gọi là baktsa
marku được làm bằng bột mì, nhưng nó có những đặc tính riêng biệt của nó. Về
bản chất, bánh mì là bột mì, nhưng có những
loại bánh mì khác nhau: hiện tướng là bánh mì, nhưng nó có thể có dầu hoặc
không, và v.v... Về mặt khác, nếu chúng ta nói về momo, thì phải có thịt ở bên trong. Vì chúng có những hình tướng
khác nhau cho nên chúng cũng có những hương vị khác nhau: kapsey, bánh quy Tây Tạng, có hương vị đặc trưng của nó, và timo, là momo hấp, cũng có hương vị
riêng của nó. Hình dạng của chính chúng cũng là những vật phẩm cúng dường! Mỗi
thứ của chúng cũng có một hương vị thích thú đối với lưỡi. Giống như thế, những
vật phẩm cúng dường này có những chức năng khác nhau. Thí dụ, những hình dạng
đem lại niềm vui sướng trong mắt và những vật cúng dường khác đem lại hạnh phúc
cho những giác quan khác. Nếu ta có đủ khả năng để làm như vậy thì ta nên thật
sự dâng lên những đối tượng cúng dường này, sau đó tịnh hóa, chuyển hóa, và gia
tăng chúng. Hãy tưởng tượng chúng như là được phú cho với ba thuộc tính: bản chất
tuệ trí của đại lạc và tánh không, một hiện tượng cá thể, và một chức năng đem
lại hạnh phúc trong các giác quan của đối tượng cúng dường. Điều này kết thúc sự
giới thiệu về những sự thực tập chuẩn bị sơ bộ./.
Ẩn
Tâm Lộ, 4/2024
Phụ
giải:
(12). Bảy đặc điểm của tư thế Vairochana là các vị trí của các bộ phận sau đây
của cơ thể, như đã thảo luận trong chú giải: 1/. chân, 2/. tay, 3/. vai, 4/. cột
sống, 5/. đầu, 6/. môi và răng, và 7/.
lưỡi.
(13)Hành giả Đại thừa – mahayanist: có
hai ý nghĩa khác biệt, một từ quan điểm triết học và một từ nhận thức thực tiển.
Liên hệ tổng quát là điều sau, vì nó đặt trên căn bản của những năng lực tinh
thần của các hành giả, vốn khác biệt giữa Đại thừa và tiểu thừa.
(14) Chi tiết thảo luận về những lý luận này được thấy trong những văn bản lý
luận của Phật Giáo như Pramana-samucchaya của Trần Na và Pramanavartika của
Pháp Xứng. Giả thuyết của những luận lý như vậy tuy nhiên yếu kém là một sự thấu
hiểu ban đầu về vô thường và vô ngã, nhưng nếu theo đuổi với những kỷ năng thiền
tập đúng đắn, thì cuối cùng sẽ đưa đến kinh nghiệm trực tiếp. Bởi vì sự thấu hiểu
như vậy là gốc rễ của một sự hỗ trợ có giá trị của tâm thức, không như kỷ năng
cao độ của thể thao, một khi phát triển nó có khả năng hiện hữu một cách tự
phát.
(15) Xem chương 6
(16) Bốn vô lượng tâm là bi mẫn vô lượng, từ ái vô lượng, hỉ lạc vô lượng, và
hành xả vô lượng.
(17) Tiến trình hòa tan hoàn toàn là sự thiền quán trong việc hòa tan thân thể
của hành giả vào trong tánh không, nơi mà ta quán tưởng toàn bộ thân thể tan chảy
thành ánh sáng và sau đó hòa tan cả từ bên trên và bên dưới thành giọt không thể
phá hủy tại trái tim. Cuối cùng giọt vi tế cũng hòa tan vào tánh không.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét