NGHI LỄ CHO việc phát tâm vị tha nguyện
ước giác ngộ là một nghi thức đơn giản.
Mục tiêu của nó là để khẳng định và ổn định nguyện vọng đạt đến Quả Phật
của chúng ta vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
Sự khẳng định này là thiết yếu cho việc làm nổi bật sự thực hành bi mẫn.
Chúng ta bắt đầu nghi lễ này bằng việc
quán tưởng một hình tượng của Đức Phật.
Một khi việc quán tưởng là phân minh, chúng ta cố gắng để tưởng tượng rằng
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thật sự hiện diện trước mặt chúng ta. Chúng ta tưởng tượng rằng Ngài được vây quanh
bởi những đại sư Ấn Độ trong quá khứ, Long Thọ, người thiết lập trường phái triết
lý Trung Quán và sự diễn giải vi diệu nhất về tánh không, và Vô Trước, đạo sư
truyền thừa chính của phương diện "phương pháp" bao la của sự thực tập
của chúng ta, là ở trong những đại sư ấy.
Chúng ta cũng tưởng tượng Đức Phật được vây quanh bởi những đạo sư của bốn
trường phái Phật Giáo Tây Tạng: Sakya, Gelugpa, Nyingma, và Kagyu. Sau đó chúng ta tưởng tượng chính mình được
vây quanh bởi tất cả chúng sanh. Diễn
đàn bây giờ được thiết lập cho việc phát tâm vị tha nguyện ước giác ngộ. Các hành giả của những tín ngưỡng khác có thể
tham dự trong nghi lễ đơn giản bằng việc trau dồi một thái độ nhiệt tâm, vị tha
đối với tất cả chúng sanh.
BẢY ĐIỀU QUÁN NGUYỆN THỰC HÀNH[1]
Nghi lễ bắt đầu với một nghi thức mà
trong ấy công đức được tích tập và phiền não được tiêu trừ. Chúng ta tiến hành nghi thức này bằng việc
phán chiếu trên những điểm thiết yếu của Bảy Điều Quán Nguyện.
ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ NHẤT
Tôn
Kính
Trong điều thực hành thứ nhất, chúng ta
dâng lòng tôn kính với Đức Phật bằng việc quán chiếu trong những phẩm chất của
giác ngộ của thân, miệng, và tâm của Ngài.
Chúng ta có thể chứng tỏ lòng thành tín và dâng hiến bằng việc lễ lạy
trước khi quán tưởng hình tượng của Đức Phật.
Bằng việc tỏ lòng quy kính từ trái tim, chúng ta cũng tỏ lòng tôn kính
những phẩm chất Phật trong chính chúng ta. (Nhất giả lễ kính chư Phật- Nhị giả
xưng tán Như Lai)
ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ HAI
Cúng
Dường
Điều thực hành thứ hai là cúng dường. Chúng ta có thể thực hiện việc cúng dường vật
chất hay đơn giản tưởng tượng chúng ta đang cúng dường những sở hữu quý giá đến
chúng hội mà chúng ta đang quán tưởng phía trước chúng ta. Việc cúng dường sâu sắc và đầy đủ ý nghĩa nhất
của chúng ta là sự thực hành tâm linh chuyên cần của chúng ta. Tất cả những phẩm chất tốt đẹp mà chúng ta đã
tích tập là kết quả của việc tiến hành trong những hành vi đức hạnh. Những hành vi bi mẫn, hành vi ân cần, ngay cả
một nụ cười mĩm vào người nào đấy hay tỏ lòng quan tâm cho người nào đấy đang
đau đớn, tất cả là những hành vi đức hạnh.
Chúng ta cúng dường những điều này trong bất cứ thí dụ nào của lời nói đức
hạnh. Những thí dụ có thể bao gồm những
lời khen ngợi, chúc tụng mà chúng ta đã nói với người khác, việc tái cam đoan,
những lời êm dịu hay an ủi - tất cả những hành vi tích cực được tiến hành qua lời
nói. Chúng ta cũng cúng dường những hành
vi tinh thần của đạo đức. Việc trau dồi
lòng vị tha, cảm nhận về ân cần săn sóc, lòng bi mẫn của chúng ta. Và lòng tin
tưởng sâu xa cũng như sự dâng hiến giáo nghĩa Phật Đà của chúng ta là ở trong
những sự cúng dường này. Tất cả những điều
này là những hành vi đức hạnh tinh thần.
Chúng ta có thể quán tưởng tất cả những thứ này trong hình thức của những
đối tượng tuyệt đẹp và quý giá phong phú mà chúng ta cúng dường đến Đức Phật và
hội chúng được quán tưởng phía trước chúng ta.
Chúng ta có thể cúng dường bằng tinh thần đến toàn thể pháp giới, vũ trụ,
môi trường của chúng ta với những khu rừng, đồi núi, đồng cỏ, và những cánh đồng
bông hoa. Bất kể chúng có thuộc sở hữu của chúng ta hay không, chúng ta có thể
cúng dường một cách tinh thần. (Tam giả quảng tu cúng dường)
ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ BA
Sám Hối
Điều thực hành thứ ba là sám hối. Yếu tố then chốt của sám hối là việc đang nhận
thức về những hành vi tiêu cực của chúng ta, những việc làm sai lầm mà chúng ta
đã từng dấn thân vào. Chúng ta nên trau
dồi một cảm nhận hối lỗi sâu xa và rồi hình thành một quyết tâm mạnh mẽ không
theo đuổi trong những thái độ phi đạo đức như thế trong tương lai. (Tứ giả sám hối nghiệp chướng)
ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ TƯ
Tùy Hỉ
Điều thực hành thứ tư là việc tập tùy hỉ. Bằng việc tập trung trên những hành vi đức hạnh
quá khứ, chúng ta phát triển một niềm hoan hỉ lớn trong việc hoàn thành của
chúng ta. Chúng ta phải bảo đảm rằng
chúng ta không bao giờ hối hận bất cứ hành vi tích cực nào mà chúng ta đã làm
mà đúng hơn là chúng ta tìm thấy niềm hoan hỉ
với việc thực hành những việc làm tốt đẹp ấy. Thậm chí quan trọng hơn, chúng ta nên tùy hỉ
trong những hành vi tích cực với người khác, những chúng sanh thấp kém hơn
chúng ta, yếu đuối hơn chung ta, cao
siêu hơn chúng ta, hay mạnh mẽ hơn chúng ta hay ngang bằng với chúng ta. Thật quan trọng để bảo đảm rằng thái độ của
chúng ta đối với những đức hạnh của người khác không bị làm mờ đi bởi sự ganh
đua hay ghen tỵ; chúng ta phải cảm thấy một sự ngưỡng mộ thuần khiết và hoan hỉ
đối với những phẩm chất và sự hoàn thành của họ. (Ngũ giả tùy hỉ công đức)
ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ NĂM và THỨ SÁU
Khuyến Thỉnh và Cầu Xin
Trong hai điều thực hành tiếp theo chúng
ta thỉnh cầu chư Phật giảng dạy hay chuyển bánh xe pháp vì lợi ích của tất cả chúng sanh, sau đó
cầu xin các Ngài đừng tìm cầu an lạc niết bàn cho riêng các Ngài mà thôi.
ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ BẢY
Hồi Hướng
Điều thực hành thứ bảy và cuối cùng là
điều quán nguyện hồi hướng. Tất cả những
công đức và năng lực tích cực chúng ta đã tạo được từ tất cả những điều thực
hành trước và những việc làm đức hạnh được hồi hướng đến mục tiêu cứu kính tâm
linh: việc đạt đến Quả Phật.
Đã thực hiện những thực tập chuẩn bị của
Bảy Điều Quán Nguyện, chúng ta bây giờ đã sẳn sàng để phát sinh thật sự tâm vị
tha nguyện ước giác ngộ. Bài kệ đầu tiên
của buổi lễ bắt đầu với sự hiện diện của động cơ thích đáng:
Với
nguyện ước giải thoát tất cả chúng sanh
Câu thứ hai và thứ ba xác định những đối
tượng của quy y: Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo. Thời điểm của chí nguyện cho việc tìm cẩu sự
quy y này cũng được thiết lập trong những dòng này:
Con
sẽ luôn luôn quy y với
Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo.
Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo.
Bài kệ thứ hai là sự phát sinh tâm vị
tha nguyện ước giác ngộ.
Được
làm cho nhiệt tình bởi tuệ trí và từ bi
Hôm
nay với sự hiện diện của chư Phật
Con
phát tâm nguyện ước tỉnh thức hoàn toàn
Vì
lợi ích của tất cả chúng sanh.
Bài kệ này nhấn mạnh tầm quan trọng của
tuệ trí và từ bi hợp nhất. Giác ngộ
không là từ bi không tuệ trí hay tuệ trí tách rời từ bi. Đấy là một đặc thù của tuệ trí thực chứng
tánh không được liên hệ ở đây. Có một sự
thực chứng trực tiếp về tánh không, hay ngay cả một nhận thức hay sự thấu hiểu
thông tuệ về nó, điều ấy biểu thị khả năng cho một sự chấm dứt sự hiện hữu bất
giác của chúng ta. Khi tuệ trí như vậy
làm đầy đủ lòng từ bi của chúng ta, phẩm chất tiếp theo của từ bi là mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Chữ 'được làm cho nhiệt tình' (enthused)
trong câu kệ này biểu thị một lòng từ bi dấn thân và vô cùng năng động, không
chỉ là một thể trạng của tâm thức.
Câu tiếp theo,
Hôm
nay trong sự hiện diện của chư Phật
Biểu thị rằng chúng ta đang ngưỡng mộ để
đạt được thể trạng thật sự của một Đức Phật.
Nó cũng có thể biết được với ý nghĩa là chúng ta đang kêu gọi sự chú ý của
tất cả chư Phật để chứng minh cho sự kiện này, như chúng ta tuyên bố.
Con
phát tâm nguyện ước tỉnh thức hoàn toàn
Vì
lợi ích của tất cả chúng sanh.
Bài kệ cuối cùng, từ tác phẩm Hướng Dẫn Lối Sống Bồ tát của Tôn Giả Tịch
Thiên ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ 8, được biết là:
Cho
đến khi không gian còn tồn tại,
Cho
đến khi chúng sanh còn hiện hữu,
Cho
đến lúc ấy, con nguyện cũng hiện diện
Và
xua tan khổ não của trần gian.
Những dòng này biểu lộ một tình cảm mãnh
liệt. Một vị Bồ tát phải tự xem mình như
vật sở hữu của tất cả chúng sanh. Giống
như một hiện tượng trong thế giới tự nhiên hiện hữu ở đấy để người khác thụ hưởng
và sử dụng, vì vậy sự hiện hữu và tồn tại của chính chúng ta sẳn sàng cho tất cả
chúng sanh. Chỉ một lần chúng ta bắt đầu
nghĩ trong những dạng thức như vậy là chúng ta có thể phát triển một tư tưởng đầy
năng lực "Con sẽ dâng hiến toàn bộ sự hiện hữu của con vì lợi ích của người
khác. Con tồn tại chỉ để phục vụ cho
chúng sanh". Những quan điểm năng động
như vậy tự hướng vào những hành vi làm lợi ích cho chúng sanh, và trong tiến
trình cho những nhu cầu của chính chúng ta được đầy đủ. Bằng trái lại, nếu chúng ta sống trong toàn bộ
cuộc sống bị thúc đẩy bởi lòng vị kỷ, chúng ta cuối cùng sẽ không thể đạt được
những khát vọng vị kỷ của chính chúng ta, sẽ tệ hơn nhiều so với sự cát tường của
kẻ khác.
Chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Phật
lịch sử, bậc chúng ta tôn kính, nếu đã duy trì một đời sống vị kỷ như chúng ta,
bây giờ chúng ta cũng sẽ đối xử với Ngài như những người thông thường khác, và
nói rằng, "Ông hãy im lặng. Ông hãy
câm mồm lại". Nhưng không phải như
vậy. Bởi vì Đức Phật Thích Ca đã chọn bỏ
rơi những cung cách vị kỷ và yêu mến người khác, chúng ta xem Ngài như một đối
tượng của sự tôn kính.
Đức Phật Thích Ca, những đạo sư rực sáng
của Ấn Độ như Long Thọ và Vô Trước, và những đạo sư tột bậc của Tây Tạng trong
quá khứ tất cả đều đã đạt được thể trạng giác ngộ của các ngài như một kết quả
của sự thay đổi hoàn toàn nền tảng trong thái độ đối với chính các ngài và những
người khác. Các ngài đã tìm cầu sự nương
tựa. Các ngài đã ôm ấp sự cát tường của
các chúng sanh khác. Các ngài đã đi đến
thấy rằng sự luyến ái và chấp trước chính mình vào tự ngã như kẻ thù sanh đôi
và cội nguồn sanh đôi vô đạo đức. Các
ngài đã chiến đấu với hai năng lực này, và đã loại trừ chúng. Như một kết quả của sự thực tập, những chúng
sanh vĩ đại này bây giờ đã trở thành những đối tượng cho sự ngưỡng mộ và noi
gương của chúng ta. Chúng ta phải noi
theo gương của các ngài và hành động để thấy sự tự luyến ái và chấp trước vào tự
ngã như kẻ thù để loại trừ.
Do vậy, trong khi đem những tư tưởng này
đến tâm thức và quán chiếu chúng, chúng ta đọc theo ba bài kệ tiếp theo ba lần:
Với
nguyện ước giải thoát tất cả chúng sanh
Con
luôn luôn quy y
Với
Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo
Cho
đến khi con đạt được sự giác ngộ hoàn toàn.
Được
làm cho nhiệt tình bởi tuệ trí và từ bi
Hôm
nay với sự hiện diện của chư Phật
Con
phát tâm nguyện ước tỉnh thức hoàn toàn
Vì
lợi ích của tất cả chúng sanh.
Cho
đến khi không gian còn tồn tại,
Cho
đến khi chúng sanh còn hiện hữu,
Cho
đến lúc ấy, con nguyện cũng hiện diện
Và
xua tan khổ não của trần gian.
Điều này hợp thành nghi thức phát tâm vị
tha nguyện ước giác ngộ. Chúng ta phải cố
gắng quán chiếu ý nghĩa của những dòng kệ này, hay bất cứ khi nào chúng ta thấy
có thời gian. Tôi đã làm điều này và thấy
nó rất quan trọng cho việc thực hành của tôi.
Chân thành cảm ơn.
Wednesday, October 31, 2012 / 11:40:47
AM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét