Chúng
ta cần có một động cơ thích đáng cho việc lắng nghe giáo huấn; bằng khác đi
chúng ta sẽ mất một cơ hội để xây dựng một năng lực tích cực lớn là phước đức
và hòa nhập giáo huấn này vào trong sự tương tục tinh thần của chúng ta.
Chúng ta không cố gắng để được động viên bởi việc muốn mọi việc cải thiện
trong kiếp sống này, hay để cải thiện những kiếp sống tương lai của chúng ta
hay ngay cả bằng việc muốn đạt đến giải thoát chỉ riêng cho chúng ta. Đúng
hơn, chúng ta cố gắng đề có một động cơ toàn triệt của xu hướng tâm giác ngộ - tâm bồ đề - bodhichitta, nguyện ước đạt đến Giác
Ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
|
We need to have a proper motivation
for listening to the teachings; otherwise we will miss an
opportunity to build up a great deal of positive force and to incorporate
this teaching in our mental continuum. We try not to be motivated by
wanting things to improve in this lifetime, or to improve our future
lifetimes, or even by wanting to gain liberation just for
ourselves. Rather, we try to have the full motivation of the bodhichitta
aim, wishing to attain enlightenment for the benefit of all beings.
|
Hãy nghĩ, "Tôi không lắng nghe điều
này chỉ cho lợi ích riêng tôi hay cho sự giải thoát riêng tôi. Tôi đang mở rộng
trái tim tôi đến tất cả chúng sanh của một nguyện ước làm lợi ích họ và để đạt
đến Giác Ngộ vì lợi ích của họ." Và, "Tôi chắc chắn sẽ cố gắng để
hòa nhập tất cả những giáo huấn này với sự tương tục tinh thần của tôi và để
nhận ra tất cả những tình trạng chưa được thuần hóa của tâm thức mà tôi có. Dần
dần, tôi sẽ điều chỉnh tất cả những điều này tối đa như có thể."
|
Think, “I’m not listening to this just for my own
sake or for my own liberation. I’m opening my heart to all beings out of a
wish to benefit them and to achieve enlightenment for their sakes.” And, “I’m
definitely going to try to integrate all these teachings with my mental
continuum and to recognize all the untamed states of mind that I
have. Gradually, I’m going to correct all of these as much as is possible.”
|
Nếu chúng ta nghĩ về những giáo huấn
này chỉ đơn thuần như lý thuyết suông, chúng sẽ không có nhiều lợi ích. Thay
vì thế, chúng ta so sánh chúng với những thể trạng của tâm thức và thái độ của
chúng ta, và nghĩ, "Tôi chắc chắn sẽ cải thiện chính tôi; tôi thật sự sẽ
cố gắng để nhận ra những khuyết điểm của tôi nằm đâu và tự chuyên tâm để tu sửa
chúng," điều này chắc chắn sẽ lợi ích rất lớn và là một kinh nghiệm sâu
sắc hơn.
|
If we think of these teachings as merely
theoretical, they’re not going to be of much benefit. Instead, if we compare
them to our states of mind and attitudes, and think, “I’m definitely
going to improve myself; I’m really going to try to recognize where my
deficiencies lie and apply myself to correcting them,” this will definitely
be of much greater benefit and a much deeper experience.
|
Có tâm giác ngộ quy ước (tâm giác ngộ
tương đối) và tâm giác ngộ cứu kính (tâm giác ngộ sâu sắc nhất). Tâm giác ngộ
quy ước là một tâm thức hay trái tim hướng vào sự thật quy ước (thế đế) của tất
cả chúng sanh và Giác Ngộ; trong khi tâm giác ngộ cứu kính là một tâm thức ở
sự thật sâu nhất, lẽ thật cứu kính, là tánh không của chúng hay sự vắng mặt
hoàn toàn của những cung cách tồn tại không thể có (hoàn toàn không có cách
thể hiện có). Đây là hai thể trạng tinh thần và thái độ đối với đời sống mà
chúng ta chắc chắn sẽ phát triển trong sự tương tục tinh thần của chúng ta.
|
There are conventional bodhichitta (relative
bodhichitta) anddeepest bodhichitta (ultimate bodhichitta). Conventionalbodhichitta
is a mind or heart aimed at the conventional (relative, superficial, surface,
apparent) truth of all beings and enlightenment; while deepest bodhichitta is
a mind aimed at their deepest truth, their voidness or total
absence of impossible ways of existing. These are the two mental states and
attitudes toward life that we are definitely going to develop on our mental
continuums.
|
Nếu tâm thức chúng ta ổn định như thế, thì chúng
ta có thể đối phó với bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào hiện hữu. Chúng ta không
bao giờ mất bình tĩnh. Nếu chúng ta lấy tất cả những hoàn cảnh tiêu cực và
không lợi lạc này và hướng chúng vào con đường tu tập, chúng có thể trở thành
một bộ phận của con đường tâm linh của chúng ta.
|
If our minds are stable like that, we can handle
any difficult circumstances that may come up. We never get daunted. If we can
take all these negative and nonconducive circumstances and turn them into a
pathway, they become part of our spiritual path.
|
Chúng
ta nghĩ về sự tái sanh loài người quý giá và điều ấy đưa thẳng chúng ta đến
tâm giác ngộ. Rồi thì chúng ta nói về sự chết và vô thường và những thứ này
cũng đưa chúng ta thẳng đến việc phát triển tâm giác ngộ.
|
We think of the precious human rebirth and that
leads us straight to bodhichitta. Then we think of death and impermanence and
that too takes us straight to the development of bodhichitta.
|
Bố cục liên hệ để thực hành trong buổi
thiền tập và giữa các buổi thiền tập. Điều này có nghĩa là chúng ta không phải
chỉ dấn thân trong việc thực hành Phật Pháp khi ngồi tréo chân và trì tụng đủ
thứ lời cầu nguyện và rồi lúc ngơi nghĩ quên lãng và quẳng nó đi. Chúng ta thật
kéo dài sự thực hành cả trong những buổi thiền tập nghi thức và trong thời
gian bình thường.
|
The outline refers to practice during
the meditation session and between sessions. This means that we
don’t engage in Dharma practice only when we are sitting cross-legged and
reciting various prayers and then the rest of the time forget about it and
throw it away. We do sustained practice both during our formal sitting and
in-between.
|
Chúng ta thực hiện những buổi thiền tập
nghi thức, tích lũy việc nạp năng lượng điện, và rồi thì chúng ta sử dụng nó
trong ngày thường. Không phải chúng ta tu tập trong những buổi hành thiền và
rồi hành độngnhư hoàn toàn không tu tập gì cả lúc bình thường; chúng ta cần
trước sau như một. Chúng ta cần cố gắng để đem tâm thức chúng ta, trong tất cả
mọi trình độ khác nhau, để xử sự phù hợp với giáo huấn.
|
We do our actual meditation sessions, building up
our charge of energy, and then the time when we use it during our daily
lives. It’s not that we are religious during our meditation sessions and then
act totally irreligiously in between; we need to be consistent. We need to try
to bring our minds, on all different levels, to behave in accord with the
teachings.
|
Dĩ
nhiên, mọi người muốn hạnh phúc và mọi người cố gắng để theo những phương
pháp khác nhau để đem hạnh phúc đến. Và dĩ nhiên, mọi người cần những nhu cầu
khác nhau trong đời sống. Nhưng, khi chúng ta cố gắng để đem hạnh phúc đến
qua những phương pháp phóng túng và như vậy sẽ làm tổn hại người khác, hay
chúng ta cố gắng để lợi dụng người khác, đây chính là những thứ chúng ta đang
cố gắng để chấm dứt và xa lìa.
|
Everybody, of course, wants to be happy and
everybody tries to follow different methods to bring about that happiness.
And of course, everybody needs the various necessities of life. But, when we
try to bring about this happiness through methods that are unruly and that
will hurt others, or we try to take advantage of others, these are the very
things we are trying to stop and get rid of.
|
Nếu chúng ta hành động thật cẩn thận
và hòa nhập việc hành thiền và giữa những thời khóa tốt với mọi người, rồi
thì chúng ta sẽ thấy rằng việc hành thiền sẽ phục vụ cho việc cải thiện thái
độ của chúng ta giữa những thời khóa, và những hành vi của chúng ta giữa các
buổi tu tập sẽ cống hiến cho việc cải thiện việc hành thiền của chúng ta.
Ngày qua ngày, chúng ta sẽ thấy một sự cải thiện nào đó.
|
If we act very carefully and integrate the
meditation and in-between sessions well with each other, then we will find
that the meditation will serve to improve our behavior between sessions, and
our in-between sessions’activities will contribute to improving our
meditations. Day by day, we’ll find some improvement.
|
Vào
lúc bắt đầu một thời khóa thiền tập thật sự, thật rất quan trọng là thẩm tra
động cơ của chúng ta về vấn đề tại sao chúng ta hành thiền. Chúng ta cần tái
khẳng định sự quy y, chọn phương hướng an toàn mà chúng ta đang thực hiện
trong đời sống, như được hướng dẫn bởi chư Phật, giáo Pháp và Tăng già, chúng
ta cần tái khẳng định xu hướng tâm giác ngộ (bodhichitta) của chúng ta.
|
At the beginning of the actual meditation session
it is very important to examine our motivation of why we are meditating. We
need to reaffirm the safe direction we are taking in our lives, as indicated
by the Buddhas, the Dharma, and the Sangha, and we need to reaffirm
our bodhichitta aim.
|
Thật rất quant trọng để giữ nhà cửa và
phòng ốc chúng ta sạch sẽ, và xếp đặt sự cúng dường. Khi chúng ta quét và làm
sạch, nhiều tư tưởng có thể hổ trợ, chẳng hạn như, "Trong khi tôi đang
làm sạch sàn nhà này, tôi làm sạch tâm thức tôi." Chúng ta không cần phải
nghĩ rằng chúng ta chỉ đang làm nó dễ thương cho chính chúng ta, mà chúng ta
đang làm việc ấy để biểu lộ sự tôn kính đến những đối tượng quy y và thực
hành.
|
It is very important to keep our homes and our
rooms clean, and to set up some sort of offeringarrangement. As we sweep
and clean, various thoughts can help, such as, “While I’m cleaning this
floor, I’m cleaning my mind.” We need not think that we are just making it
nice for ourselves, but we are doing it to show respect for the objects of
refuge and the practice.
|
Đây
chính xác là vấn đề chúng ta cần thực hành Phật Pháp như thế nào. Khi chúng
ta nhận thấy mình phát khởi một xu hướng tiêu cực, chúng ta cần tự bắt lấy
mình và dừng hành vi lại trong cách ấy. Vấn đề chính của Phật Pháp là việc xử
sự ngăn ngừa chính mình và ngay khi
chúng ta thấy chính mình bắt đầu làm việc gì đấy mà chúng ta biết là không
thích đáng, chúng ta tự dừng lại đừng làm việc ấy.
|
This is exactly how we need to practice the
Dharma. When we catch ourselves yielding to a negative tendency, we need to
catch ourselves and stop acting in that way. The main point of Dharma is
taking preventive measures and as soon as we see ourselves starting to do
something we know is improper, we stop ourselves from doing it.
|
Vấn
đề chính trong Phật Pháp là luôn luôn hành động để cải thiện những phẩm chất
nội tại, chứ không phải sự cải thiện bên ngoài.
|
The main point in the Dharma is always to work on
improving internal qualities, not on external improvement.
|
Milarepa
đã làm những sự cúng dường tuyệt vời nhất: ngài không có bất cứ thứ gì bên
ngoài để dâng cúng, mà ngài hoàn toàn dâng hiến trái tim của ngài cho sự thực
hành Phật Pháp.
|
Milarepa made the best offerings: he didn’t have
anything external to give, but he gave his heart totally to Dharma practice.
|
Phật
Pháp là để cải thiện tâm thức chúng ta, không phải để phô trương bên ngoài.
|
Dharma is to improve our minds, not to put on a
big external show.
|
"Tôi
nguyện theo một phương hướng mạnh mẽ an toàn trong đời sống của tôi, với sự
quy y. Tôi dâng hiến trái tim tôi cho mục tiêu của tâm giác ngộ, để được Giác
Ngộ, để hổ trợ tất cả chúng sanh, và tôi sẽ thực tập điều này để xây dựng nên
một năng lực tích cực mạnh mẽ để đạt đến mục tiêu ấy."
|
“I’m giving
a strong, safe direction to my life, with refuge. I’m dedicating my heart to
the bodhichitta aim, to enlightenment, to helping all beings, and I’m going
to do this practice to build up strong positive force to reach that goal.”
|
"Một vị hướng dẫn tâm linh là vị nào đó
nguyên tắc, với một tâm thức tĩnh lặng, an trú và tuệ giác sâu lắng, có những
phẩm chất siêu việt, nhiệt tình, biết nhiều giáo huấn, thấu hiểu đầy đủ về
tánh không, thiện xảo trong việc giải thích, từ ái, và kiên nhẫn."
|
“A spiritual mentor is someone who is disciplined,
with a calm, settled mind and deep insight, has superior qualities, is
enthusiastic, knows many teachings, fully understands voidness, is skilled in
explaining it, is loving, and persevering.”
|
Những đệ tử cần có một sự thích thú
chân thành trong việc học hỏi và một sự quan tâm chân thành trong việc tự cải
thiện chính họ. Luận điển nói đừng dạy giáo Pháp cho những ai không quan tâm
chân thành hay những ai chỉ có tính tò mò của óc thông minh.
|
The disciples need to have a sincereinterest
in learning and a sincere interest in improving themselves. The texts say not
to teach Dharma to those who aren’t sincerely interested or who have just
intellectual curiosity.
|
Milarepa
nói, "Tôi không có đồ dâng cúng vật chất để cúng dường vị hướng dẫn tâm
linh của tôi, nhưng tôi có thể biểu lộ sự cảm kích vào sự ân cần của ngài bằng
chí nguyện của chính tôi để thực hành một cách chính xác những gì ngài
nói."
|
Milarepa said, “I have no material objects to
offer to my spiritual mentor, but I can show my appreciation for his kindness
by committing myself to practicing exactly what he says.”
|
Chúng ta cần kiểm tra những giảng dạy
của vị ấy và thử nghiệm đạo phong và phẩm chất của vị ấy. Không tốt để chấp
nhận một vị thầy tâm linh như vị hướng dẫn của chúng ta, và rồi thì thấy vị ấy
có những khuyết điểm và phạm phải những lỗi lầm, vì thế sau này chúng ta trở
mặt với vị ấy do bởi những khiếm khuyết này. Điều ấy thật là một hoàn cảnh
đau lòng và bất hạnh. Chúng ta cần thẩm tra một cách thật cẩn thận ngay từ
lúc đầu, như được nói trong giáo huấn trươc khi nương tựa vào vị nào đấy.
|
We need to check the mentor’s teachings and test
his or her qualities and qualifications. It’s not good to accept a spiritual
teacher as our mentor, and then to find that he or she has faults and make
mistakes, so that we later turn away from the person because of these faults.
That’s a very painful and unfortunate situation. We need to examine very
carefully from the start, as it says in the teachings before committing
ourselves to someone.
|
Chúng
ta cần phản chiếu, từ thời vô thỉ, chúng ta đã từng ở dưới năng lực và tác động
của tâm thức chúng ta và tâm thức chúng ta đã từng ở dưới năng lực và tác động
của những cảm xúc và thái độ phiền não.
|
We need to reflect that, from beginningless time,
we have been under the power and influence of our minds and our minds have
been under the power and influence of disturbing emotions and attitudes.
|
Khi
những giáo huấn khác nhau nói "từ thời vô thỉ", chúng có nghĩa gì?
Những hệ thống khác nói về đấng tạo hóa thế giới trình bày một sự bắt đầu, sự
sáng thế. Ở đây, mọi thứ không được trình bày như có một sự bắt đầu tuyệt đối.
Cho nên "từ thời vô thỉ" có nghĩa là từ những sự tái sanh tiền kiếp
vô hạn.
|
When various teachings say “from beginningless
time,” what do they mean by that? Other systems that speak of the creation of
the world present a beginning, the creation. Here, things are not presented
as having an absolute beginning. So “from beginningless time” means from
infinite previous rebirths.
|
Tâm
thức cũng là điều gì đấy không có bắt đầu. Thật quan trọng để thiết lập sự hiện
hữu của nó và mối quan hệ của nó với thân thể vật lý. Không phải là điều gì đấy
vật lý, nhưng nó liên hệ đến thân thể vật lý; nó không phải vật chất, cũng
không phải sản phẩm vật lý. Cũng thế, có nhiều trình độ khác nhau của tâm thức,
từ thô đến vi tế. Nó là sự tương tục của trình độ vi tế nhất của nó, thấu về
quá khứ vô lượng kiếp sống, không có một sự bắt đầu.
|
Mind is also something that has no beginning. It’s
important to establish its existence and its relation with the physical body.
It’s not something physical, but it is related to the physical body; it’s not
a substance, nor a physical product. Also, there are different levels of
mind, from gross to very subtle. It is the continuum of its subtlest level
that reaches back over countless lifetimes, without a beginning.
|
Đức Phật nói rằng nếu tâm là điều gì đấy
có thể được tạo ra mới đây, hay là một hiện tượng thoáng qua chỉ đến và đi,
hay được tạo ra bởi Thượng đế , thì thật rất khó để thuần hóa và điều khiển
nó. Trái lại, nếu chúng ta nghĩ về tâm thức đến từ vô thỉ, và những trải nghiệm
đến từ những sự thúc đẩy nghiệp, căn cứ trên những hành vi trước đây, thế thì
chúng ta có thể áp dụng nhiều phương pháp để thuần hóa tâm thức.
|
Buddha said that if mind were something that could
be newly created, or was a fleeting phenomenon that just came and
went, or was created by a god, it would be very difficult to tame and control
it. On the other hand, if we think of mind coming from beginningless time,
and experiences coming from karmic impulses, based on previous actions, then
we can apply various methods to tame the mind.
|
Có thể phát triển thần thông và cho những điều
tiên đoán nào đó về tương lai; nhưng nếu không có mối quan hệ về một sự kiện
tương lai với sự tương tục của tâm thức, thế thì người ta không thể tiên đoán
ngay cả một chút dấu vết gì về tương lai. Thần thông không sinh khởi bổng
nhiên không nền tảng; nó căn cứ vào những nguyên nhân và hoàn cảnh đa dạng
trong sự tương tục tinh thần thật sự của người có khả năng ấy.
|
It is possible to develop clairvoyance and give
certain predictions of the future; but if there is no relationship of a
future event with the continuity of consciousness, then one is not able to
guess even a hint of the future. Clairvoyance doesn’t arise from nowhere; it
is based on the various causes and circumstances in the actual mental
continuum of the individual who has it.
|
Chúng
ta trải nghiệm bất hạnh và khổ đau như những gì chín muồi từ năng lực nghiệp
tiêu cực đã đến như kết quả của những hành vi tiêu cực của chúng ta. Chúng ta
hành động trong những cung cách ấy do bởi những thúc đẩy nghiệp tiêu cực sinh
khởi từ tâm thức chúng ta. Và chúng đã đến từ đâu? Chúng đến từ tâm thức
chúng ta không ở dưới sự kiểm soát của chúng ta.
|
We experience unhappiness and suffering
as what ripens from the negative karmic force that has
come as the aftermath of our destructive actions. We acted in those ways
because of the destructive karmic impulses that arose in our minds. And where
did they come from? They came from our minds not being under our control.
|
Thật
cần thiết để đem tâm thức chúng ta dưới sự điểu khiển, và không để chúng diễn
ra dưới ảnh hưởng của những cảm xúc và thái độ phiền não. Chúng ta cần bắt buộc
chúng ở dưới sự điều khiển của những cảm xúc và thái độ xây dựng, tích cực.
|
It is necessary to bring our minds under control,
and not let them go under the influence of disturbing emotions and attitudes.
We need to have them under the control of constructive, positive emotions and
attitudes.
|
Qua
việc thường xuyên tập luyện và làm cho quen thuộc, thiền tập sẽ xây dựng
thành như một thói quen nào đó của những thể trạng tích cực của tâm thức. Những
thể trạng này làm cho tâm thức chúng ta uyển chuyển hơn vì thế chúng ta có thể
áp dụng chúng đến những thể trạng tích cực xa
hơn. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn làm điều này, tâm thức chúng ta cần ổn
định.
|
Through repetition and familiarization, meditation
builds up as a habit certain positive states of mind. These states make our
minds flexible so that we can apply them to further constructive states. If
we want to do this, however, our minds need to be stable.
|
Khi
chúng ta cố gắng qua thiền tập, để thực hiện lòng bi mẫn thành một thói quen
rất mạnh mẽ, nếu tư tưởng về vô thường hay khổ đau và những rắc rối sinh khởi,
mặc dù những tư tưởng như vậy một cách lý thuyết có thể là một sự hổ trợ, tại
một thời điểm nhất định của việc cố gắng để xây dựng sự tập trung về bi mẫn,
nhưng chúng là những chướng ngại. Chúng ta cần hoàn toàn hòa nhập sự tập
trung của chúng ta, một cách nhất tâm, trong đối tượng của thiền tập.
|
When we are trying, through meditation, to make
compassion a very strong habit, if thoughts of impermanence or of suffering
and problems arise, although such thoughts theoretically can be a help, at
the particular time of trying to build up concentration on compassion, they
are hindrances. We need to immerse our minds and absorb our concentration
totally, single-pointedly, in the object of the meditation.
|
Những
hành vi mà chúng ta thực hiện trong quá khứ mang đến, như một tác động của những
hành vi này, đến những sự sanh ra mà chúng ta có. Và những gì chúng ta làm
trong kiếp sống này sẽ quyết định cho những sự tái sanh trong tương lai của
chúng ta.
|
Actions that we took in the past brought about, as
an effect of those actions, the births we have had. And what we do in this
lifetime will determine our future rebirths.
|
Một
tu sĩ có thể nghĩ, "Mặc dù như một tu sĩ tôi tuân theo những giới luật
nào đó, nhưng nếu tâm thức tôi bị nhiễm ô bởi những thái độ phiền não, thì
tôi sẽ lãng phí cơ hội mà tôi có." Thế nên chúng ta cần sử dụng một cách
thích đáng thời gian và cơ hội mà chúng ta có. Ngay khi thức dậy trong buổi
sáng, chúng ta thực hiện nhiều cầu nguyện và trì tụng đủ thứ. Nếu tâm thức
chúng ta lang thang, chúng ta cố gắng kiểm soát đem nó lại. Chúng ta không thể
đánh mất cơ hội - ngay cả nếu chúng ta cần phải tát vào mặt chúng ta để trở lại
điểm hành thiền!
|
A monk may think, “Although as a monk I follow
certain disciplines, if my mind becomes deluded by disturbing attitudes,
I will waste this opportunity I have.” So we need to make proper use of the
time and opportunities that we have. As soon as we awake in the morning, we
do our various prayers and recitations. If our mind starts to wander, we try
to bring it back. We cannot lose the opportunity – even if we need to slap
our face to come back to the point of the meditation!
|
Điều
gì đó đặc thù chúng ta muốn bảo về chống lại là việc nổi giận. Nếu chúng ta nổi
giận với người khác, như Tịch Thiên nói trong Hướng Dẫn Lối Sống Bồ tát, là nó sẽ phá hủy tất cả mọi năng lực
tích cực mà chúng ta đã xây dựng trong sự tương tục tinh thần của chúng ta. Tịch
Thiên, cũng nói với chúng ta rằng nguyên nhân cho sự nổi giận là rất nhiều, bởi
vì không chỉ chúng ta nổi giận với những
người chọc tức ta, mà chúng ta thậm chí trở nên không kiên nhẫn với những
con chim hót quá lớn! Chúng ta khó chịu không cần thiết một cách quá dễ dàng vì thế chúng ta phải
chăm sóc để cảnh giác với xu hướng này đối với sân hận.
|
Something we particularly want to safeguard
against is getting angry. If we become angry with others, as Shantideva says
inEngaging in Bodhisattva Behavior, it devastates all the
positive force we have built up on our mental continuum. Shantideva also
tells us that the causes for anger are many, because not only do we get angry
at people who irritate us, we even become impatient with birds singing
loudly! We get unnecessarily upset so easily that we have to take care to be
aware of this tendency toward anger.
|
Những
người nào không tuân theo con đường tâm linh một cách đúng đắn thì giống như
một con lừa kiệt sức dừng lại bên đường và không thể di chuyển hay làm thêm bất
cứ tiến trình nào.
|
People who don’t follow the spiritual path
correctly are like an exhausted donkey that stops along the path and cannot
move or make any more progress.
|
Chúng
ta cần tự hỏi mình, chúng ta thật sự có những điều kiện nguyên nhân hoàn toàn
trong chúng ta để đạt được một sự tái sanh thân người quý giá không? Khi
chúng ta nghĩ trong cách này, thì chúng ta có thể đánh giá đúng thử thách về
vấn đề có ít người như thế nào được tái sanh thân người quý giá, và vấn đề
khó khăn thế nào để tích tập những
nguyên nhân cho việc đạt đến sự tái sanh thân người quý giá.
|
We need to ask ourselves whether we actually have
the complete conditions and causes within us to attain a precious human
birth. When we think in this way, we can appreciate the challenge of how few
precious human births there are, and how hard it is to accumulate the causes
for achieving one.
|
Như
sự thiết lập Giáo Pháp, nó được tạo thành không phải vì lợi ích của chính các
Đức Phật, nhưng vì lợi ích của những ai muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau
- những chúng sanh như chúng ta. Và nó được dạy để làm cho chúng ta có thể kiểm
soát và thuần hóa tâm thức chúng ta.
|
As for the establishment of the Dharma, it was
created not for the benefit of the Buddhas themselves, but for the benefit of
those who want happiness and don’t want suffering – beings such as us. And it
was taught to enable us to control and tame our minds.
|
Nếu
chúng ta có hoàn cảnh ngoại tại của việc có một vị hướng dẫn tâm linh đầy đủ
phẩm chất và hoàn cảnh nội tại của một sự tái sanh thân người quý giá, thì
chúng ta có khả năng để thực hiện một tiến trình và đạt đến những mục tiêu
này. Nếu chúng ta thậm chí nghĩ xa hơn, từ một trình độ sâu xa hơn, trong dạng
thức của Phật tánh, quả vậy chúng ta thật có tất cả những nhân tố thiết yếu sẽ
cho phép chúng ta tiến hóa hoàn toàn thành những Đức Phật.
|
If we have the external circumstance of having a
spiritual mentor who is fully qualified and the internal circumstance of a
precious human rebirth, we have the ability to make progress and achieve
these goals. If we think even further, from a deeper level, in terms
of Buddha-nature, we indeed do have all the essential factors that will
allow us to fully evolve into Buddhas.
|
Lời
nhắc nhở không lãng phí lần này là điều gì đó mà chúng ta phải để ý ngay bây
giờ, không phải "năm tới", hay trong một tương lai mơ hồ nào đó.
Chúng ta không thể bỏ lở thời điểm này! Đây là bởi vì cuộc sống có thể thật
là ngắn ngủi, và cung cách tốt nhất để tận dụng sự tái sanh thân người quý
giá của chúng ta là để phát triển khuynh hướng tâm giác ngộ - tâm bồ đề - hay
bodhicitta.
|
The admonition not to waste this time is something
we must heed right now, not “next year,” or in some vague future. We cannot
waste this moment! This is because life can be quite short, and the best way
to take advantage of our precious human rebirth is to develop a bodhichitta
aim.
|
Chúng
ta hãy phản chiếu, một cách sâu sắc, trên vấn đề một kiếp sống con người quý
giá có thể hiếm hoi và ngắn ngủi như thế nào. Chúng ta hãy quyết tâm, một
cách dứt khoát, để sử dụng nó trong một cách tận lực nhất, thực hiện cầu nguyện
và thỉnh cầu để làm điều này bằng việc phát triển khuynh hướng tâm giác ngộ.
Đây là hoàn tất sự chuẩn bị đầu tiên.
|
Let us reflect, deeply, on how rare and short a
precious human life can be. Let us resolve, decisively, to use it in the best
possible way, making prayers and requests to do this by developing a
bodhichitta aim. This completes the first preliminary.
|
Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2015
(2) TRÍCH DẪN TỪ LUẬN GIẢI VỀ SỰ RÈN LUYỆN NHƯ TIA SÁNG
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét