Thứ Hai, 1 tháng 2, 2016

TRÁCH NHIỆM VỚI SINH QUYỂN



Tôi Đã Học Với Những Vị Thầy Của Tôi Về Việc
 Chăm Sóc Môi Trường Khi Còn Là Một Đứa Trẻ

KHI CÒN LÀ MỘT cậu bé con, lúc tôi đang học hỏi Đạo Phật, tôi được dạy để chăm sóc thiên nhiên, vì sự thực tập về bất bạo động áp dụng không phải chỉ với con người mà đến tất cả chúng sanh. Mọi thứ có sức sống của ý thức sở hữu. Bất cứ nơi nào có ý thức, thì có những cảm giác như đau đớn, vui sướng, hân hoan. Không chúng sanh nào muốn khổ đau. Trái lại, tất cả chúng sanh tìm cầu hạnh phúc. Trong sự thực hành của Đạo Phật, chúng ta thường dùng ý tưởng bất bạo động này và với nguyện ước làm chấm dứt tất cả mọi khổ đau, và chúng ta cẩn thận để không tấn công hay hủy hoại sự sống một cách vô tình. Rõ ràng, chúng ta không tin tưởng rằng cây cối và bông hoa có tâm thức, nhưng chúng ta đối xử với chúng một cách tôn trọng. Cho nên chúng ta thừa nhận một ý thức trách nhiệm toàn cầu đối với con người và thiên nhiên.

Niềm tin trong sự tái sanh của chúng ta giải thích sự quan tâm của chúng ta đối với tương lai. Nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta sẽ tái sanh, chúng ta biến nó thành bổn phận của chúng ta để bảo vệ những thứ nào đó vì thế, trong tương lai, sự tái sanh của chúng ta sẽ thích ứng với nó. Mặc dù chúng ta có thể tái sanh trong một hành tinh khác, thì ý tưởng về sự tái sanh động viên ta chăm sóc Trái Đất cho những thế hệ tương lai.

Ở phương Tây, khi chúng ta nói về "con người", chúng ta thường chỉ liên hệ đến thế hệ hiện tại. Con người của quá khứ không còn hiện hữu nữa. Con người của tương lai, như sự chết, chưa hiện hữu. Theo quan điểm của phương Tây, chúng ta quan tâm với khía cạnh thực tế của mọi thứ, đơn thuần cho thế hệ hiện tại.

Cảm nhận của người Tây Tạng đối với thiên nhiên xuất phát từ tập quán của chúng tôi một cách phổ thông và không chỉ từ Phật Giáo. Nếu quý vị lấy thí dụ Phật Giáo từ Nhật Bản hay Thái Lan, trong những môi trường khác với chúng tôi, văn hóa và thái độ không giống nhau. Môi trường thiên nhiên của Tây Tạng vốn không giống nơi nào khác, có một ảnh hưởng mạnh mẽ với chúng tôi. Người Tây Tạng không sống trên một hòn đảo nhỏ quá nhiều người. Suốt chiều dài lịch sử, chúng tôi không lo lắng về lãnh thổ rộng lớn dân cư thưa thớt của chúng tôi, hay về những láng giềng xa xôi của chúng tôi. Chúng tôi không có cảm nhận bị áp bức, không giống như nhiều cộng đồng khác.

Có thể thực tập một cách hoàn hảo tinh hoa của một niềm tin hay một nền văn hóa mà không cần phối hợp nó với một tôn giáo. Nền văn hóa Tây Tạng của chúng tôi, mặc dù được truyền cảm hứng bởi Phật Giáo một cách sâu đậm, nhưng không phải thảo ra tất cả triết lý của nó từ Đạo Phật. Một lần nọ tôi đã đề nghị một tổ chức cứu trợ người tị nạn Tây Tạng rằng chắc là thích thú để nghiên cứu vấn đề đồng bào chúng tôi đã được định hình như thế nào qua kiểu mẫu đời sống của họ. Những nhân tố nào đã làm người Tây Tạng tĩnh lặng và bản tính tốt? Người ta thường tìm câu hỏi từ tôn giáo của chúng tôi, điều ấy là đặc biệt, nhưng quên rằng môi trường của chúng tôi cũng đặc biệt.

Việc bảo vệ thiên nhiên không nhất thiết là một hành vi thiêng liêng, và nó không luôn luôn đòi hỏi từ bi. Như những Phật tử, chúng tôi từ bi đối với tất cả chúng sanh, nhưng không nhất thiết đối với mỗi viên đá, cây cối, hay chỗ ở. Hầu hết chúng tôi chăm sóc ngôi nhà của chúng tôi, mà không có bất cứ cảm nhận từ bi nào với nó. Tương tự thế, hành tinh của chúng ta là ngôi nhà của chúng ta, và chúng ta nên bảo vệ nó với sự ân cần, để bảo đảm sự hạnh phúc của chúng ta và sự hạnh phúc của con cháu chúng ta, bạn bè chúng ta, và cho tất cả chúng sanh, những kẻ chia sẻ với chúng ta nơi cư trú vĩ đại này. Nếu chúng ta nghĩ hành tinh của chúng ta như ngôi nhà của chúng ta hay "bà mẹ" của chúng ta, Bà Mẹ Trái Đất, thì chúng ta nhất thiết sẽ chăm sóc nó.

Ngày nay chúng ta hiểu rằng tương lai của nhân loại tùy thuộc vào hành tinh của chúng ta, mà vốn tương lai của nó lệ thuộc vào loài người. Nhưng không phải luôn luôn rõ ràng như vậy. Cho đến bây giờ, Bà Mẹ Trái Đất của chúng ta có thể bao dung sự quên lãng của chúng ta. Tuy nhiên, ngày nay, thái độ của con người, dân số, và kỷ thuật đã đạt đến một mức độ mà Bà Mẹ Trái Đất của chúng ta không thể chấp nhận trong sự im lặng nữa. "Con cái của tôi đang cư xử một cách tệ hại," bà cảnh báo để làm cho chúng ta nhận ra rằng có những giới hạn không nên vượt qua.

Như những người Phật tử Tây Tạng, chúng tôi ủng hộ cho sự chừng mực, vốn không tách rời với môi trường, vì chúng tôi không tiêu dùng bất cứ thứ gì một cách không điều độ. Chúng tôi lập những giới hạn trong thói quen tiêu xài của chúng tôi, và chúng tôi biết ơn một lối sống giản dị, trách nhiệm. Mối liên hệ của chúng tôi với môi trường luôn luôn đặc biệt. Những kinh luận cổ xưa của chúng tôi nói về vật chứa và nội dung của nó. Thế giới là một vật chứa, ngôi nhà của chúng ta, và chúng ta, sự sống, là những nội dung của nó.

Kết quả của điều này là một mối quan hệ đặc biệt với thiên nhiên, vì, không có vật chứa, những nội dung của nó không thể có chỗ để tồn tại. Hoàn toàn không phải là sự khiển trách con người về việc sử dụng những tài nguyên thiên nhiên để phục vụ nhu cầu của họ, nhưng chúng ta nên nghiêm túc, không khai thác thiên nhiên vượt quá nhu cầu cần thiết. Thật cần thiết để tái thẩm tra lại từ quan điểm đạo đức về sự chia sẻ mà chúng ta đã nhận được, sự chia sẻ với điều mà tất cả chúng ta có trách nhiệm, và sự chia sẻ mà chúng ta sẽ trao lại cho những thế hệ tương lai. Rõ ràng, thế hệ của chúng ta đang trải qua một thời kỳ nghiêm trọng. Chúng ta đi vào những hình thức của sự giao tiếp toàn cầu, và tuy thế, những sự xung đột lại xảy ra thường xuyên hơn những cuộc đối thoại để xây dựng hòa bình. Những kỳ diệu của khoa học và kỷ thuật cùng tồn tại với với nhiều bi kịch của thế giới như sự đói kém và sự diệt chủng của những hình thức sống nào đó. Chúng ta tận tụy với sự khám phá không gian, trong khi những đại dương, biển cả, và các nguồn nước ngọt đang ngày càng ô nhiễm hơn. Có thể là những thế hệ tương lai sẽ không biết những dân tộc trên trái đất, những thú vật, côn trùng, và ngay cả những vi sinh vật. Chúng ta phải hành động trước khi quá muộn.

Tây Tạng Thời Thơ ấu Của Tôi Là Vườn Địa Đàng Của Đời Sống Hoang Dã

TÂY TẠNG MÀ TÔI đã lớn lên là một vườn địa đàng của đời sống hoang dã. Ngay cả ở Lhasa, người ta cũng không cảm thấy bị xa cách với đời sống hoang dã. Trong phòng của tôi ở sân thượng điện Potala, cung mùa đông của những Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi đã dành vô số thời giờ như một đứa trẻ để nghiên cứu thái độ của những con chim mỏ đỏ khyungkar làm tổ trên những kẻ nứt của các bức tường. Và phía sau Norbulingka, cung mùa hè, tôi thường thấy một cặp chim trung trung (cò cổ đen Nhật Bản), những con cò đối với tôi như sự toát yếu của tính tao nhã và duyên dáng, vốn sống trong những đầm lầy ở đấy. Không thể không đề cập đến vẻ rực rở của những động vật Tây Tạng: những con gấu, và cáo núi, những con chó sói chanku, những con beo tuyết sazik xinh đẹp, những con gấu trúc khổng lồ với khuôn mặt hiền hòa, vốn sinh trưởng ở vùng biên giới Tây Tạng và Trung Hoa, và những con linh miêu sik, vốn ở trong trái tim của những nông dân du mục.

Buồn thay, đời sống hoang dã phong phú này không còn thấy nữa. Không ngoại lệ, mỗi người Tây Tạng tôi nói chuyện vốn từng trở lại thăm viếng Tây Tạng sau khi xa vắng bốn năm mươi năm đã cho biết sự vắng mặt đáng chú ý của đời sống hoang dã. Trước đây, những con thú hoang thường đến cạnh nhà; ngày nay rất khó khăn để thấy chúng.

***

Đức Đạt Lai Lạt Ma nhớ lại thời thơ ấu mê ly với nhiều loại thú hoang, đặc biệt những con thú ngài đã nhìn thấy trong ba tháng hành trình xuyên Tây Tạng để được đăng quang ở Lhasa. Chính quyền Tây Tạng bảo vệ đời sống hoang dã một cách chính thức, công bố những bảng tuyên cáo mỗi năm rằng "giàu hay nghèo, không ai được làm tổn hại hay bạo hành với những tạo vật trên đất và dưới nước." Nhưng từ khi Trung Cộng chiếm đóng, việc phát triển đất đai và săn bắn thú cùng câu lưới cá đã làm giảm thiểu rõ ràng đời sống hoang dã hiện tại. Thú vật bị săn bắt lấy lông, da, len, và nội tạng, và nhiều chủng loại hiện nay đã bị diệt chủng hay bị đe dọa biến mất.

Những Ngọn Núi Tây Tạng Đã Trở Thành
Trống Trải Như Đầu Trọc Của Tu Sĩ

NHỮNG VẤN NẠN SINH THÁI là mới đối với tôi. Ở Tây Tạng chúng tôi thườn nghĩ rằng thiên nhiên là thuần khiết. Chúng tôi chưa từng bao giờ tự  hỏi mình uống nước sông có sao không. Nhưng hoàn cảnh đã thay đổi trong thời gian chúng tôi lưu vong ở Ấn Độ và những nước khác. Thụy Sĩ, thí dụ thế, một vùng đất tráng lệ, ấn tượng. Nhưng cư dân của nó nói với chúng tôi, "Đừng uống nước từ dòng suối này; nó bị ô nhiễm!" Thế nên từng chút một, người Tây Tạng đã  học hỏi và nhận ra rằng những thứ nào đó là dơ bẫn và không thể dùng được. Thật sự, khi chúng tôi định cư tại Ấn Độ, nhiều người trong chúng tôi đã bị chứng đau bụng vì chúng tôi đã uống nước ô nhiễm. Chính là qua kinh nghiệm và gặp gở với những nhà chuyên môn mà chúng tôi đã học hỏi về sinh quyển.

Tây Tạng là một đất nước rộng lớn với một lãnh địa bao la ở trên một độ cao và khí hậu lạnh và khô. Những điều kiện này chắc chắn đã cung ứng một môi trường với một hình thức bảo vệ tự nhiên bằng việc giữ nó sạch và lạnh. Trong những đồng cỏ  phía bắc, trong những khu vực khoáng sản, trong những khu rừng và thung lũng của những dòng sông, có nhiều thú vật hoang dã, cá và chim.

Một lần nọ tôi được nghe kể một chuyện lạ. Những người Hoa định cư ở Tây Tạng sau 1959 là những nông dân, cũng là những người xây dựng đường xá và rất thích thịt. Họ thường đi săn vịt, họ mặc đồng phục quân đội Trung Cộng hoặc áo quần người Hoa và như thế không khác gì báo động cho những con chim vì thế chúng bay đi rất xa. Cuối cùng, những người thợ săn này dùng đến áo quần Tây Tạng để mặc. Đây là một chuyện thật! Điều này xảy ra đặc biệt trong những năm 1970 và 1980, vào lúc ấy vẫn còn một số lớn chim chóc.

Mới đây, vài nghìn người Tây Tạng đã trở lại nơi sinh quán của họ ở quê hương Tuyết Sơn, tất cả cũng đều nói như vậy. Họ nói rằng bốn hay năm mươi trước, rừng rậm bao la phủ đầy đất đai bản địa của họ. Ngày nay những ngọn núi đã hói như đầu tu sĩ. Không còn những cây cao, và đôi khi ngay cả rể cây cũng bị đào lên và đem đi. Đó là tình trạng hiện tại. Trong quá khứ người ta có thể thấy những đàn thú hoang dã đông đảo, nhưng ngày nay hầu như không còn nữa.

Sự tàn phá rừng trên diện rộng đang làm kiệt quệ môi trường và đời sống hoang dã ở Tây Tạng. Đó không chỉ là điều đáng tiếc về phía tự nhiên vì đã mất vẻ đẹp hoang sơ của nó, nhưng cũng cho cư dân của nó bây giờ khó tìm ra củi để sưởi ấm cho nhà cửa của họ. Đây chỉ là một điểm tương đối nhỏ so sánh với những hậu quả rộng lớn của việc tàn phá rừng nhìn từ một quan điểm rộng lớn hơn.

Phần lớn Tây Tạng bao gồm những vùng đất khô cằn ở trên những độ cao. Vì vậy, đất đai cần thêm thời gian hơn để tự tái tạo so với những vùng thấp với khí hậu ẩm ướt. Những ảnh hưởng tiêu cực tồn tại trong một thời gian dài. Hơn thế nữa, những dòng sông tưới tẩm hầu hết Á châu, kể cả Pakistan, Ấn Độ, Trung Hoa, Lào, Cam pu chia và Việt Nam - các sông: Hoàng hà, Brahmaputra, Dương Tử, Salween, và Cửu Long - đều xuất phát từ Tây Tạng. Làm ô nhiễm những dòng sông này có những tác động thảm khốc với những nước vùng hạ lưu. Tuy thế, ở cội nguồn của chúng có cả sự tàn phá rừng và đào tìm khoáng sản đang xảy ra.

Theo thống kê của chính quyền Bắc Kinh, có 126 loại khoáng sản ở Tây Tạng. Khi những tài nguyên được khám phá, nhà cầm quyền khai thác chúng một cách kịch liệt, không lượng định đến việc bảo vệ môi trường, vì thế việc tàn phá rừng và khai khoáng đang gây ra lũ lụt ngày càng nhiều  hơn những vùng thấp ở Tây Tạng.

Theo những chuyên gia khí tượng thủy văn, việc tàn phá rừng ở cao nguyên Tây Tạng sẽ làm thay đổi tác động bức xạ vũ trụ (vì những khu rừng hấp thụ nhiều bức xạ mặt trời hơn) và điều đó sẽ ảnh hưởng đến  những cơn  mưa mùa, không chỉ ở Tây Tạng mà cả những vùng lân cận. Do thế, việc bảo tồn môi trường rất mong manh ở cao nguyên có tầm quan trọng chính yếu. Bất hạnh thay, trong thế giới Cộng Sản, như chúng ta đã từng thấy ở Liên Sô, Ba Lan, và Đông Đức cũ, nhiều vấn đề về ô nhiễm đã được tạo ra vì sơ suất. Nhà máy sản xuất gia tăng không quan tâm đến việc tránh làm tổn hại môi trường. Tình trạng tương tự đang lập lại ở Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Trong những năm 1970 và 1980, không ai chú ý đến việc làm ô nhiễm, nhưng sau đó người ta đã bắt đầu có ý thức. Tôi nghĩ những hoàn cảnh trước đó xảy ra là do thiếu hiểu biết.

Ở Tây Tạng dường như rằng, khi nói đến môi trường, nhà chức trách Trung Cộng đã áp dụng sự lượng định phân biệt: hờ hững dường như đang xảy ra ở những vùng dân cư thuộc những nhóm thiểu số nào đó. Một người Tây Tạng đến từ vùng Dingri của nam Tây Tạng đã nói với tôi về một con sông mà dân làng lấy nước để uống. Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc sống ở trong vùng được chỉ dẫn là không được uống nước sông, nhưng không thông tin nào đến với người dân trong vùng về hiểm họa liên hệ đến việc dùng nước. Cho nên họ tiếp tục uống nước ấy. Điều này cho thấy người Trung Cộng không quan tâm tiếp tục coi thường và không phải là do thiếu tin tức mà là vì những lý do khác.

Sự sống còn của sáu triệu người dân Tây Tạng đang ở trong hiểm họa lớn do bởi ô nhiễm. Trẻ con đã bị những chứng bệnh liên hệ đến không khí ô nhiễm rồi. Có vô số đớn đau và khổ sở đã không được nghe thấu đến nước ngoài mà chỉ bí mật trong những ngôi nhà khiêm tốn. Đó là nhân danh những người vô tội mà tôi lên tiếng.

***

Chính sách phá rừng có hệ thống, vì lợi ích của Trung Cộng, đã cướp mất phân nửa diện tích rừng ở Tây Tạng. Hậu quả, do Đức Đạt Lai Lạt Ma tố giác, đang tàn phá và ảnh hưởng toàn Á châu. Trong những vụ lụt lội của sông Dương Tử đã là một thảm họa của Trung Hoa trong tháng Tám 1998, chính quyền Bắc Kinh thừa nhận rằng thảm kịch xảy ra là do việc tàn phá rừng chung quanh nguồn sông trong tỉnh Kham của Tây Tạng. Hiện tại, những chỉ tiêu được ban hành nhằm bảo vệ rừng, nhưng họ hiếm khi tôn trọng. Trong những điều kiện này, cây cỏ sẽ không sinh trở lại nữa, và sự sa mạc hóa cao nguyên Tây Tạng tiếp tục, làm giảm thiểu năng lượng sản xuất của những dòng sông chính một phần tư. Bốn trăm thành phố lớn của Trung Hoa bây giờ khổ sở vì khan hiếm nước, và ở những vùng nông thôn việc thu hoạch bị ảnh hưởng vì  thiếu sự tưới tiêu.

Như Đức Đạt Lai Lạt Ma nhắc nhở chúng ta, tầng đất cát của cao nguyên Tây Tạng giàu khoáng sản, nhiều và đa dạng. Sự giàu có về nguồn khoáng sản là một trong những lý do chính cho việc xâm lăng của Trung Cộng năm  1949. Người Trung Cộng tiếp tục khai thác rộng lớn những khoáng sản như uranium, kền, vàng, lithium, hàn the, sắt, và bạc. Dầu lửa và khí thiên nhiên dự trử trong vùng Tsaidam cấu thành một năng lượng chính cung ứng cho việc đẩy nhanh tiến độ công nghệ hóa của Trung Hoa.

Khoáng sản được khai thác không quan tâm đến môi trường có những hậu quả thảm khốc cho tầng đất cát và lớp bảo hòa hay tầng ngậm nước dưới những mạch nước ngầm, ngày nay đã bị ô nhiễm bởi nước chất thải độc sử dụng trong việc khai thác. Thay vì dừng lại những việc này, những ngành công kỷ nghệ Trung Hoa lại đang cố gắng gia tăng chúng bằng việc thu hút những nhà đầu tư ngoại quốc. Những người Tây Tạng có can đảm đứng lên chống lại việc tàn phá môi trường bị bắt bớ, tra tấn, và kết án tù dài hạn.

MỘT TU SĨ PHẬT GIÁO QUÁN CHIẾU TRÁCH NHIỆM CỦA CHÚNG TA VỀ MÔI TRƯỜNG

Theo dòng diễn tiến của những cuộc du hóa qua những quốc gia trên thế giới, giàu và nghèo,  Đông và Tây, chúng tôi đã từng thấy con người say sưa với niềm vui sướng, và những con người khổ đau.  Những phát triển của khoa học kỷ thuật dường như nghiêng về một phía và sự cải thiện định lượng của việc phát triển có đạt được thêm một ít đường nét, một số cải tiến; phát triển thường có nghĩa thêm ít nhiều những tòa nhà ở thành thị.  Như một kết quả, sự cân bằng sinh thái – căn bản chính của đời sống chúng ta trên mặt đất -  đã bị ảnh hưởng vô cùng rộng lớn.

Mặt khác, trong những ngày quá khứ, người dân Tây Tạng đã sống một đời sống hạnh phúc, không có vấn nạn ô nhiễm, trong những điều kiện thiên nhiên.  Ngày nay, khắp thế giới, kể cả Tây Tạng, môi trường sinh thái thoái hóa nhanh chóng vượt qua chúng ta.  Chúng tôi hoàn toàn bị tin rằng, nếu tất cả chúng ta  không làm một sư phối hợp năng động, với một ý nghĩa trách nhiệm toàn cầu, chúng ta sẽ thấy “sự sụp đổ dần dần những hệ thống sinh thái mong manh đã nâng đở chúng ta, kết quả trong sự thoái hóa không thể đảo ngược không thể hồi phục của Hành Tinh Trái Đất.

Những đoạn thơ đã được viết nên để nhấn mạnh sự quan tâm sâu xa của chúng tôi, và để kêu gọi sự lưu tâm của tất cả mọi người để tiếp tục làm nên những tác động để bảo tồn và cứu chửa sự thoái hóa môi trường của chúng ta.

1-     
Ôi Đức Thế Tôn
Đản sinh từ cội Vô ưu
Đấng vô tỉ, không ai sánh bằng
Người, thấy sự tỏa khắp tất cả thiên nhiên
Của tương liên phụ thuộc
Giữa môi trường và tất cả chúng sinh
Luân hồi và Niết bàn
Động và bất động
Ôi, Ngài đã Giáo huấn thế gian về bi mẫn
Ban lòng từ ái bao la cho tất cả chúng con!
2-     
Ôi Đấng cứu độ
Chúng con khẩn cầu danh hiệu Quán Tự Tại
Bởi vì Ngài là hiện thân từ bi của tất cả chư Phật
Chúng con khẩn cầu Ngài làm cho tâm thức chúng con được chín muồi.
Và làm cho kết quả
Để chúng con quán chiếu thực tại.
Để tan đi vọng tưởng
3-     
Tính vị kỷ của chúng con như là đá khối
Thâm căn cố đế trong tâm thức chúng con
Từ vô thỉ kiếp
Làm nhơ bẩn, đục ngầu và ô nhiễm môi trường
Tạo thành nghiệp báo chung
Của tất cả chúng sinh
4-     
Ao và hồ đã biến mất sự trong sáng, mát tươi
Không khí bị nhiễm ô
Vòm trời tự nhiên nóng như lửa cháy
Nổ tung từng mãnh
Và chúng sinh đau khổ vì bệnh tật vốn chưa từng được biết trước đây
5-     
Núi tuyết vĩnh cửu lâu đời rực rở lộng lẫy vinh quang
Quỵ xuống và đổ sụp, và chảy tan thành   nước
Những đại dương uy nghiêm mất sự cân bằng muôn thuở
Vượt qua giới hạn từ xưa nhấn chìm hải đảo
6-     
Những sự nguy hiểm của lửa, nước và gió là không hạn chế
Hơi nóng ngột ngạt phơi khô rừng xanh tươi tốt của chúng ta
Bạo hành thế giới chúng ta với cuồng phong chưa từng nghe thấy.
Và những đại dương dâng muối cho sức mạnh thiên nhiên.

7-    Mặc dù con người không thiếu giàu sang
Họ không thể mua sự xa hoa để thở không khí trong lành
Những cơn mưa và những dòng suối không còn làm sạch sẽ bất cứ gì
Nhưng trở thành những dung dịch trơ trơ và bất lực
8-     
Chủng loại con người
Và vô số chúng sinh
Sống trên cạn và nơi ẩm thấp
Quay cuồng dưới ách của khổ đau thân thể
Nguyên nhân bởi dịch bệnh hiểm nguy
Tâm thức họ yếu đuối
Bởi lười biếng, ngu dại và tối tăm.
Hỉ lạc với thân thể và tâm linh
Ngày càng xa, xa lắc ở nơi vô tận
9-     
Chúng ta làm ô nhiễm không cần thiết
Tâm tư kiều diễm của Bà Mẹ Đất chúng ta
Xé toạc những cây cối của bà để nuôi dưỡng những tham lam thiển cận.
Biến đất đai phì nhiêu của chúng ta thành sa mạc cằn khô.
   10-
Thiên nhiên lệ thuộc tương liên
          Của môi trường ngoại tại
          Và tự nhiên nội tại loài người
          Như được diễn tả trong mật điển tantra
          Và những luận điển về y dược và thiên văn học
          Quả thực đã được chứng minh
          Bằng những kinh nghiệm hiện tại của chúng ta
   11-
Trái đất là nhà để muôn loài sinh sống
          Bình đẳng và công bằng đến động và bất động
          Vì thế lời dạy của Phật là âm thinh chân lý
          Với trái đất vĩ đại là chứng nhân
    12-
Như những chúng sinh cao quý nhận thức lòng ân cần
          Của bà mẹ thông tuệ
          Và biểu lộ báo lòng biết ơn ấy
nên chúng ta đối xử với tình cảm chân thành
Vì thế trái đất bà mẹ toàn cầu
Ban cho sự dưỡng nuôi bình đẳng
Chúng ta hãy từ bỏ sự lãng phí và sự nhiễm ô
    13-
          Của thiên nhiên sạch sẽ sáng trong
          Của bốn yếu tố
          Chúng ta hãy từ bỏ việc tàn phá sự cát tường của nhân loại
          Nhưng hãy miệt mài chính mình trong những hành động ngược lại
          Làm lợi ích cho toàn nhân loại1
    14-
 Dưới gốc cây là câu chuyện vĩ đại Đức Phật đản sinh
          Dưới gốc cây, Ngài vượt thắng đam mê
          Và đạt  đến giác ngộ hoàn toàn
          Dưới hai cây sala Ngài đã nhập niết bàn
          Quả thực, Đức Phật đã gìn giữ cây cối trong một sự quý mến vô vàn.                
    15-
Nơi đây, phát nguyên của Văn Thù Sư Lợi
          Đạo Sư Tông Khách Ba thân hiển lộ rực rở tươi đẹp
          Được ghi dấu bởi cây trầm hương
          Mang hàng trăm nghìn hình tượng của Phật
   16-
Có phải không được biết rõ
          Rằng một số bổn tôn siêu việt
          Những tâm linh và bổn tôn địa phương cao cả
          Xây dựng những lâu đài của họ trong cây?
  17-
 Cây xum xuê tịnh hóa làn gió
          Giúp chúng ta thở không khí duy trì sự sống
           Chúng làm vui ánh mắt và tâm chân thật
          Bóng của chúng làm một nơi ngơi nghĩ hân hoan
  18-
Trong luật tạng, Phật dạy tu sĩ
          Chăm sóc cho những cây yếu mềm
          Từ đây, chúng con học đạo đức
          Của trồng trọt và bảo dưỡng cây xanh
  19-
Đức  Phật cấm tu sĩ cắt cây
          Nguyên nhân làm những người khác chặt cây đang sống
          Phá hoại những hạt giống hay làm ô uế làn cỏ xanh tươi
          Điều này nên làm cảm hứng cho chúng ta
          Yêu mến và bảo vệ môi trường chứ?
  20-
Họ nói rằng, trong thế giới thiên đàng
          Cây cối khởi sinh
           Sự gia hộ của Đức Phật
          Và tiếng dội của âm thanh
          Của những giáo lý đạo Phật căn bản
          Như vô thường
  21-
Nó là cây mang đến mưa
          Cây giữ bản chất của đất
          Kalpa-Taru, cây của ước nguyện đủ đầy
          Những sự cư trú thật sự trên đất
          Để phục vụ tất cả những mục tiêu
22- 
 Ngày  xửa ngày xưa ấy
       Ông bà tổ tiên ta đã ăn trái trên cây
      Mặc áo quần bằng lá cây
      Khám phá ra lửa bằng sự cọ xát gỗ
      ẩn náo giữa những tàng cây
      khi họ chạm trán phải hiểm nguy
23-
          Ngay cả trong thời đại của khoa học
          Của kỷ thuật
          Cây cung cấp cho ta nơi trú ngụ
          Ghế cho ta ngồi lên
          Giường cho ta nằm xuống
          Khi trái tim rực cháy
          Với ngọn lửa của giận hờn
          Nhiên liệu của cải vả xung đột
          Cây mang đến sự tươi vui, đón chào mát mẻ
24-
          Trên cây mang những tiếng gầm vang
           Của tất cả đời sống trên mặt đất
          Khi nó bị quét sạch đi
          Mặt đất được minh họa bằng thí dụ
          Của cây Jambu
          Sẽ chỉ còn lại chẳng gì khác hơn là một sa mạc buồn thảm hoang tàn.
25-
          Không có gì thân thiết đến đời sống hơn là sự sống
          Liễu ngộ điều này, như trong Luật tạng
          Đức Phật đã ban điều ngăn cấm
          Như dùng nước có những vi sinh
26-
          Trong những vùng hẻo lánh của Hy Mã Lạp Sơn
          Vào những ngày xưa, vùng đất Tây Tạng
          Tuân theo sự ngăn cấm săn bắt hay câu cá
          Và, trong những thời điểm định rõ, ngay cả xây dựng
          Những truyền thống này là quý báo
          Bởi vì chúng bảo vệ và ấp ủ
          Sự sống của những tạo vật thấp hèn, bơ vơ, không khả năng tự vệ
27-
          Vui chơi với sự sống của những tạo vật khác
          Mà không có chút cảm thương hay ngượng ngịu
          Là trong hành động của săn bắt hay câu cá hay thể thao
          Là một hành vi bạo động không chú ý và vô ích
          Một sự vi phạm những quyền nghiêm trọng
          Của tất cả mọi sự sống và chúng sinh
28-
          Chăm chú ân cần đến thiên nhiên
          Của sự tương tức tương nhập của tất cả tạo vật
          Của cả sinh vật lẫn những vật vô tri
          Chúng ta không bao giờ nên dễ duôi trong nổ lực
          Để bảo tồn và duy trì năng lượng của thiên nhiên
29-
          Trong một ngày, tháng, năm nào đấy chúng ta nên tiến hành
          Buổi lễ về trồng cây
          Do thế, chúng ta phải đầy đủ ý thức trách nhiệm
          Phục vụ những thành viên của chúng ta
          Không chỉ mang đến niềm hạnh phúc cho một người
          Mà làm lợi lạc cho tất cả.
30-
          Nguyện cho năng lực về tuân thủ điều này là đúng đắn
          Và sự ngăn ngừa những thực hành sai lầm và những hành động xấu ác
          Nuôi dưỡng và tăng thêm sự thịnh vượng của thế giới
          Nguyện cho nó làm cho cường tráng chúng sinh và giúp chúng nở hoa
          Nguyện cho niềm vui sướng núi rừng và niềm hạnh phúc nguyên sơ
          Mãi mãi gia tăng, mãi mãi lan tỏa và bủa khắp tất cả.

Thi kệ được phát hành nhân dịp Đức Đạt Lai Lạt Ma tặng một bức tượng Phật đến nhân dân Ấn Độ, đánh dấu việc khai mạc Hội Nghị Quốc Tế về Trách Nhiệm Sinh Quyển: Một đối thoại với Phật Giáo vào ngày 2 tháng Mười, 1993, tại New Delhi.


Ẩn Tâm Lộ, Monday, February 01, 2016



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét