Bị Buộc Phải Lưu
Vong
CHÚNG TÔI PHẢI TRÔNG thật là thảm não khi được chào đón bởi
những binh lính biên phòng Ấn Độ. Có tám mươi người chúng tôi, thân thể tất cả
đều kiệt lực qua hành trình và về tinh thần bị choáng ngợp bởi thử thách.
Khi chung tôi đến Tezpur, hàng trăm thông điệp, thư từ,
và điện tín đang chờ tôi. Mọi người từ khắp nơi trên thế giới gởi cho tôi những
lời chào mừng và động viên. Tôi tràn ngập lòng biết ơn, nhưng cũng với một cảm
giác cấp bách. Ưu tiên là việc chuẩn bị một tuyên bố súc tích cho nhiều người
đang chờ đợi một lời từ tôi để gởi đến các phương tiện truyền thông. Thế nên
tôi thuật lại những sự kiện một cách thẳng thắn và trong những thuật ngữ vừa phải.
Thế rồi, sau một bửa ăn trưa nhẹ, chúng tôi lên xe lửa đi Mussoorie.
Thủ
tướng Ấn Độ Nehru và Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Birla House, Mussoorie, Ấn Độ,
1959
Hàng trăm hay ngay cả hàng nghìn người đổ đến để xem
chúng tôi khi chúng tôi du hành ngang qua, vẩy tay chào chúng tôi và mong chúng
tôi được hậu đãi. Ở một vài nơi người ta thậm chí còn dọn đường rầy để chúng
tôi có thể di chuyển nhanh hơn. Tin tức lan truyền một cách nhanh chóng khắp
hang cùng ngỏ hẻm ở Ấn Độ, và dường như là mọi người đều biết về sự hiện diện của
tôi trên chuyến xe lửa ấy. Hàng nghìn người liên tiếp đổ đến hoan nghênh tôi với
những lời hô vang "Đức Đạt Lai Lạt Ma Ki Jai! Đức Đạt Lai Lạt Ma
Zindabad!" (Đức Đạt Lai Lạt Ma trường thọ! Cầu cho Đức Đạt Lai Lạt Ma sống
lâu!
Tôi rất xúc động. Trong ba thành phố lớn mà tôi đi qua -
Siliguri, Benares, và Lucknow - tôi phải rời xe lửa và tham gia vào những buổi
tụ hội không chuẩn bị trước với những đám đông mênh mang chào mừng tôi bằng việc
tung hoa. Toàn bộ hành trình dường giống như một giấc mơ lạ thường. Khi nghĩ lại
việc ấy, tôi biết ơn vô vàn với người dân Ấn Độ vì sự ân cần tử tế dạt dào vào
thời điểm ấy của đời tôi.
Vài ngày sau đó, một thông cáo từ cơ quan truyền thông của
Trung Cộng đến, lên án tuyên bố Tezpur của tôi như "một tài liệu đầy sai trái của biện luận,
dối trá và lẫn tránh." Theo sự diễn dịch của Trung Cộng về những sự kiện,
tôi đã bị bắt cóc bởi những kẻ nổi loạn ở Lhasa, hành động được trả lương bởi
"những đế quốc xâm lược."
Tôi bị choáng váng khi thấy rằng Trung Cộng đang cáo buộc
những đế quốc tưởng tượng, chẳng hạn như người Tây Tạng ở Ấn Độ, Chính phủ Ấn Độ, và "phe nhóm quyền lực"
của tôi, thay vì thừa nhận sự thật rằng đồng bào tôi đang đòi hỏi tự do đã nổi
lên chống lại họ.
***
Trong năm 1959, Đức
Đạt Lai Lạt Ma đã gặp thế giới và thế giới đã gặp Tây Tạng. Nhưng truyền thông
quốc tế chỉ nhấn mạnh về bản chất huyền bí của văn hóa Tây Tạng, với những tiêu
đề vốn nổi bật một sự pha lẫn về sự dị thường và tôn giáo và hạ thấp những vấn đề chính trị về sự chiếm
đóng bất hợp pháp của Trung Cộng ở Tây Tạng ở phía sau. Vì vậy, Paris Match,
trong số ngày 28 tháng Tư năm 1959, vinh danh "Joan of Arc[1] của Tây Tạng" người được cho là có sự
hướng dẫn kỳ diệu Đức Đạt Lai Lạt Ma trong hành trình của ngài qua những đường
đèo cao nhất trên thế giới. Tạp chí này không tiếc lời ca ngợi sức mạnh siêu
nhiên của vị đạo sư trẻ tuổi, người được họ so sánh với một nhà huyển thuật triệu
hồi sự bảo vệ của những linh thức nhân từ vốn ngài biết thuần hóa như thế nào.
Tuy nhiên, hoàn cảnh
chỉ trở nên tệ hại hơn ở Tây Tạng. Biết rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tìm cách đến
Ấn Độ, Mao được nói là đã la lên, "Chúng ta đã thua trận!" Nhưng tốc
độ của cái được gọi là cải cách dân chủ chỉ tăng tốc trong tất cả mọi vùng của
Tây Tạng, không chỗ nào được loại trừ. Chính quyền Trung Cộng đã xóa bỏ tầng lớp
cai trị của Tây Tạng; tất cả những người đối kháng bị tàn sát, các lạt ma bị bắt
giữ, và những kho tàng tôn giáo và nghệ thuật của các tu viện bị cướp bóc. Ở
trung tâm Tây Tạng, trong 2,500 tu viện chỉ còn sót lại 70 ngôi mà thôi.
Quân chiếm đóng
Trung Cộng đã làm hàng chục nghìn người chết trong vài năm, nhiều lời nhân chứng
đều nói giống nhau: người Tây Tạng không chỉ bị đưa ra xử bắn mà thiêu sống,
dìm chết, bóp cổ, treo cổ, chôn sống, xé đôi, phanh thây làm tư, chặt đầu.
Giữa năm 1959 và
1960, có tám mươi nghìn người theo chân Đức Đạt Lai Lạt Ma trên con đường lưu
vong. Sự hổ trợ của Nehru cần thiết để được thành công nếu đời sống của những
người Tây Tạng bây giờ tị nạn ở Ấn Độ được tổ chức thành một cộng đồng. Tuy
nhiên, Nehru mặc dù muốn giúp đở người Tây Tạng một cách chân thành, lại nóng
lòng muốn duy trì những mối quan hệ tốt đẹp với Trung Hoa Mao-ít.
Ưu Tiên Của Tôi Là
Chấm Dứt Sự Tắm Máu
VÀO NGÀY 24 THÁNG BA 1959, Pandit Jawaharlal Nehru tự thân
đến để gặp tôi ở Mussoorie. Chúng tôi nói chuyện với nhau khoảng vài giờ đồng hồ,
trong sự hiện diện của một người thông dịch duy nhất. Tôi hiểu để kể cho ông
nghe chi tiết về những gì xảy ra từ khi tôi trở lại từ Bắc Kinh đến Tây Tạng,
theo sự cố vấn lập đi lập lại của ông. Tôi tiếp theo tuyên bố rằng tôi sẽ hành
động đối với người Trung Cộng như ông đề nghị, với công lý và trung thực, bình
phẩm họ khi họ không có lý do để làm như vậy, trong khi vẫn cố gắng để bảo toàn
những thuật ngữ của Thỏa Ước Mười Bảy Điểm.
Ở những điểm nào đó trong sự đối thoại của chúng tôi,
Nehru đấm vào bàn với nắm tay của ông. "Làm sao có thể như thế!" ông
la lên một hay hai lần như vậy. Tôi tiếp tục, mặc dù rõ ràng là ông hơi bị sốc.
Để kết luận, tôi nói với ông rất chắc chắn rằng quan tâm chính của tôi có hai
phần: "Tôi quyết định giành lại sự độc lập của Tây Tạng, nhưng bây giờ, ưu
tiên của tôi là làm chấm dứt sự tắm máu." Với những lời này, Nehru không
thể kiềm chế được nữa. "Điều đó là không thể," ông nói trong một giọng
đầy cảm xúc. "Ngài nói ngài muốn độc lập và đồng thời ngài không muốn một
cuộc tắm máu. Không thể được!" Làn
môi dưới của ông rung lên dữ đội khi ông nói.
Tôi đã bắt đầu nhận ra rằng vị thủ tướng tự thấy mình ở
trong một vị trí cực kỳ phức tạp và lúng túng. Trong quốc hội Ấn Độ, một cuộc
tranh luận căng thẳng mới về vấn đề Tây Tạng đã tiếp theo sau tin tức về sự đào
thoát của tôi. Trong nhiều năm Nehru đã bị bình phẩm bởi nhiều chính trị gia về
vị thế của ông đối với tôi. Tôi hiểu rằng tương lai của tôi và tương lai của đồng
bào tôi rất bấp bênh hơn là tôi tưởng.
***
Một
lớp học chưa có mái che do Viện Giáo Dục Tây Tạng tị nạn phụ trách năm 1960 ở Mussoorie, Đức Đạt Lai Lạt
Ma đang quán sát lúc ngài 25 tuổi.
Sự ủng hộ chính trị
dè dặt của Nehru đồng hành cùng với một cam kết kiểu mẫu về việc tổ chức giáo dục
cho trẻ em Tây Tạng. Nhiều trẻ em Tây Tạng đã đến Ấn Độ với gia đình, những người
vốn mất mát tất cả mọi thứ, và Nehru, nhận ra thảm kịch của họ, đề nghị Đức Đạt
Lai Lạt Ma thành lập những trường học đặc biệt cho họ cũng như để bảo tồn ngôn
ngữ và văn hóa Tây Tạng. Một tổ chức độc lập cho sự giáo dục của người Tây Tạng,
trong Bộ Giáo Dục của Ấn Độ, được thành lập, và việc xây dựng trường học được
tiến hành với sự tài trợ của chính phủ.
Trẻ Em Của Hy Vọng
KHÔNG BAO LÂU SAU sự đào thoát ồn ào của chúng tôi đến Ấn
Độ, tôi đã đưa ra những ngôn từ sau đây để động viên cộng đồng tị nạn mới của
chúng tôi:
"Các thiếu nhi của tôi, chúng tôi muốn làm cho các
cháu trở thành những thành viên tận tụy, hữu dụng của cộng đồng chúng ta. Các
cháu phải hành động với cả trái tim của các cháu vì đồng bào, tôn giáo, và vấn
đề Tây Tạng.
"Các cháu thiếu nhi của tôi, các cháu là những con
người. Các cháu không phải là cây cỏ cũng không phải là bông hoa, vốn bị tàn
phai trong nắng nóng hay bị tan hoang bởi mưa đá và bảo giông. Không giống như
cây cỏ, các cháu có thể nắm lấy vận mạng các cháu trong tay. Bất cứ các khổ đau
thân thể nào các cháu có thể chịu đựng, thì các cháu nên luôn luôn giữ một ý thức
trong sáng và một tâm hồn vững vàng, cứng rắn.
"Hồng Quân Trung Cộng đã làm mỗi chúng ta đau khổ vô
vàn. Chúng ta không nên lãng quên những tàn bạo này. Các cháu phải làm việc cần
mẫn để thu thập kiến thức và đấu tranh với những vũ khí của công lý và luật lệ.
Ngày và đêm, các cháu phải cố gắng để có được sự tu dưỡng rộng lớn hơn nhằm để
phục vụ tôn giáo của các cháu và đồng bào của các cháu. Đó là trách nhiệm cá
nhân của các cháu.
"Các cháu thiếu nhi, các cháu nên tiếp tục công việc
đã được bắt đầu bởi những người lớn. Không nên đứng qua một bên và không làm
gì, giống như chúng ta đang chờ đợi mưa rơi xuống từ bầu trời. Tất cả chúng ta
phải làm việc năng nổ. Trẻ cũng như già, chúng ta hãy cố gắng để nhận ra mục
tiêu chung của chúng ta.
"Các cháu thiếu nhi của tôi, càng nhìn các cháu, tôi
càng cảm thấy hạnh phúc hơn. Các cháu đại diện cho sự hy vọng của một tương lai
tốt đẹp hơn, và các cháu sẽ xoay sở để vượt thắng những khó khăn đang nằm phía
trước. Các cháu là ngưỡng cửa của sự tồn tại; các cháu phải trở nên mạnh mẽ hơn
mỗi ngày, đừng lãng phí thời gian quý báu của các cháu. Các cháu là tương lai của
Tây Tạng."
***
Đức
Đạt Lai Lạt Ma và thiếu nhi Tây Tạng
Tháng Tư năm 1960,
một năm sau khi lưu vong, phát ngôn viên một trại ở Jammu đã đến gặp Đức Thánh
Thiện với một tin tức báo động. Trong một cuộc chuyển tiếp của một nhóm tị nạn ở
Ladakh, một trận bảo tuyết đã bùng lên. Bị tấn công với cơn lạnh thêm vào sự
thiếu dinh dưỡng và thiếu sự chăm sóc y tế, trẻ em đã bị giết chết rất nhiều.
Vận mạng của trẻ em
là một ưu tiên tuyệt đối của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ở Tây Tạng Trung Cộng đã bắt đầu
một cuộc vận động "học tập yêu nước", tách rời trẻ em khỏi cha mẹ của
chúng và ngay cả lưu đày những thành phần thông minh nhất sang Trung Hoa. Đối với
những người tị nạn trẻ tại Ấn Độ, họ bị đe dọa với nạn đói và bệnh tật. Toàn bộ
một thế hệ đang ở trong hiểm họa.
Quyết định của Đức
Đạt Lai Lạt Ma là ngay lập tức. Ngài yêu cầu những thành viên trong gia đình
ngài và những viên chức trong đoàn tùy tùng của ngài lãnh trách nhiệm săn sóc
những trẻ em bệnh tật hoặc suy dinh dưỡng bằng việc tạo nên cơ quan vì mục tiêu
đó với sự giúp đở của chính phủ Ấn Độ. Một phái viên được gửi tới những người tị
nạn với thông điệp sau:
"Sự sống của đồng
bào là rất gian khó. Tôi đã quyết định thành lập một cơ sở để chào đón con em của
chúng ta. Nếu đồng bào giao phó chúng cho tôi, như vậy sẽ đơn giản hóa đời sống
của đồng bào và con em của chúng ta sẽ được học hỏi để sống độc lập và kỳ vọng ở
chính chúng.
"Điều gì hơn
thế nữa, chúng sẽ trở thành những người Tây Tạng thật sự, những kẻ thừa kế sự tự
do mà chúng ta mới tìm được. Chúng sẽ không bao giờ quên cha mẹ chúng, tổ tông
chúng, anh chị em chúng, đồng bào chúng những người đã hy sinh cho chúng. Dĩ
nhiên, tôi không áp đặt việc này; cha mẹ và con cái có thể thực hiện lựa chọn của họ một cách tự do."
Trong những năm đầu thập niên 1960, Đức Đạt Lai
Lạt Ma thường gặp gở những thiếu nhi Tây Tạng vào buổi chiều tại Swarg Ashram, nơi
thường trú cũ của ngài.
Khi phát ngôn viên
vừa dứt lời, có một thời khắc im lặng. Sau đó, người cha của một đứa bé gái bốn
tuổi lên tiếng. Ông đã không chấp nhận sự truyền thụ vốn ngăn chặn người Tây Tạng
trở thành người Tây Tạng trong chính xứ sở của họ và buộc họ lên án dân tộc họ,
quê hương họ, và tôn giáo họ. Cho nên với đứa con gái của ông trên vai, ông và
vợ đã theo chân Đức Đạt Lai Lạt Ma vượt Hy Mã Lạp Sơn. "Tôi nghĩ,"
ông kết luận, "đó là một cơ hội tuyệt vời cho chúng tôi trong việc cống hiến
sự chăm sóc và giáo dục con em chúng ta."
Một bà cụ tật nguyền
của một cậu bé Tây Tạng đứng lên và nói, "tôi đã cầu nguyện để thấy bằng
chính mắt tôi sự chết của những kẻ đã thi hành sự diệt chủng như vậy trên quê
hương chúng ta. Bất hạnh thay, tôi đã quá già; tôi nghĩ tôi sẽ chết ở đây.
Nhưng có cháu ngoại trai tôi và tất cả những trẻ em khác. Thế nên tôi cầu nguyện
chúng có thể được chăm sóc để chúng có thể chuẩn bị báo thù cho tất cả những
người chúng ta đã chết một cách mau chóng.
Cha của một trẻ em
khác cũng tuyên bố, "Tôi cầu nguyện để thấy Tây Tạng được tự do trước khi
tôi chết. Đức Đạt Lai Lạt Ma muôn năm!" Những người tị nạn lập lại,
"Đức Đạt Lai Lạt Ma muôn năm!" Và những trẻ em yêu cầu cha mẹ chúng để
chúng đi với Đức Đạt Lai Lạt Ma, đến cơ sở đã được thiết lập cho chúng.
Năm 1960, cùng lúc
đoàn tùy tùng của Đức Đạt Lai Lạt Ma lãnh trách nhiệm với các trẻ em, chính phủ
Ấn Độ mở trường tiểu học và trung học dưới thẩm quyền của sự quản lý tự trị.
Cùng năm ấy một viên chức bộ nội vụ của Tây Tạng, trong sự phối hợp với những
thẩm quyền Ấn Độ và quốc tế, lãnh trách nhiệm trông nom sự hòa nhập của người tị
nạn, những người bây giờ lan tõa khắp Ấn Độ trong khoảng năm mươi trại.
Đức Đạt Lai Lạt Ma
cũng tổ chức một bộ Văn Hóa và Tôn Giáo để tái tạo những đại tu viện và những
trường đại học của chúng trong vùng đất lưu vong.
Trong triều đại ngắn
ngủi của ngài ở chính Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tiến hành hiện đại hóa xã
hội phong kiến Tây Tạng. Trong lưu vong, ngài giới thiệu dân chủ với chính quyền
của ngài bằng việc áp dụng một hiến pháp tạm thời phân quyền, bình đẳng mọi
công dân trước luật pháp, tự do bầu cử, và chính trị đa nguyên.
Việc dân chủ hóa
này, cùng với việc bắt đầu của sự thế tục hóa cơ cấu chính trị Tây Tạng, là câu
trả lời tuyệt vời nhất đối với sự tuyên truyền của Trung Cộng cáo buộc rằng
ngài muốn tái lập quyền lực cá nhân của ngài.
Tôi Là Người Đề Xướng
Chế Độ Dân Chủ Thế Tục
MẶC DÙ CHƯA TỪNG
CÓ một xã hội Phật Giáo nào phát triển một hệ thống dân chủ trong chính
quyền của nó, nhưng cá nhân tôi vô cùng ngưỡng mộ sự dân chủ thế tục. Khi Tây Tạng
vẫn còn tự do, chúng tôi nuôi dưỡng một sự cô lập mà thiên nhiên đã cho chúng
tôi, suy nghĩ sai lầm rằng chúng tôi có thể bảo đảm cho sự hòa bình bên trong và
bảo vệ cung cách ấy. Không chú ý đến những thay đổi mà thế giới đang trải qua,
chúng tôi hầu như không lưu tâm rằng Ấn Độ, một trong những người láng giếng gần
gũi nhất của chúng tôi, đã trở thành một nền dân chủ lớn nhất trên thế giới sau
khi giành độc lập thắng lợi một cách hòa bình. Sau này, chúng tôi phải đau khổ
để biết rằng, trên trường quốc tế cũng như tại quê hương, tự do phải được chia
sẻ và thụ hưởng trong sự sống chung với những người khác. Người ta không thể sử
dụng độc quyền của tự do.
Mặc dù người Tây Tạng bên ngoài quê hương Tuyết Sơn đã bị biến thành người tị nạn,
nhưng chúng tôi có tự do để thực hành những quyền của chúng tôi. Những anh chị
em của tôi bên trong Tây Tạng không có cùng những quyền để sống ngay trên chính
quê hương của họ. Đó là tại sao những người tị nạn chúng tôi có trách nhiệm dự
đoán và tưởng tượng về một Tây Tạng của tương lai. Trải qua nhiều năm chúng tôi
đã đưa vào thực hành một kiểu mẫu dân chủ chân thật trong những cung cách đa dạng.
Sự thật là chữ dân chủ đã quen thuộc với tất cả những người Tây Tạng tị nạn và
họ minh chứng cho điều này.
Tôi đã chờ đợi từ lâu lúc chúng tôi có thể định nghĩa một
hệ thống chính trị được áp dụng cho cả truyền thống chúng tôi và sự đòi hỏi của
thế giới hiện đại, một nền dân chủ có gốc rể trong bất bạo động và hòa bình.
Chúng tôi gần đây đã đưa ra những thay đổi sẽ củng cố nền dân chủ của chính phủ
chúng tôi trong lưu vong. Với vài lý do, tôi đã quyết định rằng tôi sẽ không là
lãnh tụ, hay ngay cả là một phần trong chính quyền, ngày Tây Tạng giành lại được
nền độc lập của nó. Vị lãnh tụ tiếp theo của chính quyền Tây Tạng nên được bầu
ra trong một cuộc phổ thông đầu phiếu. Có nhiều thuận lợi cho một sự cải cách
như vậy vốn sẽ cho phép chúng tôi trở thành một nền dân chủ chân thật và hoàn
toàn. Tôi hy vọng rằng, cảm ơn cho những sự thay đổi này, đồng bào tôi sẽ có thể
biểu lộ một cách rõ ràng về những quyết định liên quan đến tương lai của Tây Tạng.
Tiến trình của chúng tôi về dân chủ hóa đã ảnh hưởng đến
mọi người Tây Tạng trên toàn thế giới. Tôi nghĩ rằng những thế hệ tương lai sẽ
nhìn vào những sự chuyển biến như những hoàn thành chính yếu của kinh nghiệm
chúng tôi trong lưu vong. Giống như sự truyền bá Phật Giáo vào Tây Tạng đã trui
rèn xứ sở chúng tôi. Tôi tin chắc rằng sự dân chủ hóa xã hội chúng tôi sẽ củng
cố sức sống của đồng bào Tây Tạng và cho phép thể chế chính quyền chúng tôi phản
chiếu khát vọng và ngưỡng mộ thân thương nhất của họ.
Tự Do, Bình Đẳng
Và Huynh Đệ Cũng Là Những Nguyên Tắc Của Phật Giáo
Ý TƯỞNG RẰNG CON NGƯỜI có thể sống một cách tự do như những
cá nhân, những kẻ bình đẳng trong nguyên tắc và vì thế có trách nhiệm với nhau
là tuyệt hảo trong liên đới với Phật Giáo. Như những Phật tử, những người Tây Tạng
chúng tôi quý trọng đời sống con người như tặng phẩm quý giá nhất, tin tưởng rằng
triết lý và giáo lý Phật Giáo là con đường để đến sự tự do tối thượng - một mục
tiêu có thể đạt đến được bởi những người nam và nữ bình đẳng như nhau.
Đức Phật thấy rằng mục tiêu của đời sống là hạnh phúc.
Ngài cũng thấy rằng, trong khi si mê đưa chúng sanh vào thất bại và khổ đau vô
tận, thì tuệ giác giải thoát họ. Nền dân chủ hiện đại căn cứ trên nguyên tắc tất
cả mọi người là bình đẳng, rằng mỗi chúng ta có quyền để sống một cách tự do và
hạnh phúc. Đạo Phật cũng nhận ra rằng con người có quyền quyết định vận mệnh của
mình, rằng tất cả những thành viên của gia đình nhân loại có quyền bình đẳng và
bất khả xâm phạm. Sự tự do này không chỉ ở trên bình diện chính trị mà cũng ở
trên trình độ căn bản, nơi mọi người phải được tự do với sợ hãi và nghèo khổ.
Cho dù giàu hay nghèo, có học hay không, đến từ bất cứ xứ sở nào, theo bất cứ
tôn giáo nào, lý tưởng nào chúng ta tán thành, thì mỗi chúng ta ở trên tất cả
những thứ ấy và là một con người như tất cả những người khác. Không chỉ chúng
ta muốn hạnh phúc và cố gắng để xa rời khổ đau, mà chúng ta có quyền chính đáng
để theo đuổi những mục tiêu này.
Hiến chế được Đức Phật thiết lập là Tăng Già (Sangha),
hay cộng đồng tu sĩ, và nó vốn tuân thủ
những quy luật của dân chủ. Trong một tình huynh đệ như thế, các cá nhân là
bình đẳng, bất chấp tầng lớp xã hội hay
đẳng cấp bẩm sinh. Sự phân biệt vi tế duy nhất nằm dựa trên sự thâm niên trong
thụ giới.
Sự tự do cá nhân, trong kiểu mẫu của sự Giải Thoát và
Giác Ngộ, là mục tiêu chính yếu của cộng đồng, và nó được hoàn thành bằng việc
tu dưỡng tâm thức trong thiền tập. Những mối quan hệ hàng ngày căn cứ trên sự bố
thí, tôn trọng, và chú ý đến người khác. Bằng việc hướng dẫn đời sống mà không
có một chỗ ở nhất định, tu sĩ tự tách rời khỏi sự sở hữu, mà không sống trong sự
cô lập hoàn toàn. Tập quán khất thực chỉ củng cố tính tỉnh giác về sự lệ thuộc
của họ. Trong cộng đồng, những quyết định được hiện thực bằng bỏ phiếu, và những
bất đồng được giải quyết bằng đồng thuận. Vì vậy, Tăng Già là một mẫu mực trong
dạng thức của sự bình đẳng xã hội, chia sẻ tài vật, và tiến trình dân chủ.
***
Trong chuyến du
hành sang Trung Hoa năm 1954, Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố sự nhiệt tình của
ngài với chủ nghĩa Mác-xít, vốn cho phép nền kinh tế xã hội chủ nghĩa gần với
lý tưởng Phật Giáo hơn là chủ nghĩa tư bản. Trong triết lý Mác-xít, ngài thấy
những nguyên tắc bình đẳng và công bằng xã hội thân thiết với Đạo Phật:
"Tâm trí tôi có thể đỏ đẹp hơn những nhà lãnh đạo Trung Cộng. Ở Trung Hoa
chế độ Cộng Sản đang thống trị mà không có lý tưởng Cộng Sản," ngài tuyên
bố một lần nữa năm 2008, trong việc biểu lộ giấc mơ của ngài về một sự tổng hợp
giữa Phật Giáo và chủ nghĩa Mác-xít vốn có thể có hiệu quả cao nhất trong chính
trị.
Tôi Yêu Hình Ảnh Những
Thanh Gươm Biến Thành Những Lưỡi Cày
Vào ngày 17 tháng
Mười năm 2007, trong mái vòm của điện Capitol ở thủ đô Hoa Sinh Tân, Hoa Kỳ, một
lần nữa trong năng lực của ngài như một con người, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhận Huân Chương Vàng
Quốc Hội Hoa Kỳ, gần hai mươi mốt
năm sau khi nhận giải Nobel Hòa Bình ở Oslo, Na Uy.
Tổng thống Bush
trao Huân chương vàng Quốc hội Hoa Kỳ cho
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Ngài bước lên bục
trong y áo tu sĩ truyền thống: chiếc y vàng nghệ rộng phủ trên bộ đồ màu đỏ sậm,
để hở vai bên phải. Chung quanh ngài, những
bức tượng trang nghiêm được tạc bằng đá cẩm thạch để nhớ lại thời gian oai hùng
của Thomas Jefferson và những vị cha già khai sinh nước Mỹ, và những bích họa kỷ
niệm những chiến trận mà trong ấy George Washington, Lafayette, và những nhà
yêu nước khác đã chiến đấu vì sự độc lập của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Tổng thống George
W. Bush đã làm thính chúng xúc động khi ông đề cập rằng lúc còn là một cậu bé,
Đức Đạt Lai Lạt Ma "đã giữ một mô hình tượng Thần Tự Do bên cạnh
ngài". Những năm sau này, trong lần thăm đầu tiên Hoa Kỳ, ngài đã đến Công
viên Battery ở thành phố New York để ngài có thể thấy bức tượng thật sự cao lớn
ngay trước mắt.
Tổng thống tiếp tục
với chủ đề quyền tự do, nhắc lại tổ tiên ông đã giành được nền độc lập qua một
cuộc cách mạng và rằng ''Jefferson đã xem việc tự do thờ phụng là một trong những
phước lành lớn nhất của Hoa Kỳ." Theo tổng thống, "Sự tự do này không
thuộc vào một đất nước, nó thuộc về cả thế giới."
Tổng thống đã nói
nhân danh chính quyền Hoa Kỳ. Để bảo vệ tự do, đất nước của ông đã nhờ đến sức
mạnh. Nói như một cảnh sát viên thế giới và như nguyên thủ của một quốc gia
quân sự hùng mạnh nhất thế giới, George W. Bush đã biện giải về một nền hòa
bình bị đe dọa bởi khủng bố.
Tuy nhiên, Đức Đạt
Lai Lạt Ma đã nói như một con người và biện hộ cho một con đường của hòa bình
tiến tới hòa bình.
***
Có một thông điệp tuyệt vời trong Thánh Kinh vốn thôi
thúc chúng ta biến những thanh gươm thành những lưỡi cày. Tôi yêu hình ảnh này của
một vũ khí làm thành một khí cụ để phục vụ cho nhu cầu căn bản của con người.
Đó là biểu tượng của một thái độ giải trừ vũ khí nội tại và ngoại tại. Trong
tinh thần của thông điệp cổ xưa này, dường như quan trọng đối với tôi với ngày
nay là việc nhấn mạnh tính cấp bách của một chính sách dài lâu là: phi quân sự
hóa toàn hành tinh.
***
Hòa bình không phải
được ra lệnh, cũng không phải được áp đặt bằng sức mạnh. Kết quả của từ bi, hòa
bình "chín muồi từ trái tim con người và chiếu soi trên thế giới," Đức
Đạt Lai Lạt Ma nói với chúng ta như vậy.
Loài Người Thích
Cung Cách Hòa Bình Hơn
TÔI BẢO ĐẢM RẰNG mọi
người đều đồng ý với nhu cầu cho việc chiến thắng bạo động, nhưng nhằm để
loại trừ nó một cách hoàn toàn, trước nhất
nó phải được phân tích.
Ở một quan điểm cực đoan thực tiển, chúng ta chú ý rằng bạo
lực đôi khi có thể hữu dụng. Một vấn nạn được giải quyết một cách nhanh chóng
hơn bằng sức mạnh. Nhưng một sự thành công như vậy thì thường đạt được bằng sự
hy sinh những quyền lợi và sự cát tường của kẻ khác. Bất cứ vấn nạn nào được giải
quyết bằng cách ấy lại gây ra một vấn nạn khác.
Nếu một lý trí vững chắc được đặt vào việc phục vụ cho một
nguyên nhân, thì bạo lực là vô ích. Khi người ta bị thúc đẩy bởi một mong ước vị
kỷ và không thể có được những gì người ta muốn qua lý luận hợp lý, thì người ta
viện đến sức mạnh. Ngay cả trong khuôn khổ của sự tranh cải gia đình hay sự bất
đồng thân hữu, nếu bạn tự hổ trợ bạn với một lý luận có căn cứ, thì bạn sẽ bảo
vệ một cách không mệt mõi vị thế của bạn, từng điểm một. Tuy nhiên, nếu bạn thiếu
những động cơ hợp lý, thì bạn sẽ mau chóng bị tràn ngập bởi sân hận, là thứ vốn
không bao giờ có dấu hiệu của sự mạnh mẽ, mà là của sự yếu kém.
Cuối cùng, thật quan trọng để thẩm tra động cơ của chúng
ta, cũng như của những kẻ đối nghịch. Bạo động và bất bạo động có thể có nhiều
hình thức, vốn khó để phân biệt nếu chúng ta chỉ nhắm đơn thuần vào quan điểm
ngoại tại. Một động cơ tiêu cực sản sinh một hành vi bạo động sâu sắc, ngay cả
khi nó dường như thân hữu và tế nhị. Trái lại, một động cơ chân thành tích cực
nhất thiết là bất bạo động trong thực tiển, ngay cả nếu những hoàn cảnh áp đặt
một mức độ nghiêm trọng nào đó. Trong bất cứ trường hợp nào. Tôi có cảm giác rằng
chỉ sự quan tâm từ bi cho người khác thì mới có thể biện minh cho phương sách với
sức mạnh.
Tôi đã từng nghe nhiều người phương Tây nói rằng về lâu về
dài những phương pháp bất bạo động của sự phản kháng thụ động được Thánh Gandhi
bênh vực là không thích hợp cho mọi người và chúng thì thích đáng hơn ở phương
Đông. Hãy năng động hơn. Những người phương Tây yêu cầu những kết quả tức thời,
bất cứ tình cảnh nào, ngay cả với giá của sinh mạng họ. Tôi nghĩ thái độ này
không phải luôn luôn là tuyệt hảo nhất. Trái lại, sự thực hành bất bạo động là
lợi ích trong bất cứ trường hợp nào. Nó đơn giản đòi hỏi sự quyết tâm. Mặc dù
những phong trào tự do ở Đông Âu đạt được mục tiêu nhanh chóng của họ, sự phản
kháng bất bạo động, chính bản chất của nó, thường đòi hỏi sự kiên nhẫn.
Với điều này trong tâm, tôi cầu nguyện cho những ủng hộ
viên của phong trào dân chủ ở Trung Hoa duy trì sự hòa bình, mặc cho sự đàn áp
dã man và những khó khăn trước mắt của họ. Tôi chắc chắn rằng họ sẽ duy trì sự bình
lặng. Đại đa số những người Trung Hoa trẻ, những thành viên của phong trào đều
sinh ra và lớn lên trong một chế độ Cộng Sản rất khắc nghiệt. Nhưng trong mùa
xuân 1989, họ đã tự động đưa vào thực hành sách lược phản kháng thụ động rất
thân thiết với Mahatma Gandhi. Tôi thấy trong điều này một sự biểu hiện rõ ràng
rằng, như một phương sách cuối cùng, loài người thích cung cách của hòa bình, mặc
dù tất cả những chỉ dấu là đối nghịch lại.
***
Gandhi là một kiểu
mẫu chính trị đầu tranh bất bạo động, và ảnh của ông hiện diện trong nhiều văn
phòng hành chính Tây Tạng. Một nhân vật vĩ đại của hòa bình và hòa giải,
Mahatma, nhân cách vĩ đại được vinh danh sau khi chết đồng thời như Đức Đạt Lai
Lạt Ma trong lúc được trao giải Nobel hòa bình. Bằng việc làm như vậy, Hội đồng
Nobel muốn sửa chửa lỗi lầm của họ vì đã không trao danh hiệu này cho Gandhi trước
đây.
Để giành độc lập
cho Ấn Độ từ sức mạnh thuộc địa của Anh, Gandhi đã tổ chức không chỉ phản kháng
bất bạo động mà cũng là bất tuân dân sự, bất hợp tác với những kẻ chiếm đóng,
và tuần hành chống đối. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma bị phiền trách vì đã giới hạn di
sản bất bạo động của Gandhi, ngài chỉ ra rằng phạm vi không cho phép người Tây
Tạng sao chép lại ở Tây Tạng phương pháp vốn đã giành lại tự do cho Ấn Độ khỏi
sự thống trị của Anh Quốc. Gandhi trong thực tế có thể tự bảo vệ cho ngài trước
một tòa án của luật lệ, và mặc dù chế độ thuộc địa của Anh Quốc ở Ấn Độ rất khắc
nghiệt, nhưng vẫn tôn trọng những quyền cá nhân, vốn không phải là trường hợp của
nhà đương cục Trung Cộng. Do vậy, Đức Đạt Lai Lạt Ma biện hộ cho việc nuôi dưỡng
tinh thần đấu tranh của Gandhi trong khi áp dụng nó trong hoàn cảnh của Tây Tạng.
Gandhi Sẽ Làm Gì ở Vị Trí Của Tôi?
CHUYẾN THĂM NEW DELHI lần đầu tiên của tôi là đến
Rajghat, nơi hỏa táng của Mahatma Gandhi. Tôi tự hỏi nếu ngài vẫn còn sống thì
ngài sẽ cho tôi một lời khuyên bảo khôn ngoan như thế nào. Tôi nghĩ ngài chắc
chắn sẽ dùng tất cả sức mạnh của ngài, tất cả ý chí của ngài, và toàn bộ cá
tính của ngài vào một cuộc vận động bất bạo động vì sự tự do của đồng bào Tây Tạng.
Điều đó làm tôi thư thái trong quyết định của tôi là luôn luôn đi theo tấm
gương của ngài, cho dù bất cứ chướng ngại nào có thể sinh khởi. Và hơn thế nữa,
tôi quyết tâm không liên kết bản thân tôi với bất cứ hành vi bạo động nào.
***
Đức Đạt Lai Lạt Ma
không bao giờ dao động với quyết định ban đầu của ngài để trả lời với sự hung
hãn của Trung Cộng bằng bất bạo động. Kể từ lúc bắt đầu cuộc chiếm đóng, ngài
đã cố gắng để mở ra một cuộc đối thoại với Bắc Kinh và bảo vệ quyền lợi của Tây
Tạng trong phạm vi của Thỏa Ước Mười Bảy Điểm, mặc cho sự bất công trắng trợn của
nó. Trong năm 1958, khi quân kháng chiến của những người Khampa trở nên triệt để
hơn ở miền Đông Tây Tạng, ngài yêu cầu họ giao nộp vũ khí. Những Chiến Sĩ Tự Do
này đã thề chiến đấu đến chết cho Tây Tạng. Vì họ không thể phá vở lời thề này
cũng không thể bất tuân Đức Đạt Lai Lạt Ma, cho nên nhiều người đã tự sát.
Đến ngày nay, vị
lãnh đạo tinh thần của người Tây Tạng đã kiên trì con đường bất bạo động. Trong
những cuộc bạo động ở Lhasa năm 1987 và 1988, ngài vui mừng khi thấy những tu
sĩ đã cầm những súng trường của Trung Cộng đập vở chúng thay vì quay lại chống
lại những kẻ chiếm đóng, như vậy là nói không với ngôn ngữ của vũ khí.
Tháng Ba năm 2008,
khi những cư dân của Lhasa nổi dậy và cam kết bạo động chống lại Trung Cộng,
chính quyền Bắc Kinh buộc tội Đức Đạt Lai Lạt Ma xúi giục những hành động này.
Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời rằng trong trường hợp ấy họ có thể lấy lại giải
Nobel Hòa Bình của ngài, và ngài thách
thức nhà cầm quyền Trung Cộng đến Dharamsala để điều tra và chứng minh cho những
lời tố cáo của họ.
Biểu tình ở Lhasa năm 2008
Nhưng ngài ân hận sự
kiện là cùng lúc những tu sĩ tham gia những cuộc chống đối một cách hòa bình lại
bị trấn áp tàn bạo, một người Tây Tạng trẻ đã tổ chức ăn trộm, đốt phá và cướp
giật. Trong khi thừa nhận rằng những hành động của họ xảy ra do bởi thất vọng
và do bị đối xử như những công dân hạng hai ngay trên quê hương của họ, ngài
lên án việc sử dụng bạo lực và tuyên bố nếu đồng bào của ngài xa rời con đường
bất bạo động thì ngài có thể không còn là phát ngôn viên cho họ nữa.
Bình luận vào việc
lựa chọn bất bạo động từ quan điểm chính trị, Samdhong Rinpoche xác nhận rằng
phương pháp này đã sản sinh ra những kết quả bất ngờ trong hình thức của sự
thông cảm quốc tế cho vấn đề Tây Tạng. Nếu chiến trận quân sự được Đức Đạt Lai
Lạt Ma động viên, nó sẽ không thành công, và bây giờ Tây Tạng có thể đã chìm
vào sự lãng quên.
Ẩn Tâm Lộ, Thursday, February 18, 2016
[1]
Jeanne d'Arc (tiếng Việt:
Gian-đa, 6 tháng 1 năm 1412 – 30 tháng 5 năm 1431) là một nữ anh hùng người Pháp trong cuộcchiến tranh Trăm năm giữa Pháp và Anh. Jeanne chứng thực là cô nhận được mặc khải từ Chúa muốn cô giải phóng quê
hương mình từ ách thống trị của người Anh trong cuộc Chiến tranh trăm năm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét