21
Cảm Nhận Sự Thấu Cảm
Mưa từ ái quan tâm
cho những chúng sanh lưu chuyển
Bất lực như một chiếc
thùng đi lên và đi xuống trong một giếng nước
Qua sự phóng đại bẩm
sinh chính mình, cái "tôi",
Và rồi phát sinh sự
dính mắc cho mọi thứ,
"Đây là của tôi".
- BỔ SUNG CỦA NGUYỆT XỨNG -
Mặc dù thật cần thiết trong việc bắt đầu có một ý chí mạnh
mẽ nhằm để phát triển từ ái và bi mẫn, sẽ không đầy đủ để phát triển những thái
độ vị tha này một cách giới hạn. Thật quan trọng để phối hợp sự thực tập từ ái
và bi mẫn với sự thực tập tuệ giác. Ngay cả nếu quý vị nghiên cứu để hổ trợ người
đó do sự quan tâm, nếu không có tuệ giác thì quí vị sẽ không thể rõ ràng lắm về
lợi lạc nào sẽ đến từ những nổ lực của quý vị. Một sự phối hợp cần thiết: Một
trái tim tốt lành của con người cũng như một bộ óc tốt lành của con người. Với những thứ này hoạt động với nhau, thì
chúng ta có thể thành tựu nhiều thứ.
ẨN DỤ ĐỂ QUÁN CHIẾU
Trong câu kệ được trích dẫn bắt đầu chương này. Nguyệt Xứng
cho thấy vấn đề tuệ giác có thể làm sâu sắc từ ái qua việc thấu hiểu tiến trình
mà qua đó chúng ta đau khổ. Ngài so sánh tiến trình đối với cách của một chiếc
thùng đi lên và đi xuống một cái giếng. Chúng sanh được sanh ra từ kiếp này đến
kiếp khác tương tự như một chiếc thùng trong một cái giếng như thế nào? Có 6 sự tương tự:
Giống như một chiếc thùng bị cột bởi một sợi dây, cho nên
chúng sanh bị thúc đẩy bởi những cảm xúc phiền não chướng ngại ẩn tàng và những
hành vi bị lèo lái bởi chúng.
Giống như thời khắc chiếc thùng lên và xuống trong giếng
bị điều khiền bởi người lấy nước, cho nên tiến trình của vòng luân hồi bị vận
hành bởi tâm thức chưa được thuần hóa, một cách đặc biệt qua niềm tin sai lầm rằng
tự ngã tồn tại một cách cố hữu, và sau đó hiểu sai bản chất của cái "của
tôi".
Giống như chiếc thùng đi lên và đi xuống trong cái giếng
hết lần này đến lần khác, cho nên chúng sanh lang thang không ngừng trong cái
giếng vĩ đại của dòng luân hồi, từ những tình trạng tột đỉnh của hạnh phúc tạm
thời đến những tình trạng tột cùng của khổ đau tạm thời.
Giống như phải dùng nổ lực khó nhọc để kéo chiếc thùng
lên nhưng nó rơi xuống một cách dễ dàng, cho nên chúng sanh phải dành nổ lực lớn
để đưa chính họ lên để có một đời sống hạnh phúc hơn nhưng dễ dàng rơi xuống thành
những hoàn cảnh khổ đau.
Giống như một chiếc thùng không thể quyết định những chuyển
động của chính nó, cho nên những nhân tố liên hệ trong việc cấu thành đời sống
của một người là những kết quả của si mê, dính mắc, và chấp trước quá khứ,
trong hiện tại, cũng những nhân tố này đang tạo ra tiếp diễn nhiều vấn nạn hơn
cho những kiếp sống tương lai, giống những đợt sóng trong đại dương.
Giống như chiếc thùng đập vào tường vách của cái giếng
khi nó đi xuống và đi lên, cho nên chúng sanh bị hành hạ ngày qua ngày bởi nổi
khổ của đớn đau và thay đổi, và bằng việc vướng mắc trong những tiến trình
ngoài sự kiểm soát của họ.
Qua sự so sánh này, Nguyệt Xứng cung cấp tuệ giác vào
trong những chi tiết của tiến trình bị trôi dạt trong vòng luân hồi.
Thứ nhất, áp dụng thông tin này về vòng luân hồi với
chính quý vị vì thế quý vị có thể thấu hiểu cảnh ngộ của quý vị và phát triển một
quyết tâm mạnh mẽ để vượt lên khỏi sự biến động của những vấn nạn tái diễn này.
Nếu tâm thức của quý vị chưa bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ về cung cách chính quý vị
lang thang trong một vòng không thể kiểm soát của sự tự suy tàn, thế thì khi
quý vị phản chiếu trên tiến trình của khổ đau trong những chúng sanh khác, quý
vị sẽ không thấy sự khổ đau của họ quá đổi không chịu nổi mà quý vị sẽ cảm thấy
nhu cầu cần giúp đở họ giải thoát họ khỏi vũng lầy khổ đau này.
Phản Chiếu Thiền Tập
Quán chiếu:
1.
Giống
như một chiếc thùng bị cột bởi một sợi dây, cho nên tôi bị thúc đẩy bởi những cảm
xúc phiền não chướng ngại ẩn tàng và những hành vi bị lèo lái bởi chúng.
2.
Giống
như thời khắc chiếc thùng lên và xuống trong giếng bị điều khiền bởi người lấy
nước, cho nên tiến trình của vòng luân hồi của tôi bị vận hành bởi tâm thức
chưa được thuần hóa, một cách đặc biệt qua niềm tin sai lầm rằng tự ngã tồn tại
một cách cố hữu, và cái "của tôi" đó tồn tại một cách cố hữu.
3.
Giống
như chiếc thùng đi lên và đi xuống trong giếng hết lần này đến lần khác, cho
nên tôi đã lang thang không ngừng trong cái giếng vĩ đại của dòng luân hồi, từ
những tình trạng tột đỉnh của hạnh phúc tạm thời đến những tình trạng tột cùng
của khổ đau tạm thời.
4.
Giống
như phải dùng nổ lực khó nhọc để kéo chiếc thùng lên nhưng nó rơi xuống một
cách dễ dàng, cho nên tôi phải dành nổ lực lớn để đưa chính tôi lên để có một đời
sống hạnh phúc hơn nhưng dễ dàng rơi xuống thành những hoàn cảnh khổ đau.
5.
Giống
như một chiếc thùng không thể quyết định những chuyển động của chính nó, cho
nên những nhân tố liên hệ trong việc cấu thành đời sống của tôi là những kết quả
của si mê, dính mắc, và chấp trước của quá khứ;, trong hiện tại, cũng những
nhân tố này đang tiếp tục tạo ra nhiều vấn nạn hơn cho những kiếp sống tương
lai của, giống những đợt sóng trong đại dương.
6.
Giống
như chiếc thùng đập vào tường vách của cái giếng khi nó đi xuống và đi lên, cho
nên tôi bị hành hạ ngày qua ngày bởi nổi khổ của đớn đau và thay đổi, và bằng
việc vướng mắc trong những tiến trình ngoài sự kiểm soát của tôi.
7.
Vì thế
từ chiều sâu trái tim tôi, tôi nên tìm cách thoát khỏi vòng lẩn quẩn khổ đau
này.
MỞ RỘNG TUỆ GIÁC
NÀY ĐẾN NHỮNG NGƯỜI KHÁC
Bây giờ quý vị đã xác định những cơ chế của khổ đau trong
hoàn cảnh của chính quý vị, thì quý vị có thể mở rộng tuệ giác này đến những
chúng sanh đau khổ khác có cùng nổi khốn khó tương tự. Tuy nhiên, đối với sự
đáp ứng của quý vị là từ ái và bi mẫn, thì không đủ với việc chỉ biết vấn đề
người khác đau khổ như thế nào; quý vị cũng phải có một cảm nhận gần gũi với họ.
Bằng khác đi, càng biết về nổi khổ của những kẻ thù của quý vị bao nhiêu, thì
quý vị có thể càng vui sướng bấy nhiêu! Như Tông Khách Ba nói:
Trong thế giới khi
khổ đau được thấy trong một kẻ thù, không chỉ nó là không thể không chịu nổi mà
quý vị sung sướng trong ấy. Khi những người chưa từng giúp đở hay làm tổn hại
quý vị dường như đau khổ, thì quý vị trong hầu hết mọi trường hợp không chú ý đến
hoàn cảnh của họ. Sự phản ứng này được tạo ra bởi không có một cảm nhận gần gũi
với sự quan tâm đến những người đó. Nhưng khi quý vị thấy những người bạn đau
khổ, nó là không thể chịu nổi [trong ý nghĩa rằng quý vị muốn làm điều gì đó về
nó], và trong mức độ của sự không thể chịu nổi lớn như cảm nhận gần gũi của
quý vị đối với họ. Do thế, thật cần yếu
là quý vị nên phát sanh một cảm nhận yêu mến mạnh mẽ và tình cảm mạnh mẽ đối với
chúng sanh.
Lòng từ ái và bi mẫn chân thật sinh khởi trên căn bản của
việc quan tâm đến người khác. Cảm nhận này về thấu cảm được thành tựu bằng việc
nhận ra rằng quý vị và tất cả những người khác - cho dù là những người bạn, những
kẻ thù hay những người vô tư - cùng chia sẻ một khát vọng trung tâm bằng việc
muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, ngay cả nếu quý vị nghĩ về hạnh phúc và
khổ đau một cách khác biệt. Cũng thế, nó giúp để nhận thấy rằng, qua phạm vi của
vô số kiếp sống, mỗi người ở vào một lúc nào đó đã từng là mẹ của quý vị và một
người bạn thân thiết nhất của quý vị. (Tôi đã giải thích những điểm này một
cách chi tiết trong tác phẩm Rộng
Mở Từ Ái).
Với cảm nhận gần gũi và thân mật tiên quyết này với mọi
người hiện hữu, tuệ giác vào trong vấn đề chúng sanh lang thang một cách bất lực
trong vòng luân hồi như thế nào phục vụ để làm tăng cường lòng từ ái và bi mẫn.
Trong sự hiện diện của sự thân mật và tuệ giác, những nhân tố của từ ái và bi mẫn,
và một khát vọng để giúp đở sinh khởi một cách không khó khăn.
Phản Chiếu Thiền Quán
Đem một người bạn vào tâm thức, và trau dồi ba trình độ của
từ ái:
1.
Người
này muốn hạnh phúc nhưng bị lấy mất đi. Thật dễ thương làm sao nếu người ấy có
thể thấm đẫm với hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc!
2.
Người
này muốn hạnh phúc nhưng bị lấy mất đi. Nguyện cho người ấy được thấm đẫm với hạnh
phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc!
3.
Người
này muốn hạnh phúc nhưng bị lấy mất đi. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì mà tôi có thể
làm để giúp người ấy được thấm đẫm vớ hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của
hạnh phúc!
Bây giờ hãy trau dồi ba trình độ của bi mẫn:
1.
Người
này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, tuy thế lại lâm vào nổi đớn đau kinh
khiếp. Phải chi người này cuối cùng được thoát khỏi khổ đau và tất cả những nguyên nhân của khổ dau!
2.
Người
này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, tuy thế lại lâm vào nổi đớn đau kinh
khiếp. Nguyện cho người này được thoát khỏi khổ đau và tất cả những nguyên nhân
của khổ đau!
3.
Người
này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, tuy thế lại lâm vào nổi đớn đau kinh
khiếp. Tôi sẽ giúp đở người này thoát khỏi khổ đau và tất cả những nguyên nhân
của khổ đau!
Bây giờ trau dồi chí nguyện toàn lực:
1.
Vòng
luân hồi là một tiến trình bị lèo lái bởi si mê.
2.
Do thế,
thật thực tế cho tôi để làm việc thành tựu Giác Ngộ và để giúp đở người khác
cùng làm giống như thế.
3.
Ngay cả
nếu tôi phải làm việc này một mình, tôi sẽ giải thoát tất cả chúng sanh khỏi khổ
đau và những nguyên nhân của khổ đau, và đưa chúng sanh đến hạnh phúc cùng những
nguyên nhân của nó.
Từng thứ một, hãy đem vào tâm thức những cá nhân chúng
sanh - đầu tiên là những người thân quyến, rồi thì những người vô tư trung
tính, và sau đó là những kẻ thù, bắt đầu với kẻ ít mích lòng nhất - và lập lại
những sự quán chiếu này với họ. Nó sẽ cần đến hàng tháng và hàng năm, nhưng lợi
ích của sự thực tập này sẽ là vô biên.
Thursday, April 02, 2015
22
Phản Chiếu Trên
Tính Vô Thường
Ở Tây Tạng có những hành giả trong khóa tu
Những người quán chiếu một cách vô cùng mãnh liệt về vô
thường
Đến nổi họ đã không rửa chén dĩa sau khi ăn chiều
- Những Từ Ngữ
Thánh Thiện Của Paltrul Rinpoche
Trong chương này tôi sẽ giải thích về tính vô thường, trình
độ thứ nhất của hai trình độ của tuệ giác vào tiến trình của sinh tử luân hồi.
Trình độ thứ hai, tính không, sẽ được đề cập đến trong chương tiếp theo.
MỘT ẨN DỤ VỀ VÔ THƯỜNG
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ
nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng
sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái
"tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ
nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng
và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu
tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô
thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của
những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy
chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác
vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết
như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này,
lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
QUÁN CHIẾU VÔ THƯỜNG
Chúng ta ở dưới ảnh hưởng của một vọng tưởng thường còn,
vì thế chúng ta nghĩ rằng luôn luôn vẫn còn nhiều thời gian. Sự tin tưởng sai lầm
này đặt chúng ta vào trong một hiểm họa to lớn của việc lãng phí thời gian sinh
sống của chúng ta trong việc chần chừ, đó là việc cực kỳ hoang phí khi đời sống của chúng ta được diễm phúc
với sự thư thái và tiện lợi để dấn thân trong những sự thực tập hữu ích. Để đối
trị với khuynh hướng này, thật quan trọng để hành thiền về tính vô thường - trước
nhất về sự thật rằng cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, và sau đó về bản chất
rất tạm thời của đời sống.
Một trong những lý do chính yếu của tham dục và thù hận
sinh khởi là chúng ta dính mắc quá mức với sự diễn ra nhẹ nhàng tràn đầy của đời
sống. Chúng ta có một cảm giác rằng nó sẽ tồn tại mãi mãi, và với thái độ ấy
chúng ta trở nên an trụ với những bề ngoài ấy - những sở hữu vật chất và những
người bạn cùng hoàn cảnh tạm bợ. Để vượt thắng sự si mê này, quý vị cần quán
chiếu trên sự kiện rằng một ngày nào đó đang đến khi quý vị sẽ không còn ở đây
nữa.
Mặc dù không có chắc chắn gì rằng quý vị sẽ chết đêm nay,
nhưng khi quý vị trau dồi một sự tỉnh giác về cái chết, thì quý vị sẽ hiểu rõ
được rằng quý vị có thể chết đêm nay. Với thái độ này, nếu có điều gì đó mà quý
vị có thể làm để hổ trợ trong cả kiếp sống này lẫn kiếp sống tới, thì quý vị sẽ
cho nó quyền ưu tiên đối với việc gì đó chỉ có thể hữu ích trong kiếp sống này
trong một cách nông cạn. Xa hơn nữa, bằng việc không chắc chắn về vấn đề khi
nào sự chết sẽ đến, thì quý vị sẽ kiềm chế khỏi những việc làm gì đó sẽ làm tai
hại cho cả kiếp sống hiện tại và những kiếp sống tương lai của quý vị. Quý vị sẽ
được động viên để phát triển những quan điểm mà chúng sẽ hoạt động như những sự
đối trị đến những hình thức khác nhau của tâm thức không được thuần hóa. Sau
đó, cho dù quý vị sống một ngày, một tuần, một tháng, hay một năm, thời gian ấy
sẽ là đầy đủ ý nghĩa, bởi vì tư tưởng và hành động của quý vị sẽ được căn cứ
trên những gì lợi lạc về lâu về dài. Bằng trái lại, khi quý vị tồn tại dưới sự
tác động của vọng tưởng thường còn và dành thời gian của quý vị trên những vấn
đề không vượt xa hơn bề mặt của kiếp sống hiện tại, thì quý vị sẽ chịu đựng một
sự mất mát lớn lao.
Sự kiện rằng mọi thứ thay đổi từng thời khắc mở ra một khả
năng cho sự phát triển tích cực. Nếu những hoàn cảnh đã không thay đổi, thì họ
sẽ mãi mãi ở trong khía cạnh khổ đau. Một khi quý vị nhận ra rằng mọi thứ
luôn luôn thay đổi, nếu quý vị đang trải
qua một thời điểm khó khăn thì quý vị có
thể tìm thấy niềm an ủi trong việc biết rằng hoàn cảnh sẽ không duy trì trong
cách ấy mãi mãi.
Chính là bản chất của luân hồi là điều đã tập họp - cha mẹ,
con cái, anh chị em và bè bạn cuối cùng sẽ tan tác. Bất chấp bạn bè thương mến
nhau bao nhiêu đi nữa, cuối cùng họ phải xa lìa. Đạo sư và học trò, cha mẹ và
con cái, anh chị em, chồng và vợ, và những người bạn thân thiết nhất - bất chấp
họ là ai - cuối cùng phải chia ly. Thêm nữa, đối với việc xa cách tất cả những
người bạn của chúng ta, thì tất cả những sự giàu sang và tài sản mà quý vị đã
tích lũy - bất chấp chúng tuyệt diệu thế nào - cuối cùng cũng trở thành vô dụng;
sự ngắn ngủi của kiếp sống hiện tại này sẽ bắt buộc quý vị phải bỏ lại tất cả mọi
sự giàu sang phía sau. Một triết gia và hành giả du già Ấn Độ đã nói một cách
tác động về vô thường rằng, bất chấp cuộc sống hiện tại của quý vị kỳ diệu như
thế nào, nó giống như giấc mơ về sự vui thích và say đó tỉnh giấc, không còn gì
ngoài ký ức. Như Đức Phật nói trong Kinh Kim Cang rằng:
Hãy xem mọi thứ hợp
thành từ những nguyên nhân
Giống như những
ngôi sao lấp lánh, vật tưởng tượng được thấy bởi một con mắt bệnh hoạn,
Ánh sáng lập lòe của
ngọn đèn bơ, những ảo tưởng phù phép,
Sương sớm, bong
bóng nước, những giấc mơ, tia chớp, và những đám mây.
(Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyển bào ảnh,
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán.)
Khi tôi sắp bắt đầu thuyết giảng trước một đám đông ngước
mắt nhìn tôi mong cầu tuệ và trí, tôi tự lập lại những lời này về sự mong manh
của mọi thứ và sau đó búng ngón tay, âm thanh ngắn ngủi biểu tượng của vô thường.
Đây là việc tôi đã tự nhắc nhở mình rằng tôi sẽ nhanh chóng bước xuống khỏi vị
trí hiện tại của tôi. Bất cứ chúng sinh nào - bất kể họ sống lâu bao nhiêu đi nữa
- cuối cùng sẽ chết. Không có cách nào khác. Một khi quý vị sống trong cõi luân
hồi, thì quý vị không thể sống ngoài tính tự nhiên của nó. Bất chấp mọi thứ tuyệt
diệu thế nào, thì nó cũng được xây dựng trên chính bản chất của chúng mà chúng
và quý vị phải lụi tàn vào lúc kết thúc. Như Đức Phật nói, "Hãy nhận ra rằng
thân thể là vô thường như một chiếc bình bằng đất sét.''
Vận may không lâu bền; thế nên thật nguy hiểm để trở
thành dính mắc với những thứ đang xảy ra một cách tốt đẹp. Bất cứ quan điểm nào
về thường còn là thất bại. Khi hiện tại trở thành sự bận tâm của bạn, thì tương
lai không quan trọng, nó phá hoại ngầm động cơ dấn thân trong những sự thực
hành bi mẫn cho tương lai Giác Ngộ của những người khác. Bằng trái lại, một
quan điểm về vô thường cung cấp một động cơ thích đáng.
Không chỉ bạn sẽ chết vào lúc cuối mà bạn còn không biết
khi nào thời điểm cuối cùng đến. Vì thế, bạn nên thực hiện sự chuẩn bị, ngay cả
nếu bạn chết đêm nay, thì bạn sẽ không hối
hận. Nếu bạn xây dựng dần dần một nhận thức sâu sắc cho hiểm họa của sự
chết, thì cảm nhận của bạn về tầm quan trọng của việc sử dụng thời gian một
cách thông tuệ sẽ ngày càng mạnh mẽ hơn. Như Long Thọ nói trong Tràng Hoa Quý
Báu rằng:
Bạn đang ở giữa những
nguyên nhân của sự chết
Giống như một chiếc
đèn đứng trong gió.
Phải từ bỏ tất cả mọi
sở hữu,
Lúc chết bất lực bạn
phải đi đến nơi nào khác.
Nhưng tất cả đã được
sử dụng cho việc thực hành tâm linh
Sẽ đứng trước bạn
như nghiệp lành.
Nếu bạn giữ trong lòng vấn đề cuộc sống này sẽ biến mất
nhanh như thế nào, bạn sẽ coi trọng thời gian của bạn và làm những gì lợi ích
nhất. Với một cảm nhận mạnh mẽ về hiểm họa của sự chết, bạn sẽ cảm thấy nhu cầu
để dấn thân trong sự thực hành tâm linh, việc cải thiện tâm thức của bạn và
không lãng phí thời gian của của bạn trong những xao lãng khác từ việc ăn và uống
đến việc nói không bao giờ dứt về chiến tranh, tình yêu, và tán gẫu.
Đối với người không thể chạm trán ngay cả chữ chết,
không hề bận tâm về thực tế của nó, việc đến thật sự của sự chết chắc chắn sẽ
mang đến sự phiền muộn và sợ hãi vô cùng. Nhưng với những ai quen thuộc với việc
quán chiếu về hiểm họa của sự chết thì đã chuẩn bị để đối diện với sự chết mà
không hối hận gì. Việc quán chiếu về sự không chắc chắn của thời điểm mà sự chết
đến sẽ phát triển một tâm thức tĩnh lặng, nguyên tắc và đạo đức, bởi vì nó đang
dừng lại trên đặc tính chuyên môn không đơn giản của kiếp sống ngắn ngủi này.
Tất cả chúng ta cùng có một sự hiện hữu được đánh dấu bởi
khổ đau và vô thường. Một khi chúng ta nhận ra vấn đề chúng ta thông thường có
bao nhiêu, thì chúng ta sẽ thấy rằng thật vô nghĩa trong việc chiến chinh lẫn
nhau. Hãy nghĩ đến một nhóm tử tù sắp bị xử tử. Thời gian họ ở trong nhà tù với
nhau, tất cả bọn họ sẽ đi đến chỗ chấm dứt sự sống thì không có ý nghĩa gì với
việc tranh cải trong những ngày còn lại. Giống như những tù nhân đó, tất cả
chúng ta bị ràng buộc với khổ đau và vô thường. Dưới những hoàn cảnh như vậy,
chắc chắn không có lý do gì để đấu đá với nhau hay lãng phí năng lượng, tinh thần
cũng như thân thể chúng ta, trong việc tích lũy tiền của và tài sản.
Thực Hành
Quán Chiếu
Đem điều này vào trong tim:
1.
Chắc
chắn là tôi sẽ chết. Sự chết không thể tránh. Thọ mạng của tôi đang ngắn dần và
không thể kéo dài thêm.
2.
Khi
nào tôi chết là không thể biết. Thọ mạng trong loài người là khác nhau. Những
nguyên nhân của sự chết là nhiều, và những nguyên nhân của sự sống là tương đối ít. Thân thể là mong manh.
3.
Vào
lúc chết không gì có thể giúp ngoại trừ thái độ chuyển hóa của tôi. Bạn bè sẽ
không giúp ích được gì. Sự giàu có của tôi sẽ không lợi ích gì, và thân thể của
tôi không giúp ích gì.
4.
Tất cả
chúng ta ở trong cùng hoàn cảnh hiểm nghèo, cho nên không có gì để tranh cải và
đấu đá hay lãng phí tất cả năng lượng tinh thần và thân thể trong việc tích lũy
tiền bạn và tài sản.
5.
Bây giờ
tôi nên thực hành để giảm thiểu sự dính mắc vào những thị hiếu đam mê.
6.
Từ chiều
sâu của trái tim tôi thì tôi nên tìm cách vượt thoát vòng luân hồi của khổ đau
bị dẫn đến bởi nhận thức sai về vô thường là thường.
VÔ THƯỜNG VI TẾ
Những chất làm nên những vật hữu hình chung quanh chúng
ta tan rả từng giây phút; tương tự thế, thức nội tại mà với nó chúng ta quán
sát những vật hữu hình bên ngoài cũng tan rả từng giây phút. Đây là bản chất của tính vô thường vi tế. Các
nhà vật lý không xem hiện tướng của một vật hữu hình cụ thể là đương nhiên chẳng
hạn như một chiếc bàn: thay vì thế họ nhìn vào những sự thay đổi trong những yếu
tố nhỏ hơn của nó.
Sự hạnh phúc thông thường giống như một giọt sương trên đầu
ngọn cỏ, sẽ biến mất rất nhanh chóng. Nó tan biến cho thấy rằng nó là vô thường
và ở dưới sự khống chế của những năng lực, nguyên nhân, và điều kiện khác. Sự
tan biến của nó cũng cho thấy rằng không có cách nào để làm cho mọi thứ chân thật;
bất chấp bạn làm gì trong phạm vi của thế giới luân hồi, thì bạn cũng không thể
vượt qua phạm vi của khổ đau. Bằng việc thấy rằng bản chất chân thật của mọi thứ
là vô thường, thì bạn sẽ không bị sốc bởi thay đổi khi nó xảy ra, ngay cả bởi sự
chết.
Thực Hành Quán Chiếu
Lưu tâm:
1.
Tâm,
thân, tài sản, và sự sống của tôi là vô thường đơn giản bởi vì chúng được sản
sinh bởi những nguyên nhân và điều kiện.
2.
Chính
những nguyên sinh ra tâm, thân, tài sản, và sự sống của tôi cũng làm chúng tan
rả từng giây phút.
3.
Sự thật
rằng mọi thứ có một bản chất vô thường cho thấy rằng chúng không ở dưới năng lực
của chính chúng; chúng biểu hiện chức năng dưới sự ảnh hưởng bên ngoài.
4.
Bằng
việc hiểu sai lầm những sự tan rả từng giây phút là điều gì đó không thay đổi,
tôi tự đem sự đau đớn lên cũng như những người khác.
5.
Từ chiều
sâu của trái tim tôi thì tôi nên tìm cách để vượt khỏi vòng lẩn quẩn khổ đau
gây ra bởi việc hiểu sai lầm sự vô thường là thường.
MỞ RỘNG ĐIỀU NÀY ĐẾN
NHỮNG NGƯỜI KHÁC
Vì thái độ của chúng ta về thường và tự yêu mến là những
gì phá hoại tất cả chúng ta, cho nên thiền quán kết quả nhất là về vô thường và
tính không của sự tồn tại cố hữu về một mặt và, về từ ái và bi mẫn ở mặt khác.
Đây là tại sao Đức Phật đã nhấn mạnh rằng hai cánh của con chim để Giác Ngộ là
từ bi và tuệ trí.
Việc suy luận từ kinh nghiệm của chính bạn của việc không
nhận ra tính vô thường cho những gì thật sự là, thì bạn có thể đánh giá đúng vấn
đề tại sao những chúng sinh khác lang thang trong những hình thức vô hạn của
cõi sinh tử luân hồi bằng việc nhận thức sai lầm giống như vậy. Quán chiếu sự
khổ đau không thể tưởng tượng nổi và sự tương tự của chúng đối với bạn trong việc
muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Qua vô lượng kiếp sống, họ từng là bạn bè
thân thiết nhất của bạn, đem đến cho bạn sự tử tế ân cần, là thứ làm cho họ
thân mật. Việc thấy rằng bạn có trách nhiệm để giúp họ có hạnh phúc và giúp họ
thoát khỏi khổ đau sẽ xây dựng từ từ đại
từ và đại bi.
Đôi khi, khi tôi đang thăm một thành phố lớn, ở trên một
tầng cao của khách sạn. Tôi nhìn xuống sự giao thông, hàng trăm, hàng nghìn xe
cộ chạy tới chạy lui, và quán chiếu rằng, mặc dù tất cả những chúng sinh này là
vô thường, họ đang nghĩ, "tôi muốn hạnh phúc," "tôi phải làm nghề
này," "tôi phải kiếm tiền," "tôi phải làm việc này." Họ
đang sai lầm với việc tưởng tượng chính họ là thường còn. Tư tưởng này kích
thích lòng bi mẫn của tôi.
Thực Hành Thiền
Quán
Đem một người thân vào tâm và lưu tâm với cảm giác sau:
1.
Thân,
tâm, tài sản, và sự sống của người này là vô thường bởi vì họ được sinh ra bởi
những nguyên nhân và điều kiện.
2.
Cùng
những nguyên nhân sinh ra thân, tâm, tài sản, và sự sống của người này cũng làm
chúng tan rả từng giây phút.
3.
Sự kiện
rằng mọi tứ có một bản chất vô thường cho thấy rằng chúng không ở dưới năng lực
của chính chúng, chúng biểu hiện chức năng dưới sự ảnh hưởng bên ngoài.
4.
Bằng
việc hiểu sai lầm những gì tan rả từng giây phút là những gì không thay đổi,
người này tự đem đau đớn lên cho chính người ấy cũng như những người khác.
Bây giờ trau dồi ba trình độ của từ ái:
1.
Người
này muốn hạnh phúc nhưng bị lấy mất đi. Thật dễ thương làm sao nếu người ấy thấm
đẫm với hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc.
2.
Người
này muốn hạnh phúc nhưng bị lấy mất đi. Nguyện cho người này được thấm đẫm với
hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc.
3.
Người
này muốn hạnh phúc nhưng bị lấy mất đi. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì mà tôi có thể làm để giúp ngời này thấm đẫm với hạnh phúc và
tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc.
Bây giờ trau dồi ba trình độ của bi mẫn:
1.
Người
này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, tuy thế lại khốn đốn với nổi đau kinh
khiếp. Nếu người này có thể thoát khỏi khổ đau và những nguyên nhân khổ đau.
2.
Người này
muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, tuy thế lại khốn đốn với nổi đau kinh khiếp.
Nguyện cho người này được thoát khỏi khổ đau và những nguyên nhân khổ đau!
3.
Người
này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, tuy thế lại khốn đốn với nổi đau kinh
khiếp. Tôi sẽ giúp người này thoát khỏi khổ đau và tất cả những nguyên nhân của
khổ đau.
Bây giờ trau dồi chí nguyện hoàn toàn:
1.
Sinh tử
luân hồi là một tiến trình bị sai khiến bởi si mê.
2.
Do thế,
thật thực tiển cho tôi hành động để đạt đến Giác Ngộ và để giúp người khác được
giống như vậy.
3. Ngay cả
nếu tôi phải làm việc ấy một mình, thì tôi cũng sẽ giải thoát tất cả
chúng sinh khỏi khổ đau và những nguyên nhân của khổ đau, và đem tất cả chúng
sinh vào trong hạnh phúc cùng những nguyên nhân của nó.
Từng người một, hãy đem vào tâm từng chúng sinh - trước
nhất là những người thân, rồi những người trung tính, và rồi đến những kẻ thù,
bắt đầu với người ít ghét bỏ nhất - và lập lại những sự quán chiếu này với họ.
Nó có thể cần đến hàng tháng, hàng năm, nhưng lợi ích sẽ là bao la.
23
Hòa Nhập Trong Từ
Ái Cứu Kính
Giáo thuyết vĩ đại
là không đủ,
Con người phải có một
thái độ rộng rãi.
- CHÂM NGÔN TÂY TẠNG
Bây giờ chúng ta đến trình độ thậm thâm nhất của từ ái và
bi mẫn, trình độ này có thể bởi kiến thức về tính không của sự tồn tại cố hữu.
Nguyệt Xứng nêu ra trong cách này:
Tôi dâng cúng lòng
cung kính để yêu thương quan tâm xem những chúng sanh luân hồi như tánh không của
sự tồn tại cố hữu mặc dù chúng hiện hữu như tồn tại một cách cố hữu, giống như
việc quán chiếu ánh trăng trong nước.
Sự quán chiếu ánh trăng trong nước trong suốt, tĩnh lặng
xuất hiện là một ánh trăng với mọi khía cạnh nhưng không phải là ánh trăng
trong bất cứ sự quan tâm nào với ánh trăng thật sự trên bầu trời. Sự tưởng tượng
này biểu tượng sự xuất hiện của cái "tôi" và tất cả những hiện tượng
khác giống như chúng tồn tại một cách cố hữu: dù cho sự xuất hiện để tồn tại
trong trong chính chúng, nhưng chúng là trống rỗng vậy, chúng là những sản phẩm
nào của đó . Giống như người nào đó hiểu sai sự phản chiếu của ánh trăng với mặt
trăng, chúng ta hiểu sai sự xuất hiện của cái ''tôi'' và những hiện tượng khác
với những thứ tồn tại trong chính chúng.
Quý vị có thể dùng ẩn dụ này như một cách để phát triển
tuệ giác vào trong vấn đề chúng ta không nhất thiết phải bị cuốn vào trong những
khổ đau bằng việc chấp nhận những hiện tướng sai lạc, do thế biến thành nạn
nhân của tham dục và thù hận và tất cả những hành vi xuất phát từ chúng, tích
lũy nghiệp chướng, và bị sanh mãi trong vòng đau khổ. Tuệ giác này sẽ kích
thích lòng từ ái và bi mẫn thậm thâm bởi vì quý vị sẽ thấy một cách sinh động vấn
đề tất cả những thứ này không cần thiết như thế nào.
Ở đây, chúng sanh được thấy không chỉ đau khổ trong sáu
cõi luân hồi giống như một chiếc thùng trong cái giếng, và bị nhào nặn trong vô
thường nhấp nhoáng như sự phản chiếu lung linh, nhưng cũng như đối tượng đối với
vô minh si ám đi cùng với hiện tướng sai lầm của sự tồn tại cố hữu. Với tuệ
giác này sáng sủa trong tâm thức quý vị, đại từ và đại bi sinh khởi trong bạn
cho tất cả chúng sanh; bạn cảm thấy gần gũi với họ bởi vì họ muốn hạnh phúc và không
muốn khổ đau giống như bạn, và bạn cảm thấy tác động với việc họ đã từng là những
người bạn thân thiết nhất của quý vị trải qua vô lượng kiếp sống, nuôi dưỡng
quý vị với lòng ân cần tử tế của họ.
Để có được lối vào cho chiều sâu này của từ ái và bi mẫn,
trước nhất cần thấu hiểu rằng tự chính quý vị và những chúng sanh khác đều là
trống rỗng sự tồn tại cố hữu. Do thế, chúng ta hãy ôn lại những bước cho việc
nhận ra bản chất tối hậu của cái "tôi".
Thiền
tập quán chiếu
1.
Như
quý vị đã làm trước đây, đem mục tiêu lý luận của quý vị, cái "tôi" tồn
tại cố hữu, được nhắc nhở bằng việc nhớ lại hay tưởng tượng một thí dụ khi quý
vị tin tưởng một cách mạnh mẽ vào trong ấy.
2.
Chú ý
sự si mê đã thêm vào (hay chồng thêm vào) sự tồn tại cố hữu, và nhận diện nó.
3.
Đặt sự
nhấn mạnh vào việc quán chiếu sự kiện rằng nếu có sự tồn tại được thiết lập một
cách cố hữu như vậy, thì cái "tôi" và phức hợp thân-tâm sẽ phải hoặc là giống nhau hoặc khác nhau.
4. Sau đó sự quán chiếu mạnh mẽ tính phi lý về
sự xác định của tự ngã và thân-tâm như hoặc là giống nhau hay khác nhau, thấy
và cảm nhận sự không thể có những xác định như vậy.
DUY NHẤT
·
"Tôi"
và thân-tâm phải là một, một cách hoàn toàn và trong mọi cách.
·
Trong trường
hợp ấy, việc thừa nhận một cái "tôi" sẽ là vô nghĩa.
·
Sẽ không
thể nghĩ về "thân tôi" hay "đầu tôi" hay "tâm
tôi".
·
Khi tâm và
thân không tồn tại nữa, thì tự ngã cũng sẽ không tồn tại.
·
Vì tâm và
thân là số nhiều, những tự ngã của một người cũng phải là số nhiều.
·
Vì
"tôi" chỉ là một, tâm và thân cũng phải là một.
·
Giống như
tâm và thân sinh xuất và tàn hoại, vì thế phải thừa nhận rằng cái
"tôi" cũng vốn được sinh xuất và tàn hoại. Trong trường hợp này, những
ảnh hưởng hỉ lạc của những hành vi đạo đức cũng như những tác động khổ đau của
những hành vi phi đạo đức sẽ không đơm bông kết trái cho chúng ta, hay chúng ta
sẽ trải nghiệm những ảnh hưởng của những hành vi mà chính chúng ta đã không từng
làm.
DỊ BIỆT
·
"Tôi"
và thân-tâm sẽ phải là hoàn toàn riêng biệt.
·
Trong trường
hợp ấy, "tôi" phải có thể tìm thấy được sau khi dẹp hết thân và tâm.
·
"Tôi"
sẽ không có những tính chất sinh xuất, vĩnh cửu, và suy tàn, và như vậy là ngớ
ngẩn.
·
"Tôi"
phải là ngớ ngẩn để chỉ là hư ảo của sự
tưởng tượng hay thường còn.
·
Một cách
ngớ ngẩn, "tôi" sẽ không có bất cứ tính chất vật chất hay tinh thần
nào.
·
Không thể
tìm thấy một cái "tôi" như vậy, hãy quyết định một cách kiên quyết,
"Không tôi cũng như không bất cứ người nào được thiết lập một cách cố hữu"
·
Kết quả: từ
những chiều sâu của tim tôi, tôi nên tìm cách để vượt khỏi vòng đau khổ này đã bị
đem đến cho chính tôi qua việc nhận thức sai làm những gì không tồn tại một
cách cố hữu như tồn tại một cách cố hữu.
MỞ RỘNG ĐIỀU NÀY ĐẾN NHỮNG NGƯỜI KHÁC
Những thái độ tàn phá (bất thiện) là những kẻ thù nội tại
của chúng ta, căn bản của mọi rắc rối. Chúng sản sinh như thế nào? Từ tham dục
và thù hận, mà gốc rể của chúng là si mê. Vì những cảm xúc phiền não này chỉ tạo
ra tổn hại và không bao giờ có lợi, nên chúng phải được vượt thắng. Nhằm để làm
như vậy chúng ta phải đối diện với những nguyên nhân của chúng.
Tất cả những cảm xúc rắc rối xuất phát từ cảm xúc căn bản
tiêu cực tàn phá, một thức si mê không biết cả con người và mọi thứ thật sự là
thế nào và hiểu sai bản chất của chúng một cách năng nổ. Chúng ta nên xem những
cảm xúc tiêu cực như các kẻ thù, trước nhất xác định chúng và rồi thì bắt tay
vào trong những kỷ năng để tiêu hủy
chúng.
Bị lèo lái bởi những cảm xúc phiền não, chúng ta lao vào
những hành vi thiết lập những khuynh hướng
phiền não chướng ngại ẩn tàng trong tâm thức. Những hành vi tiêu cực kết quả
trong tái sinh vào những kiếp sống khổ đau và những hành vi tích cực kết quả
tái sinh trong những kiếp sống hạnh phúc. Tuy thế, cả hai đều xuất phát từ sự
vô minh mênh mang. Qua việc nhận ra một cách trực tiếp lẽ thật - tính không của
sự tồn tại cố hữu, vô tự tính - và trở thành quen thuộc với nó trong thiền
quán, quý vị sẽ chấm dứt việc tích lũy nghiệp báo đã đưa quý vị tái sinh trong
vòng luân hồi; tái sinh sẽ đến dưới năng lực của chính quý vị chi phối nó nhằm
để hổ trợ người khác một cách hiệu quả hơn.
Vì vòng luân hồi có gốc rể trong sự hiểu biết sai lầm về
sự tồn tại cố hữu, cho nên cách duy nhất để thoát khỏi vòng luân hồi là việc nhận
ra sự lừa dối này là gì. Mặc dù có nhiều nhân tố sản sinh ra vòng luân hồi, duy
chỉ tại gốc rể của nó - si mê - nó mới có thể đáp ứng được, bởi vì đây là nguồn
gốc của tất cả mọi nguyên nhân khác. Qua những sự thiền tập quán chiếu trong
quyển sách này, quý vị đã học vấn đề trau dồi những phương pháp đối trị đến những
nguyên nhân ấy nhằm để đặt dấu chấm hết mọi khổ đau và nguyên nhân của đau khổ.
Khi quý vị tiếp thu tiến trình này, thì quý vị sẽ phát sinh một mục tiêu để đạt
đến giải thoát hơn chỉ là chữ nghĩa.
Qua thực hành, mục tiêu của quý vị sẽ chuyển hóa, quý vị
phát sinh một xu hướng chân thành để xa lìa vòng khổ đau, ở điểm ấy quý vị trở
thành một hành giả tâm linh với năng lực tăng trưởng. Như hành giả du già Tây Tạng,
Tông Khách Ba nói trong Ba Điểm Chính Yếu của Con Đường Giác Ngộ rằng, ở chỗ ấy quý vị sẽ tập trung ngày
đêm cho việc đạt đến giải thoát. Quý vị nhiệt tình trong việc cứu tế. Từ chiều
sâu của tâm thức, quý vị quyết định rằng nếu quý vị không đạt được giải thoát
khỏi toàn bộ tiến trình luân hồi sinh tử, thì giá trị kiếp sống con người của
quý vị sẽ không được trọn vẹn.
Là một con người là căn bản thuận lợi nhất cho việc đạt đến
sự giải thoát khỏi vòng luân hồi cho việc sử dụng ba sự thực tập giới, định, tuệ.
Sự thực tập đạo đức (giới) liên hệ đến việc kiềm chế khỏi thái độ tệ hại quá mức
của thân thể, lời nói, và tâm ý. Những thái độ tiêu cực vi tế hơn được chuyển
hóa qua thiền nhất tâm (định). Việc loại bỏ cuối cùng những hành vi tiêu cực được
thành tựu qua việc tu tập về tuệ quán chiếu vào trong tính không của sự tồn tại
cố hữu.
Khởi đầu, quý vị tu tập đạo đức (giới) bởi vì khi quý vị
biểu hiện chức năng dưới sự ảnh hưởng của những cảm xúc phiền não thô, thái độ
của thân thể và lời nói trở hành thô tháo, tự tổn hại chính mình và người khác.
Hành động đạo đức liên hệ đến kiểm soát và điều khiển những hành vi thô thiển
này vì thế chúng không thể biểu hiện: tuy nhiên, sự thực tập đạo đức không thể
tẩy xóa những cảm xúc phiền não. Và chỉ khi những cảm xúc loại bỏ hoàn toàn thì
quý vị mới có thể đạt đến giải thoát.
Đây là tiến trình mà quý vị phải chịu đựng một khi quý vị
thấu hiểu cảnh ngộ của quý vị trong vòng luân hồi.
1. Thứ
nhất, rèn luyện trong việc nhận ra quy mô của khổ đau trong kiếp sống này.
2. Sau
đó, hãy phát sinh sự chán ghét vòng khổ đau luẩn quẩn từ kiếp này đến kiếp
khác, gọi là "vòng luân hồi", và rèn luyện trong đạo đức (giới), thiền
định (định), và tuệ.
3. Cuối
cùng, qua việc hoàn thành những thực hành này, quý vị có thể thành tựu thể trạng
giải thoát khỏi vòng luân hồi mà trong ấy khổ đau đã được hoàn toàn tận diệt.
Trong cách này, quý vị có thể đạt đến giải thoát, nhưng
ngay cả như vậy mục tiêu của quý vị sẽ không đạt được trọn vẹn. Quý vị chưa vượt
thắng chướng ngại chính để hoàn thành năng lực cứu hộ người khác là: xu hướng
sót lại trong tâm thức bởi si mê về tính bản nhiên thật sự của con người và mọi
thứ (sở tri chướng). Mặc dù chính tự si mê đã được vượt thắng, nhưng xu hướng
phiền não tiềm tàng trong tâm thức, hạn chế nó biết tất cả mọi thứ có thể biết.
Trong khi quý vị ở trong thể trạng này, ngay cả nếu quý vị
cố gắng để hổ trợ người khác, không gì hơn là một chút lợi ích có thể được hoàn
tất. Mặc dù không nghi ngờ gì lợi lạc để đạt đến giải thoát khỏi vòng luân hồi,
trong dạng thức phẩm chất của tâm, nhưng quan điểm của quý vị vẫn liên hệ một
cách chính yếu với lợi ích của riêng bản thân quý vị. Trong hình thức tiến
trình của chính quý vị, tiến trình vượt thắng những chướng ngại và thực chứng
những thể trạng cao cấp vẫn chưa được hoàn thành: quý vị vẫn đang ở trong một
hình thức của một sự hòa bình cô tịch.
Thật quan trọng để không trở thành có khuynh hướng đối với
sự hòa bình cô tịch - vì qua đơn thuần với xu hướng giải thoát vì lợi ích cho
riêng quý vị - thì quý vị sẽ kéo dài tiến trình của việc đạt đến sự Giác Ngộ vị
tha hướng đến lợi ích của người khác - mục tiêu cứu kính. Bằng việc chăm sóc
chính yếu cho chính mình, quý vị nuôi dưỡng một thái độ vị kỷ, và thái độ này
là rất khó để chiến thắng sau này, khi quý vị tu tập trong đại từ và đại bi. Do
thế, thật rất quan trọng là ngay từ lúc đầu không hoàn toàn đầu tư sức mạnh của
tâm thức trong lợi ích của riêng mình.
Bằng việc thấu hiểu tính không, quý vị nhận ra rằng thật
có thể phá vở và thoát khỏi cái bẩy của chính quý vị trong vòng luân hồi, chính
là điều làm vững chắc quyết tâm xa lìa vòng sinh tử: khi quý vị thấu hiểu rằng
khổ đau của người khác cũng bị gây ra bởi si mê, thì quý vị nhận ra rằng họ thật
có thể tự thoát khỏi tất cả mọi khổ đau, điều này làm tăng cường quyết tâm của
quý vị để giúp đở người khác. Trong cách này, tuệ giác làm cho từ ái và bi mẫn thành
những biểu hiện thực tiển của sự thông hiểu thậm thâm. Như Đức Phật nói,
"Lòng từ bi của Đức Phật vì chúng sinh được phát sinh qua quán chiếu,
'Trong khi tất cả mọi hiện tượng là trống rỗng, nhưng chúng sinh lại bám lấy những
quan điểm tồn tại cố hữu.'"
Thấu hiểu rằng tất cả chúng sinh là trống rỗng sự tồn tại
cố hữu, quý vị sẽ phát triển thậm chí lòng từ ái và bi mẫn thậm thâm hơn bằng việc
thấy mối quan hệ hữu cơ giữa các thành phần và tổng thể một cách toàn diện, vấn
đề chúng sinh tự đem đến khổ đau cho chính họ như thế nào qua si mê trong tính
bản nhiên của con người và những hiện tượng khác. Thực chứng tính không của sự
tồn tại cố hữu sẽ mở ra con đường để tăng trưởng từ ái và bi mẫn. Việc thấu hiểu
tính bản nhiên cứu kính của con người và hiện tượng kêu gọi quan tâm đến những
chúng sinh giới hạn những người giống như quý vị trong việc muốn hạnh phúc và
không muốn khổ đau, những kẻ đã trải qua vô lượng kiếp sống đã từng là những
người bạn thân nhất của quý vị, ban cho quý vị lòng ân cần tử tế. Từ ý nghĩa
thân mật này phối hợp với tri thức của vấn đề tại sao họ lại khổ đau mãi trong
vòng đau khổ qua tái sinh, thì quý vị đánh thức sự quan tâm đầy năng lực cho sự
cát tường của họ.
Thiền
quán phản chiếu
Đem một người thân đến tâm thức và, trong khi nhớ lại tiến
trình tự tàn hoại của vòng luân hồi, quan tâm những điều sau đây:
1.
Giống
như tôi, người này lạc lối trong một đại dương hiểu lầm về cái "tôi"
như sự tồn tại cố hữu, được nuôi dưỡng bởi dòng sông khổng lồ của si mê thấu hiểu
sai tâm thức và thân thể là tồn tại cố hữu và bị khuấy động bởi nhừng làn gió của
những tư tưởng và hành động phiền não ẩn tàng.
2.
Giống
như người nào đấy nhận lầm ánh trăng trong nước như chính mặt trăng, người này
nhận lầm hiện tướng của cái "tôi" và những hiện tượng khác như là
chúng tồn tại từ phía chính chúng.
3.
Bằng
việc chấp nhận hiện tướng sai lầm này, người này bất lực bị đưa vào trong tham
dục và thù hận, tích tập nghiệp chướng và bị sinh ra hết lần này đến lần khác
trong vòng đau khổ.
4.
Qua tiến
trình này, người này đem những khổ đau không cần thiết cho chính người ấy cũng
như những người khác.
Bây giờ trau dồi ba trình độ của từ ái:
1.
Người
này muốn hạnh phúc nhưng bị lấy mất đi. Thật dễ thương làm sao nếu người ấy có
thể được thấm đẩm với hạnh phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc.
2.
Người
này muốn hạnh phúc nhưng bị lấy mất đi. Nguyện cho người ấy được thấm đẩm với hạnh
phúc và tất cả những nguyên nhân của hạnh phúc.
3.
Người
này muốn hạnh phúc nhưng bị lấy mất đi. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì tôi có thể
làm để giúp cho người này được thấm đẩm với hạnh phúc và tất cả những nguyên
nhân của hạnh phúc.
Bây giờ trau dồi ba trình độ của bi mẫn:
1.
Người
này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, tuy thế lại bị đưa vào khổ đau kinh
khủng. Giá mà người này cuối cùng có thể thoát khỏi khổ đau và những nguyên
nhân của đau khổ!
2.
Người này
muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, tuy thế bị đưa vào khổ đau khủng khiếp.
Nguyện cho người này được thoát khỏi khổ đau và những nguyên nhân của đau khổ!
3.
Người
này muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ, tuy thế lại bị đưa vào khổ đau kinh
khủng. Tôi sẽ giúp người này thoát khỏi khổ đau và tất cả các nguyên nhân của
đau khổ!
Bây giờ trau dồi chí nguyện tròn vẹn:
1.
Luân hồi
là một tiến trình bị lèo lái bởi si mê.
2.
Do thế,
thật thực tiển để tôi hành động đạt đến Giác Ngộ và để giúp người khác giống
như vậy.
3.
Ngay cả
nếu tôi phải làm việc này đơn độc, thì tôi cũng sẽ giải thoát tất cả mọi chúng
sinh khỏi khổ đau và các nguyên nhân của đau khổ, và đưa chúng sinh vào trong hạnh
phúc và các nguyên nhân của nó.
Từng người một, đem vào trong tâm thức cá nhân các chúng
sinh - trước tiên là những người thân, sau đó là người trung tính, và rồi thì
những kẻ thù, bắt đầu với những người ít khó chịu nhất - và lập lại những sự
quán chiếu này với họ. Việc này sẽ cần hàng tháng, hàng năm, nhưng lợi ích của
sự thực hành này sẽ là to lớn lạ thường.
TÁC DỤNG CỦA ĐẠI TỪ VÀ ĐẠI BI
Tự nguyện làm quen với thái độ này,tự tiếp nhận gánh nặng
cho việc bảo vệ tất cả chúng sinh khỏi tất cả mọi vấn nạn: thực hành lập đi lập
lại và với sự phân tích thông thường. Lòng thấu cảm của quý vị sẽ to lớn vô
cùng đến nổi nó sẽ thấm nhuần toàn bộ con người của quý vị. Không tham muốn bất
cứ phần thưởng nào, mục tiêu của quý vị sẽ chỉ là sự phát triển của người khác,
không bao giờ chán nản hay ngã lòng trong nhiệm vụ của quý vị.
***
Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, July 14, 2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét