Nguyên tác: The Art of Happiness (The Big Book of Happiness)
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, New Delhi 2011
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
New Delhi, 2011
Già đi, đôi khi đôi mắt của
tôi có một số rắc rối nào đó, cho nên ánh sáng chói quá là không tốt. Và tôi
thường diễn thuyết mà không có ghi chú, cho nên ánh sáng là không cần thiết. Các
anh chị em thân mến, thật sự tôi rất vui mừng có hội này để nói chuyện hay đúng
hơn là diễn thuyết, cho Penguin. Quý vị đã tổ chức cơ hội này, cảm ơn rất nhiều.
Khi tôi nói chuyện đến mọi người, tôi luôn luôn có cảm giác rằng chúng ta cùng
là những con người - tinh thần, cảm xúc và thân thể. Và quan trọng hơn, mọi người
muốn một đời sống hạnh phúc. Tôi nghĩ, vào buổi sáng sớm, ngay khi mọi người thức
dậy, không ai lại mong ước thêm nhiều rắc rối trong ngày. Không ai muốn rắc rối.
Tuy nhiên, nhiều rắc rối một cách chính yếu lại do chúng ta tạo ra. Tại sao?
Đây là một mâu thuẩn lớn.
Tôi nghĩ do hai điều - thứ nhất
là thiếu hiểu biết về thực tại, là điều vốn qua việc thiếu một quan kiến toàn
diện. Đó là một điều. Thứ kia là quá nhiều thái độ vị kỷ. Hai thứ này - việc
thiếu tri thức về thực tại và một thái độ vị kỷ, tôi nghĩ, là những thứ tạo ra
các rắc rối không cần thiết. Chúng ta không thể nói rằng rắc rối này là do bởi
thứ nọ hay thứ kia. Chúng ta phải nhận ra rằng nhân tố tối hậu của những rắc rối
này là ở trong chính chúng ta.
Thế thì, bây giờ, làm sao để
loại bỏ chúng? Không phải qua cầu nguyện, không phải qua tiền bạc, không phải
qua quyền lực, mà qua việc thông hiểu và tỉnh thức. Chúng ta có thể nói tuệ
trí. Vậy thì, bây giờ, hạnh phúc, mọi người, kể cả thú vật, cũng muốn ít bị quấy
rầy hơn, ít rắc rối hơn. Thế nên, con người chúng ta, dĩ nhiên cũng là như vậy.
Trước khi nói về hạnh phúc, tôi nghĩ thật hữu ích để biết điều gì đó về hệ thống
tâm thức của chúng ta. Bởi vì sung sướng và hạnh phúc là một bộ phận của tâm thức
chúng ta, và trải nghiệm buồn khổ, đau đớn - những thứ này cũng là một bộ phận
của tâm thức chúng ta.
Thông thường quý vị thấy, con
người đơn giản có những loại cảm giác hay ấn tượng rằng tâm thức là một thứ, một
thực thể, một thứ gì đó độc lập, điều gì đó tuyệt đối. Cho đến bây giờ, như một
kết quả của việc gặp gở nhiều nhà khoa học trong nhiều trường hợp, tôi đã nhận
ra rằng trong lãnh vực khoa học, người ta vẫn chưa thật rõ ràng gì nhiều về sự
phân biệt giữa tâm cảm giác và tâm căn bản - thức tinh thần. Cho nên thật quan
trọng để thực hiện sự phân biệt ấy. Quý vị có thức cảm giác của tâm (tiền ngũ
thức: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, và thân thức) và thức tinh thần (ý thức).
Thông thường quý vị thấy con
người tìm kiếm một loại sung sướng hay hạnh phúc của kinh nghiệm, nhưng họ
chính yếu dựa trên trình độ cảm giác. Nhìn vào những thứ gì đó xinh đẹp - nhãn
thức; âm nhạc du dương - nhĩ thức. Tương tự vị nếm (thiệt thức), mùi hương (tỉ
thức), ngay cả tình dục (thân thức). Đây là năm loại kinh nghiệm tích cực,
chính yếu ở trình độ cảm giác, nhưng chúng là một loại kinh nghiệm rất tạm thời.
Cho đến khi nào âm nhạc còn ở đấy, quý vị cảm thấy vui sướng; nhưng rồi nó dừng
lại. Và thấy điều gì đó xinh đẹp, quý vị cảm thấy hạnh phúc; một khi nó mất đi
- không còn gì cả. Cho nên hạnh phúc ở trình độ cảm giác là ngắn ngủi.
Đối với trình độ tinh thần. Nếu
chúng ta phát triển một kinh nghiệm tích cực nào đó ở trình độ tinh thần, thì điều
ấy sẽ tồn tại lâu dài. Rồi thì cũng thế, một số kinh nghiệm nào đó là loại
cảm giác tĩnh lặng, hòa bình, an lạc hơn. Ở trình độ cảm giác, ngay cả nếu điều
gì đó là loại quấy rầy - một giọng nói, một tiếng động, hay một điều kiện khó
khăn, phương tiện nghèo nàn hay bệnh tật thân thể - loại đau khổ này có thể được
khuất phục với một trình độ tinh thần tĩnh lặng hơn. Trái lại, nếu trình độ
tinh thần chứa đựng quá nhiều sợ hãi, quá nhiều lo lắng, quá nhiều căng thẳng,
không có trải nghiệm nào mà trình độ cảm giác thụ hưởng có thể giảm thiểu lo lắng
của trình độ tinh thần hay sợ hãi. Cho nên, những trải nghiệm của trình độ tinh
thần là quan trọng hơn những trải nghiệm của trình độ cảm giác. Tôi nghĩ rằng,
nếu chúng ta có một chú ý nào đó, mọi người sẽ nhận ra điều này.
Chúng ta nói rằng ở trình độ
tinh thần, hạnh phúc không nhất thiết là một cảm giác sung sướng. Tôi nghĩ hạnh
phúc ở đây, một cách chính yếu, là ở trong một cảm giác hài lòng nào đó. Mặc dù
khổ não ở trình độ thân thể là một trải nghiệm đau đớn, nhưng nó có thể đem đến
một sự hài lòng sâu xa ở trình độ tinh thần. Cho nên hạnh phúc một cách chính yếu
liên hệ đến trình độ tâm thức - hay trình độ tinh thần. Dĩ nhiên, tất cả những
truyền thống tôn giáo quan trọng đang cố gắng để mang đến sự tĩnh lặng,
hòa bình hay một loại cảm giác tích cực ở trình độ tinh thần.
Trong hầu hết mọi trường hợp,
tôi nghĩ có một nhân tố thông thường đến tất cả mọi tôn giáo - tôn giáo hữu thần
và tôn giáo vô thần hay một loại thực tập - đó là tín ngưỡng, hay đức tin. Vậy
thì đức tin không là một thứ trình độ cảm giác; đức tin là thức thứ sáu của
trình độ tinh thần hay ý thức. Dĩ nhiên, thức cảm giác giúp để nghe âm nhạc, lời
cầu nguyện nào đó và những thứ như vậy, hay nhìn vào một hình tượng của Đức Phật,
một hình tượng của Thượng Đế hay của Chúa Giê-Su, hay hình tượng của Thần Siva.
Dĩ nhiên nó hổ trợ hữu ích, nhưng loại hiệu quả thật sự hoạt động ở ý thức. Đức
tin không xảy ra ở trình độ cảm giác, nhưng ở ý thức, thức tinh thần. Và khi sự
thực tập về từ ái, bi mẫn, và với những điều, tha thứ, bao dung, toai nguyện -
tất cả những thứ này thuộc vào thức thứ sáu, thức của trình độ tinh thần, ý thức.
Rồi thì truyền thống tôn giáo
vô thần[1] (tức là không có đấng tạo hóa) - chẳng hạn một bộ phận của phái Số Luận - một truyền thống
rất cổ xưa của Ấn Độ, tôi nghĩ gần ba nghìn năm, hay hơn thế nữa. Rồi vào thời
Đức Phật, Kỳ Na Giáo và Phật Giáo - hai truyền thống tôn giáo vô thần này -
phát triển. Hai truyền thống tôn giáo vô thần này không có ý tưởng gì về một đấng
tạo hóa nhưng tin vào luật nhân quả - nguyên nhân và kết quả.
Trong đất nước này mọi người
biết về luật nghiệp báo. Nghiệp - karma - có nghĩa là hành động - cho dù nó là
hành động thân thể, hành động lời nói, hay hành động tinh thần. Nếu quý vị nhìn
vào thế giới với một con mắt tích cực hay một động cơ chân thành như bi mẫn hay
tha thứ, thế rồi có một loại cảm xúc nào đó xuất hiện; đó là nghiệp. Đó là nghiệp
tích cực hay nghiệp tốt lành, vì động cơ của nó là điều gì đó tốt đẹp - một loại
cảm nhận quan tâm đến sự cát tường của người khác, vốn là lợi lạc cho người
khác và lợi lạc cho tự thân và vì thế được xem như là tích cực. Không có tuyệt
đối tích cực hay tiêu cực. Giống như sân hận, thù oán, nghi ngờ có thể có hai
loại - tích cực và tiêu cực. Nhưng, một loại động cơ tiêu cực nào đó cuối cùng
đem đến một sự khổ não cho người khác hay tự thân; thì nó tạo ra nghiệp tiêu cực.
Hai sự tiếp cận này khác
nhau, nhưng mục tiêu là giống nhau - làm mạnh từ ái, bi mẫn, tha thứ, và v.v…
Tôn giáo hữu thần sử dụng khái niệm Thượng Đế, đấng tạo hóa; tôn giáo vô thần sử
dụng khái niệm của luật nhân quả - nếu quý vị làm việc tốt với người khác, quý
vị gặt hái lợi lạc; nếu quý vị làm tổn hại người khác, quý vị gánh lấy kết quả
tiêu cực, kết quả là như vậy. Nhưng rồi thì, ngay cả nếu có sự liên hệ với đức
tin tôn giáo. Có một cách khác. Các tôn giáo đều liên hệ đến những loại huyền
bí nào đó. Nhưng nếu không chạm đến bất cứ sự huyền bí nào cả, trên căn bản của
những việc rõ ràng, thì chúng ta có thể cho thấy, hay giáo dục con người rằng
nhiệt tình hay một trái tim tình cảm, bi mẫn là cội nguồn của hạnh phúc.
Trước hết, theo sinh lý học,
trong tất cả những động vật xã hội, kể cả một số chim, có một loại trách nhiệm
nào đó cho nhóm của chúng. Thực tế rằng sự tồn tại, cát tường và hạnh phúc của
mỗi cá thể lệ thuộc vào cả nhóm. Do bởi thực tế đó, một cảm nhận về một loại cộng
đồng và thống nhất nào đó liên hệ đến cả nhóm còn lại. Chúng ta thuộc vào nhóm
đó, cho nên bất chấp, một cá nhân năng lực mạnh mẽ thế nào cũng không thể tồn tại
đơn độc. Không chỉ một đời sống hạnh phúc nhưng sự tồn tại tự nó lệ thuộc vào
toàn thể cộng đồng. Đó là một sự thật. Do bởi thế, phải có một cảm xúc nào đó để
đem mọi người lại với nhau, và đó là tình cảm đối với mỗi người khác. Sự sân hận
không còn. Cho nên tình cảm hay bi mẫn là một bộ phận của tâm thức chúng ta cho
sự tồn tại.
Ở tại trình độ này, những động
vật khác cũng giống nhau - chó, mèo, nhiều loại chim có cùng loại năng lực như
vậy, một bản chất như vậy. Con người chúng ta có sự thông tuệ tuyệt vời này vì
thế trên căn bản của nó, vì những quan tâm lâu dài và một quan điểm rộng rãi
hơn, thì chúng ta có thể tăng trưởng … lòng từ bi, vốn được phát triển một cách
sinh học. Ở đây, bi mẫn hay yêu thương một cách chính yếu ở trình độ sinh học;
nó là giới hạn, định kiến, và cũng thường đi với thù oán hay nghi ngờ. Sau đó,
với việc sử dụng thông tuệ của con người, việc sử dụng lý trí, logic, hay trên
việc quan tâm về những nhận thức rộng rãi hơn hay lâu dài, thì mới có thể thật
sự trở thành không thành kiến.
Để tôi cho một thí dụ rõ
ràng. Nhân tố sinh học của yêu thương hay bi mẫn có thể phát triển đối với bạn
bè ta; còn đối với kẻ thù ta, quý vị phát triển lòng bi mẫn thay vì thù oán,
sân hận, nghi ngờ. Vì ở trình độ sinh học bị định hướng rất nhiều bởi thái độ của
người khác, thái độ của bè bạn quý vị là tốt đối với quý vị, cho nên quý vị
yêu mến họ. Thái độ của kẻ thù quý vị là tổn hại cho quý vị, vì thế quý vị đáp ứng
lại họ với sân hận, những thứ tiêu cực. Bây giờ hãy sử dụng sự thông tuệ của
con người - bất chấp cá nhân ấy là một người bạn hay một kẻ thù hay trung tính,
người ấy vẫn là một bộ phận của cộng đồng. Đời sống của quý vị lệ thuộc vào cộng
đồng. Những thành viên của cộng đồng không nhất thiết đều là bạn bè của quý vị;
một số người làm bực mình cũng là một bộ phận của cộng đồng. Bây giờ ở trong thế
giới ngày nay, ngay cả nếu hai người có một loại thái độ tiêu cực đối với nhau,
thì để sống còn cả hai đều cần nhau.
Ở đây, thật quan trọng để có
một sự phân biệt. Nếu một người được gọi là kẻ thù tạo ra những rắc rối cho quý
vị, với mức độ mà hành động ấy được quan tâm, thì quý vị có thể có một sự đáp
trả thích hợp. Nhưng như một con người, quý vị có thể giữ lòng từ bi và một cảm
nhận quan tâm cho sự cát tường của họ. Trong thực tế, nếu quý vị để việc làm
sai lầm của họ tiếp tục mà không kiểm soát, cuối cùng họ sẽ khổ đau. Cho nên vì
cảm nhận quan tâm cho sự cát tường lâu dài cho họ, hãy thực hiện một biện pháp
đối phó để chấm dứt việc làm sai trái của họ. Vì vậy loại thái độ ấy nhìn như
là sự đáp trả, nhưng thật sự là một loại việc làm tốt. Những cung cách rèn luyện
tâm thức như vậy - không qua thiền tập mà qua việc sử dụng sự thông tuệ của
chúng ta qua phân tích. Qua cách ấy, nhận thức của chúng ta, quý vị thấy, có thể
thay đổi.
Một khi chúng ta phát triển
thái độ tinh thần của chúng ta, làm nó thực tế hơn - căn cứ trên lý trí - và cởi
mở hơn, thì sau đó chúng ta có thể duy trì hạnh phúc. Hạnh phúc ở đây phải làm
việc rất nhiều với một tâm tĩnh lặng. Không căng thẳng, không lo âu, không sợ
hãi. Ở trình độ quán sát, quý vị có thể thấy những thứ tiêu cực, nhưng ở một
trình độ sâu sắc hơn, quý vị có thể vẫn giữ một tâm tĩnh lặng, bất chấp quý vị
là một người có tín ngưỡng hay không. Ngày nay trong việc khám phá của khoa học,
quý vị thường thấy họ nói: "Thân thể cường tráng, tâm hồn khỏe mạnh"
- có một sự nối kết rất gần gũi. Một tâm lo âu trong một thời gian dài thật sự
là rất, rất tổn hại sức khỏe thân thể chúng ta. Một tâm tĩnh lặng là một tâm khỏe
mạnh; bất chấp hoàn cảnh là gì, nếu quý vị có thể giữ một tâm khỏe mạnh, thế
thì điều ấy sẽ mang đến lợi lạc vô vàn cho sức khỏe thân thể của quý vị.
Thực tế, một vài nhà khoa học,
trong những cuộc gặp gở trong nhiều trường hợp đã nói với tôi: "Sợ hãi,
sân hận thù oán thật sự làm hao mòn hệ thống miễn nhiễm của chúng ta."
Trái lại, nếu giữ tâm ta tĩnh lặng, ít căng thẳng là rất lợi lạc cho hệ thống
miễn nhiễm của ta. Trong một trường hợp ở New York, một nhà khoa học y tế đã đề
cập với tôi rằng theo sự khám phá của ông ta, những người thường phát biểu
trong "tôi, là tôi, của tôi" thì thường có nguy cơ của bệnh tim hơn.
Lý do, dĩ nhiên, là những người như vậy yêu mến chính họ quá nhiều và quá vị kỷ,
cho nên với loại thái độ ấy ngay cả một rắc rối nhỏ xuất hiện cũng không chịu nổi.
Một khi quý vị phát triển một
trái tim cởi mở hơn, có cảm nhận quan tâm đến sự cát tường của người khác hơn, thì
tôi nói là cánh cửa bên trong mở ra. Trước hết, qua cách ấy, quý vị có thể giao
tiếp với những người khác một cách rất dễ dàng. Điều đó làm cho quý vị có nhiều
bạn bè hơn, và nó làm cho quý vị giảm thiểu cảm giác cô độc cùng làm gia tăng
thái độ từ bi, mà vốn nó giúp ích vô vàn để làm giảm thiểu căng thẳng băn
khoăn. Cho nên rất lợi lạc cho sức khỏe của chúng ta. Xét cho cùng, như tôi đã
đề cập phía trước, loài người là những tạo vật xã hội, cho nên những thái độ
tinh thần này đồng hành nhịp nhàng với thực tế của chúng ta.
Nói chung, tôi nghĩ, người ta
nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục. Rất đúng. Nhiều rắc rối sinh khởi qua việc
thiếu tri thức, qua sự thiếu hiểu biết. Cho nên qua giáo dục, chúng ta được
trang bị để nhìn vào thế giới trong một cách rộng rãi hơn, hiểu biết hơn, nhờ
thế chúng ta có được một cái nhìn toàn diện. Thật sự, chính mục tiêu của giáo dục
là để giảm thiểu khoảng cách giữa hiện tướng và thực tại. Cho nên giáo dục nên
được toàn diện hơn - như thế đó, tôi nghĩ rất quan trọng. Rồi thì, trên căn bản
của những khám phá khoa học, những cảm xúc tích cực là rất quan trọng cho sức
khỏe chúng ta, và một cá nhân hạnh phúc có nghĩa là một gia đình hạnh phúc và một
cộng đồng hạnh phúc.
Bây giờ, tôi nghĩ tôi bảy
mươi sáu. Vào lúc mười sáu tuổi tôi mất tự do; lúc hai mươi bốn tôi trở thành một
người tị nạn - vô tổ quốc và vô gia cư. Nhìn vào một cách, tôi đã mất một ngôi
nhà nhỏ - Tây Tạng - nhưng tôi đã tìm được một ngôi nhà lớn - Ấn Độ. Thế nào đi
nữa, cuộc sống của tôi trải qua rối loạn, nhưng tôi nghĩ, một cách tương đối,
tâm tư tôi hoàn toàn hòa bình. Tôi hy vọng rằng sự hòa bình không phải do thiếu
tinh tường. Tôi nghĩ tâm tư tôi hoàn toàn sắc bén. Khi tôi tham dự với những
nhà khoa học nổi tiếng thật sự, khi chúng tôi nói chuyện, kiến thức của tôi so
với họ dĩ nhiên hầu như số không. Nhưng chúng tôi được rèn luyện trong truyền
thống Na Lan Đà - mỗi một vấn đề chúng tôi phân tích, phân tích một cách hợp
lý. Điều đó thật sự giúp ích vô vàn để làm tâm thức chúng tôi sâu sắc hơn. Thế
nên tôi hy vọng tâm tư tôi không bị lu mờ thế ấy.
Tuy thế, quý vị thấy mặc cho
những kinh nghiệm bất ổn trong đời sống, tâm tư tôi là tương đối khá tĩnh lặng.
Kết quả trực tiếp là sức khỏe tôi rất tốt. Thật sự, quý vị thấy, cơ quan quan
trọng ấy, túi mật của tôi mất rồi, tôi nghĩ hai hay ba năm trước qua giải phẩu.
Thân thể này như một người rất bình thường, nhưng một nội tạng quan trọng của
con người đã mất. (Cười) Nhưng một cách căn bản, sức khỏe tôi rất tốt. Tôi nghĩ
tình trạng tinh thần của tôi thật sự làm nên mọi điều khác biệt - tôi cảm thấy
điều này. Một số nhà khoa học, sau khi khám thân thể tôi, thường nói rằng nó
không giống như thân thể của một người hơn bảy mươi tuổi, nhưng dường như trẻ
hơn mười tuổi.
Một số người diễn tả tôi như
một hóa thân của Quán Thế Âm, tôi không biết tôi có thật sự là một hóa thân của
một chúng sanh cao siêu hay không, nhưng tôi biết tâm thức của chính tôi; tôi
có thể xem xét tâm thức tôi. Nhưng tôi nghĩ ngay cả một con người thông thường
sử dụng trí thông minh của người ấy một cách thích đáng thì đưa đến kết quả là
sống với tinh thần hạnh phúc, thân thể khỏe mạnh. Có phải thế không? Mọi người
có cùng loại năng lực này. Cho dù họ để ý một cách đầy đủ hay không đến điều
này, hay tỉnh giác đầy đủ hay hông - đó là vấn đề. Trái lại, tất cả đều có cùng
năng lực. Đó là những gì tôi nói đến - nghệ thuật của hạnh phúc. Rõ chứ?
Một số kho tàng Ấn Độ cổ xưa
là tri thức về cảm xúc con người, về tâm thức con người. Bất chấp quý vị nhìn
vào Phật Giáo, Kỳ Na Giáo, hay Ấn Độ Giáo, tất cả đều có cùng những thực tập
chung - sự thực tập về Xa ma tha, thiền chỉ,
sự thực tập về tuệ minh sát, thiền quán,
cả hai là một loại rèn luyện nhất định. Tất nhiên, có nhiều sự giải thích về
tâm thức - điều gì đó như một bản đồ của cảm xúc, một bản đồ của tâm thức - tôi
nghĩ rằng điều đó thật sự cần nghiên cứu thêm để khám phá. Thế giới của tâm thức
là rất bao la và rất quan trọng để biết hệ thống của nó - những tâm thức khác
nhau, chúng phát triển như thế nào, chúng hoạt động như thế nào. Điều đó là
quan trọng. Cùng một cách, quý vị thấy, khi quý vị đang chăm sóc cho một thân
thể bệnh tật, thì quý vị phải biết hệ thống thân thể và nó hoạt động như thế
nào.
Cũng thế ở trình độ tinh thần,
chúng ta phải biết toàn bộ hệ thống của tâm thức - thế giới tinh thần như một đối
tượng học thuật, chứ không là một đối tượng tôn giáo. Khi tri thức ấy được sử dụng
cho những khái niệm như kiếp sống tới, hay thiên đường hay ngay cả địa ngục, thế
thì nó liên hệ với tôn giáo. Nhưng chỉ đơn giản cho sự cát tường của thế giới
này, hay kiếp sống này, thì không có việc gì với tôn giáo; chúng ta có thể tách
rời loại thông tin được sử dụng cho cung cách của một tôn giáo với cách mà nó
được sử dụng trong một cung cách thế tục.
Cho nên tôi thường đùa với những
người bạn Ấn Độ của tôi. Quý vị thấy đó, họ thường cầu nguyện với những ông bà thần
linh của họ, một số nhang đèn, và trì tụng một số câu kệ Phạn ngữ mà không biết
ý nghĩa của chúng - không có nhiều lợi lạc trong việc này. Chúng ta phải chú ý
nhiều hơn, nghiên cứu sự phong phú của triết lý và tư tưởng Ấn Độ. Điều đó là rất
quan trọng.
Tôi thường tuyên bố rằng đức
tin tôn giáo và những hành vi phi pháp bất công, như tham nhũng, không thể đồng
hành với nhau. Không có lựa chọn thứ ba; chỉ có hai: một đời sống đức tin thuần
thành tôn giáo, quan tâm, trung thực, chân thật của công lý; hay một đời sống
tham nhũng, phủ nhận thần linh thượng đế, phủ nhận nghiệp quả, chỉ tìm kiếm tiền
bạc và quyền lực. Thật sự là một mâu thuẫn lớn khi quý vị cầu nguyện Thần
Shiva, cầu nguyện đến Thần Ganesh, nhưng trong khi lại không ngần ngại tham
nhũng. Đây là một sự mâu thuẩn lớn.
Cho dù quý vị là một người có
tín ngưỡng tôn giáo hay không, nếu toàn bộ xã hội trong sạch và minh bạch hơn,
mọi người sẽ cảm thấy hạnh phúc. Quốc gia có thể xây dựng một cách nhanh chóng
hơn. Nếu có nhiều tham nhũng, nhiều bất công, thế thì hàng triệu người nghèo
khó khổ đau nhất. Ấn Độ vẫn là một đất nước dân chủ đông dân nhất thế giới. Hơn
sáu mươi năm qua, tôi nghĩ, Ấn Độ, đã là một xứ sở rất ổn định vì luật lệ và những
nguyên tắc dân chủ. Cho nên người dân Ấn Độ nên suy nghĩ ở trình độ này - xây dựng
một Ấn Độ lành mạnh như thế nào. Mỗi người Ấn Độ có một trách nhiệm đạo đức để
xây dựng Ấn Độ trong một cung cách lành mạnh hơn. Rồi thì Ấn Độ có thể tạo nên
một tác động tích cực nổi bật trên thế giới, bởi vì kích thước của nó, bởi vì lịch
sử lâu dài của nó. Cảm ơn.
HỎI VÀ ĐÁP
HỎI: Tôi thật sự cảm kích, vì ngài đã nói về sự khác
biệt giữa vị kỷ và tự yêu mến. Tự yêu mến thường hoàn toàn bị hiểu lầm và lạm dụng
như vị kỷ, nhưng nó là cần thiết để biểu hiện thương mến của bi mẫn. Và thật
tuyệt vời để nghe quan điểm của ngài.
ĐÁP: Vâng, yêu thương hay cảm nhận quan tâm cát tường. Ngoại
trừ bạn quan tâm cho chính mình hay yêu mến chính bạn, bằng không bạn không thể
mở lòng yêu thương đến người khác. Thứ nhất, thương mến và yêu dấu chính mình,
và xem vô số những chúng sanh cũng thế - giống như chính mình - muốn một đời sống
hạnh phúc, không muốn khổ đau. Vì bạn thật sự quan tâm chăm sóc bạn, trong cùng
một loại điều kiện tương tự bạn phải mở rộng cảm nhận quan tâm về sự cát tường
của vô số chúng sanh. Thái độ vị kỷ là không quan tâm đến người khác, chỉ nghĩ
về cá nhân mình và vì sự quan tâm của chính mình - không chỉ quên lãng sự cát
tưởng của người khác, mà ngay cả bắt nạt, lợi dụng, bóc lột - những thứ như vậy.
Ở đây, thái độ vị kỷ [tích cực]
và cũng như những gì bạn gọi là cảm nhận mạnh mẽ về bản thân, là rất cần thiết
nhằm để phát triển quyết tâm, ý chí. Thí dụ, lời cầu nguyện ưa thích của tôi - "Cho đến khi không gian còn tồn tại,
cho đến khi còn chúng sanh đau khổ, tôi sẽ hiện diện để phụng sự họ."
Nhằm để phát triển một quyết tâm dũng cảm như vậy bạn cần một cảm nhận mạnh mẽ
về bản thân; nhằm để đấu tranh với thái độ vị kỷ tiêu cực bạn cần tự tin về điều
ấy, cảm nhận tự thân mạnh mẽ là cần thiết. Tôi nghĩ cảm nhận tự thân mạnh mẽ cộng
với si mê hay thiển cận có thể trở thành sai lầm. Okay.
HỎI: Tôi là một khoa học gia về thần kinh từ Luân
Đôn, tôi đã nghiên cứu xong về tác động của thiền tập trên não bộ. Một trong những
bức hình ưa thích của tôi là ảnh chụp não bộ của ngài do một người nào đó chụp
qua máy dò scanner. Tôi sử dụng nó để cho thấy rằng ngài rất vui vẻ và để nói với
những nhà khoa học thần kinh về tác động của thiền tập và tâm linh trên não bộ.
Nhưng bức hình ấy hơi cũ, đã mấy năm về trước. Tư tưởng của ngài là gì vào lúc ấy
mà dựa vào đó những nhà khoa học thần kinh có thể làm, để giúp chúng tôi hiểu về
hạnh phúc?
ĐÁP: Như tôi đã đề cập trước đây, thông thường tôi đang thực
hiện một nổ lực để thúc đẩy tỉnh giác trong những thứ này nhằm để tạo ra những
cá nhân hạnh phúc, gia đình hạnh phúc, cộng đồng hạnh phúc. Nếu tôi sử dụng
một lý trí căn cứ trên việc dẫn chứng người khác, có thể nó không được chấp nhận
rộng rãi. Cho nên tôi thường sử dụng một kinh nghiệm thông thường, cảm giác
chung nhất, như những nhà khoa học khám phá. Những khái niệm nào đó của việc
nghiên cứu, qua khám phá khoa học, căn cứ rất nhiều vào một loại lý luận có giá
trị, bởi vì người ta chứng minh nó bằng thực nghiệm. Đức Phật đã tuyên bố,
"Không ai trong những môn nhân của tôi - tỳ kheo hay học giả hay nghiên cứu
- phải chấp nhận giáo huấn của tôi vì tín ngưỡng, vì tôn kính, mà phải khảo sát
và thực nghiệm."
Ngài nói như thế: vậy thì như
chúng tôi là những Phật tử, những bông hoa của truyền thống Na Lan Đà, phải thật
sự khảo sát ngay cả chính những lời của Đức Phật. Một số lời của Đức Phật đi
ngược lại những khám phá từ việc khảo sát; họ có quyền tự do để từ chối những
gì Đức Phật nói. Nếu chúng tôi dựa vào một loại niềm tin tôn giáo, ngay cả nếu
một tôn giáo rất phổ biến, rất quan trọng, thì nó cũng không thể trở thành phổ
quát toàn thể. Nhưng những nghiên cứu và tìm tòi của khoa học có thể phổ quát.
Cho nên tôi cảm thấy, cho đến bây giờ - có thể là từ mười năm trước - các nhà
khoa học đó là những người thật sự tiến hành những cuộc thí nghiệm đã thật sự rất
hữu dụng. Sự cố gắng của tôi trong việc thúc đẩy những giá trị nội tại một cách
chính yếu sử dụng kinh nghiệm phổ quát, những giá trị chung nhất và sau đó là
những thí nghiệm khoa học.
Vậy thì, ông từ lãnh vực đó -
rất tốt. Hãy tiến hành thêm những sự nghiên cứu và … tôi nghĩ ông ở trong cộng
đồng Ấn Độ? Tôi nghĩ những tư tưởng Ấn Độ cổ truyền là rất cởi mở, cho nên một
nhà khoa học từ nguồn gốc ấy có thể thành công hơn. Tâm tư của không bị định kiến
và vẫn cởi mở.
HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, cảm ơn ngài rất nhiều vì
bài nói chuyện hấp dẫn. Ngài đã nói nhiều về từ bi và hạnh phúc. Tôi có một sự
xung đột trong tâm tư tôi - Nếu tôi có lòng từ bi và nếu người nào đó mà tôi
yêu thương vô cùng lại đau khổ, tôi làm thế nào để giữ sự hạnh phúc của riêng
tôi?
ĐÁP: Tịch Thiên, một học giả lớn của thế kỷ thứ tám và là một
đạo sư Ấn Độ, đã nêu ra câu hỏi này. Không ai muốn những trải nghiệm băn khoăn
hay đau khổ hay những lo lắng. Nhưng nếu bạn thực hành từ bi thật năng nổ, thật
hiệu quả, bạn có thể đón nhận một loại lo lắng quấy rầy nào đó. Khi bạn thấy
người nào đó đang trải qua một kinh nghiệm đau khổ, bạn cũng dường như có môt
loại lo lắng hay đau đớn tinh thần nào đó - cho nên bạn phải thực hiện một sự
phân biệt giữa chính bạn và người ấy, hay ngay cả một sự đau khổ thân thể hay một
loại bất lực nào đó vốn không xảy ra cho bạn một cách tự nguyện.
Nhưng sự bất an mà bạn cảm thấy
như một kết quả của việc quan tâm quá nhiều cho sự cát tường của người khác -
đó là tự nguyện. Bạn đã rèn luyện cho chính bạn để phát triển một loại trách
nhiệm: bạn đã cho bạn một lòng can đảm để quan tâm đến sự cát tường của người
khác. Nếu bạn yếu đuối, thì không thể chăm sóc cho sự cát tường của người khác.
Nghĩ quá nhiều về sự cát tường của người khác tạo ra những rắc rối lớn, bởi vì
hầu như có sự đau khổ vô hạn trên hành tinh này - trong loài người hay trong những
loài vật khác.
Tôi nghĩ ở Ấn Độ, một cách
truyền thống, có một văn hóa rất tốt đẹp về ăn chay. Tôi nghĩ điều đó thật là kỳ
diệu. Vào đầu những năm 1960, khi tôi đang đi ngang qua từ Dharamsala đến phi
trường Jammu, hầu như không ai bán gà. Ngày nay, hầu như mỗi nhà ăn nhỏ đều có
bán gà nhân danh sự tiến bộ. Cũng thế, ở Bangalore, tôi chú ý với rau cải thì
có một ít gà. Người ta xem gà như rau cải. Không có cảm giác gì cho sự đau đớn
của chúng. Trong mùa hè và mùa đông, luôn có những con gà nhỏ chen chúc nhau
trong chuồng - thật đáng buồn.
Chính tôi, bây giờ không phải
là một người ăn chay, nhưng tôi có những lý do nào đó. Trong năm 1965 đến 1966,
tôi đã từ bỏ thực phẩm không chay lạc, kể cả trứng. Tiếp theo - tôi nghĩ - khoảng
mười hai tháng. Tôi là một người ăn chay rất nghiêm túc. Trong thời gian đó,
theo lời khuyên của một người bạn Ấn Độ, tôi đã dùng rất nhiều kem và hạt; như
một kết quả, tôi bị bệnh ở túi mật. Sau đó, tôi nhớ, tối thiểu là ba hay bốn tuần,
tôi đã ngã bệnh nghiêm trọng. Toàn thân tôi - mắt và móng tay cũng thế - biến
thành màu vàng cả. Sau này tôi đùa với một số người bạn của tôi rằng, vào lúc ấy,
tôi thật sự trở thành một vị Phật Sống, hoàn toàn vàng - không phải qua sự thực
hành tâm linh mà bởi bệnh hoạn.
Cho nên cả những nhà y học
Tây Tạng và những nhà y học đối chứng (giữa cổ truyền và hiện đại, giữa thân và
tâm) khuyên tôi tốt hơn là tiếp tục theo chương trình ăn uống truyền thống của
tôi. Vì thế đấy là một sự đấu tranh. Đó là sự biện giải của tôi. Thật sự, chúng
tôi đang cố gắng để thúc đẩy sự ăn chay, do vậy tôi nghĩ chúng ta cần một phong
trào rộng rãi khắp thế giới. Trong một vài trường hợp, ở Nhật Bản, tôi đùa người
Nhật vì dùng quá nhiều cá. Tệ hại nhất là một số người chơi đùa với cá - họ móc
cá với lưỡi câu và làm chúng vùng vẫy, sau đó thả chúng ra, bị tổn thương ở miệng
như thế.
HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, cảm ơn ngài đã cùng với
chúng tôi; chúng tôi được gia ơn rất nhiều. Tôi có một câu hỏi - trong việc
theo đuổi hạnh phúc của chúng tôi, chúng tôi toàn thấy và nghe những thứ xấu.
Ngài biết, như đối xử tàn ác với thú vật - chúng tôi đọc ngẫu nhiên trong một
quyển sách, hay chúng tôi thấy nó và trong những thời khắc, khi những thứ này
ám ảnh chúng tôi, chúng tôi không muốn nghĩ về tra tấn hay đau đớn đến những tạo
vật. Chúng ta làm sao chấm dứt những tư tưởng đó? Tôi muốn nói, chúng ta làm
sao xóa bỏ chúng, chúng ta có thể chấm dứt chúng không, bởi vì đó là những tư
tưởng tiêu cực?
ĐÁP: Hai cách - hãy suy nghĩ hơn nữa và những gì thật sự
giúp hay ích lợi cho việc xua tan sân hận, thù oán, hay tham dục làm tổn hại đến
người khác. Chỉ tham muốn làm tổn hại đến người khác có thể không thật sự làm tổn
hại họ; chi qua hành động, quý vị mới có thể làm tổn hại. Cho nên nếu quý vị thật
sự muốn làm tổn hại người khác, mà không sân hận, và với một tâm tư tĩnh lặng,
hãy phân tích và tìm ra điểm yếu của người khác và sau đó tấn công. Nếu tự quý
vị sân hận, thì quý vị trở thành hơi điên khùng. Quý vị không thể tìm ra điểm yếu,
nếu quý vị chỉ tấn công. Thế thì, đôi khi quý vị làm cho đôi tay quý vị đau khổ
hơn.
Cho nên, thí dụ, nếu người
Tây Tạng vẫn giữ sự sân hận đối với những kẻ gây rắc rối cho chúng tôi ở đấy,
dĩ nhiên họ sẽ xem chúng tôi như kẻ gây rối. Vì thế, chúng tôi xem họ như những
kẻ tạo rắc rối. Thế nào đi nữa, quý vị thấy rằng chỉ có cảm nhận tiêu cực sẽ
không gây tổn hại cho họ; thay vì thế, hãy giữ lòng nhẫn nhục, giữ lòng từ bi.
Trong năm 2008, sau khủng hoảng ngày10 tháng Ba, tôi ít nhiều đã kinh nghiệm
như tôi đã có năm 1959 - bất lực, quá nhiều lo lắng, sợ hãi. Nhưng trong cuộc
khủng hoảng 2008, tôi đã thận trọng giữ sự thực tập cho và nhận. Quán tưởng một
số nhà lãnh đạo cứng rắn của Trung Cộng, nhận sự sân hận của họ, sự sợ hãi của
họ, và cho họ tinh thần thần tha thứ và từ bi của tôi. Vô cùng lợi lạc - không
phải ở trong việc giải quyết rắc rối nhưng nó giữ cho tâm hồn tôi tĩnh lặng và
yêu thương.
Cho nên, như thế, nếu quý vị
để sân hận phá hủy sự hòa bình của tâm hồn quý vị, cuối cùng nó sẽ tàn phá sức
khỏe của chính quý vị. Cho nên giữ lòng từ bi - tâm tư của quý vị sẽ sẽ vẫn
trong sáng. Nếu quý vị phát triển lòng từ bi tròn vẹn, không để sân hận hay thù
oán gì trong đó, thế thì sau những nổ lực liên tục ngày này qua tháng nọ, qua
năm kia, hàng thập niên, thể trạng tinh thần có thể thay đổi, đó là những gì
tôi có thể nói với bạn qua kinh nghiệm bé nhỏ của tôi.
HỎI: Tôi là một tiến sĩ y khoa. Hai mươi năm trước,
tôi đã hỏi ngài nên làm gì như một bác sĩ, nhưng bây giờ câu hỏi của tôi là:
Chúng ta làm thế nào để giúp bệnh nhân duy trì niềm hạnh phúc này khi người ấy
bệnh? Thái độ của bệnh nhân ra sao đối với đời sống khi người ấy bệnh?
ĐÁP: Tùy thuộc vào thái độ tinh thần của người ấy. Nếu người
nào tin tưởng vào Thượng Đế, rằng chúng ta là những tạo vật của Thượng Đế và
Thượng Đế có nghĩa là tình thương vô hạn, thì người ấy sẽ thấy trong bệnh tật của
họ một ý nghĩa nào đó. Rồi thì, những bệnh nhân tin vào luật nhân quả sẽ tin rằng
sự bất hạnh hôm nay - kể cả bệnh tật - là do nghiệp tiêu cực trong quá khứ của
người ấy. Tuy nhiên, mỗi trải nghiệm là do nghiệp tiêu cực trong trước đây của
người ấy; kể cả bệnh tật là qua một nghiệp tiêu cực nghiêm trọng nào đó. Tuy thế,
nghiệp là do ta tự tạo nên; do thế, nếu ta tạo một nghiệp khác, một nghiệp tích
cực mạnh mẽ hơn, thế thì ảnh hưởng của nghiệp tiêu cực sẽ giảm thiểu. Cho nên,
một cách căn bản, quý vị có một sự kiểm soát nào đó.
Rồi thì, có lẻ, một người
không tín ngưỡng nào đó, khi đối diện với một kinh nghiệm rắc rối hay đau khổ,
sẽ phân tích hoàn cảnh. Nếu hoàn cảnh mà ta có thể vượt thắng, thế thì, không cần
phải lo lắng hay cố gắng. Nếu hoàn cảnh không thể vượt qua, thì cũng không cần
phải lo lắng quá nhiều. Quá nhiều băn khoăn là tự tra tấn; tốt hơn là quên đi.
Không dễ dàng, nhưng thế ấy, tôi nghĩ, là một sự tiếp cận thực tế khi chúng ta
đối diện với một rắc rối nào đó.
Đây là một kinh nghiệm nhỏ của
tôi. Tôi nghĩ hơn mười năm trước, tôi bị đau trong ruột. Ngày đó tôi ở Bihar,
đi ngang qua một ngôi làng; tôi thấy nhiều người nghèo khổ, trẻ em khốn khó
không có giày dép hay bất cứ cơ hội nào cho việc học vấn. Rất buồn. Rồi thì tôi
đã thấy những thứ tệ hại hơn ở Patna. Sau đó tôi đến khách sạn của tôi, cơn đau
trở nên dữ dội hơn, và hầu như cả đêm ấy tôi khổ sở. Nhưng tôi liên tục nghĩ về
những đứa trẻ không nơi nương tựa. Khi tâm tư tôi chuyển hướng đến cảm nhận từ
bi yêu thương - cơn đau thân thể của tôi giảm thiểu. Cho nên hãy nghĩ nhiều hơn
về sự cát tường của người khác hơn là những rắc rối của chính bạn, kể cả bệnh tật
của chính quý vị. Bằng khác đi, tôi không biết. Tôi nghĩ quý vị phải tham khảo
với những nhà tâm lý học và tâm lý trị liệu phương tây hay những gì như thế.
Hay có lẻ tốt nhất là dùng chất say (như rượu)? Hay chỉ nằm xuống.
HỎI: Tôi tự hỏi yêu cầu đừng đưa ra những câu hỏi
liên quan đến chính trị là từ Đức Thánh Thiện hay từ những người tổ chức ra buổi
nói chuyện quý báu này - trong ý nghĩa rằng chính trị không tác động với hạnh
phúc trong thời đại của chúng ta như trong những thời kỳ khác? Bên cạnh đó, có
phải công lý là thích hợp với lòng từ bi mà ngài nói đến? Xin ngài giải
thích về nó một ít?
ĐÁP: Tôi nghĩ công lý là trên trình độ của hành động và từ
bi là về động cơ. Động cơ, chẳng hạn như động cơ, thật sự là về việc quan tâm đến
sự cát tường của người khác. Với loại thái độ tinh thần ấy sẽ không có chỗ cho
sự lừa dối, bóc lột hay tổn hại, vì bạn đang chăm sóc đến sự cát tường của người
khác.
Thí dụ, sự thực hành của người
xuất gia Phật Giáo đề cập, khi tu sĩ chứng kiến một người thợ săn đến gần một
con thú, nó biến mất trong rừng; tu sĩ chú ý phương hướng nào. Khi người thợ
săn đến và hỏi tu sĩ con thú đó đi ngã nào, nếu tu sĩ nói sự thật, người
thợ săn sẽ bắt được con thú. Trong trường hợp đó, tốt hơn là nói dối, bởi động
cơ là chân thành. Cho nên được phép. Vì vậy sự nói dối ở trình độ hoạt động - hoạt
động thân thể, hoạt động tinh thần, cho dù tích cực hay tiêu cực.
Có lần nọ, một nhóm người Việt
Nam đã hỏi tôi về việc tham nhũng nhằm để có việc làm tốt trong cộng đồng hay
cho một số lượng lớn hơn của công nhân. Tôi nói với họ rằng một mục tiêu như vậy,
với lòng chân thành, động cơ từ bi, xuất phát từ việc quan tâm cho một nhóm
đông người. Nếu nó liên hệ đến một sự tham nhũng nho nhỏ nào đó, thế thì đó là
một sự tham nhũng tích cực. Thế nên những thứ này lệ thuộc vào mục tiêu và hành
động như vậy đấy.
Chính trị, thật sự, quý vị thấy,
tôi bây giờ cuộc đã nghỉ hưu với trách nhiệm chính trị trong mức độ quan tâm đến
cuộc đấu tranh của người Tây Tạng. Tôi giao lại cho những người lãnh đạo dân cử
một cách tự nguyện, vui vẻ và tự hào. Cho nên vào lúc này, nếu người nào hỏi
tôi về một sự phức tạp nào đó của chính quyền Trung Cộng, thì tôi thường trả lời
rằng bây giờ tôi đã nghỉ hưu. Cho nên tôi có nhiều tự do hơn - nếu tôi muốn trả
lời thì tôi trả lời, và nếu tôi không muốn, tôi nói rằng tôi đã nghỉ hưu.
HỎI: Với tất cả lòng biết ơn và khiêm hạ, tôi muốn
biết ngài định nghĩa về Thượng đế là gì và người ta kinh nghiệm về Thượng đế
như thế nào?
ĐÁP: Một lần, tôi nghĩ ở phương Tây, một phóng viên nào đó
đã hỏi tôi, "nếu ngài có cơ hội để gặp Giê-su Ki-tô, câu hỏi của ngài sẽ
là gì?" Tôi trả lời, "Thượng đế là gì?" (Cười) Thế nên điều đó
là huyền bí. Dĩ nhiên, tôi nghĩ mỗi tôn giáo có một loại thuật ngữ nào đó,
nhưng có những thứ nào đó vượt ngoài suy nghĩ của chúng ta, vượt ngoài ngôn ngữ
của chúng ta. Đức Phật là một chúng sanh Giác Ngộ, nhưng rồi, ngay cả chi tiết
về Giác Ngộ, phẩm chất cao nhất của tinh thần là vượt ngoài tư tưởng của chúng
ta. Thật là khó khăn. Tôi nghĩ rằng khoa học hiện đại không chứng minh cũng
không bác bỏ về Thượng đế. Đó là một sự huyền bí.
Ẩn Tâm Lộ,
Tuesday, June 14, 2016
Tuesday, December 5, 2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét