Thứ Năm, 25 tháng 2, 2021

GIỚI THIỆU QUYỂN NHỮNG GIAI TẦNG THIỀN TẬP


 


Nguyên tác: Stages of Meditation

Nhà xuất bản: Snow Lion Publication - 2003

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Anh dịch: Venerable Geshe Lobsang Jordhen

 Losang Choephel Ganchenpa

 Jeremy Russel

Việt dịch: Tuệ Uyển – 07/05/2011

 

LỜI NGƯỜI DỊCH

 

Trước khi đọc vào nội dung chính của quyển sách này chúng ta lại biết thêm rằng với cương vị là nguyên thủ Tây Tạng - quốc chủ một nước và Pháp Vương Hay Tăng Thống, một Đức Đạt Lai Lạt Ma của Phật Giáo Tây Tạng tức là lãnh tụ thế quyền lẫn giáo quyền của Tây Tạng, bản thân ngài lại có bằng Geshe Lharampa, bằng tiến sĩ Phật giáo cao nhất của Tây Tạng nhưng tinh thần tham cầu học hỏi của ngài không ngừng nghĩ. Dù đã sống lưu vong ở Ấn Độ, bận rộn trăm bề với quốc sự và Phật sự, đi khắp nơi trên thế giới để vận động cho vấn đề Tây Tạng, giảng dạy Phật Pháp cho Phật tử và hoạt động vì hòa bình thế giới nhưng ngài vẫn luôn luôn tìm hiểu để thấy những bộ luận nào của Tây Tạng mà ngài vẫn chưa biết để tham cầu học hỏi như bộ luận Những Giai Tầng Thiền Tập này. Khi những trưởng lão giáo thọ trong tông phái Gelugpa có truyền thừa về bộ luận này viên tịch ngài không ngần ngại tìm cầu học hỏi đến những vị truyền nhân của các tông phái khác những có truyền thừa bộ luận này như trưởng lão Khenpo Sangye Tenzin Rinpoche của tông phái Sakya. Thường thì khi học hỏi một tài liệu mới ngài thỉnh thị ý kiến trưởng lão giáo thọ của ngài là Yongzin Ling Rinpoche. Nhưng Ling Rinpoche đã viên tịch. Nên ngài cũng cẩn thận trước khi học bộ luận này ngài đã hỏi ý kiến trước với Trưởng lão Gen Nyima và khi được trả lời, đấy là một ý tưởng tốt thì ngài mới bắt đầu học hỏi bộ luận này truyền khẩu (vì dường như không có bản chữ viết) từ trưởng lão thủ tọa Khenpo Sangye Tenzin Rinpoche của tông phái Sakya (có tiểu sử ở phía sau quyển sách này). Chúng ta thật phải cực kỳ tôn kính với tính tham cầu học hỏi và cẩn mật của Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhờ thế chúng ta mới có cơ duyên để học hỏi những lời luận giải Những Giai Tầng Thiền Tập từ quyển sách này do Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng.

Đây là một quyển sách khác mà thầy Viện Trưởng đã trao cho tôi. Sau một bửa ăn tại nhà Đại Bi Tu viện Kim Sơn, thầy đến trước mặt tôi, đưa cao quyển sách này lên cho tôi thấy bìa trước quyển sách và nói, "Nè Từ Đức!" và đưa quyển sách cho tôi. Tôi chỉ mĩm cười lẵng lặng nâng hai tay nhận quyển sách này.

Xin trích một lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong quyển sách này: " Tôi khuyên quý vị hãy lắng nghe với động cơ lành mạnh, hãy nghĩ "tôi sẽ lắng nghe Những Giai Tầng Thiền Tập bộ trung của Đại sư Liên Hoa Giới nhằm để đạt đến Quả Phật vô thượng vì lợi ích của tất cả chúng sanh bao la như hư không vô biên".

Xin thành kính dâng tất cả phước đức của việc chuyển dịch quyển sách này lên Đức Đạt Lai Lạt Ma, Thầy Viện Trưởng,Cha Mẹ tôi và đạo hữu Làng Đậu Võ Quang Nhân đã cung cấp cho tôi tên những bộ kinh bằng chữ Nho có trong quyển sách này cũng vô vàn giúp đở khác trong việc chuyển ngữ những tác phẩm của Đức Đạt Lai Lạt Ma và tất cả những ai đã góp phần cho quyển sách này hiện diện và những ai được lợi lạc từ dịch phẩm này.

Nam mô A Di Đà Phật

Tu Viện Kim Sơn ngày 7-11-2012

Tuệ -Uyển

Thích Từ-Đức

 



LỜI MỞ ĐẦU

 

Chúng tôi vui mừng vì có thể giới thiệu ở đây một bản dịch Những Giai tầng Thiền Quán của Liên Hoa Giới (Kamalashila) với lời luận giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Khi Đức Thánh Thiện thuyết giảng tác phẩm này tại Manali vào năm 1989, chúng tôi được truyền cảm hứng với một nguyện ước làm cho nó có thể hiện diện như một quyển sách. Kể từ ấy, chúng tôi đã hành động trong mục tiêu ấy khi chúng tôi có thể và thật vui mừng rằng cuối cùng nó đã đi đến kết quả hiện thực.

A xà lê[1] Liên Hoa Giới là một đại học giả thánh thiện của thế kỷ thứ chín và là một đệ tử của đại viện trưởng Tịch Hộ [2]. Qua những hành động từ bi của những đại đạo sư như thế này một hình thức hoàn thiện và không sai sót những giáo huấn của Đức Phật đã rộ nở ở Tây Tạng. Liên Hoa Giới đã đóng một vai trò đặc biệt trong điều này bởi vì ngài là một học giả Ấn Độ đầu tiên đã sáng tác một tác phẩm nổi tiếng ở Tây Tạng với một quan điểm đáp ứng những nhu cầu của người Tây Tạng và với khuynh hướng xóa tan những sự hiểu biết sai lầm đang lan tràn lúc ấy. Bất hạnh thay, qua xáo trộn trong thời gian của chúng ta, và đặc biệt thảm họa đã xãy đến ở Tây Tạng, những học nhân và hành giả chân chính từ lâu đã bị cướp mất cơ hội nghe, đọc, và tư duy, hay thiền quán về những tác phẩm quan trọng như thế. Nhận ra điều này, mặc dù có nhiều thứ đòi hỏi cấp bách, nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thực hiện những nổ lực quan trọng đề bảo tồn truyền thống này, mà điều ấy đã nuôi dưỡng việc học hỏi và đưa vào trong thực tập những ý nghĩa quan trọng và hiếm hoi của những luận điển như tác phẩm này. Kết quả, ngài dã giảng dạy Những Giai tầng Thiền Tập trong một vài cơ hội.

Chúng tôi vui mừng đã cho hiện diện những lời luận giải mà ngài đã thuyết giảng ở Manali, một thành phố nhỏ ở địa đầu Thung Lũng Kullu trong tiểu bang Himachal Pradesh đã từng liên hệ lâu đời với người Tây Tạng và người dân Ấn-Tạng ở vùng biên giới. Nguyện ước chân thành của chúng tôi là nổ lực khiêm tốn của chúng tôi sẽ cống hiến cho việc bảo tồn những giáo huấn không chút nhiễm ô của A xà lê Liên Hoa Giới. Chúng tôi hy vọng rằng bất cứ ấn tượng tích cực nào mà độc giả có thể phát sinh từ điều này có thể cống hiến cho tất cả chúng sinh trong việc đạt đến hạnh phúc tối thượng của Phật quả.

Chúng tôi xin hồi hướng bất cứ công đức nào có thể hình thành qua công việc này đến việc phát triển Phật Pháp, đến hòa bình trong chúng sinh, và đến sự trường thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma cùng những đại đạo sư và hành giả tâm linh. Chúng tôi biết ơn Susan Kyser, chủ bút của chúng tôi tại Snow Lion, vì những đề nghị vô giá của bà đã cải thiện cho bản thảo cuối cùng, và đến mọi người đã trực tiếp và gián tiếp đóng góp làm cho chương trình này được hoàn thành.

Quyển sách này đã được phiên dịch và nhuận sắc bởi đội ngũ của: Geshe Lobsang Jordhen, tốt nghiệp từ Học Viện Biện Chứng Phật Giáo, Dharamsala, người từ năm 1968 đã là phụ tá tôn giáo và thông dịch viên cá nhân cho Đức Đạt Lai Lạt Ma; Losang Choephel Ganchenpa, người cũng đã được rèn luyện tại Học Viện Biện Chứng Phật Giáo và đã làm việc như một thông dịch viên hơn một thập niên, đầu tiên tại Thư Viện Hoạt Động và Lưu Trử Tây Tạng, Dharamsala, và sau này ở Úc Đại Lợi; và Jeremy Russell, là chủ bút của Cho-Yang, Tiếng Nói của Tôn Giáo và Văn Hóa Tây Tạng, xuất bản bởi Học Viện Norbulingka, Dharamsala.

***

 

DẪN NHẬP

 

Trong Phạn ngữ là Bhavanakrama, trong Tạng ngữ là Gompai Rimpa, trong Hoa ngữ là Quảng Thích Bồ Đề Tâm Luận, và trong Việt ngữ là Giảng Rộng Luận Tâm Giác Ngộ:

Kính lễ Mạn Thù Thất Lợi Đồng Tử, con sẽ giảng giải tóm tắt những Giai tầng Thiền Tập cho những ai đi theo hệ thống kinh điển Đại Thừa. Những người thông tuệ với nguyện ước thân chứng toàn tri toàn giác một cách cực kỳ nhanh chóng nên thi hành những nổ lực thận trọng để hoàn thành những nguyên nhân và điều kiện của việc này.

Đại đạo sư tâm linh Liên Hoa Giới đã sáng tác tác phẩm này gọi là Những Giai tầng Thiền Tập trong ba phần: Những Giai tầng Sơ Khởi của Thiền Tập, Những Giai tầng Trung Cấp của Thiền Tập, và Những Giai tầng Cuối Cùng của Thiền Tập. Ở đây tôi sẽ giải thích Những Giai tầng Trung Cấp của Thiền Tập. Những chủ đề căn bản của luận điển này là tư tưởng tỉnh thức của tâm giác ngộ và quan điểm hoàn thiện. Những con đường tâm linh đưa đến mục tiêu tối hậu của Phật quả là hai phương diện: phương pháp và trí huệ. Hai phẩm chất này sản sinh thân thể vật lý, sắc thân (rupakaya), và thân thể trí huệ, pháp thân (dharmakaya), tương ứng từng thứ. Sắc thân đại diện cho sự hoàn thiện của hành động vì lợi ích người khác, và pháp thân biểu thị sự toàn hảo cho mục tiêu của chính mình. Những phương pháp cho việc phát sinh tâm giác ngộ cùng trí huệ thân chứng tính không hình thành nền tảng những giáo huấn của Đạo Phật, và luận văn này cung cấp một sự trình bày rõ ràng hai phương diện này trong lộ trình Phật Giáo đến giác ngộ.

Khi chúng ta có một cái nhìn gần gũi hơn những giáo huấn này, chúng ta đi đến thấu hiểu rằng tư tưởng từ bi là gốc rể của tâm giác ngộ, hay tư tưởng tỉnh thức. Tư tưởng giác ngộ này phải được đặt vào thực hành trong sự kết hợp với trí huệ thân chứng tính bản nhiên tối hậu của mọi hiện tượng, là tính không. Trí huệ này phải là một sự nhất thống của tuệ giác đặc biệt và tâm tịch tĩnh bất biến tập trung nhất niệm trên đối tượng của nó, là tính không.

Hầu hết quý vị đang nghe điều này đến từ những vùng Lahaul, Kinnaur, Spiti của Ấn Độ, và hầu hết quý vị đã có một trình độ học vấn nào đấy. Tuy thế, kỷ thuật giảng dạy tôi sẽ thực hiện ở đây được hướng một cách chính yếu đến những người không tin tưởng trong tôn giáo. Trong chương trình, tôi muốn chỉ cho thấy làm thế nào người ta có thể phát sinh sự thích thú trong tôn giáo một cách phổ quát và với Phật Giáo trong đặc thù. Có nhiều nguyên tắc lý trí có thể giúp chúng ta phát triển sự hấp dẫn trong tôn giáo. Trong cách này chúng ta có thể nhận ra rằng tôn giáo không đặt nền tảng trên sự tin tưởng đơn thuần, nhưng là tin tưởng sinh khởi trong sự kết hợp với lý trí và lý luận hợp lý (logic). Một cách cơ bản có hai loại tín ngưỡng: một là không căn cứ trên bất cứ lý trí nào và hai là được ủng hộ bởi lý trí. Trong trường hợp của loại tín ngưỡng thứ hai, chúng ta thẩm tra đối tượng tin tưởng của mình và khảo sát sự liên hệ của nó đến nhu cầu và đòi hỏi của mình. Tín ngưỡng được phát sinh sau khi thấy những lý do và tại sao nó thuận lợi. Trong Đạo Phật, tổng quát,và trong con đường Đại Thừa đặc thù, chúng ta thẩm tra nội dung của giáo huấn và chấp nhận những thứ hợp lý và có lý trí và từ chối những thứ vô lý. Đối với những trường hợp như vậy khi những giáo huấn là từ chính kim khẩu của Đức Phật không nên được tiếp nhận theo từng chữ, mà phải được diễn giải. Giáo huấn kinh điển không thể đứng vững với sự phân tích hợp lý không nên được tiếp nhận từ chữ một, nhưng đòi hỏi sự diễn giải. Về mặt khác, giáo huấn kinh điển có thể đứng vững với sự phân tích hợp lý nên được tiếp nhận từ chương. Tuy thế, nếu chúng ta tìm kiếm cho một thẩm quyền kinh điển khác để phân biệt những kinh điển nào được thấu hiểu từ chương và những kinh điển nào phải được diễn giải, chúng ta sẽ rơi vào ý tưởng sai lầm của sự thoái bộ vô tận. Chúng ta phải thẩm tra cả hai loại giáo huấn kinh điển với luận lý (logic). Do thế, chúng ta có thể thấy rằng trong nghiên cứu về kinh điền Phật Giáo, hợp lý và phân tích là một chỗ rất quan trọng.

Trước khi chúng ta bắt tay vào sự khảo sát, điều cần yếu là chúng ta học hỏi những kỷ thuật để thẩm tra đối tượng sự phân tích của chúng ta. Đối với những người muốn tiếp nhận giáo huấn của Đạo Phật trong thực hành, tín ngưỡng đơn thuần không đủ. Tín ngưỡng nên được hổ trợ bởi lý trí. Khi chúng ta nghiên cứu, hãy đi theo một phương pháp hợp lý. Trong khi tôi đang giảng dạy, tôi muốn quý vị hãy đặt sự toàn tâm toàn ý; ghi chú hay dùng những phương tiện khác để có thể ghi nhớ những gì tôi giảng dạy.

Hãy để tôi bắt đầu bằng việc giải thích những gì tôi muốn nói về gia hộ, khi chúng tôi nói về sự gia hộ của đạo sư hay của Giáo Pháp trong phạm vi Đạo Phật. Sự gia hộ phải sinh khởi từ trong tâm thức của chính chúng ta. Không phải là điều gì đến từ bên ngoài, mặc dù chúng tôi nói về sự gia hộ của một đạo sư hay của Tam Bảo. Khi những phẩm chất tích cực trong tâm thức chúng ta tăng trưởng và điều tiêu cực giảm thiểu, đấy là ý nghĩa của gia hộ. Tạng ngữ cho sự gia hộ là byin rlab có hai phần – byin có nghĩa là “năng lực siêu việt” và rlab có nghĩa là “chuyển hóa”. Vì thế gia hộ có nghĩa là sự chuyển hóa thành năng lực siêu việt. Do thế, gia hộ liên hệ đến việc phát triển những phẩm chất tinh thần mà chúng ta không có trước đây và cải thiện những phẩm chất mà chúng ta đã khai triển rồi. Nó cũng có nghĩa là giảm thiều những ô nhiễm của tâm thức đã làm chướng ngại sự phát sinh các phẩm chất thánh thiện. Vì vậy, sự gia hộ thật sự được tiếp nhận khi những đức tính tốt đẹp đạt được sức mạnh và những đặc trưng khiếm khuyết của nó bị yếu đi hay giảm xuống.

Luận điển nói, “Những người thông tuệ nguyện ước thực chứng toàn tri toàn giác cực kỳ nhanh chóng nên thực hiện một nổ lực thận trọng để hoàn thành nguyên nhân và điều kiện của nó.” Những gì điều này muốn nói là quyển sách này chủ yếu đối phó với đề tài bị bác bẻ hay được trình bày trong một hành động triết lý hơn. Không phải có hai hệ thống luận điển Phật Giáo riêng rẻ và không liên hệ - mà một số luận điển chỉ là chủ đề của nghị luận và những thứ khác toàn là thực hành. Tất cả mọi kinh luận chứa đựng giáo huấn giúp để thuần hóa và kiểm soát tâm thức. Tuy nhiên, chắc chắn có thể có những trình độ nhấn mạnh khác nhau. Những sự thực tập và tài liệu nào đấy là thích hợp một cách chính yếu đến sự học tập và quán chiếu, và có những luận điển nào đấy được dạy với sự nhấn mạnh đặc biệt về những trình tự thiền quán. Luận điển này thuộc về bộ phận thứ hai. Do vậy, như tựa đề đã nói lên, tài liệu này diễn tả con đường tâm linh có thể được phát triển như thế nào trong dòng suối tâm của hành giả trong một hệ quả đúng đắn, chứ không phải trong kiểu từng mãng rãi rác.

Trong ba phần của Những Giai Tầng Thiền Tập, đây là phần giữa. A xà lê Liên Hoa Giới đã dạy một cách tóm tắt trong chính Ấn ngữ của ngài. Luận điển bắt đầu với đầu đề Phạn ngữ, đề cập mục tiêu làm lợi ích người đọc bằng việc tạo nên khuynh hướng của ngôn ngữ thánh thiện này trong tâm thức độc giả. Trích dẫn chuẩn độ trong ngôn ngữ văn học Ấn Độ cũng có một không gian lịch sử. Vì bình minh của nền văn hóa Tuyết Sơn và với sự phát triển dần dần của quốc gia Tây Tạng, có một sự phối hợp tự nhiên với các xứ sở láng giềng. Trong việc nhìn lại thì thấy rằng đồng bào Tây Tạng đã tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa xã hội từ láng giềng của họ. Thí dụ, Ấn Độ, láng giềng phương Nam của chúng tôi, là nguồn gốc của những hệ thống và chủ đề văn hóa và tôn giáo làm phong phú tâm thức. Tương tự thế, những yếu tố văn hóa và khoa học cổ xưa như y dược, triết lý Đạo Phật, Phạn ngữ, v.v… được đưa vào từ Ấn Độ, quê hương của nhiều đại học giả. Vì vậy, đồng bào Tây Tạng có một truyền thống tôn kính Ấn Độ như Linh Địa. Trung Hoa cũng được biết vì thức ăn khoái khẩu và sự phong phú về rau trái. Trong ngôn ngữ Tây Tạng, chúng tôi dùng cùng một chữ cho rau trái như người Trung Hoa, và ngay cả ngày nay, chúng tôi tiếp tục sử dụng những từ ngữ cho nhiều rau trái. Đây là những gì chúng tôi nhập cảng từ Trung Hoa. Tương tự thế, vì áo quần Mongolia rất thích hợp khí hậu lạnh giá, cho nên đồng bào Tây Tạng đã sao chép một số kiễu mẫu của họ. Do thế, qua nhiều thế kỷ, đồng bào Tây Tạng đã từng tiếp xúc với những láng giềng của họ, chúng tôi đã nhập cảng nhiều thứ tốt đẹp và đã phát triển những đặc trưng văn hóa xã hội cá biệt của riêng chúng tôi. Khi luận điển bắt đầu với câu, "Trong Ấn ngữ, " nó biểu thị sự chính thống xác thực của tài liệu - rằng nó phát nguồn trong những luận điển của các đạo sư Ấn Độ.

Rồi luận điển nói, "Trong Tạng ngữ," và tựa đề Tây Tạng được đưa ra. Điều này cho biết rằng luận điển được chuyển dịch sang ngôn ngữ của một quốc gia khác, Tây Tạng. Tạng ngữ giàu có đủ để truyền đạt một cách chính xác những luận điển lớn, kể cả kinh điển và những luận giải. Qua hàng thế kỷ, Tạng ngữ đà là một môi giới quan trọng cho cả những khía cạnh phạm trù và thực hành Phật Pháp. Ngay cả ngày nay, đã thấy rằng Tạng ngữ hầu như là một ngôn ngữ duy nhất trên thế giới có thể trao đổi toàn bộ tam tạng giáo điển Đạo Phật bao gồm Tiểu Thừa, Đại Thừa, và Mật Thừa. Tạng ngữ vì thế là một ngôn ngữ rất quan trọng và một cách đặc biệt giá trị trong mối liên hệ với Đạo Phật.

"Kính lễ Mạn Thù Thất Lợi Đồng Tử ". Đây là câu kệ tôn kính và thỉnh cầu của dịch giả. Các dịch giả bắt đầu công việc của họ bằng việc bày tỏ lòng tôn kính vì thế họ có thể hoàn tất công việc của họ mà không phải đối diện với những chướng ngại. Nó cũng tượng trưng cho sự ngưỡng mộ để hoàn thành những mục tiêu tạm thời và rốt ráo của họ. Sự thỉnh cầu được hướng đến Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi theo sau một chiếu chỉ được ban bố bởi những vị vua Phật Giáo trước đây. Xu hướng biểu thị một cách rõ ràng đến ba tạng giáo điển của Đức Phật hay những luận giải liên quan. Lời thỉnh cầu được hướng đến chư Phật và Bồ tát nếu một tài liệu thuộc Kinh tạng. Và nếu một tài liệu thuộc về Luận tạng, lời thỉnh cầu được hướng đến Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát. Nhằm để biểu thị rằng một tài liệu nào đó thuộc Luật tạng, lời thỉnh cầu hướng đến Đấng Toàn Giác. Vì vậy, lời thỉnh cầu bởi dịch giả thích ứng với sự thực tập truyền thống. Chính đề của luận điển này quan tâm đến việc thiết lập vô ngã bằng việc dựa vào sự tập trung nhất tâm là một sự hợp nhất của tuệ giác nội quán (tuệ) và tịch tĩnh bất động (định) và như nó thuộc về tạng Luận (tập hợp của tri thức), nên lời thỉnh cầu được hướng đến Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát.

Với câu, "Cho những ai đi theo hệ thống kinh điển Đại Thừa." tác giả bộc lộ tiến trình thiền tập cho những ai học hỏi luận điển này. Bây giờ câu hỏi sinh khởi: Mục tiêu cứu kính của những ai thực hành giáo huấn Đại Thừa là gì? Và câu trả lời là Quả Phật. Quả Phật có nghĩa là gì? Bậc sở hữu trí huệ siêu việt tất cả là một Đức Phật, và thể trạng này được liên hệ như Quả Phật. Vì mục tiêu cuối cùng của giáo huấn Đại Thừa là để đạt đến thể trạng toàn tri toàn giác, cho nên hành giả cần khảo sát một cách thân cận phương tiện và phương pháp đưa đến sự thực chứng này. Qua sự khảo sát như vậy, hành giả phải cố gắng để theo đuổi quy trình đúng đắn và hoàn toàn cho việc thực chứng thể trạng toàn tri toàn giác. Đây là tóm lược về chủ đề của quyển sách này.

***

 

GIỚI THIỆU

 

Trong từ ngữ của Bồ tát Long Thọ,

Nếu con muốn đạt đến thể trạng Giác Ngộ vô thượng

Cho chính con và thế giới,

Gốc rể là sự phát tâm vị tha

Điều ấy vững vàng và kiên cố như một ngọn núi,

Một lòng bi mẫn ôm ấp tất cả,

Và một trí huệ siêu việt thoát khỏi nhị nguyên.

Những ai trong chúng ta khao khát hạnh phúc cho người khác và chính mình tạm thời và lâu dài nên được động viên để đạt đến thể trạng toàn tri toàn giác. Lòng bi mẫn, tâm vị tha, và quan điểm hoàn thiện là những nền tảng và sự quyết định của con đường đến Giác Ngộ vô thượng. Ở việc này, chúng ta có niềm tin trong giáo thuyết của Đức Thế Tôn và đến gần với giáo huấn của Ngài. Chúng ta tự do khỏi những chướng ngại quan trọng và đã gặp những nhân tố bổ sung mà chúng ta có thể học hỏi những khía cạnh rộng lớn và thâm sâu của giáo huấn Đạo Phật, việc quán chiếu những nội dung, và thiền quán trên ý nghĩa ấy. Vì vậy, chúng ta phải sử dụng tất cả những cơ hội vì thế chúng ta không phải hối hận trong tương lai và vì thế chúng ta không chứng tỏ tàn nhẫn với chính mình. Những gì mà Kadam Geshe Sangpuwa nói đánh thẳng vào trung tâm của chủ đề. Câu kệ này làm tôi xúc động mạnh từ trái tim:

Giảng dạy và lắng nghe là thích đáng khi chúng lợi lạc cho tâm. Thái độ kiểm soát và nguyên tắc là dấu hiệu của việc có lắng nghe giáo huấn. Phiền não được giảm thiểu như một dấu hiệu của thiền tập. Một hành giả du già là người thấu hiểu thực tại.

Một việc phải nên thật rõ ràng là Phật Pháp chỉ có một mục tiêu: rèn luyện tâm. Các giáo thọ phải chú ý và thấy nó rằng sự giảng dạy của họ làm lợi lạc cho tâm học nhân của họ. Sự hướng dẫn của họ phải căn cứ trên kinh nghiệm cá nhân của họ về việc thấu hiểu Phật Pháp. Các học nhân cũng vậy, phải chú tâm với giáo huấn với một lòng khao khát làm lợi ích cho tâm của họ. Họ phải thực hiện một cố gắng tổng lực để kiểm soát tâm vô nguyên tắc của họ. Vì thế, tôi khuyến nghị rằng chúng ta phải cần mẫn trong việc tuân theo những giáo huấn của những đại Geshe[3] Kadam[4]. Các ngài khuyên rằng phải có sự hợp nhất giữa tâm và giáo Pháp. Trái lại, nếu tri thức và thực hành được cư xử như những thực thể không liên hệ và khác biệt, thế thì sự rèn luyện có thể chứng tỏ là không tác dụng. Trong tiến trình thực tập tâm linh của chúng ta, chúng ta phải thẩm tra toàn bộ và sử dụng Phật Pháp như một tấm gương mà trong ấy để thấy phản chiếu những khuyết điểm của thân thể, lời nói và tâm ý. Cả những vị thầy và các học nhân phải được động viên để làm lợi lạc cho chính họ và người khác qua sự thực tập Phật Pháp. Như chúng ta thấy trong lời cầu nguyện của con đường tiệm tiến Lamrim:

Được động viên bởi lòng bi mẫn đầy năng lực,

Nguyện cho tôi có thể dẫn giải kho tàng Phật Pháp,

Chuyên chở nó đến những nơi chốn mới

Và phát triển nó những nơi mà nó đã bị suy tàn.

Giáo thuyết của Đức Phật không phải là điều gì đấy vật lý. Do thế, việc khôi phục và lan tỏa Phật Pháp tùy thuộc vào tâm linh nội tại của chúng ta, hay sự tương tục của tâm chúng ta. Khi chúng ta có thể giảm thiểu những nhược điểm của tâm, những phẩm hạnh của nó gia tăng. Thế nên, tác động của những chuyển hóa tích cực là là sự bảo tồn và thúc đẩy phương tiện giáo thuyết Phật Pháp. Rõ ràng rằng Phật Pháp không phải là một thực thể hữu hình, rằng nó không thể được bán hay mua trong siêu thị hay được xây dựng một cách vật thể. Chúng ta phải chú ý vào những nền tảng, như sự thực hành về ba phương diện chính yếu của con đường Giác Ngộ[5] - viễn ly, tâm giác ngộ (bodhicitta), và sự thực chứng trí huệ tánh không.

Trách nhiệm của việc bảo tồn và phát triển Phật Pháp thuộc về chúng ta những người có niềm tin trong giáo huấn ấy; điều này lại tùy thuộc vào sự hấp dẫn của chúng ta với Đức Phật và tôn kính Ngài. Nếu chúng ta không làm gì xây dựng mà mong đợi người khác làm, thế thì rõ ràng không điều gì có thể. Bước thứ nhất là trau dồi trong tâm ta những phẩm chất tích cực được dạy bởi Đức Phật. Sau việc rèn luyện một cách thích đáng tâm ta, sau đó chúng ta mới có thể hy vọng giúp đở rèn luyện tâm người khác. Đại sư Tông Khách Ba đã tuyên bố rõ ràng rằng những ai không tự rèn luyện thì khó mà có cơ hội cho việc rèn luyện người khác. A xà lê Pháp Xứng đã dạy những nguyên tắc này trong những dạng thức rất trong sáng:

Khi kỷ năng chướng ngại [đối với bạn].

Sự giải thích thì khó khăn một cách tự nhiên.

Chư Bồ tát với một mục tiêu hướng cứu kính như vậy để đạt đến thể trạng Giác Ngộ. Vì mục tiêu này, họ dấn thân trong những sự thực tập loại trừ những cảm xúc phiền não quấy nhiễu tâm. Cùng lúc các ngài nổ lực trau dồi những tuệ giác tâm linh. Do tuân theo một tiến trình loại trừ những phẩm chất tiêu cực và trau dồi những thứ tích cực như vậy mà chư Bồ tát trở thành có thể giúp đở những chúng sanh khác. Luận giải về Nhận Thức Luận cũng nói:

Những bậc bi mẫn áp dụng mọi phương tiện

Làm nhẹ bớt những nổi khốn khổ của chúng sanh.

Do vậy, ai trong chúng ta tin tưởng trong giáo huấn của Đức Phật phải cố gắng khả năng bậc nhất để phát sinh đức hạnh. Điều này cực kỳ quan trọng. Một cách đặc biệt liên hệ vào thời kỳ mạt pháp này. Những người Tây Tạng chúng tôi đang làm ồn ào và chỉ trích Trung Cộng vì những tàn phá mà họ đã làm ở quê hương chúng tôi. Nhưng điều quan trọng là như những Phật Giáo đồ chúng tôi phải tôn trọng triệt để những nguyên tắc của Đạo Phật một cách cẩn thận. Giáo huấn chỉ có ý nghĩa khi chúng ta thấy những thuận lợi của việc thực tập, tiếp nhận nguyên tắc, và nổ lực tích cực để chuyển hóa trong trái tim của chúng ta. Việc lắng nghe giáo huấn về những chủ đề khác nhau có một mục tiêu khác nhau - ở đấy chúng ta hướng để thu thập những ý tưởng và tài liệu.

Chúng ta có thể tự hỏi những gì là dấu hiệu của việc thực hành Phật Pháp đúng đắn. Việc thực hành nên được bắt đầu với những nguyên tắc đạo đức (giới luật) của việc kềm chế khỏi mười hành vi bất thiện. Mỗi hành vi tiêu cực của thân thể, lời nói và tâm ý phải được xác định một cách thích đáng và những đối trị phải được thấu hiểu một cách trọn vẹn. Với kiến thức căn bản này, hành giả nên loại trừ những hành vi tiêu cực như trộm cắp, dối trá, v.v… và thực hành lương thiện, tử tế, và những hành vi đức hạnh khác. Những sư thầy, sư cô thọ giới phải tuân theo giới luật xuất gia. Những điều này có nghĩa để rèn luyện cách đắp y, giao tiếp với người khác, v.v… Thậm chí thái độ ngắm nhìn người khác và những cung cách biểu lộ đến người khác cũng được dạy trong quy điều của giới luật xuất gia.

Đối với một hành giả Phật Pháp, một trong những thử thách quan trọng là để đối phó với những cảm xúc tiêu cực và cuối cùng tự giải thoát khỏi chúng. Sự khó khăn của điều này là qua sự thật đơn giản là những cảm xúc phiền não có từ thời vô thỉ làm cho chúng ta khốn khó đủ loại khổ sở. Nếu ai đấy bắt nạt chúng ta hay một kẻ thù ngược đãi chúng ta, thế thì chúng ta kêu la và than khóc. Tuy nhiên, những kẻ thù ngoại tại tàn bạo thì chỉ ảnh hưởng chúng ta trong kiếp sống này. Chúng không có năng lực để làm tổn hại chúng ta vượt khỏi kiếp sống này. Trái lại, những cảm xúc phiền não là những kẻ thù bên trong của chúng ta và chắc chắn có thể tạo nên thảm họa trong những kiếp sống tương lai. Trong thực tế, các thứ này là những kẻ thù tệ hại nhất của chúng ta.

Thử nghiệm thật sự đối với một hành giả Phật Pháp đến từ khía cạnh này: nếu những cảm xúc phiền não được giảm thiểu, thế thì sự thực hành của chúng ta đã tác động. Đây là tiêu chuẩn chính để quyết định một hành giả chân chính, bất chấp người ấy xuất hiện bên ngoài thánh thiện như thế nào. Toàn bộ mục tiêu của việc hành thiền là để làm giảm thiểu những phiền não lừa dối của tâm ta và cuối cùng loại trừ chúng từ gốc rể. Bằng việc học hỏi và thực hành những khía cạnh thậm thâm và rộng rãi của giáo huấn, một hành giả với sự quen thuộc lâu dài và hành thiền về vô ngã cuối cùng đạt đến một sự thấu hiểu về thực tại.

Chúng ta dấn thân trong việc giảng dạy và lắng nghe, và thật thiết yếu để biết những cung cách thích đáng, những phương pháp hiệu quả, của việc lắng nghe để giảng dạy. Điều này cấu thành sự loại trừ ba loại thất bại của một người lắng nghe (giống như một chiếc thùng), và trau dồi sáu xu hướng thuận lợi.

- Thất bại thứ nhất là lắng nghe như một chiếc thùng úp xuống. Điều này có nghĩa là một cách hình thức [thân thể] chúng ta có thể đang tham dự [học hỏi] đối với giáo lý nhưng một cách tinh thần [tâm ý] chúng ta đang bận rộn nơi nào khác. Cho nên khi ai đấy giảng dạy, trong thực tế chúng ta hoàn toàn không lắng nghe gì cả. Trong một trường hợp như vậy, chúng ta không hứng thú gì với sự giảng dạy, và trong thực tế không nghe bất cứ điều gì được giảng dạy. Điều này rõ ràng là một chướng ngại để học hỏi, và chúng ta phải loại trừ vấn nạn này và tham dự sự giảng dạy với sự say mê mãnh liệt.

- Thất bại thứ hai là lắng nghe trong một cách giống như chiếc thùng bị lủng. Điều này có nghĩa là mặc dù chúng ta đang lắng nghe giáo lý, nhưng chúng ta không ghi nhớ nội dung của chúng. Trong trường hợp này, chúng ta thiếu chánh niệm và ghi nhớ. Việc thực hành Phật Pháp có nghĩa là chúng ta phải có lợi ích từ những gì chúng ta đã nghe. Không phải là một trò tiêu khiển, như nghe một câu chuyện. Giáo huấn cho chúng ta sự hướng dẫn trên vấn đề chúng ta sống một cuộc sống đầy đủ ý nghĩa như thế nào và phát triển những thái độ thích đáng như thế nào. Do vậy, nhằm để lợi lạc từ sự giảng dạy, chúng ta phải ghi nhớ chúng với chánh niệm. Trong tất cả mọi tiến trình học hỏi, lắng nghe, và đọc, v.v… phải hoàn toàn chú ý và phải cố gắng để ghi nhớ nội dung của chúng. Khi sự quan tâm của chúng ta là nửa trái tim, chúng ta chỉ nhớ một nửa, và chỉ nhớ trong một thời gian ngắn. Chúng ta phải quán chiếu và nghĩ về bất cứ điều gì chúng ta đã nghe, hết lần này đến lần khác. Trong cách này, kiến thức sẽ ở lại trong tâm ta trong một thời gian dài. Một kỷ năng khác để ghi nhớ những hướng dẫn là tranh luận giống như được thực hành trong những ngôi trường tranh luận truyền thống.

- Thất bại thứ ba của một người lắng nghe liên hệ đến động cơ, và giống như một chiếc lọ chứa thuốc độc. Khi chúng ta lắng nghe những sự giảng dạy, chúng ta phải tránh những động cơ lừa dối. Tất cả mọi hành vi, đặc biệt trong sự thực hành Phật Pháp chẳng hạn như lắng nghe và đọc kinh luận, phải được hoàn thành với một động cơ lành mạnh. Chúng ta phải hướng đến việc kiểm soát tâm vô nguyên tắc và rồi dần dần đạt đến thể trạng Quả Phật để làm lợi ích tất cả chúng sanh.

Tôi khuyên quý vị không nên xem kiến thức Phật Pháp giống như bất cứ loại tri thức nào chỉ để kiếm sống.

Bây giờ để tôi trở lại chủ đề chính, luận điển của Liên Hoa Giới được biết như Những Giai Tầng Thiền Tập. Tác giả ân cần vô hạn đối với Tây Tạng. Đại sư Tông Khách Ba liên hệ đến ngài như một học giả tôn quý và danh hiệu là thích hợp. Trong vài luận điển ngài viết, Bừng Sáng Con Đường Trung Đạo và luận điển này là được tôn trọng cao độ nhất.

Dòng truyền thừa của ba luận điển "Những Giai Tầng Thiền Tập" là rất hiếm hoi. Ở miền trung và tây nam Tây Tạng, sự truyền thừa này không được biết một cách rộng rãi. Có thể nó đã được biết đến ở những nơi cô lập và xa xôi. Khunnu Lama Tenzin Gyaltsen[6] đã tiếp nhận sự truyền thừa ở Kham, và Serkong Rinpoche tiếp nhận nó từ ngài. Vào lúc ấy, tôi không thể tiếp nhận sự truyền thừa, mặc dù tôi muốn. Tôi nghĩ rằng vì luận điển không quá dài nên sẽ không quá khó để tiếp nhận nó sau này. Thay vì thế, tôi đã đặt nổ lực của tôi vào việc tiếp nhận giáo huấn đến một số luận điển quan trọng như Đại Luận Giải Thời Luân[7] bởi Buton Rinchen Drup, Toát Yếu Mật thừa Tantra về Thời Luân[8], và sáu quyển Phụ thích Đại Luận Giải Tịnh Quang[9].

Tôi đã ở Thụy Sĩ khi tôi nhận một điện tín nói rằng Serkong Rinpoche đã viên tịch và Yongzin Ling Rinpoche đang bệnh nặng. Thế thì nó đã làm tôi ân hận, tôi đã phải trả giá cho sự lười biếng của tôi vì tôi đã không tiếp nhận giáo huấn Những Giai Tầng Thiền Tập. Tâm tư tôi đầy những đau buồn và một cảm giác mất mát. Sau này, tôi đã hỏi ai giữ dòng truyền thừa này bất cứ khi nào tôi gặp các vị Lạt Ma hay Geshe. Một lần nọ tôi ở Đạo Tràng Giác Ngộ, tôi đã gặp vị Thủ Tọa Sakya Sangye Tenzin[10]. Ông nói với tôi rằng ông đã tiếp nhận giáo huấn Những Giai Tầng Thiền Tập từ một vị lạt ma già từ Kham đang hành hương tại Lhasa. Sau này, tôi nghĩ rằng vì Khunnu Lama Rinpoche cũng tiếp nhận giáo huấn từ Kham, dòng truyền thừa phải là như nhau. Tôi cũng đã nghĩ rằng không có gì trở ngại để tiếp nhận giáo huấn.

Trước đây, khi tôi bắt tay vào một tài liệu mới, thì tôi sẽ thỉnh thị ý kiến của Yongzin Ling Rinpoche. Nhưng ngài đã viên tịch. Vào lúc ấy, Trưởng lão Gen Nyima cũng ở Đạo Tràng Giác Ngộ. Cho nên tôi nói với ngài hoàn cảnh và hỏi ý kiến của ngài. Ngài nói rằng đấy là một ý tưởng tốt. Trong trường hợp như vậy tôi đã tiếp nhận sự truyền thừa giáo huấn từ Thủ Tọa Sakya Sangye Tenzin. Tôi cảm thấy rất vui và may mắn, và tự động làm tôi thoát khỏi cảm giác hối hận. Vị Thủ Tọa Sakya này là một người rất nổi tiếng và là một đạo sư tôn kính trong chính dòng Sakya. Bây giờ ngài đã tám mươi tuổi. Dường như không có luận giải bằng chữ viết của tài liệu này; tối thiểu là tôi chưa từng thấy. Đại sư Tông Khách Ba đã trích dẫn nhiều trong Đại Luận Giải Những Giai Tầng của Con Đường[11], cho nên tôi nghĩ cũng thích hợp nếu tôi bổ sung lời luận giải của tôi từ đấy.

Liên Hoa Giới đã thực hiện một sự phụng sự diệu kỳ đối với giáo lý Đạo Phật. Với một động cơ vững chắc và ân cần, ngài đã thiết lập một nền tảng hoàn thiện đối với giáo huấn của Đức Phật trong thời gian ngài ở Tây Tạng. Phật tử Quốc vương Trisong Detsen đã mời thỉnh A xà lê Tịch Hộ và Đạo sư tôn quý Liên Hoa Sanh. Ba bậc đại sĩ này cực kỳ ân cần đối với Quê Hương Tuyết Sơn Tây Tạng. Chính qua sự phối hợp của các ngài mà một hình thức hoàn toàn của Đạo Phật, kể cả mật thừa tantra, được thiết lập một cách thích đáng ở Tây Tạng. A xà lê Tịch Hộ đã thấy khả năng của việc thấu hiểu sai và diễn dịch sai triết lý, và vì thế ngài rời những sự hướng dẫn và mời Liên Hoa Giới đến Tây Tạng và sáng tác Những Giai Tầng Thiền Tập. Vào lúc kết thúc phần đầu, tác giả tuyên bố rằng ngài viết luận điển này do lời thỉnh cầu của quốc vương Trisong Detsen.

Vì lợi ích của đồng bào Tây Tạng và để thiết lập giáo huấn Đức Phật giữa họ, đại sư Liên Hoa Giới đã vô cùng ân cần đến Tây Tạng. Ba phần của Những Giai Tầng Thiền Tập được viết ở Tây Tạng và tu sĩ Trung Hoa Hvashang[12] trở thành chất xúc tác cho việc trước tác. Nội dung triết lý phổ thông của ông là một vấn đề khác, nhưng sự diễn dịch của Hvashang về quan điểm của Đạo Phật hoàn toàn sai lầm. Đại sư Liên Hoa Giới đã viết văn bản này để chặn trước sự tiến triển của những quan điểm sai lầm ấy. Những gì chúng ta có thể chú ý ở đây là những bậc đại nhân của thời ấy đã biểu lộ nhiều sức mạnh học giả và đạo đức. Họ thường sử dụng những ngôn ngữ tinh lọc trong khi bác bẻ những quan điểm sai lầm và không nhằm vào các đối thủ của họ một cách cá nhân. Những gì các ngài thật sự làm là để phát biểu một cách có hệ thống như một sự trình bày rõ ràng và trong sáng về quan điểm triết lý nền tảng, thiền tập, và hạnh kiểm như được dạy bởi Đức Phật. Trong kiễu mẫu ấy, giáo lý Đức Phật chiếu sáng những quan điểm thấp kém và sai lầm, những thứ đã suy tàn trong chính chúng. Vì thế, luận điển quý giá này có một nối kết nghiệp quả đặc biệt với Tây Tạng, quê hương Tuyết Sơn.

Rõ ràng rằng tác giả Liên Hoa Giới ân cần vô hạn với đồng bào Tây Tạng. Nhưng lịch sử cho thấy rằng người Tây Tạng đã làm một số lỗi lầm thay vì biểu lộ lòng biết ơn thích đáng. Những việc ngẫu nhiên nào đó đã xảy ra. Nhìn vào nó từ một khía cạnh khác, đấy là một điều gì đó được nói trong người Tây Tạng, "Nơi Phật Pháp rộ nở, quỷ ma cũng năng động". Nhằm để những hướng dẫn trần gian và tâm linh được thiết lập vững vàng trường cửu ở Tây Tạng, Đạo sư quý báu Liên Hoa Sanh đã tạo những điều kiện thuận lợi và gia hộ môi trường. Ngay cả trong những lúc như vậy, có những người đã nói những thứ vô bổ. Dường như rằng vào những lúc ấy, ngay cả quốc vương cũng không hoàn thành tất cả những mong ước của ngài Liên Hoa Sanh.

Thật buồn để chú ý những điều này. Dĩ nhiên, có những phương cách khác để nhìn vào những việc ấy. Chư Phật và Bồ tát không làm gì để cứu độ trong sự mong mõi của chúng sanh. Đức Quán Thế Âm có một mối quan hệ đặc biệt với Tây Tạng và đã thực hiện những việc làm vô cùng ân cần qua vô số biểu hiện. Tuy nhiên, những người Tây Tạng chúng tôi đối diện những vấn nạn không dứt ngay cả cho đến thời hiện tại. Nhưng chúng tôi không đánh mất lòng tin. Hoàn cảnh thế giới uyển chuyển và thay đổi liên tục. Có sự hổ trợ cho sự thật và sự thật là quý giá. Chúng tôi đến bây giờ đã thiết lập những nền tảng cho tương lai của chúng tôi. Chúng ta phải làm việc một cách cần mẫn để hoàn thành những quan tâm riêng của chúng tôi cho kiếp sống này và những kiếp sống tương lai, chú ý một cách tương ứng, đến vấn đề thông thường. Tất cả chúng ta may mắn có thể học hỏi văn bản kỳ diệu này. Thật là thông tuệ để nghiên cứu những nguyên tắc hướng dẫn về phần chúng ta để chuyển hóa đời sống của chúng ta.

Trong phạm vi của giáo huấn nhà Phật, việc phát sanh thái độ tích cực là rất quan trọng. Tôi khuyên quý vị hãy lắng nghe với động cơ lành mạnh, hãy nghĩ "tôi sẽ lắng nghe Những Giai Tầng Thiền Tập bộ trung của Đại sư Liên Hoa Giới nhằm để đạt đến Quả Phật vô thượng vì lợi ích của tất cả chúng sanh bao la như hư không vô biên". Phẩm chất nào của bất cứ hành vi thân, miệng và ý một cách chính yếu được quyết định bởi động cơ. Vì vậy bất cứ hành động nào được hoàn thành bởi động cơ tích cực sẽ đem đến đạo đức và hạnh phúc và trở thành một nguyên nhân để đạt đến Quả Phật về lâu về dài. Trái lại, nếu một động cơ thánh thiện và lành mạnh bị vắng bóng, thế thì ngay cả những thực hành tâm linh rõ ràng có thể mang đến những hậu quả tiêu cực trong vị trí của đức hạnh. Vì ranh giới giữa chúng đôi khi có thể rất mõng manh, chúng ta cần phải chú ý rất nhiều đến khía cạnh này.

Trong luận điển này tác giả trình bày tinh hoa của con đường cả Tiểu Thừa và Đại Thừa. Ngài mở rộng kiểu mẫu thực hành tâm bồ đề quy ước và sáu ba la mật với sự nhấn mạnh đặc biệt trên thiền tịch tĩnh bất động (định) và tuệ giác nội quán (tuệ). Những ai trong các bạn là mới mẻ với Phật Giáo và không quen với kiễu mẫu và tiến trình thực hành giáo huấn phải cố gắng để định hình sự thấu hiểu mạch lạc luận điển này, bởi vì trên căn bản của kiến thức này chúng ta sẽ có thể thấu hiểu những luận điển khác mà không khó khăn lắm. Luận điển này có thể giống như một chìa khóa mở ra cánh cửa đến tất cả những kinh điển Phật Giáo quan trọng khác.

***

 

Tiểu sử của KHENPO SANGYE TENZIN RINPOCHE

 vị truyền miệng "Những Giai Tầng Thiền Tập" của Liên Hoa Giới cho
Đức Đạt Lai Lạt Ma 14

 

Thật không thể trình bày hết toàn thể những hành vi bao la của Khenpo Sangye Tenzin Rinpoche.

Ngài sinh ra ở Tây Tạng vào năm 1904, vào kỷ nguyên Sakya, theo cùng với nhiều dấu hiện cát tường. Vào lúc mười tuổi ngài trở thành một vị sa di, tiếp nhận những giới sa di từ Khenpo Rinzin Gyaltsen. Ngài cho hỏi Phật lý với nhiều vị thầy nổi tiếng, chẳng hạn như Drayab Thupten Zangpo, và trở thành được biết như một học nhân tò mò và cần mẫn. Khi ngài tốt nghiệp, ngài đã được tưởng thưởng với những bằng cấp cao nhất trong Kinh tạng và Mật tạng của nền giáo dục Sakya, và thêm nữa đã nhận những tặng phẩm công nhận từ chính quyền địa phương của tỉnh Sakya ở Tây Tạng.

Vào tuổi 37, ngài đã thọ Đại giới Cụ túc với sự hiện diện của Zimhog Rinpoche của dòng truyền thừa thuộc đại tu viện Sakya. Theo sự hướng dẫn của thầy ngài, sau đó ngài đã trở thành chủ trì của tu viện Ngor Ewam Choden trong ba năm, và rồi thì tiếp tục vào tu viện Tanak Thupten Namgyal, được khai sơn bởi Gho Ramjampa. Trong tu viện này ngài đã phục vụ như một vị viện trưởng trong 15 năm.

Đến ngày khi ngài phải bắt đầu chuẩn bị để tị nạn ở quốc gia láng giềng Ấn Độ. Đào thoát khỏi sự chính quyền Trung Cộng là một hành trình rất gian khó, nhưng ngài đã thành công và đến Ấn Độ, được hướng dẫn bởi giấc mơ về Đức Liên Hoa Sanh. Cuộc đào thoát của ngài đã đưa ngài đến Mustang và Nepal, nơi ngài đã thấy dấu chân nổi tiếng trên đá của Đạo sư Liên Hoa Sanh, được biết như Bậc Thầy của loài người. Sau đó ngài đã nhớ lại những tiên tri của Đạo sư Liên Hoa Sanh đã làm trong giấc mơ, và đã bắt đầu khóc với lòng biết ơn. Trái tim của ngài đã tuôn tràn với những lời cầu nguyện vì lợi ích của tất cả chúng sanh và quảng bá Phật Pháp toàn thế giới.

Năm 1961, theo sự gợi ý của His Holiness Sakya Trizin Rinpoche, ngài đã đến Darjeeling và được chỉ định làm viện trưởng của tu viện Sakya Guru ở Ghoom. Kể từ lúc ấy về sau ngài đã hướng dẫn tu viện với lòng nhiệt tình vô hạn. Với hoạt động của ngài vào năm 1979 một viện Cao Đẳng Triết Lý Phật Giáo đã được thành lập tại tu viện. Kiến thức của ngài về Phật lý là ngoại hạng, và ngài đã sáng tác nhiều luận giải. Căn cứ trên kinh nghiệm và kiến thức của ngài, ngài đã có thể làm sáng tỏ những tác phẩm như "Sự Minh Bạch của Ba Lời Nguyện" của Sakya Pandita, và "Kho Tàng Lời Hướng Dẫn Thánh Thiện" của ngài và nhiều tác phẩm khác về triết lý Phật Giáo.

Khenchen Sangye Tenzin là một học giả vượt khỏi ranh giới của những tông phái. Theo lời thỉnh cầu của chính phủ lưu vong Tây Tạng, ngài đã dạy cho những tu sĩ bất chấp tông phái của họ về triết lý và văn học Phật Giáo tại trung tâm Tôn Giáo Buxa, bang Tây Bengal.

Cùng với những viện trưởng của ba tu viện quan trọng của tông Gelug là Ganden, Sera, và Drepung, và vài rinpoche khác, ngài đã tham gia thảo luận liên hệ đến việc bảo tồn giáo huấn của Đức Thế Tôn trong lưu vong. Vì mục tiêu này ngài đã du hóa đến Mussoorie và Kushinagar,nơi mà để cảm ơn đến những tham luận của ngài về vấn đề làm thế nào để áp dụng một cách tốt nhất những phương tiện cho mục tiêu này, ngài đã được để cử làm người thuyết giảng chính ở 'the Mool Shastra',truyền thống của những đạo sư Ấn Độ ở Na Lan Đà, chẳng hạn như Long Thọ, Thánh Thiên, Vô Trước, Thế Thân, Nguyệt Xứng, Trần Na và Pháp Xứng, tại Học Viện Trung Tâm Nghiên Cứu Phật Giáo Cao Cấp ở Sarnath, Varanasi, thuộc bang Uttar Pradesh.

Những sự kiện nổi bật nhất trong sự nghiệp học giả của ngài kể cả việc giảng dạy "Sự Khác Biệt Minh Bạch của Ba Lời Nguyện", với luận giải của ngài, cho ngài His Eminence Chobgye Trichen Rinpoche, và truyền miệng "Những Giai Tầng Thiền Tập" của Liên Hoa Giới cho Đức Đạt Lai Lạt Ma 14. Cho đến ngày hôm nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn bày tỏ lòng biết ơn của ngài đến Khenchen Sangye Tenzin vì đã ban cho sự trao truyền hiếm hoi này.

Vào ngày 11 tháng Mười Một, năm 1990, Khenchen Sangye Tenzin đã nhập niết bàn. Ngài đã duy trì trong trạng thái nhập định "Tug-Dam", của một bậc thầy trong thời gian chín ngày. Mặc dù trái tim của ngài đã ngừng đập, thân thể của ngài đã không có một biểu hiện nào của sự phân hủy, và tâm của ngài đã duy trì sự nhập định trong tâm linh quang.

Ẩn Tâm Lộ ngày 3-7-2013



VÀI NÉT VỀ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

 

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA sinh ngày sáu tháng Bảy, năm 1935, trong một gia đình nông dân nghèo vùng Đông Bắc Tây Tạng. Vào năm hai tuổi, ngài được xác nhận là Đạt Lai Lạt Ma, lĩnh tụ tâm linh và thế tục của Tây Tạng, thứ mười bốn trong một sự kế tục trãi dài từ sáu trăm năm trước. Vào năm sáu tuổi, ngài đã bắt đầu sự rèn luyện kéo dài cả đời người như một tu sĩ Phật Giáo. Từ năm 1959, ngài đã sống lưu vong khỏi Tây Tạng ở Dharamsala, Ấn Độ. Nổ lực không mệt mõi của ngài vì quyền con người, hòa bình thế giới, và giá trị căn bản của loài người đã đưa ngài đến tầm vóc quốc tế. Ngài là người nhận nhiều sự vinh danh và phần thưởng, trong ấy có giải Nobel Hòa Bình năm 1989 và Huân Chương Vàng Quốc Hội Hoa Kỳ.

Khi được hỏi về vai trò của ngài trong đời sống, Đức Đạt Lai Lạt Ma thường liên hệ chính ngài như một "thầy tu giản dị". Nhiều người khác xem ngài là một trong những lãnh tụ tâm linh nổi tiếng nhất của thời đại chúng ta và một trong những học giả và đạo sư Phật Giáo hàng đầu của thế giới. Trong phạm vi những cuộc du hành rộng rãi, ngài cũng nói cũng biện hộ cho chí nguyện của ngài trong đời sống. Thứ nhất, ngài nguyện cố gắng để thúc đẩy cho những giá trị căn bản của con người, hay những gì ngài thường liên hệ như những "đạo đức thế tục". Thứ hai, ngài nguyện thúc đẩy hòa hiệp và thông hiểu trong những truyền thống tôn giáo quan trọng của thế giới. Và thứ ba, ngài nguyện đối với "vấn đề Tây Tạng", dâng hiến đến những lợi ích của đồng bào Tây Tạng, hành động như một phát ngôn viên trong sự đấu tranh của họ vì nhân quyền, sự tự trị, và tự do rộng rãi hơn. Bất cứ nơi nào ngài đến, Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài đã biểu hiện một sự cởi mở chân thành đến thính chúng cho lòng ân cần từ tế, từ bi, bao dung và trách nhiệm phổ quát.

Đề tìm hiểu thêm về Đức Đạt Lai Lạt Ma, kể cả chường trình giảng dạy của ngài, xin hãy thăm trang www.dalailama.com

 

BÀI LIÊN HỆ

Giới Thiệu Quyển Những Giai Tầng Thiền Tập

https://hoavouu.com/a25491/gioi-thieu-quyen-sach-nhung-giai-tang-thien-tap

Tâm Là Thế Nào?

https://thuvienhoasen.org/a16427/tam-la-the-nao

Rèn Luyện Tâm

https://thuvienhoasen.org/p26a18889/14/ren-luyen-tam

 

Trình Tự Tu Thiền

http://www.hongnhu.org/files/pdf/0-ALL/dg-dl-07_giang-ve-trinh-tu-tu-thien%5Bteachings-stages-of-meditation%5D_viet_260p_20161128.pdf

 


Stages of Meditation

TRÌNH TỰ TU THIỀN

https://thuvienhoasen.org/a8552/trinh-tu-tu-thien

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét